CHƯƠNG 07
Truyền bá Giáo Pháp
Hạnh phúc thay Chư
Phật giáng sinh!
Hạnh phúc
thay Giáo Pháp cao minh!
Hạnh phúc
thay Tăng Già hòa hiệp!
Hạnh phúc
thay Tứ Chúng đồng tu!
-- Kinh Pháp
Cú.
Cảm Hóa Yasa
và Các Bạn Hữu
Tại thành Benares có con một nhà triệu phú tên Yasa, trưởng thành trong
khung cảnh dồi dào phong phú. Một buổi sáng, chàng dậy sớm hơn mọi khi, và lúc
nhìn các nàng hầu thiếp nằm ngủ ngổn ngang bừa bãi thì lấy làm nhờm chán. Ấn
tượng ghê tởm này luôn luôn ám ảnh chàng. Toàn thể đền đài nguy nga tráng lệ
bấy giờ đối với chàng chỉ còn là một nơi tối tăm buồn bã, đầy dẫy những hình
ảnh thô kịch xấu xa. Nhận thức tánh cách tạm bợ của đời sống phàm tục, Yasa
trốn nhà ra đi. Chàng nói: "Thống khổ thay cho tôi! Đọa đày thay cho
tôi!" và đi về phía Isipatana, nơi mà Đức Phật tạm ngự sau khi độ năm vị
tỳ khưu đắc Quả A La Hán [1].
Yasa đến nơi
lúc Đức Phật đang đi kinh hành. Thấy chàng từ xa đến, Đức Phật bước ra ngoài
đường kinh hành và ngồi lại một nơi đã dọn sẵn. Yasa đứng cách đấy không xa, than
rằng: "Thống khổ thay cho con! Đọa đày thay cho con!"
Đức Phật dạy:
"Nơi đây
không có thống khổ, hỡi này Yasa! Nơi đây không có đọa đày, này hỡi Yasa! Hãy
đến đây, Yasa! Hãy ngồi xuống đây, Như Lai sẽ giảng Giáo Pháp cho con."
Yasa lấy làm
hoan hỷ được nghe những lời khuyến khích của Đức Phật. Chàng tháo đôi giày bằng
vàng ra và đến gần Đức Phật, cung kính đảnh lễ Ngài và ngồi lại một bên.
Đức Phật thuyết
Pháp và sau khi nghe, chàng đắc Quả Tu Đà Hườn (Nhập Lưu), tầng thứ nhất trong
bốn tầng thánh.
Đầu tiên, Đức
Phật giải thích về hạnh bố thí (dana), giới luật (sila), những cảnh Trời
(sagga), những tai hại của nhục dục ngũ trần (kamadinava), về phước báu của sự
xuất gia (nekkhammanisamsa). Đến khi nhận thấy tâm của Yasa bắt đầu thuần thục
và sẵn sàng lãnh hội giáo lý cao siêu, Ngài giảng về Bốn Chân Lý Thâm Diệu (Tứ
Diệu Đế).
Mẹ của Yasa là
người đầu tiên ghi nhận sự vắng mặt của con. Bà báo cho chồng. Nhà triệu phú
liền ra lệnh cho gia đinh cỡi ngựa đi tìm bốn phương và chính ông đi về hướng Isipatana.
Khi nhận ra dấu đôi giày bằng vàng của Yasa in trên đất, ông phăng lần đến nơi
Đức Phật.
Thấy ông từ xa
đến, Đức Phật dùng thần thông không cho ông nhận ra con. Nhà triệu phú đến gần
Đức Phật và cung kính hỏi thăm Ngài có thấy con ông không? Đức Phật bảo:
"Hãy ngồi lại đây. Con sẽ được gặp mặt con của con". Nghe vậy, ông
triệu phú lấy làm mừng rỡ, vâng lời ngồi xuống. Đức Phật giảng cho ông một thời
Pháp. Ông rất hoan hỷ bạch:
"Lành Thay!
Lành thay! Bạch hóa Đức Thế Tôn, cũng tựa hồ như có người kia dựng lại ngay
ngắn một vật gì đã bị lật đổ, hay khám phá ra một vật đã được giấu kín, hay
vạch đường chỉ lối cho người lạc bước, hay cầm ngọn đèn rọi sáng trong đêm tối
để cho ai có mắt có thể trông thấy, Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn giảng dạy bằng
nhiều phương thức cũng dường thế ấy.
