CHƯƠNG 34
Đặc tánh của Niết Bàn
"Niết bàn là gì, hỡi đạo hữu?
Sự tận diệt
tham, tận diệt sân, tận diệt si.
Đó, nầy đạo hữu,
gọi là Niết Bàn.''
Tạp A Hàm
Đối nghịch với
cảnh giới hữu tình của vòng luân hồi trong ấy tất cả đều là những hiện tượng
luôn luôn biến đổi, sanh diệt, diệt sanh, Niết Bàn là vĩnh cửu (dhuva), đáng
được ham muốn (subha), và hạnh phúc (sukha).
Theo Phật Giáo
các pháp - tại thế và siêu thế - đều được sắp vào hai loại: (a) những pháp hữu
vi, tùy thế, thuộc thế gian pháp, có nhiều hay một nguyên nhân tạo điều kiện để
phát sanh (samkhata); và (b) những pháp vô vi, bất tùy thế (asamkhata), không
cần nguyên nhân hay điều kiện nào để hiện hữu.
Vậy tùy thế
(samkhatalakkhanani) luân chuyển trong ba giai đoạn: sanh (uppada), diệt (vaya)
và biến đổi trạng thái (thitassa annathattam). [1]
Phát sanh hay
trở thành là đặc tánh chánh yếu của mọi vật cấu tạo, hữu vi, do một hay nhiều
nguyên nhân tạo điều kiện để hiện hữu. Cái gì phát sanh hay trở thành tức nhiên
phải biến đổi và phân tán. Pháp hữu vi luôn luôn trở thành và lôn luôn biến
đổi. Vô thường biến đổi là định luận bao quát, phổ thông cho mọi sự vật - vật
chất lẫn tinh thần - nằm trong vũ trụ, từ tế bào hết sức vi tế đến những chúng
sanh thật to lớn hay những hình thể khổng lồ. Tâm, tuy vô hình, biến đổi lại
càng nhanh chóng hơn vật chất.
Sự hiện hữu của
Niết Bàn, trạng thái siêu thế mà chư Phật và chư vị A La Hán chứng ngộ, không
tùy thuộc nguyên nhân nào. Vì lẽ ấy, Niết Bàn không trở thành, không biến đổi,
không bị phân tán. Niết Bàn là vô sanh (ajata), bất hoại (ajara), và bất diệt
(amara). Một cách chính xác, Niết Bàn không phải là quả, cũng không phải là
nhân. Do đó Niết Bàn là duy nhất (kevala).
Cái gì phát
sanh do một nguyên nhân chắc chắn phải hoại diệt, và do đó, là không đáng được
ham muốn. Đời sống là sở hữu mà con người thiết tha quý trọng nhất, thế nhưng
lắm khi, trong những cảnh ngộ khó khăn và dưới những gánh nặng quá đổi, chính
cái đời sống được yêu chuộng ấy trở thành không thể chịu nổi. Trong những lúc
ấy, sống là một cực hình, và những người yếu tánh đôi khi nghĩ đến việc quyên
sinh cuộc sống, tưởng chừng như chết là quyết được mọi vấn đề đau khổ.
Tất cả chúng ta
đều thương yêu và hết sức cố gắng chăm nom, săn sóc, trang điểm thân thể như
vật rất quý. Nhưng tấm thân duyên dáng, yêu kiều, diễm lệ, và khả ái nầy là
nguồn gốc bao nhiêu đau khổ. Đến lúc bị thời gian và bệnh tật làm hao mòn tiều
tụy đi rồi thì cơ thể vật chất nầy chỉ còn là gánh nặng vô cùng khả ố.
Sau đây là một
chuyện tích lý thú, ngụ ý rằng đời sống và những lạc thú của kiếp nhân sinh chỉ
là tạm bợ:
- Một chàng nọ
lầm lủi đi giữa một khu rừng mênh mông đầy chông gai và gành đá ngổn ngang.
Bỗng nhiên anh thấy sau lưng một thớ tượng to tướng rảo bước đi về phái mình.
