CHƯƠNG 24
Do đâu tin có Tái Sanh?
"Như Lai đã nhớ lại nhiều kiếp sống trong quá khứ"
Trung A Hàm
Do đâu ta tin
có tái sanh?
Đối với người
Phật tử, Đức Phật có đủ uy quyền nhất để thuyết minh vấn đề Tái Sanh. Chính
trong đêm Ngài đắc Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, lúc canh một, Đức Phật chứng ngộ
Túc Mạng Minh là tuệ biết rỏ những kiếp quá khứ .
Ngài nói:
"Như Lai đã nhớ lại nhiều kiếp sống trong quá khứ như thế nầy: trước hết
một kiếp, rồi hai kiếp, rồi ba, bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một
trăm, một ngàn, một trăm ngàn kiếp v.v... " [1]
Vào canh hai,
Đức Phật chứng đắc Thiên Nhãn Minh, nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp sống nầy
tái sanh vào một kiếp sống khác. Ngài chứng kiến cảnh tượng "kẻ sang người
hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người khốn khổ, chúng sanh hoại diệt và tái
sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người".
Đó là những
Phật ngôn đề cập đến vấn đề tái sanh. Những đoạn kinh tham khảo trong kinh điển
liên quan đến thuyết tái sanh chứng tỏ rằng Đức Phật không dựa vào một nguồn
hiểu biết nào sẳn có để giải thích chân lý hiển nhiên nầy. Ngài chỉ dựa trên
kinh nghiệm bản thân và nhận thức cá nhân của chính Ngài, một nhận thức tuy
siêu phàm nhưng mỗi chúng ta đều có thể thành đạt nếu trau giồi rèn luyện đúng
mức.
Trong bài kệ
hoan hỷ (Udana) đầu tiên, Đức Phật tuyên ngôn:
"Xuyên qua
kiếp sống nầy (anekajati), Như Lai lang thang đi, đi mãi, để tìm người thợ cất
cái nhà nầy. Phiền muộn thay những kiếp sống triền miên lặp đi lặp lại (dukkha
jati punappunam)." [2]
Trong bài kinh
Pháp đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka sutta) [3] Đức Phật đề cập
đến chân lý thâm diệu thứ nhì như sau: "Chính Ái Dục dẫn dắt chúng sanh đi
tái sanh"(yayam tanha ponobhavika). Và Đức Phật kết luận bài Pháp:
"Đây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai. Từ đây Như Lai không còn tái sanh
nữa (ayam anyima jati natthi dani punabbhavo)."
Trong bộ
Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, có ghi rằng, sau khi thành tựu Đạo Quả Phật, vì
lòng thương chúng sanh, Ngài dùng tuệ nhãn quan sát chúng sanh trước khi quyết
định hoằng dương Giáo Pháp. Ngài nhận thấy rằng có những chúng sanh biết tội
lỗi, sợ tái sanh, sợ mãi mãi sanh-tử, tử-sanh trong vòng luân hồi
(paralokavajjabhaya-dassavino). [4]
Trong nhiều
đoạn kinh khác nhau, Đức Phật dạy rỏ ràng rằng có những kẻ phải bị sanh vào
cảnh khổ vì đã sống cuộc đời tội lỗi ô trược và có người, nhờ hành thiện, tạo
nghiệp lành, được tái sanh vào nhàn cảnh.
Ngoài những
tích truyện thú vị trong Túc Sanh Truyện (Jataka), một bộ truyện có giá trị
luân lý quan trọng ghi lại các tiền kiếp của Đức Phật, hai bộ Majjhima Nikaya
(Trung A Hàm) và Anguttara Nikaya (Tăng Nhứt A Hàm) thỉnh thoảng cũng đề cập
đến những kiếp sống quá khứ của Đức Phật.
Trong kinh
Ghatikara sutta [5], Đức Phật cũng thuật lại cho Đại Đức Ananda rằng trong một
tiền kiếp, vào thời Đức Phật Kassapa, ngài là Jotipala. Kinh Anathapindikovada
sutta [6] cũng ghi rằng liền sau khi tái sanh vào cảnh trời, nhà triệu phú
Anathapindika (Cấp Cô Độc) trở về viếng Đức Phật đêm sau. Trong bộ Anguttara
Nikaya [7], Tăng Nhứt A Hàm, Đức Phật nhắc đến một kiếp sống quá khứ Ngài có
tên Pacetana. Trong bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, Đức Phật kể tên vài vị Phật
đã thị hiện trên thế gian trước Ngài.
Maha-Parinibbana
sutta (Kinh Đại Niết Bàn) [8] ghi rằng một hôm Đại Đức Ananda đến bạch với Đức
Phật, hỏi thăm về số phận của một số người chết trong làng nọ. Đức Phật nhẫn
nại diễn tả trường hợp từng người, từng hoàn cảnh.
Những trường
hợp tương tợ rất nhiều trong Tam Tạng Kinh, chứng tỏ Đức Phật giảng giải giáo
thuyết tái sanh như một chân lý có thể kiểm chứng. [9]
Theo lời chỉ
dạy của Đức Phật, trong hàng đệ tử của Ngài có nhiều vị tu hành đúng đắn, trau
giồi và phát triển trí tuệ đúng mức, đã được biết ít nhiều về tiền kiếp của
mình trong vô lượng kiếp sống. Tuệ giác của Đức Phật vô hạn định.
Trước thời Đức
Phật, một vị nọ người Ấn Độ Rishis, cũng nổi tiếng nhờ những phép thần thông
như thiên nhãn, thiên nhĩ, thần giao cánh cảm, viễn giác, viễn cảm v.v...