Bạch Đức Thế
Tôn, con xin quy y Phật, Pháp và Tăng. Xin Đức Thế Tôn thâu nhận con vào hàng
thiện tín. Xin Ngài cho phép con nương tựa nơi Tam Bảo, từ ngày này đến giờ
phút cuối cùng của đời con."
Ông là người
thiện nam đầu tiên thọ lễ quy y với đầy đủ ba ngôi Tam Bảo. Khi nghe Đức Phật
thuyết Pháp cho cha, Yasa đắc quả A La Hán. Vừa lúc ấy, Đức Phật thâu thần
thông để nhà triệu phú nhìn thấy con. Ông lấy làm vui mừng, thỉnh Đức Phật cùng
vị đệ trử về nhà trai tăng ngày hôm sau. Đức Phật chấp nhận bằng cách làm
thinh.
Sau khi ông
triệu phú ra về, Yasa xin Đức Phật cho thọ lễ xuất gia sa di và tỳ khưu . Đức
Phật truyền giới cho Yasa với những lời sau đây:
"Hãy đến
đây hỡi Tỳ Khưu! Giáo Pháp đã được truyền dạy đầy đủ. Hãy sống đời phạm hạnh
thiêng liêng của bậc xuất gia để chấm dứt mọi đau khổ. [2]"
Với Đức Yasa,
tổng số các vị A La Hán lúc bấy giờ tăng lên sáu. Ngày hôm sau, Đức Phật đến
nhà ông triệu phú với sáu vị đệ tử A La Hán. Hai bà -- mẹ và bà trước kia là vợ
của Ngài Yasa -- đến nghe Đức Phật thuyết pháp, đắc quả Tu Đà Hườn và xin thọ
lễ quy y Tam Bảo. Hai bà là những người tín nữ đầu tiên. [3]
Đại Đức Yasa có
bốn người bạn tên Vimala, Subahu, Punnaji và Gavampati. Khi bốn vị này đã nghe
tin người bạn cao quý của mình đã cạo râu tóc và đắp y để sống đời không nhà
cửa, không sự nghiệp, thì đến thăm và tỏ ý muốn noi theo gương lành ấy. Đức
Yasa tiến dẫn cả bốn vào yết kiến Đức Phật, và sau khi nghe Pháp, cả bốn đều
đắc Quả A La Hán.
Năm mươi người
bạn trứ danh khác của Đại Đức Yasa, tất cả đều thuộc về các gia đình nổi tiếng
nhất trong vùng, cũng đến thính Pháp, đắc Quả A La Hán và xuất gia tỳ khưu.
Trong khoảng
gần hai tháng, đã có sáu mươi vị thành đạt Đạo Quả A La Hán. Tất cả sáu mươi vị
đều sanh trưởng trong những gia đình danh giá nổi tiếng và đều là con ưu tú của
các người cha đáng kính.
Những Nhà
Truyền Bá Chân Lý Đầu Tiên (Dhammaduta)
Ít lâu sau khi
tế độ sáu mươi vị đệ tử thành đạt Đạo Quả A La Hán, Đức Phật quyết định gởi các
Ngài đi truyền bá Giáo Pháp mới mẻ ấy cho tất cả, không có bất luận một sự phân
biệt nào. Ngài kêu gọi các vị đệ tử như sau:
"Này hỡi
các Tỳ Khưu, Như Lai đã thoát ra khỏi mọi trói buộc, dầu ở cảnh người hay các
cảnh Trời. [4]
"Các con
cũng vậy, này hỡi các Tỳ Khưu, các con cũng đã thoát ra khỏi mọi trói buộc, dầu
ở cảnh người hay các cảnh Trời.
"Hãy ra
đi, các Tỳ Khưu, đem sự tốt đẹp lại cho nhiều người, đem hạnh phúc đến nhiều
người. vì lòng từ bi, hãy đem sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc lại cho chư
Thiên và nhân loại [5]. Mỗi người hãy đi một ngã. Này hỡi các Tỳ Khưu, hãy
hoằng dương Giáo Pháp, toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở
đoạn cuối cùng, toàn hảo trong cả hai, tinh thần và văn tự. Hãy công bố đời sống
thiêng liêng cao thượng [6], vừa toàn thiện, vừa trong sạch.