Sợ hãi, anh đâm đầu chạy. Voi chạy theo đến trước một giếng cạn, anh định nhảy
xuống để tránh voi. Nhưng nhìn xuống giếng anh nhìn thấy một con rắn độc nằm
dưới đáy. Không còn cách nào khác nữa anh đành đeo theo một sợi dây đầy gai có
sẵn, lòng thòng trên miệng giếng. Tạm thoát khỏi nạn, anh nhìn lên thấy hai con
chuột, một đen một trắng, đang cặm cụi gặm sợi dây mà anh đang đeo. Lúc anh
ngửa mặt lên thì từ một ổ ong phía trên, vài giọt mật nhỏ ngay vào miệng.
Anh chàng lấy
làm thỏa thích, lãng quên là mình đang sống trong tình trạng bấp bênh và hết
sức nguy ngập, yên trí tận hưởng vị ngọt ngào của mật. Vừa lúc ấy có một người
giàu lòng bi mẫn chỉ đường cho anh thoát nạn.
Nhưng anh lễ độ
xin Ngài cảm phiền chờ một chút, để anh thưởng thức hết giọt mật...
Khu rừng mênh
mông và đầy chông gai là vòng luân hồi, trầm luân bể khổ. Đời sống của chúng
sanh không phải là một vườn hoa hồng tươi đẹp mà dẫy đầy những hoàn cảnh cam go
đau khổ. Chúng ta phải vượt qua bao nhiêu chướng ngại, chịu đựng bao nhiêu sự
chỉ trích bất công, những hành vi chống đối, những câu nói khiêu khích, những
cuộc tấn công, những lời nguyền rủa. Đó là những con đường chông gai của cuộc
sống.
Thớt voi giống
như cái chết. Con rắn độc như tuổi già. Sợi dây đầy gai là sự sanh [2]. Hai con
chuột, là ngày và đêm. Những giọt mật ngọt ngào là thú vui của đời sống,và
người giàu lòng bi mẫn, sẵn sàng chỉ lối thoát là Đức Phật.
Cái mà chúng ta
gọi là hạnh phúc trong đời sống chỉ là sự thoả mãn một vài điều mong mỏi. Khi
được một việc ta lại muốn việc khác. Tham vọng không khi nào dứt, không khi nào
ta cho là vừa đủ.
Vậy, phiền não
và đau khổ là bản chất thiên nhiên của đời sống, và không chúng sanh nào trong
tam giới có thể tránh thoát.
Niết Bàn là
pháp bất tùy thế, vô vi, không tùy thuộc nhân duyên để hiện hữu. Do đó Niết Bàn
là trường cửu, vô sanh, bất diệt (dhuva), đáng được ham muốn (subha), và hạnh
phúc (sukha).
Ta nên phân
biệt hạnh phúc Niết Bàn với hạnh phúc thông thường ở thế gian.
Hạnh phúc Niết
Bàn không phai lạt, cũng không nhàm chán. Đó là hạnh phúc không mệt mỏi, không
đổi thay.
Hạnh phúc tạm
bợ ở thế gian là sự thỏa mãn một vài tham vọng (vedayita). Trái lại, hạnh phúc
Niết Bàn phát sanh do sự giảm suy dục vọng(vupasama).
Trong kinh
Bahuvedaniya Sutta [3], Đức Phật kể ra mười loại hạnh phúc sắp xếp theo thứ tự,
bắt đầu từ những khoái lạc thô kịch do sự thỏa mãn nhục dục. Phẩm hạnh đạo đức
càng lên cao, loại hạnh phúc càng trở nên phấn khởi, cao thượng, vi tế đến độ
thế gian khó nhận thức được rằng đó là hạnh phúc. Khi đắc Sơ Thiền, hành giả đã
hưởng được một thứ hạnh phúc khác thường, tuyệt đối không liên hệ đến ngũ quan.
Hạnh phúc này phát sanh do sự chế ngự lòng ham muốn thỏa mãn nhục dục mà người
sống theo vật chất đánh giá thật cao. Tuy nhiên, khi hành giả đắc Tứ Thiền, cho
đến loại hạnh phúc của Sơ Thiền cũng trở thành thô kịch và không lợi ích, so
với hạnh phúc mới thành tựu, tức tâm Xả (Upekkha).
Đức phật dạy:
"Nầy
Ananda, những giây trói buộc của nhục dục ngũ trần có năm loại. Năm loại ấy là
gì? Là những hình thể do mắt tiếp nhận, đáng ham muốn, quyến rũ, dễ mến, dễ say
mê, và theo sau đó là sự thèm thuồng khuấy động, làm dậy lên đám bụi khát vọng.
