CHƯƠNG 43
Tám Pháp Thế Gian
(Atthalokadhamma)
Thế gian chênh
lệch nầy quả không hoàn toàn tươi đẹp như cánh hoa hồng. Nó cũng không tuyệt
đối gai góc như cây hồng. Hoa hồng dịu dàng, đẹp đẽ, và mùi thơm ngào ngạt.
Nhưng cái cây sanh ra nó thì mình đấy gai góc. Hoa là hoa. Gai là gai. Cái gì
thuộc về hoa là của hoa. Cái gì thuộc về gai là của gai. Không vì hoa mà ta lao
mình vào gai, cũng không vì gai mà xa lánh hẳn hoa hồng.
Với người lạc
quan, thế gian nầy tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó
đấy gai chướng. Nhưng đối vối người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi
đẹp, cũng không hoàn toàn xấu xa.
Người hiểu biết
sẽ không say mê sắc đẹp của hoa hồng nhưng nhận định đúng nó là thế nào. Thấu
triệt bản chất của gai người ấy thấy đúng thực tướng của nó và sẽ hành động
thận trọng để khỏi bị gai quào hay đâm, chích.
Giống như quả
lắc của đồng hồ, đánh qua trái rồi sang phải, phải rồi trở lại trái, luôn luôn
như vậy, có bốn phước lành và bốn điều bất hạnh trong đời sống mà tất cả mọi
người, ai ai cũng phải đương đầu, không ai tránh khỏi. Đó là:
- được (labha)
và thua (alabha),
- danh thơm (yasa)
và tiếng xấu (ayasa),
- ca tụng
(pasamsa) và khiển trách (ninda),
- hạnh phúc
(sukha) và đau khổ (dukkha).
Danh từ Pali
gọi là "Atthalokadhamma", Tám Pháp Thế Gian [1].
1. Được và Thua
(Labha và Alabha)
Thế thường các
nhà doanh thương phải gặp cả hai điều: được và thua, hay nói cách khác, lợi lộc
và lỗ lã. Dĩ nhiên, khi được lợi thì người ta thỏa thích, vui mừng. Điều nầy tự
nó không có gì sai lầm. Những mối lợi tương tợ, dầu chánh đáng hay không, đều
đem lại niềm vui mà người đời ai cũng ước mong, ai cũng tìm kiếm. Nếu không có
những giờ phút vui vẽ, dầu là phù du tạm bợ, đời quả thật không đáng sống.
Trong thế gian tranh chấp và bấp bênh nầy, con người được rất ít cơ hội thọ
hưởng một vài hạnh phúc làm phấn khởi tinh thần. Những lạc thú tương tợ, dầu
vẫn là vật chất, chắc chắn sẽ giúp ta thêm sức khỏe và tuổi thọ.
Nhưng đến khi
lỗ lã thì phiền não bắt đầu khởi phát. Ta có thể dễ dàng mĩm cười khi lợi lộc,
nhưng lúc thua thiệt thì không. Nhiều trường hợp lỗ lã quan trọng làm cho người
ta loạn trí, lắm khi đưa đến cảnh quyên sinh mạng sống, nếu không còn chịu đựng
được nữa. Chính trong những hoàn cảnh tương tợ, ta phải biểu dương tinh thần
dũng cảm và giữ tâm bình thản, không để quá chao động. Trong lúc vật lộn với
đời sống, tất cả mọi người đều gặp phải những lúc thăng, lúc trầm, và chúng ta
phải sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng đối phó, nhất là trong nghịch cảnh. Nổi thất
vọng sẽ được giảm thiểu.
Mất một vật gì
tất nhiên ta cảm thấy buồn. Nhưng chính cái buồn không giúp ta tìm lại được vật
đã mất. Ta phải nghĩ rằng ai đó có thể hưởng vật kia, mặc dầu họ hưởng một cách
bất chánh. Ước mong người ấy được vui vẻ, an lành và hạnh phúc!
Hoặc giả ta có
thể tự an ủi: "Đây chỉ là một mất mát nhỏ nhen, không quan trọng."
Hay ta có thể chấp nhận một triết lý cao thượng: "Không có gì là 'Ta',
không có cái gì là 'Của Ta'". Trong những trường hợp tương tợ, phải giữ
tâm bình thản.
Vào thời Đức
Phật còn tại thế, có một thiếu phụ đến chùa trai tăng Đức Sariputta (Xá Lợi
Phật) và nhiều vị tỳ khưu khác. Trong khi chuẩn bị dâng vật thực đến các Ngài
thì được tin chồng và tất cả các con bị người ta phục kích, giết chết lúc đang
đi hòa giải một cuộc tranh chấp. Bà không tỏ vẽ buồn. Thản nhiên, bà lặng lẽ
cất giữ thơ vào túi rồi tiếp tục để bát chư Tăng như không có gì xảy ra. Lúc ấy
một người tỳ nữ bưng hũ mật và sữa để dâng chư Tăng rủi trật chân té, làm bể
cái hũ.
Nghĩ rằng có lẽ
bà thí chủ sẽ tiếc cái hũ và thức ăn đựng trong đó, Đức Sariputta (Xá Lợi Phật)
an ủi rằng các vật như cái hũ, đã mang tính chất "bể" theo liền với
nó, ắt phải bể một ngày nào. Bà tín nữ trí tuệ điềm tĩnh trả lời: "Kính
bạch Đại Đức, đó chỉ là một mất mát bình thường. Con vừa nhận được tin chồng và
các con của con bị kẻ sát nhân giết chết. Con bỏ thơ vào túi và vẫn giữ tâm
bình thản, không bấn loạn. Và mặc dầu được tin dữ, con vẫn tiếp tục để bát Ngài
và chư Tăng."