Có những chúng
sanh còn vướng ít nhiều cát bụi trong mắt và nếu không nghe được Giáo Pháp sẽ
sa đọa. Cũng có những người sẽ am hiểu Giáo Pháp.
Chính Như Lai
cũng đi. Như Lai sẽ đi về hướng Uruvela ở Senanigama để hoằng dương Giáo Pháp.
Hãy phất lên
ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy Giáo Pháp cao siêu. Hãy mang lại sự
tốt đẹp cho người khác. Được vậy, là các con đã hoàn tất nhiệm vụ".
Như vậy, Đức
Phật là vị giáo chủ đầu tiên gởi các đệ tử đã chứng ngộ và đã thọ lễ xuất gia
đi truyền bá giáo lý, vì lòng từ bi, vì tình thương người khác. Không có một
nơi ở nhất định, một mình và không tiền của, những nhà truyền giáo đầu tiên ấy
đi đây đi đó để truyền dạy Giáo Pháp. Ngoài tấm y để che thân và cái bát để trì
bình khất thực độ nhật, các Ngài không còn tài sản riêng tư nào nữa. Phạm vì
hoạt động thì bao la mà người hành sự thì ít, nên các Ngài luôn luôn thui thủi
đi một mình. tất cả sáu mươi vị đều đã đắc Quả A La Hán, nghĩa là đã siêu
thoát, đã vượt ra khỏi mọi trói buộc vật chất. Các Ngài chỉ có một trọng trách
duy nhất là truyền dạy Giáo Pháp và công bố đời sống thiêng liêng phạm hạnh
(brahmacariya). Chức vụ căn bản của chư vị A La Hán, những người đã thành tựu
mục tiêu giải thoát, là nâng cao đời sống đạo đức của người khác bằng cách nêu
gương lành trong sạch và nghiêm túc trì giới. Các tiến triển vật chất, dầu là
cần thiết, không làm cho các Ngài lưu ý.
Thành Lập
Giáo Hội Tăng Già
Vào thuở ấy có
sáu mươi vị A La Hán trên thế gian. Với nhóm người hoàn toàn trong sạch ấy làm
nòng cốt, Đức Phật sáng lập "Giáo Hội của những người độc thân".
Các hội viên
đầu tiên là những người thuộc giai cấp lãnh đạo có học thức và cao sang nhất
trong xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, Giáo Hội luôn luôn mở rộng cửa cho tất cả
mọi người xứng đáng, không phân biệt giai cấp, đẳng cấp hay chủng tộc. Cả già
lẫn trẻ, ở mọi tầng lớp, đều có thể được chấp nhận vào đoàn thể để chung sống trong
tình huynh đệ như anh em trong một gia đình. Giáo Hội Tăng Già vẫn còn tồn tại
đến ngày nay dưới hình thức một đoàn thể tu sĩ độc thân xưa nhất trong lịch sử
nhân loại.
Đức Phật không
khuyên tất cả mọi người nên rời bỏ đời sống gia đình để mang bát, đắp y, trở
thành tu sĩ không nhà cửa, không tài sản sự nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể
sống đời cao đẹp, thích ứng với Giáo Pháp và chứng đắc các thánh Quả. Cha, mẹ,
và vợ của Ngài Yasa là những người tu tại gia đầu tiên bước theo dấu chân của
Đức Phật. Tất cả ba vị đều tiến triển đầy đủ về mặt tinh thần để thành tựu Đạo
Quả Tu Đà Hườn. Với sáu mươi vị A La Hán, xem như những nhà truyền giáo lý
tưởng để hoằng dương Chân Lý, Đức Phật quyết định quảng bá pháp mầu đến những
ai có tai vui lòng muốn nghe.
Thâu Nhận Ba
Mươi Thanh Niên
Ơ Isipatana một
ít lâu, Đức Phật ra đi về hướng Uruvela. Trên đường, một hôm Đức Phật dừng
chân, ngồi dưới cội cây, trong một cụm rừng nhỏ.
Cùng lúc ấy có
ba mươi thanh niên vui vẻ trẻ trung cũng dắt vợ đến chơi trong cụm rừng. Một
trong những người ấy không vợ nên dắt theo một người bạn gái.