"Là những
âm thanh do tai, những mùi hương do mũi, những vị do lưỡi, những sự xúc chạm do
thân tiếp nhận, đáng ham muốn, quyến rũ, dễ mến, dễ say mê và theo sau đó là sự
thèm thuồng, khuấy động, làm dậy lên đám bụi khát vọng; nầy Ananda, đó là năm
dây trói buộc của nhục dục. Bất luận hạnh phúc hay lạc thú nào phát sanh do năm
trói buộc của nhục dục ngũ trần là hạnh phúc vật chất.
"Kẻ nào
nói rằng: - 'đây là hạnh phúc cao thượng nhất mà chúng sanh có thể thọ hưởng'.
Như Lai không chấp nhận. Tại sao? Bởi vì có hạnh phúc khác phấn khởi và cao
thượng hơn. Và hạnh phúc khác phấn khởi và cao thượng hơn là gì?
"Ở đây, vị
Tỳ khưu hoàn toàn dứt bỏ lòng ham muốn thỏa mãn những dục vọng, xa lìa những
trạng thái bất thiện, sống ẩn dật nơi vắng vẻ và yên tĩnh, phát triển Tầm, Sát
đến Phỉ, Lạc và an trụ tâm trong Sơ Thiền (Pathama Jhana). Đó là hạnh phúc phấn
khởi và cao thượng hơn.
"Tuy nhiên
nếu ai nói rằng: - 'đây là hạnh phúc và lạc thú cao trọng nhất mà chúng sanh có
thể thọ hưởng', Như Lai không chấp nhận. Tại sao? Bởi vì có hạnh phúc khác,
phấn khởi và cao thượng hơn.
"Nơi đây
Tầm, Sát vững chắc, không chao động. Yên tĩnh bên trong, tâm kiên cố, vị Tỳ
khưu chấm dứt Tầm, Sát, và do trạng thái vắng lặng, tiến đến Phỉ, Lạc và an trụ
tâm vào Nhị Thiền (Dutiya Jhana). Đó là hạnh phúc khác, phấn khởi và cao thượng
hơn.
"Nhưng nếu
có kẻ bảo rằng đó là cao thượng nhất mà chúng sanh có thể thọ huởng, Như Lai
không chấp nhận. Còn hạnh phúc cao thượng hơn?
"Ở đây,
chấm dứt lòng thích thú trong Phỉ, giữ yên lặng, an trụ và hoàn toàn giác tỉnh,
vị Tỳ khưu thọ hưởng trạng thái mà bậc thánh nhân mô tả 'tâm bình thản, quân
bình (tâm xả)' và an trụ trong hạnh phúc. Như vậy, hành giả nhập Tam Thiền
(Tatiya Jhana). Đó là hạnh phúc phấn khởi và cao thượng hơn.
"Mặc dầu
vậy, nếu có kẻ bảo rằng đó là hạnh phúc cao thượng nhất, Như Lai không chấp
nhận. Còn hạnh phúc cao thượng và phấn khởi hơn?
"Nơi đây,
dứt bỏ lạc thú và đau khổ, để lại phía sau mọi lạc thú và phiền não,
không-đau-khổ, không-vui-thú, tâm xả hoàn toàn và an trụ, hành giả thành đạt Tứ
Thiền (Catuttha Jhana). Đó là hạnh phúc phấn khởi và cao thượng hơn.
"Tuy
nhiên, nếu nói rằng đó là hạnh phúc cao thượng nhất thì Như Lai không chấp
nhận. Còn hạnh phúc cao thượng hơn.
"Nơi đây,
vượt lên mọi tri giác và hình thể, không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn
không quan tâm đến tri giác về tình trạng khác nhau, vị Tỳ khưu suy niệm:
'không gian vô tận' và sống trong cảnh giới Không Vô Biên Xứ
(Akasanancayatana), có quan niệm rằng không gian vô cùng tận. Đó là hạnh phúc
phấn khởi và cao thượng hơn
"Nhưng nói
rằng đó là hạnh phúc cao thượng nhất thì Như Lai không chấp nhận. Có hạnh phúc
ca thượng hơn.