Đức quả cảm quý
báu của người thiếu phụ quả thật đáng ca ngợi và đáng làm gương cho người khác.
Lần kia, Đức
Phật đi trì bình trong một làng nọ. Do sự phá rối của Ma Vương, hôm ấy Đức Phật
không được ai để bát và không có gì để độ ngọ. Đến khi Ma Vương sống sượng hỏi
Ngài có nghe bụng đói không, Đức Phật giải thích thái độ tinh thần của người đã
vượt khỏi mọi trở ngại và đáp: "Hạnh phúc thay, Như Lai sống không bị chướng
ngại. Dưỡng nuôi phỉ lạc, Như Lai lúc nào cũng như các vị trời ở cảnh Quan Âm
Thiên."
Lần khác, Đức
Phật và các môn đệ an cư kiết hạ trong làng nọ, theo lời cung thỉnh của một Bà
La Môn. Nhưng vị nầy hoàn toàn lãng quên bổn phận là phải chăm lo các Ngài.
Suốt trọn thời gian ba tháng hạ, Đức Phật và chư Tăng bình thản dùng những thức
ăn của ngựa mà một người lái ngựa đã dâng đến, mặc dầu Đức Moggallana (Mục Kiền
Liên) tình nguyện dùng thần thông để tìm vật thực khác. Đức Phật không một lời
than van hay phản đối.
Bà Visakha, vị
nữ thí chủ quan trọng trong thời Đức Phật, thường đến chùa chăm lo mọi nhu cầu
của Đức Phật và chư Tăng. Một hôm, bà đắp một cái áo choàng rất quý giá để đi
chùa. Khi đến cổng chùa bà cởi áo choàng ra đưa cho người tỳ nữ cầm giữ. Lúc ra
về, cô tỳ nữ vô ý bỏ quên lại. Đức Ananda (A Nan Đa) thấy, đem cất lại một nơi,
chờ bà Visakha đến sẽ trao lại. Về đến nhà sực nhớ, bà bảo người tỳ nữ quay trở
lại tìm. Nhưng nếu có vị tỳ khưu nào đã đụng đến thì không nên lấy về. Cô tỳ nữ
đến chùa hỏi thăm, biết rằng Đại Đức Ananda đã cất giữ cái áo choàng nên trở về
báo tin cho chủ. Bà Visakha liền đến hầu Phật và tỏ ý muốn làm việc thiện với
số tiền bán cái áo choàng quý báu ấy. Đức Phật khuyên bà nên kiến tạo một ngôi
tịnh xá để chư Tăng có nơi cư trú. Vì không ai có đủ tiền mua cái áo choàng quý
giá như thế nên chính bà mua lại, và dùng số tiền ấy xây dựng một ngôi tịnh xá
đẹp đẽ, dâng đến chư Tăng. Sau khi dâng xong ngôi chùa bà ngỏ lời tri ân người
tỳ nữ như sau: "Nếu con không lỡ bỏ quên cái áo choàng, ắt ta không có cơ
hội tạo nên công đức nầy. Vậy, ta xin chia phần phước nầy đến con."
Thay vì buồn
rầu hay phiền muộn vì tạm thời mất một vật quý giá, và la rầy người tỳ nữ vô ý,
bà cảm ơn người ấy đã giúp bà có cơ hội tạo phước.
Thái độ gương
mẩu của bà thiện trí thức Visakha đáng là một bài học cho những kẻ dễ nóng giận
vì lỗi lầm của người giúp việc thế cô.
Ta phải dũng
cảm chịu đựng những lỗ lã, thua thiệt. Phải đương đầu với nó, và như câu
"họa vô đơn chí" diễn tả, nó đến một cách đột ngột, từng đoàn, từng
đám đông, chớ không đơn độc. Ta phải điềm tĩnh đối phó, với tâm Xả hoàn toàn,
ta nghĩ rằng đây là cơ hội vàng ngọc để thực hành đức tánh cao thượng nầy.
2. Danh Thơm và
Tiếng Xấu (Yasa và Ayasa)
Danh Thơm
(Yasa) và Tiếng Xấu (Ayasa) là một cặp thăng trầm khác mà ta phải đối phó hằng
ngày. Danh thơm chúng ta hoan hỷ đón mừng. Tiếng xấu thì chúng ta không thích.
Danh thơm làm phấn chấn tinh thần. Tiếng xấu làm cho ta phiền muộn, khổ đau.
Chúng ta thích
được trứ danh. Chúng ta mong muốn thấy tên tuổi và hình ảnh mình trên báo.
Chúng ta rất thỏa thích thấy những hoạt động của mình, dầu không đáng kể, được tường
thuật và được nhiều người nhắc nhở, nhiều người biết đến. Lắm khi ta cũng cố
gắng, một cách bất chánh, làm cho người ta chú ý đến mình.
Để thấy hình
ảnh mình trên báo chí, vài người sẵn sàng trả một số tiền to tát. Để được danh
dự, vài người sẵn sàng đóng góp quan trọng, hay hối lộ nhóm người quyền thế. Để
tự quảng cáo, vài người biểu dương tâm trong sạch bố thí của mình bằng cách
trai tăng cả trăm vị tỳ khưu, hay hơn nữa. Nhưng có thể những người trên sẽ
hoàn toàn thản nhiên trước nổi thống khổ của người nghèo nàn đói rách sống ngay
bên cạnh mình. Ta có thể rầy la và hành phạt một tên trộm quá đói khát, vào
vườn ăn cắp một trái dừa để làm dịu bớt cơn đói, nhưng ta sẽ không ngần ngại cho
ra cả thiên dừa để đổi lại chút danh thơm.