Trong khi ai
nấy vui đùa với nhau thì cô bạn gái bỏ đi, lén đem theo các món đồ quý giá của
mấy người kia. Đến lúc hay ra, cả ba mươi thanh niên cùng nhau chạy đi tìm kiếm
trong rừng. Thấy Đức Phật, các người trai trẻ ấy đến gần hỏi thăm Ngài có thấy
một thiếu phụ đi ngang qua đó không.
Đức Phật hỏi
lại:
"Theo ý
các con thì nên tìm một người phụ nữ hay nên tự tìm ra mình là hơn?"
- Bạch Ngài tự
tìm ra mình hẳn là hơn [7].
- Vậy hãy ngồi
lại đây, Như Lai sẽ giảng Giáo Lý cho các con.
- Chúng con xin
vâng.
Và tất cả đều
quỳ xuống, cung kính đảnh lễ rồi ngồi lại một bên, chăm chỉ lắng nghe. Sau đó,
cả ba mươi thanh niên lấy làm hoan hỷ, xin xuất gia theo Đức Phật.
Cảm Hóa Ba
Anh Em Kassapa (Ca Diếp)
Từ nơi này đến
nơi khác, khi đi lúc nghỉ, một ngày nọ, Đức Phật đến Uruvela.
Ơủ đây có ba
anh em nhà tu sĩ khổ hạnh (jatila) để tóc dài và thắt lại thành bím, tên là
Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa, và Gaya Kassapa. Ba anh em sống mỗi người một
nơi. Người anh cả có năm trăm đệ tử, anh giữa ba trăm và người em út hai trăm.
Riêng người anh cả tin tưởng mãnh liệt vào sự thành công tinh thần của mình, và
cho rằng mình đã đắc Quả A La Hán.
Đức Phật đến
viếng các vị này trước nhất và xin an ngụ qua đêm trong cái phòng thờ Thần Lửa
của ông. Trong phòng ấy có một con rắn chúa dữ tộn. Đức Phật dùng thần thông khắc
phục rắn. Uruvela Kassapa thấy vậy thì mừng rỡ, thỉnh Đức Phật ở lâu thêm như
một vị thượng khách. Nhiều lần khác nhau Đức Phật dùng thần thông để thâu phục,
nhưng ông vẫn tin tưởng rằng Đức Phật chưa đắc Quả A La Hán như ông.
Sau cùng, khi
hiểu rõ rằng ông chưa đạt đến tầng cao thượng ấy và chính Đức Phật đã đắc Đạo
Quả A La Hán, ông xin quy y, rồi xuất gia , cùng với tất cả các đệ tử của ông.
Hai người em và
các đệ tử cũng noi theo gương ấy. Cùng với ba anh em Ngài Kassapa và 1000 đệ tử
của ba vị ấy, Đức Phật lần hồi đến Gaya Sisa, cách Uruvela không xa, nơi đây Đức
Phật giảng bài kinh Aditta-pariyaya Sutta, "Tất cả đều bị thiêu đốt",
và cả ba anh em Ngài Kassapa đều chứng đắc Đạo Quả A La Hán.
-oOo-
Aditta
Pariyaya Sutta,
Bài Kinh Đề Cập
Đến "Tất Cả Đều Bị Thiêu Đốt"
Tất cả đều bị
thiêu đốt, này hỡi các Tỳ Khưu! Hỡi này các Tỳ Khưu! Tất cả đều bị thiêu đốt là
như thế nào?
"Mắt (nhãn
căn) nằm trong lửa, hình sắc (nhãn trần) nằm trong lửa, sự thấy (nhãn thức) nằm
trong lửa. Cảm giác (thọ), dầu vui sướng hay đau khổ hay không-vui-sướng,
không-đau-khổ, phát sanh do nhãn xúc, đều nằm trong lửa. Lửa ấy bắt nguồn từ
đâu? Từ những ngọn lửa tham ái, sân hận, si mê, sanh, bệnh, tử, phiền muộn, ta
thán, đau khổ, âu sầu, và thất vọng. Như Lai tuyên bố như vậy.