"Nơi đây
vượt lên khỏi cảnh giới Không Vô Biên Xứ, vị Tỳ khưu suy niệm: 'thức vô cùng
tận', và sống trong cảnh Thức Vô Biên Xứ (Vinnananacayatana). Đó là hạnh phúc
khác, phấn khởi và cao thượng hơn.
"Tuy nhiên
nếu nói đó là hạnh phúc cao thượng nhất thì Như Lai không chấp nhận. Còn hạnh
phúc cao thượng hơn.
"Nơi đây
vượt khỏi cảnh Thức Vô Biên Xứ, vị Tỳ khưu suy niệm: 'không có gì hết' và sống
an trụ trong cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ (Akincannayatana). Đó là hạnh phúc cao
thượng hơn.
"Mặc dầu
vậy, nếu có kẻ bảo rằng đó là hạnh phúc cao thượng nhất, thì Như Lai không chấp
nhận. Có hạnh phúc khác cao thượng hơn.
"Nơi đây
vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ, vị Tỳ khưu sống an trụ trong cảnh
giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng (N'evasanna n'asannayatana). Đó là hạnh phúc khác,
phấn khởi và cao thượng hơn.
"Tuy nhiên
nếu có ai bảo: 'đây là lạc thú và cao thượng nhất mà chúng sanh có thể thọ
hưởng'. Như lai sẽ không chấp nhận. Tại sao? Bởi vì hạnh phúc khác, phấn khởi
và cao thượng hơn.
"Nơi đây
vượt hẳn khỏi cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, đạt đến mọi chấm dứt mọi tri
giác và cảm giác, vị Tỳ khưu sống không còn tri giác và cảm giác (Sannavedayita
Nirhoda). Nầy Ananda, đó là hạnh phúc khác, phấn khởi và cao thượng hơn.
"Trong
mười hạnh phúc, đó là hạnh phúc cao thượng nhất. Trạng thái tối thượng ấy là
Nirodha Samapatti (Diệt Thọ Tưởng Định), nghĩa là thọ hưởng quả Niết Bàn trong
kiếp hiện tiền."
Ta có thể hỏi:
"Sao có thể gọi là trạng thái cao thượng nhất trong khi không còn tâm thức
để thọ hưởng?"
Đức Phật giải
đáp:
"Không,
nầy chư đệ tử, Như Lai không chấp nhận là một hạnh phúc nếu hạnh phúc ấy chỉ là
một cảm giác thỏa thích. Nhưng nầy chư đệ tử, nơi nào phát sanh chân hạnh phúc,
nơi ấy, và chỉ nơi ấy thôi, Đức Thế Tôn mới nhận là hạnh phúc." [3]
Và Đức Phật dạy
tiếp:
"Như Lai
tuyên bố rằng mà tất cả những gì mà giác quan cảm nhận đều là đau khổ. Tại sao?
Bởi vì người trong cuộc cảnh khổ khao khát được hạnh phúc, mà người được xem là
đã có hạnh phúc cũng vẫn khao khát được thêm nữa. Lòng tham của thế gian không
cùng tận."
Dùng những ngôn
từ chế định, Đức Phật tuyên bố:
"Nibbanam
paramam sukham - Niết bàn là hạnh phúc tối thượng".
Là hạnh phúc
tối thượng vì Niết bàn không phải là loại hạnh phúc do ngũ quan chứng nghiệm.
Niết Bàn là pháp chân lạc tuyệt đối, là hạnh phúc phát sanh do trạng thái tích
cực giải thoát ra khỏi mọi đau khổ của đời sống.
Chính sự đoạn
tuyệt trạng thái đau khổ thường được gọi là hạnh phúc, mặc dầu danh từ ấy không
mấy thích hợp để miêu tả bản chất thật sự của Niết Bàn.
Niết Bàn ở đâu?
Trong sách
"Vua Milinda Vấn Đạo", Đức Nagasena giải đáp câu hỏi ấy như sau:
"Không có
nơi nào nhìn về hướng tây, hướng nam, hướng đông, hướng bắc, phía trên, phía
dưới, hay phía ngoài, mà có thể nói rằng đó là Niết Bàn. Tuy nhiên, Niết Bàn
thật sự có,và người nào có cuộc sống chân chánh, giới hạnh trang nghiêm, và chú
tâm minh sát, dầu ở Hy Lạp, Trung Hoa, Alexandria, hay Kosala, đều có thể thành
tựu Đạo Quả Niết Bàn.