Đó là khuyết
điểm của con người. Chí đến khi làm điều thiện, phần đông chúng ta cũng làm với
ẩn ý vụ lợi. Những người hoàn toàn vị tha rõ thật hiếm hoi trên thế gian nầy.
Vì lẽ ấy, người nào đã làm một việc thiện - dầu động cơ thúc đẩy đến hành động
không mấy đáng được ca ngợi - cũng được tán dương vì đã làm điều thiện ấy. Phần
đông người thế gian chúng ta luôn luôn còn giấu một cái gì trong tay áo. Ai là
người trăm phần trăm tốt? Bao nhiêu người hoàn toàn trong sạch, từ động cơ đến
hành động? Bao nhiêu người tuyệt đối vị tha?
Chúng ta không
cần chạy theo danh thơm tiếng tốt. Nếu ta xứng đáng, ắt nó sẽ đến mà ta không
cần tìm. Khi hoa đượm mật đầy đủ thì ong, bướm sẽ đến. Hoa không cần mời ong
hay mời bướm.
Đúng thật vậy,
chúng ta cảm nghe tự nhiên hoan hỷ, vô cùng hạnh phúc, khi thanh danh của chúng
ta bay xa, lan rộng. Tuy nhiên, phải nhận định rằng tiếng tốt, danh vọng, vinh
quang, chỉ theo ta đến nắm mồ, rồi tan biến ra mây, ra khói. Nó chỉ là những
ngôn từ, mặc dầu là kim ngôn, là mỹ từ, làm êm dịu tai ta.
Còn tiếng xấu
thì sao?
Chúng ta không
thích nghe, hay nghĩ đến. Chắc chắn là khi những lời nói xấu lọt vào tai, nó sẽ
làm cho tâm ta bàng hoàng, khó chịu. Nỗi khổ tâm càng xâu đậm hơn nếu những lời
gọi là tường thuật hay báo cáo ấy tỏ ra bất công hay hoàn toàn sai lạc.
Thông thường
phải mất cả năm trường, hay hơn nữa, để kiến tạo một ngôi nhà nguy nga vĩ đại.
Nhưng chỉ trong nháy mắt khí giới tối tân hiện đại có thể tàn phá, tiêu hủy dễ dàng.
Lắm khi phải mất nhiều năm hay cả kiếp sống để gây dựng thanh danh. Bao nhiêu
công trình lao khổ ấy có thể tàn rụi trong khoảnh khắc. Không ai có thể tránh
khỏi câu nói tai hại bắt đầu bằng tiếng "nhưng". Thật vậy, ông ấy rất
tốt, ông ấy đã làm việc nầy, điều kia. Nhưng ... Phần đầu tốt đẹp của câu nói
ấy đã bị cái "nhưng" đẩy vào đêm tối của lãng quên.
Bạn có thể sống
đời đạo đức trong sạch như một vị Phật, nhưng bạn không thể tránh những lời chỉ
trích, tấn công và nguyền rủa.
Đức Phật là vị
giáo chủ trứ danh nhất thời bấy giờ mà cũng là người bị nguyền rủa và sỉ vả
nhiều nhất thời bấy giờ.
Các bậc vĩ nhân
thường không được biết đến, hay có được biết chăng nữa, cũng một cách sai lạc.
Vào thời Đức
Phật, có một thiếu phụ thường lui tới Tịnh Xá lúc ban đêm. Những người ở đạo
khác truyền rao tiếng đồn, vu oan Đức Phật và các vị đệ tử Ngài đã sát hại thiếu
phụ ấy và chôn vùi dưới một đống hoa tàn, trong vòng Tịnh Xá.
Khi Đức Phật đã
hoàn thành viên mãn sứ mạng lịch sử của Ngài và có rất nhiều người xin đến xuất
gia, các vị đạo sĩ đối nghịch phỉ báng rằng tại vì Đức Phật mà mẹ phải lìa con,
vợ lìa chồng. Chính Ngài đã trở ngại mọi tiến bộ của đất nước.
Chính người em
họ, và cũng là môn đệ của Đức Phật , nhiều lần âm mưu làm sụp đổ phẩm hạnh cao
quý của Ngài, nhưng thất bại. Ông lại sanh tâm mưu sát Đức Thế Tôn bằng cách từ
trên cao lăn đá vào mình Ngài. Đã là một vị Phật, Ngài không thể bị sát hại.
Nếu đó là số
phần bất hạnh của một người vô tội và trong sạch như Đức Phật, hạng người tầm
thường còn phải chịu như thế nào nữa?
Lúc trèo núi,
ta càng lên cao, người đứng dưới đồng bằng càng để ý đến ta và càng thấy ta nhỏ
hơn. Và họ chỉ thấy phía sau lưng, không thấy phía trước. Thế gian thổi lông
tìm vết nầy chỉ muốn trưng bày khuyết điểm và lỗi lầm của người. Bao nhiêu đức
hạnh thì giấu nhẹm. Cái xây quạt lúa quạt đi bụi bặm và những hột lúa hư lép, nhưng
giữ lại các hột tốt, no đầy. Cái rây thì trái lại, giữ phần xác thô sơ mà lượt
đi nước trái cây ngon ngọt. Người có trau giồi trí thức giữ cho mình phần tinh
tế, và bỏ đi những gì thô sơ. Hạng vô học giữ cái thô sơ và vứt bỏ đi phần tinh
vi tế nhị.