"Hãy quán
tưởng điều này, hỡi các Tỳ Khưu, người đệ tử thuần thành của bậc Thánh Nhân sẽ
nhàm chán với nhãn quan, nhãn trần, nhãn xúc, nhãn thức, dầu thọ cảm có như thế
nào chăng nữa -- vui sướng, đau khổ, hay không-vui-sướng không-đau-khổ -- phát
sanh do nhãn xúc. Người đệ tử thuần thành của bậc Thánh Nhân sẽ nhàm chán với
tai, âm thanh, mũi, hương, lưỡi, vị, thân, xúc, tâm, ý, tâm thức, tâm xúc, bất
luận cảm giác nào -- vui sướng, đau khổ, hay không-vui-sướng không đau-khổ --
phát sanh do sự tiếp xúc với tâm.
"Vì nhàm
chán, người đệ tử thuần thành của bậc Thánh Nhân dứt khoát buông xả mọi luyến
ái, và do sự buông xả ấy, hoàn toàn siêu thoát. Từ đó, hành giả biết không còn
tái sanh nữa, đã viên mãn sống đời thiêng liêng phạm hạnh của bậc Thánh Nhân,
đã làm những việc cần phải làm, và không bao giờ còn trở lại trạng thái ấy
nữa".
Khi Đức Phật
kết luận bài Pháp, tất cả các vị tỳ khưu đều đắc Quả A La Hán, tận diệt mọi ô
nhiễm.
-oOo-
Cảm hóa Đức
Sariputta (Xá Lợi Phất) và Đức Moggallana (Mục Kiền Liên)
Cách thành
Rajagaha (Vương Xá) không xa, trong làng Upatissa - làng này cũng có tên là
Nalaka, có một thanh niên thông minh xuất chúng, tên Sariputta (Xá Lợi Phất),
con của bà Sari.
Vì Sariputta
(Xá Lợi Phất) sanh trưởng trong gia đình cao sang quyền quý nhất trong làng nên
người trong vùng ấy gọi chàng là Upatissa.
Mặc dầu hấp thụ
truyền thống Bà La Môn Giáo, Upatissa sớm có một quan điểm rộng rãi về đời
sống. Trí tuệ cao minh và thuần thục thúc giục chàng từ bỏ tôn giáo của ông cha
để theo giáo lý quảng đại và thuần lý hơn của Đức Phật Gotama (Cồ Đàm). Cha
chàng Vanganta, hình như vẫn giữ đức tin trong Bà La Môn Giáo. Mẹ chàng không
bằng lòng thay đổi tín ngưỡng -- nhưng về sau, lúc gần lâm chung, chính Đức Xá
Lợi Phất dẫn dắt bà quy y theo Phật Giáo.
Upatissa trưởng
thành trong cảnh giàu sang sung túc. Chàng có một người bạn chí thân tại Kolita
thường được gọi là Moggallana (Mục Kiền Liên). Hai người vốn đã có mối liên hệ
mật thiết trong nhiều kiếp sống quá khứ xa xôi. Ngày kia, trong khi cùng vui
chơi trên một đỉnh đồi, cả hai đều nhận thức rằng tất cả những thú vui vật chất
đều nhất thời, tạm bợ và vô ích. Cùng một lúc, hai người bạn thân đồng quyết định
từ bỏ thế gian để tìm con đường thoát khổ. Và cả hai lang thang đó đây để tìm
vắng lặng. Trên đường đi tìm chân lý, hai chàng thanh niên đến yết kiến đầu
tiên Đạo Sĩ Sanjaya, lúc ấy có rất đông đệ tử và xin thọ giáo.
Không bao lâu,
hai người đã lãnh hội tất cả giáo lý của thầy và cảm thấy những hiểu biết ấy
thật là mỏng manh, hạn hẹp. Không thỏa mãn, vì giáo lý này không chữa được
chứng bệnh trầm kha của nhân loại, hai người lại ra đi, rày đây mai đó, tìm
vắng lặng.
Hai người đi
đến nhiều vị đạo sĩ Bà La Môn trứ danh, nhưng ở đâu cũng gặp toàn thất vọng.
Sau cùng, cả hai đành trở về nhà và trước khi chia tay, hứa với nhau rằng người
nào tìm ra trước Con Đường, sẽ cho người kia biết.
Cùng lúc ấy,
Đức Phật gởi sáu mươi vị đệ tử đi truyền bá Giáo Pháp tốt đẹp cho thế gian.
Chính Đức Phật bổn thân đi về phía Uruvela và Đức Assaji, một trong năm vị đệ tử
đầu tiên, đi về hướng thành Rajagaha (Vương Xá).