"Cũng như
lửa, không phải được tích trữ ở một nơi đặc biệt nào, nhưng khi hợp đủ điều
kiện thì lửa phát sanh. Cùng thế ấy ta không thể nói Niết Bàn ở đâu, nhưng khi
Đạo đủ duyên đầy, thì Quả Niết Bàn được thành tựu."
Kinh Rohitassa
Sutta có ghi lại những Phật ngôn sau đây:
"Như Lai tuyên
bố rằng thế gian, nguồn gốc của thế gian, và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế
gian, đều nằm trong tấm thân một trượng nầy, cùng với tri giác và tư
tưởng." [4]
Trong đoạn kinh
nầy, danh từ 'thế gian' có nghĩa là đau khổ. Do đó, chấm dứt hay tiêu diệt thế
gian là chấm dứt đau khổ, tức Niết Bàn. Niết Bàn của ta tùy thuộc nơi tấm thân
một trượng nầy. Niết Bàn không phải là cái gì đã được tạo ra hay cái gì cần
phải được tạo ra. [5]
Niết Bàn là nơi
bốn nguyên tố cấu thành vật chất -- nguyên tố Nước (apo), có đặc tính kết hợp,
làm dính liền lại; nguyên tố Đất (pathavi), có đặc tính duỗi ra; nguyên tố Lửa
(Tejo) có đặc tính nóng, lạnh cũng là một hình thức nóng; và nguyên tố Gió
(vayo), có đặc tính di động -- không thể có chỗ đứng.
Đề cập đến Niết
Bàn ở đâu, Bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, có ghi:
"Nơi mà
bốn nguyên tố cấu thành hợp chất có đặc tính dính liền, duỗi ra, đốt cháy và di
động không còn chỗ đứng" [6]
Trong kinh
Udana [7], Phật dạy:
"Cũng như,
nầy chư Tỳ khưu, mặc dầu bao nhiêu nước từ sông ngòi kênh rạch và các trận mưa
to từ trên trời đổ xuống chảy dồn về biển cả, nhưng không vì thế mà mực nước
biển dâng nên quá cao hay xuống quá thấp. Cũng dường thế ấy, không vì lẽ có
nhiều vị Tỳ khưu nhập Đại Niết Bàn mà Niết Bàn quá đông đúc hay quá thưa thớt."
Do đó Niết Bàn
không phải một cảnh trời nào đó dành riêng cho một cá thể xuất chúng mà là một
pháp, một sự thành tựu, mà mọi chúng sanh đều có thể đạt đến.
Trong thực tế,
không có một cảnh trời vĩnh cửu, trong ấy có hình thức khoái lạc mà con người ham
muốn và nơi ấy ta có thể mặc tình thọ hưởng. Thật không thể tưởng tượng một
cảnh giới trường cửu như vậy ở bất luận nơi nào.
Chấp nhận rằng
không có nơi nào gọi là Niết Bàn, vua Milinda hỏi Đức Nagasena căn cứ trên nền
tảng nào ta có thể sửa dọn đời sống để chứng ngộ Niết Bàn.
- Có, tâu Đại
vương, có một nền tảng như thế.
- Như vậy, kính
bạch Đại đức, nền tảng ấy là gì?
- Tâu Đại
vương, giới hạnh là căn bản. Bởi vì, nếu vững vàng đặt nền tảng trên giới hạnh
và thận trọng nhiếp tâm quán tưởng thì dầu ở nơi nào, ở miền Bắc Hải hay ở Hy
Lạp, ở Trung Hoa hay ở xứ Thát Đát, dầu ở Alexandria hay ở Nikumba, ở Benares
hay ở Kosala, ở Kashmir hay ở Gandhara, trên đỉnh núi cao hay ở một cảnh trời
xa lạ, dầu thế nào đi nữa, người đã sửa dọn mình, sống đời chân chánh, sẽ thành
tựu Đạo Quả Niết Bàn. [8]
Cái gì nhập
Niết Bàn?