Mỗi khi bị hiểu
lầm và người ta vô tình hay cố ý, truyền rao một cách bất công, ta nên sáng
suốt suy tư, hay nói như Epictetus đã khuyên: "May quá, người ta không
quen mình nhiều. Họ chỉ biết mình sơ sài nên chỉ nói xấu mình có bấy nhiêu. Nếu
người ta biết mình nhiều hơn, chắc mình còn bị chỉ trích nhiều hơn nữa."
Không nên phung
phí thời giờ vô ích để sửa sai những lời đồn đãi sai lạc nếu hoàn cảnh không
bắt buộc ta phải làm sáng tỏ vấn đề. Kẻ thù nghịch sẽ lấy làm thỏa thích mà mà
ta bực bội vì lời nói của họ. Đó chính là điều mà họ mong muốn. Nếu ta thản
nhiên, lời vu oan sẽ tan biến vào quên lãng.
Để thấy lỗi lầm
của người khác, ta phải làm như người mù.
Để nghe lời chỉ
trích người khác, ta phải làm như điếc.
Để nói xấu người
khác, ta phải làm như người câm.
Không thể chấm
dứt những lời buộc tội, Những tường thuật hay những lời đồn đãi sai lầm. Thế
gian đầy chông gai và đá nhọn. Ta không thể dẹp sạch gai và đá. Nhưng nếu phải
đi trên đó bất kể những trở ngại thì, thay vì dời đá và gai - chuyện mà ta
không thể làm - tốt hơn nên mang giầy và thận trọng đi từng bước. Chúng ta sẽ
được an toàn.
Giáo Pháp dạy:
"Hãy như
sư tử, không run sợ trước tiếng động.
Hãy nhưng luồng
gió, không dính mắc trong màn lưới.
Hãy như hoa sen,
từ bùn nhơ nước đục mọc lên
Nhưng không bị
nước đục và bùn nhơ làm ô nhiễm.
Hãy vững bước, đơn
độc một mình, như con tê giác."
Là chúa sơn lâm,
sư tử không sợ hãi, run rẩy, hay giựt mình khi nghe tiếng gầm thét của các loài
thú khác. Trên thế gian nầy chúng ta có nghe thuật lại những câu chuyện trái
tai, bất lợi, những lời buộc tội giả mạo, những tiếng vu oan phỉ báng đê hèn,
vì miệng lằn lưỡi mối không thiếu chi. Như sư tử, không cần để ý đến. Như một
loại khí giới của người Úc (boomerang), khi được tung ra, nó bay tới đánh vào
mục tiêu rồi trở về tay chủ, cùng thế ấy, những lời rêu rao xấu xa đê tiện ấy
sẽ chấm dứt nơi mà nó bắt đầu.
Mặc chó chó
sủa, đoàn lữ hành cứ tiến bước.
Chúng ta đang
sống trong bùn nhơ nước đục. Nhiều đóa hoa sen đã từ đó vượt lên, tô điểm sơn
hà, mà không bị nước đục và bùn nhơ làm hoen ố. Chúng ta phải cố gắng sống như
hoa sen, một cuộc đời trong sạch và cao quý, không màng để ý đến bùn nhơ mà
người khác có thể ném vào chúng ta.
Phải sẵn sàng
đón nhận bùn dơ mà người khác có thể ném vào mình, thay vì mong đợi những đóa
hoa hồng mà người ta có thể tặng. Ta sẽ không thất vọng.
Mặc dầu khó,
chúng ta phải cố gắng trau giồi hạnh từ khước, buông mình, không luyến ái.
Chúng ta đến
đây một mình, một thân. Một thân một mình, chúng ta sẽ ra đi. Trong thế gian
nầy, không luyến ái là hạnh phúc.
Không cần để ý
đến nọc độc của nhưng lưỡi mối miệng lằn. Đơn độc một mình, chúng ta hay ra đi
đó đây, tận lực phục vụ và tạo an lành cho kẻ khác.
Âu cũng lạ!
Rằng các bậc vĩ nhân thường bị vu oan, phỉ báng, đầu độc, treo lên thánh giá,
hay bị bắn chết.
Ông Socrates vĩ
đại bị đầu độc. Đức Jesus Christ (Chúa
Ky Tô) cao quý bị treo trên cây
thánh giá. Đức Mahatma Gandhi bất bạo động bị bắn chết.
Vậy phải chăng
tốt quá cũng nguy hiểm? Đúng, khi còn sống các vị ấy bị chị trích hay vu oan,
bởi vì không chạy theo thanh danh. Người ta có thể biết được việc làm của mình
không, các Ngài không quan tâm đến. Các Ngài làm việc, phục vụ, nhưng không
màng đến việc thọ hưởng.
3. Ca Tụng và
Khiễn Trách (Pasamsa và Ninda)
Được ca tụng và
bị khiển trách là hai hoàn cảnh thăng trầm khác hằng ảnh hưởng đến nhân loại.
Lẽ dĩ nhiên, khi được ca tụng thì ta nở mặt nở mày, hân hoan thỏa thích. Lúc bị
khiển trách thì tinh thần suy sụp, ủ dột buồn rầu.
Giữa những lời
ca tụng hay khiển trách Đức Phật dạy, bậc thiện trí không thỏa thích cũng không
ủ dột ưu phiền, mà tựa hồ như tảng đá vững chắc, không lay chuyển dưới cơn bão táp
phong ba của đời sống.