Đến đây nghiệp
tốt của hai chàng thanh niên dốc lòng tìm đạo đã hợp đủ duyên lành để trổ sanh.
Upatissa đang đi trong thành Rajagaha (Vương Xá) thì bỗng nhiên nhìn thấy một
vị tu sĩ y bát trang nghiêm, tướng đi từ tốn, mắt nhìn xuống độ vài thước phía
trước chân, gương mặt trầm tĩnh thong dong, biểu lộ trạng thái vắng lặng thâm
sâu bên trong.
Vị đại đức khả
kính nọ khoan thai đi từ nhà này sang nhà khác, nhận lãnh chút ít vật thực mà
lòng quảng đại trong dân gian vui lòng đặt vào bát. Cốt cách siêu phàm của vị chân
tu khiến Upatissa tò mò để ý. Chàng nghĩ thầm, "Chưa khi nào ta gặp được
một vị đạo sĩ như thế này. Chắc chắn Ngài là một trong những vị đã đắc Quả A La
Hán, hay ít ra cũng là một trong những vị đang đi trên con đường dẫn đến Đạo
Quả A La Hán. Ta hãy đến gần hỏi Ngài vì sao Ngài thoát ly thế tục? Thầy của
Ngài là ai? Ngài truyền bá giáo lý của ai?"
Tuy nhiên, thấy
Đức Assaji đang yên lặng đi trì bình, Upatissa không dám làm rộn.
Khi vị A La Hán
Assaji đi bát xong, tìm một nơi thích hợp để ngồi lại thọ thực. Upatissa lấy
làm mừng rỡ, chụp lấy cơ hội, cung kính dâng đến Ngài một cái chén mà chàng đã đem
theo để dùng, và rót vào một ít nước. Thực hàng xong bổn phận khiêm tốn sơ khởi
của người đệ tử, chàng thành kính bạch:
"Kính bạch
Đại đức, ngũ quan của Ngài thật là bình thản và an tĩnh. Nước da của Ngài thật
là sáng sủa và trong trẻo. Xin Ngài hoan hỷ dạy con, vì mục đích nào Ngài thoát
ly thế tục? Ai là vị tôn sư của Ngài? Ngài truyền bá giáo lý của ai?"
Vì A La Hán
khiêm tốn trả lời -- và đây là đặc điểm của các bậc vĩ nhân:
"Này Đạo
Hữu, bần tăng chỉ là một tu sĩ sơ cơ. Bần tăng không có đủ khả năng để giảng
giải Giáo Pháp một cách dong dài và rành rẽ."
- Kính bạch Đại
Đức, con là Upatissa, xin Đại Đức hoan hỷ chỉ giáo ít nhiều, con sẽ cố gắng tự
tìm hiểu giáo lý bằng trăm ngàn cách. Và chàng nói tiếp:
"Xin Ngài
hoan hỷ chỉ dạy, nhiều hay ít cũng được. Xin Ngài dạy cho điểm thiết yếu. Con
xin Ngài dạy cho đại lược. Chỉ một vài tiếng tóm tắt ngắn gọn."
Đức Assaji liền
đọc lên bốn câu kệ tóm tắt phần triết lý cao siêu sâu sắc của Đấng Tôn Sư về
chân lý của định luật nhân quả:
Ye dhammà
hetuppabhavà -
Tesam hetum
tathàgato
Aha tesan ca yo
nirodho -
evam vàdì mahà
samano.
Về các Pháp
phát sanh do một nhân.
Nhân ấy, Như Lai
đã chỉ rõ.
Và Như Lai cũng
dạy phương pháp để chấm dứt.
Đó là giáo huấn
của vị Đại Sa Môn.
Trí tuệ của
Upatissa lúc bấy giờ đã đủ thuần thục để thấu triệt những chân lý sâu xa, dầu
chân lý ấy chỉ được gợi ra một cách vắn tắt. Ngài chỉ cần một tia ánh sáng, và
Đức Assaji đọc lên bốn câu kệ thật khéo léo, đưa Ngài ngay vào Con Đường. Khi
nghe hai câu đầu, Upatissa đắc Quả Tu Đà Hườn (Sotapatti).
Vị đệ tử mới
nhập môn chắc chắn là hết sức thỏa thích và hết lời cảm tạ ông thầy khả kính đã
khai thông trí tuệ mình trong giáo lý trác tuyệt cao siêu của Đức Phật.