Đây là một câu
hỏi không thích nghi, cần phải gác lại một bên, bởi vì Phật Giáo phủ nhận sự
hiện hữu của một thực thể trường tồn hay một linh hồn trường cửu. [9]
Cái được gọi
chúng sanh mà ta thường nghe như ở trong "bộ y phục của một linh
hồn", chỉ là sự gắn hợp của những yếu tố tùy thế, hiện hữu do điều kiện.
Vajira, vị Tỳ
khưu ni A La Hán dạy:
"Khi tất
cả những bộ phận được ráp vào đúng chỗ của nó, danh từ "cái xe" phát
sanh (trong tâm ta). Cùng thế ấy, một cách chế định, thói quen thông thường gọi
là một chúng sanh khi ngũ uẩn cấu hợp lại." [10]
Theo Phật Giáo,
cái được gọi là chúng sanh gồm hai phần, danh và sắc, và hai phần này luôn luôn
biến đổi trong chấp nhoáng. Ngoài hai yếu tố tổng hợp ấy, không có một linh hồn
trường cửu hay một thực thể bất biến. Cái được gọi là "Ta" cũng là
một ảo tưởng.
Cũng như ngay
trong hiện tại, không có một cái "Ta" trường cửu hay một chúng sanh
không biến đổi, không cần phải nói rằng không có một cái "Ta" hay một
linh hồn ở Niết Bàn.
Sách Thanh Tịnh
Đạo dạy:
"Chỉ có
trạng thái khốn khổ, không có người khốn khổ,
cũng không có
người hành động, không ai hết, ngoài trừ sự hành động.
Có Niết Bàn, nhưng
không có người tìm Niết Bàn.
Có con đường,
nhưng không có con người đi đến đó."
Điểm khác biệt
chánh yếu giữa quan niệm của người Phật Tử về Nibbana và quan niệm của Ấn Độ
Giáo về Nibbana hay Mukti là người Phật Tử, trong lúc nhìn vào mục tiêu, không
tin có linh hồn và một tạo hóa, còn người theo Ấn Độ Giáo thì tin có linh hồn
trường cửu và tạo hóa.
Vì thế ta không
thể nói rằng Phật Giáo là một chủ nghĩa "vĩnh cửu" hay "hư
vô".
Trong Niết Bàn
không có gì để "vĩnh-cửu-hóa", mà cũng không có gì để
"hư-vô-hóa".
Cũng như Sir
Edwin Arnold nói:
"Nếu có
người dạy rằng Niết Bàn là chấm dứt,
Bạn hãy nói người
ấy dối.
Nếu có người dạy
rằng Niết Bàn là còn sống nữa,
Bạn hãy nói người
ấy sai lầm."
Phải nhìn nhận
vấn đề Niết Bàn là khó hiểu nhất trong Giáo lý của Đức Phật. Tuy nhiên, dầu có
tìm đến đâu, ta cũng không thể thấu triệt bản chất thật sự của Niết Bàn. Đường
lối tốt nhất để hiểu Niết Bàn là gia công bằng trí tuệ trực giác của chính ta.
Mặc dầu con
người trung bình không thể tri giác Niết Bàn được bằng ngũ quan, con đường duy
nhất đi thẳng đến Niết Bàn đã được Đức Phật giải thích cặn kẻ trong từng chi
tiết và rành mạch cho tất cả.
Mục tiêu còn lu
mờ sau đám mây che lấp, nhưng phương pháp để thành tựu thật là ràng minh bạch,
và khi thành tựu được rồi thì mục tiêu sẽ hiện ra sáng tỏ như "mặt trăng
trong không bị mây án".
Chú thích:
[1] Xem
"Gradual Sayings", trang 135.
[2] Sanh (jati)
ở đây có nghĩa là sự sống, những kiếp sống trong vòng luân hồi.
[3] Majjhima
Nikaya, Trung A Hàm, kinh số 57.
[4] Samyutta
Nikaya, Tạp A Hàm, phần 1, trang 62.
[5] "Quả
thật pháp nầy (Niết Bàn) phải được thành tựu (hay chứng ngộ) do bốn Thánh Đạo
(Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A La Hán), chớ không phải được tạo nên." --
Thanh Tịnh Đạo.
[6] Kindred
Sayings, phần I, trang 23.
[7] Xem
Woodward, "Verses of Uplift", trang 66-67.
[8] Questions
of King Milinda, trang 202-204.
[9] Xem Chương
29.
[10] Kindred
Sayings, phần I, trang 170.