Nếu chúng ta
xứng đáng, những lời khen tặng quả thật êm tai. Nhưng nếu ta không xứng đáng,
như trường hợp có người nịnh bợ, thì những lời ấy dù êm tai, cũng sẽ làm cho ta
thất vọng, và là một tai hại. Dầu sao, đó cũng chỉ là những tiếng động, những
âm thanh, không đem lại hậu quả nào nếu không lọt vào tai.
Đứng về phương
diện thế gian, lời ca tụng có thể đi rất xa. Một tiếng khen tặng nhẹ nhàng,
đúng lúc, có thể giúp ta dễ dàng thâu đạt điều mong muốn. Một câu giới thiệu xứng
đáng đủ làm cho toàn thể cử tọa chăm chú lắng nghe diễn giả. Nếu diễn giả có
lời khen tặng cử tọa, ắt sẽ được chú ý. Trái lại, nếu diễn giả bắt đầu bằng những
lời khiển trách hay chỉ trích, thái độ đáp ứng của người nghe ắt không được
thuận lợi.
Người đã thuần
thục không tin càn những lời nịnh bợ, cũng không muốn được nịnh bợ. Khi khen
tặng ai xứng đáng, người già dặn thuần thành thật lòng khen tặng mà không ẩn ý
ganh tỵ. Khi khiển trách, các Ngài khiển trách mà không ẩn ý khinh khi. Các
Ngài chỉ khiển trách vì lòng bi mẫn, muốn cải thiện người lầm đường lạc nẻo.
Những bậc vĩ
nhân được tất cả người lớn kẻ nhỏ khen tặng nhưng thản nhiên, không hề chao
động.
Nhiều người
thân cận với Đức Phật thường ca tụng phẩm hạnh Ngài, mỗi người một cách. Upali,
một nhà triệu phú mới quy y với Đức Phật, kể ra hằng trăm đức tánh của Ngài. Chín
hồng danh của Đức Thế Tôn thời bấy giờ người ta thường nhắc nhở, chí đến nay
hàng tín đồ Phật Giáo vẫn còn đọc lên như kinh nhật tụng. Và mỗi lần tụng đến các
phẩm hạnh cao quý ấy, chúng ta nhìn lên pho tượng trầm ngâm tự tại với tấm lòng
kỉnh mộ tôn sùng. Chín hồng danh ấy còn là đề mục hành thiền cho người có tâm
đạo nhiệt thành và vẫn còn là nguồn gợi cảm quan trọng cho những ai tự xem mình
là Phật Tử.
Còn khiển trách
thì sao?
Đức Phật dạy:
"Người nói nhiều bị khiển trách. Người nói ít bị khiển trách. Người lặng
thinh cũng bị khiển trách."
Hình như khiển
trách là phần di sản chung của nhân loại.
"Người thế
gian phần đông sống không kỷ luật" Đức Phật ghi nhận như vậy, và dạy tiếp:
"Như voi chiến ở trận địa, hứng lãnh lằn tên mũi đạn từ mọi hướng dồn dập
bắn đến, cùng thế ấy, Như Lai hứng chịu mọi nguyền rủa của thế gian."
Kẻ si mê lầm
lạc chỉ vì cái xấu, cái hư của người khác mà không nhìn cái đẹp của ai.
Ngoại trừ Đức
Phật, không ai trăm phần trăm tốt. Cũng không ai xấu trăm phần trăm. Giữa chúng
ta, bên trong con người tốt nhất cũng có phần hư hỏng. Trong con người xấu nhất
cũng có điểm tốt đẹp.
Người biết làm
câm như cái mõ bể khi bị tấn công, nguyền rủa, chửi mắng, người ấy - Đức Phật
dạy - đã đứng trước Niết Bàn, mặc dầu chưa chứng ngộ Niết Bàn.
Ta có thể phục
vụ nhân loại với tấm lòng cao cả nhất, nhưng người thế gian thường hiểu lầm và
gán cho ta những mục tiêu, những lý tưởng mà chúng ta không bao giờ mơ đến.
Ta có thể tận
lực phục vụ và giúp đỡ một người bạn trong cơ nguy ngập. Lắm khi muốn được
việc, ta phải vay nợ hay bán cả đồ đạt, nhà cửa. Nhưng về sau, thế gian mê lầm
này hư hỏng đến nổi người phục vụ kia trở lại phủ nhận lòng tốt của ta, phiền
trách, nói xấu, bôi bẩn và sẽ thỏa thích thấy ta suy sụp.
Trong Túc Sanh
Truyện có tích truyện một nhạc sĩ tên Guttila, hết lòng truyền dạy các đệ tử và
không bao giờ dấu giếm điều gì. Tuy nhiên, có một người học trò vô ơn bạc nghĩa
nọ cố tình làm đủ mọi cách để tranh giành ảnh hưởng với thầy. Về sau người đệ
tử này thất bại.
Devadatta (Đề
Bà Đạt Ma), đệ tử, vừa là em họ của Đức Phật, đã có thần thông, không những cố
gắng làm mất thanh danh của Đức Thế Tôn mà còn mưu toan sát hại Ngài bằng cách lăn
đá từ đỉnh núi cao xuống, trong khi Ngài ngồi hành thiền dưới chân núi.
Một lần nọ có
người Bà La Môn cung thỉnh Đức Phật về nhà trai tăng. Theo lời thỉnh cầu, Đức
Phật đến. Nhưng thay vì tiếp đón phải lẽ, người Bà La Môn tuông ra một loạt những
lời lẽ thô kịch và nhơ bẩn vô cùng. Đức Phật lễ độ hỏi thăm:
- Này ông Bà La
Môn, có khi nào khách đến nhà ông không?