Upatissa của
được nghe Đức Assaji thuật lại các đặc điểm của Đức Phật.
Từ đó về sau,
tâm đạo của Ngài càng tăng trưởng và lòng tri ân đối với Đức Assaji càng sâu
sắc. Mỗi khi được nghe Đức Assaji ở nơi nào thì Ngài quay về hướng ấy, chắp tay
đảnh lễ, và lúc ngủ luôn luôn quay đầu về hướng ấy.
Bấy giờ, đúng
theo lời cam kết, Upatissa trở về báo tin lành cho bạn Kolita, vốn cũng là bậc
trí tuệ. Khi nghe xong bốn câu kệ, ông cũng đắc Quả Tu Đà Hườn. Lòng mừng khấp khởi,
hai người bạn lành đi tìm thầy cũ là đạo sĩ Sanjaya để thuật lại kết quả tốt đẹp
mà hai vị đã thành đạt và để dâng lên thầy một niềm tin mới. Hai Ngài thất bại vì
đạo sĩ Sanjaya từ chối. Nhưng nhiều đệ tử của Thầy sẵn sàng cùng theo hai Ngài
đến Veluvana (Trúc Lâm Tịnh Xá), thọ giáo với Đức Phật.
Do lời thỉnh
cầu của hai vị, Đức Phật chấp nhận cả hai vào hàng môn đệ với lời gọi:
"-Etha Bhikkhave! - Hãy lại đây, Tỳ Khưu!".
Nửa tháng sau,
khi nghe Đức Phật thuyết kinh Vedana Pariggaha Sutta cho đạo sĩ du phương
Dighanakha, Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) đắc Quả A La Hán. Chiều ngày hôm ấy,
Đức Phật triệu tập tất cả các đệ tử đến quanh Ngài để tấn phong hai vị, Đại Đức
Upatissa (Sariputta, Xá Lợi Phất) và Kolita (Moggallana, Mục Kiền Liên), cũng
đắc Quả A La Hán một tuần trước đó, làm đệ nhất và đệ nhị đệ tử trong Giáo Hội
Tăng Già.
Chú thích:
[1] Lúc ấy nhằm
ngày thứ năm sau khi Đức Phật Chuyển Pháp Luân.
[2] Xuất gia
Sa-di, Pabbajja - đúng theo ngữ nguyên, là đi tới, hay từ khước. Ở đây chỉ có
nghĩa là được chấp nhận vào hàng xuất gia bằng cách quy y Phật, Pháp, Tăng.
Xuất gia Tỳ Khưu, Upasampada, cụ túc giới, hay tỳ khưu giới, là đầy đủ giới
hạnh.
[3] Upasaka =
thiện nam, Upasika = tín nữ, đúng theo ngữ nguyên, là người có liên quan mật
thiết đến Tam Bảo. Upasaka và Upasika là cận thị nam và cận thị nữ, hay người
đàn ông và đàn bà cư sĩ, đi theo con đường của Đức Phật. Người ta trở nên thiện
nam hay tín nữ sau khi đọc ba câu kinh quy y:
Buddham Saranam
Gacchami - Con xin quy y Phật.
Dhammam Saranam
Gacchami - Con xin quy y Pháp.
Sangham Saranam
Gacchami - Con xin quy y Tăng.
[4] Mahavagga,
trang 19 - 20
[5] Nên ghi
nhận danh từ "chư Thiên", các vị Trời (Deva)
[6] Phạn ngữ
Brahmacariya ở đây không có gì liên quan đến một vị Thần Linh hay Phạm Thiên,
mà có nghĩa là cao quý, thiêng liêng. Công bố đời sống cao thượng có nghĩa là
ban hành lễ xuất gia.
[7] Tự tìm ra
mình: tức nhìn vào bên trong mình. Tìm hiểu thực tướng của chính mình. Câu này
có nhiều ý nghĩa lý thú. Attanam là một thể của danh từ Atta nghĩa là
"ta", "bản ngã". Ở đây, Đức Phật không đề cập đến một linh
hồn như một vài học giả cố giải thích như vậy. Có thể nào Đức Phật xác nhận một
linh hồn, khi mà Ngài rõ ràng và minh bạch phủ nhận trong bài Pháp thứ nhì?