- Có, ông Bà La
Môn trả lời.
- Khi biết
khách đến nhà ông làm gì?
- Tôi sẽ dọn
một bữa cơm thịnh soạn để đãi khách.
- Nhưng nếu
khách bận việc không đến thì sao?
- Thì gia đình
chúng tôi sẽ chia nhau bữa cơm.
- Tốt lắm, này
ông Bà La Môn, hôm nay ông mời Như Lai đến nhà để trai tăng và ông đã khoản đãi
Như Lai bằng những lời nguyền rủa chửi mắng thậm tệ. Như Lai không nhận. Vậy xin
ông vui lòng lấy trở lại.
Đức Phật không
giận, không trả thù, nhưng Ngài lễ độ trao trả lại người Bà La Môn những gì
người này đã khoản đãi Ngài.
"Không nên
trả thù, không nên báo oán", Đức Phật khuyên dạy như vậy. Hận thù sẽ đối
diện với hận thù. Báo oán, trả thù sẽ không bao giờ đưa đến hòa bình và an
tĩnh. Sức mạnh chắc chắn phải đương đầu với sức mạnh. Bom đạn sẽ gặp bom đạn.
"Sân hận sẽ không bao giờ dập tắt sân hận. Chỉ có tâm Từ mới diệt lòng
sân." Đó là giáo từ của Đức Bổn Sư.
Không có vị
giáo chủ nào được ca tụng và tôn sùng như Đức Phật. Tuy nhiên, Ngài cũng là vị
giáo chủ bị chỉ trích, bị khiển trách và bị sỉ vả nhiều nhất. Đó là số phận của
các bậc vĩ nhân.
Trước giữa đám
đông một thiếu phụ tên Cincà giả làm người có mang, vu oan Đức Phật. Với gương
mặt từ bi, Ngài nhẫn nại chịu đựng những lời nguyền rủa, và đức hạnh trong sạch
của Ngài được chứng minh tỏ rõ.
Đức Phật cũng
bị vu cáo và đã sát hại một thiếu phụ với sự đồng lõa của các vị đệ tử.
Lần kia những
người khác đạo chỉ trích Ngài và các môn đệ với lời lẽ nặng nề đến độ Đại Đức
Ananđa xin Ngài rời khỏi nơi đó để qua một làng khác.
- Này Ananđa,
nếu những người ở làng kia cũng chửi mắng chúng ta nữa thì phải làm sao?
- Kính Bạch Đức
Thế Tôn, chúng ta sẽ sang một làng khác nữa.
- Này ananda,
nếu làm như thế toàn thể lãnh thổ của xứ Ấn Độ sẽ không có đủ chổ cho chúng ta.
Hãy nhẫn nại. Những lời nguyền rủa tự nhiên sẽ chấm dứt.
Một bà thứ phi
của ông vua nọ tên Magandiya, có nuôi mối hận thù với Đức Phật bỡi Ngài tỏ ra
không tôn trọng sắc đẹp mỹ miều của bà phi, vì không biết, cha bà muốn gã bà
làm vợ Đức Phật. Khi đi ngang qua quốc gia bà đang ở, Magandiya thuê những
người say rượu công khai chữi mắng Đức Phật vô cùng thậm tệ. Với tâm xã hoàn
toàn Đức Phật chịu đựng tất cả. Nhưng Magandiya phãi chịu đau khổ vì hành động
sai lầm của bà.
Nguyền rủa,
chửi mắng là thường tình. Càng hoạt động, càng phục vụ, chúng ta càng trở nên
càng vĩ đại hơn và càng phải chịu sĩ nhục và nguyền rũa nhiều hơn.
Socrates bị
chính vợ ông chửi mắng. Mỗi khi ra ngoài để phục vụ đồng bào, ông Socrates
thường bị bà vợ tâm tánh hẹp hòi của ông rày rà la mắng. Ngày kia bà Socrates
lâm bệnh nên không thể thực hành "công tác" rày rà thường lệ. Hôm ấy,
ông Socrates ra đường với vẻ mặt buồn rầu. Bạn bè thăm hỏi vì sao. Ông giải
thích rằng vì hôm nay bà vợ ông đang bệnh nên không có rầy ông.
- Sao lạ vậy?
Ông phải vui mới phải chứ. Không bị rầy, tại sao ông lại buồn?
- Không phải
vậy đâu, khi bị rầy, tôi lại cơ hội để thực hành phát nhẫn nại. Hôm nay, tôi đã
mất một cơ hội. Vì lẽ ấy mà tôi buồn.
Trên đây là bài
học quí báu cho tất cả. Khi bị chửi mắng ta phải nghĩ rằng đây là cơ hội để
hành pháp nhẫn nhục. Thay vì tức giận, phải biết ơn người chữi mắng ta.
4. Hạnh Phúc và
Đau Khổ (Sukha và Dukkha)
Hạnh phúc
(Sukha) và Đau khổ (Dukkha) là cặp thăng trầm cuối cùng. Nó cũng có nhiều năng
lực nhất, ảnh hưởng đến đời sống nhân loại. Cái gì làm được dễ dàng là hạnh
phúc (Sukha). Cái gì khó chịu đựng là đau khổ (Dukkha).
Thông thường,
thỏa mãn điều mong ước là hạnh phúc. Nhưng, liền khi vừa đạt được điều mong ước
ấy, ta lại ước mong điều hạnh phúc khác. Túi tham không đáy. Lòng tham không
bao giờ được thỏa mãn, không bao giờ biết là đủ.
Đối với hạng
người tầm thường, hưởng thọ những lạc thú của nhục dục ngũ trần là hạnh phúc
duy nhất và cao thượng nhất. Trong lúc mơ ước, trong khi thọ hưởng, và khi hồi nhớ
lại những khoái lạc ấy mà người thiên về vật chất rất ưa thích, chắc chắn là có
hạnh phúc tức thời. Nhưng quả thật là ngắn ngủi và ảo huyền.
Tư sản vật chất
có thể đem lại cho ta hạnh phúc có thật sự không? Nếu có, các nhà triệu phú hẳn
không bao giờ nghĩ đến chuyện quyên sinh. Trong một quốc gia nọ mà tiến bộ vật
chất đã tiến đến mức tuyệt đỉnh, có phải mười phần trăm dân số mắc phải những
chứng bệnh thần kinh. Tại sao vậy? Tài sàn và sự nghiệp có đủ đem lại hạnh phúc
thật sự không?
Cầm quyền thống
trị toàn thế gian có phải là hạnh phúc thật sự không? Đại đế Alexander, người
đã rầm rộ kéo quân vào Ấn Độ một cách hiên ngang, hùng vĩ và vẻ vang, người đã
chinh phục tất cả lãnh thổ trên đường đi của mình, người ấy than rằng không tìm
đâu ra một quốc gia nào khác để chinh phục.
Các vị đế
vương, các vị vua đang còn đội mão, cá vị ấy có luôn hạnh phúc không? Đời sống
các nhà lãnh đạo chính trị và các nhà lãnh đạo quốc gia rất thường bị các phe đối
nghịch lâm le hâm dọa. Cái chết của Mahatma Gandhi và của Tổng thống J.F.
Kennedy là một vài trường hợp điễn hình.
Chân hạnh phúc
nằm bên trong chúng ta và không thể được định nghĩa bằng những danh từ như tài
sản, quyền thế, danh vọng, hay chinh phục, xâm lăng. Nếu những tư hữu trần tục
kia được thâu đạt bằng bạo lực, cường quyền, hay một phương tiện bất công nào
khác, hoặc theo một chiều hướng sai lầm, hoặc nữa, được nhìn với cặp mắt trìu
mến hay tham lam, thì nó sẽ là nguồn đau khổ và sầu muộn cho chính người làm
chủ nó.
Cái gì là hạnh
phúc cho người này có thể không phải là hạnh phúc cho người kia. Cái gì là thức
ăn thức uống có thể là thuốc độc cho người khác. Đức Phật kể ra bốn loại hạnh
phúc của người tại gia cư sĩ:
a) Loại đầu
tiên là hạnh phúc được có tư hữu (atthi sukha) như sức khỏe, tài sản, sống lâu,
sắc đẹp, vui vẽ, mạnh mẽ, sự nghiệp, đông đảo con cháu v.v...
b) Nguồn hạnh
phúc thứ nhì là họ được hưởng những tư hữu ấy (bhoga sukha). Thông thường, ai
cũng muốn thọ hưởng, ai cũng ưa vui thích. Đức Phật không bao giờ khuyên dạy
rằng tất cả mọi người nên từ khước hạnh phúc trần gian và rút vào sống ẩn dật,
chốn rừng sâu vắng vẽ.
Thọ hưởng tài
sản không phải là chỉ dùng nó cho riêng mình, mà cũng là bố thí ra để tạo an
lành cho người khác. Cái gì mà ta ăn, chỉ tồn tại nhất thời. Cái gì mà ta tích trữ,
ta sẽ bỏ lại, và ra đi. Nhưng cái gì mà ta cho ra, sẽ trở lại với ta. Những hành
động thiện mà ta làm với những tư hữu trần tục, sẽ tồn tại lâu dài không thể
mất.
c) Không nợ nần
(anana sukha) là một nguồn hạnh phúc khác. Nếu tri túc, biết an phận với những
gì mình có và nếu ăn ở kiệm cần, ta sẽ không nợ nần với ai. Người mang nợ luôn luôn
sống trong tâm trạng hấp hối, nơm nớp lo sợ chủ nợ. Nếu không nợ nần, mặc dù
nghèo, ta vẫn cảm thấy thoải mái dễ chịu và thơi thới trong lòng.
d) Nếp sống
trong sạch (anavajja sukha), hay hạnh phúc không đáng bị khiển trách, là nguồn
hạnh phúc cao thượng nhất của người cư sĩ. Người có đời sống trong sạch là một
nguồn phước báu cho mình và cho người khác. Người trong sạch được tất cả khăm
phục. Người ấy cảm nghe hạnh phúc vì nằm trong phạm vi ảnh hưởng của những rung
động an lành mà nhiều người khác gởi đến mình.
Tuy nhiên, ta
phải ghi nhận rằng rất khó, vô cùng khó, mà được tất cả mọi người khâm phục.
Người có tâm tánh cao quý chỉ biết giữ mình để sống đời trong sạch và thản
nhiên trước dư luận.
Phần đông thỏa
thích trong sự thọ hưởng những lạc thú của đời sống. Nhưng cũng có những hạng
người thỏa thích trong sự từ khước, buông các lạc thú. Không luyến ái, hay vượt
lên trên mọi khoái lạc vật chất, là hạnh phúc đối với người đạo đức. Hạnh phúc
Niết Bàn - tức là trạng thái thoát ra khỏi mọi đau khổ - là hình thức hạnh phúc
cao thượng nhất.
Chúng ta vui vẻ
đón mừng hạnh phúc. Nhưng đau khổ thì không được niềm nở tiếp nhận.
Đau đớn (vật
chất) và phiền muộn (tinh thần) đến với ta dưới nhiều hình thức. Chúng ta đau
khổ khi phải chịu già yếu, đó là lẽ tự nhiên. Phải bình thản chịu đựng những khổ
đau của tuổi già.
Càng đau khổ
hơn hoàn cảnh già nua, là bệnh hoạn. Và nếu là một chứng bệnh trầm kha làm đau
nhức lâu ngày, ta sẽ cảm thấy thà chết còn hơn. Chỉ một cái răng đau hay một
lúc nhức đầu, đôi khi cũng làm cho ta vô cùng khó chịu đựng. Đúng vậy, phải tự
an ủi rằng ta khỏi phải mang một chứng bệnh trầm trọng hơn.
Lắm khi chúng
ta phải chia lìa thân bằng quyến thuộc. Cảnh biệt ly vô cùng đau khổ. Chúng ta
phải nhận định rằng mọi kết hợp đều phải chắm dứt trong cảnh biệt ly. Đây là cơ
hội quý báu để ta thực hành tâm Xả.
Một việc thường
xảy ra là chúng ta phải kết hợp với người mình không ưa thích, sống chung với
người mà ta ghét. Phải cố gắng chịu đựng và nghĩ rằng mình đang gặt hái quả xấu
của một cái nghiệp nào mà chính mình tạo ra, hoặc trong quá khứ, hoặc trong
hiện tại. Chúng ta phải cố gắng tự tạo cho mình một nếp sống thích hợp với hoàn
cảnh mới và, bằng cách này hay cách khác, phải cố gắng vượt qua mọi trở ngại.
Chí đến Đức
Phật, đấng toàn thiện đã tận diệt mọi ô nhiễm, mà còn phải chịu đau đớn vì bệnh
hay vì tai nạn. Đức Phật nhiều lần bị nhức đầu. Chứng bệnh kiết lỵ sau cùng làm
cho ngài đau đớn không xiết kể. Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) lăn đá từ đỉnh núi cao
gây thương tích cho Ngài ở chân phải mổ. Lắm lúc Ngài phải nhịn đói. Đôi khi
Ngài phải dùng thức ăn dành cho ngựa. Một lần nọ, vì các đệ tử không vâng lời,
Ngài vào rừng ở ba tháng. Giữa rừng sâu, Ngài phải nằm trên một lớp lá ủ, trải
trên mặt đất gồ ghề thô cứng và phải đối phó với những cơn lạnh buốt xương.
Nhưng Ngài vẫn thản nhiên. Giữa những hoàn cảnh đau khổ, cũng như những lúc an
vui hạnh phúc Đức Phật luôn luôn giữ tâm Xả hoàn toàn.
Trên bước lang
thang trong vòng luân hồi, chết là mối ưu phiền trọng đại nhất mà chúng ta phải
đối phó. Đôi khi cái chết không đến lẻ loi cho một người thân mà đến trùng hợp
cho nhiều người thân trong một lúc.
Bà Patacara mất
một lúc bao nhiêu nhưng thân thuộc: cha, mẹ, chồng, anh và hai con. Bà trở nên
loạn trí. Đức Phật khuyên giải và an ủi bà.
Bà Kisa Gotami
mất người con thân yêu duy nhất. Tay bồng con,
bà chạy đi tìm thuốc chữa trị và đến cầu cứu với Đức Phật.
- Được, con có
thể tìm ra một vài hạt cải không?
- Bạch Đức Thế
Tôn, con sẽ tìm ra hột cải, chắc như vậy.
- Nhưng hột cải
này phải lấy từ trong nhà nào mà chưa từng có ai chết.
Hột cải thì có.
Nhưng bà không tìm ra nơi nào mà thần chết chưa hề đến viếng. Bà tỉnh ngộ và
nhận thức bản chất thiên nhiên của kiếp sinh tồn.
Một lần nọ, bà
kia được người ta hỏi tại sao không khóc cái chết thê thảm của người con. Bà
trả lời: "Không ai mời mọc, nó đến. Không cho ai hay, nó đi. Đến thế nào,
nó ra đi cùng thế ấy. Tại sao ta khóc? Khóc có ích gì?"
Từ cành cây có
nhiều trái rơi rụng - trái non có, trái già có, trái chín có - cùng thế ấy, ta
có thể lìa đời lúc sơ sinh, lúc thiếu niên, lúc tráng niên, hay khi niên cao
tuổi lớn.
Mặt trời mọc ở
phương Đông chỉ để lặn ở phương Tây. Hoa nở tốt tươi buổi sáng để úa tàn vào
lúc chiều.
Cái chết không
thể tránh, đến với tất cả mọi người, không trừ ai. Và ta phải bình thản đối
phó.
"Cũng như
trên đất ta có thể vứt bất luận vật gì, dầu chua, dầu ngọt, dầu sạch, dầu dơ.
Đất vẫn thản nhiên một mực trơ trơ, không giận cũng không thương. Vậy, cùng thế
ấy, trong hạnh phúc, trong phiền muộn, lúc thăng lúc trầm, ta phải giữ tâm như
đất."
Đức Phật dạy
như vậy.
Trước những
thăng trầm của thế gian, tâm của vị A La Hán không bao giờ chao động.
Giữa những hoàn
cảnh được và thua, danh thơm và tiếng xấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và
đau khổ, chúng ta hãy giữ tâm bình thản.
Chú thích:
[1] Theo kinh
điển Hán tự thì đó là Bát Phong, tức tám ngọn gió thổi vào đời sống làm chao
động ngọn đèn Tâm.