Mặc dầu khoa
học chưa tiến đến mức am hiểu những pháp siêu thường, theo Phật Giáo, người
trau giồi thiền tập và phát triển tâm lực đầy đủ có thể nhớ những việc xảy ra
trong các kiếp quá khứ cũng như một việc đã xảy diễn vào lúc nào trong kiếp
sống nầy. Xuyên qua những người ấy, ta có thể giao cảm trực tiếp với những cảnh
giới khác bằng tư tưởng và tri giác, không phải bằng năm giác quan thường.
Cũng có một vài
người khác thường, nhất là các em bé, do luật phối hợp tư tưởng bất ngờ, sực
nhớ lại đoạn nào hoặc một vài chi tiết trong những kiếp sống quá khứ [10]. Sách
có chép rằng Pythagoras đã nhớ lại tường tận cái nhẫn mà ông đã dùng trong một
tiền kiếp, lúc ấy ông vây hãm thành Troy.
Trong kiếp tái sanh làm Pythagoras, cái nhẫn ấy vẫn còn để trong một đền thờ Hy
Lạp. [11]
Có một em bé,
nhờ cách nọ hay cách kia, nhớ lại kiếp trước. Nhưng đến khi lớn lên thì em
không còn nhớ nữa. Do những thí nghiệm của các nhà tâm linh học trứ danh, những
hiện tượng ma quỷ, những sự giao cảm giữa hai cảnh âm dương, những sự kiện mà
ta thường gọi là có một số âm linh nhập v.v... cũng đem lại một vài tia sáng
cho vấn đề tái sanh. [12]
Trong trạng
thái thôi miên, có vài người đã thuật lại những kinh nghiệm của mình ở kiếp quá
khứ. Cũng có một ít người khác, như trường hợp Edgar Casey ở Mỹ Quốc, chẳng
những thấy được kiếp trước của người khác nhờ đó mà còn có thể chữa bệnh cho
họ.
Ta có thể giải
thích những hiện tượng ấy rằng đó là nhờ người kia nhớ lại những kinh nghiệm ở
kiếp trước, hoặc có một âm linh nhập. Cách giải thích thứ nhất có vẽ hợp lý hơn
nhưng ta cũng không hoàn toàn bác bỏ cách giải thích thứ nhì. [13]
Bao nhiêu lần
tình cờ mà ta gặp một người trước kia chưa từng gặp, nhưng trong trí vẫn nhớ
hình như đã quen biết đâu đây? Bao nhiêu lần ta mục kích một cảnh lạ chưa từng
đến, nhưng tự nhiên có cảm giác đã quen thuộc một lúc nào [14].
Trong Chú Giải
Kinh Pháp Cú có ghi lại câu truyện hai vợ chồng người kia, khi gặp Đức Phật thì
quỳ dưới chân Ngài, bạch rằng:
"Nầy con
yêu dấu, có phải chăng phận sự con là phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già? Tại sao
bấy lâu nay con không đến thăm viếng cha mẹ? Đây là lần đầu tiên mà cha mẹ gặp
lại con."
Đức Phật giải
thích rằng sở dĩ có sự bộc khởi mối thâm tình một cách đột ngột và bất ngờ như
vậy là vì trong nhiều kiếp sống quá khứ hai ông bà đã làm cha mẹ Ngài, và Đức
Phật dạy:
"Do hoàn
cảnh thân cận trong quá khứ hay thuận lợi trong hiện tại.
Tình thâm ở thời
xa xôi ấy mọc lên trở lại như hoa sen mọc trong nước. [15]"
Trên thế gian
có những nhân vật cao siêu xuất chúng, những bậc toàn giác như Đức Phật. Có thể
nào chỉ trong một thời gian của một kiếp sống mà có thể trau giồi trí tuệ đến
mức cao siêu toàn thiện như vậy chăng? Có thể nào có tình trạng tiến hóa đột
ngột như vậy chăng?
Ta giải thích
thế nào về trường hợp của những nhân vật như Đức Khổng Tử, Homer, Panini,
Buddhaghosa, và Plato, những bậc thiên tài xuất chúng như Kalidasa,
Shakespeare, và những hạng thần đồng như Ramanujan, Pascal, Mozart, Beethoven
v.v...?
Các bậc cao
siêu xuất chúng như vậy, dĩ nhiên đã trãi qua nhiều kiếp sống cao thượng trong
quá khứ và đã từng thâu thập những kinh nghiệm tương tợ. Phải chăng là sự ngẫu
nhiên hay hoàn cảnh thuận lợi đã đưa các vị ấy vào trong gia đình họ?
Trong trường
hợp các thần đồng hình như cũng tạo nên những thắc mắc cho các nhà khoa học.
Vài nhân vật trong ngành y học giải thích rằng những hiện tượng như thần đồng,
phát sanh do sự phát triển khác thường của những hạch tuyến như hạch màn mũi,
từng quả tuyến và hạch thận tuyến. Nguyên nhân sự phát triển khác thường của
các hạch tuyến ấy bên trong vài cá nhân nhất định cũng có thể là do nghiệp quá
khứ. Tuy nhiên, nếu chỉ một vài hạch tuyến phát triển khác thường, làm sao
Christian Heineken có thể nói chuyện ngay vài tiếng đồng hồ sau khi được sanh
ra, đọc lại nhiều đoạn trong thánh kinh lúc lên một, trả lời những câu hỏi về
địa dư lúc lên hai, nói được tiếng Pháp và tiếng La Tinh lúc lên ba, và khi lên
bốn đã theo học các lớp triết? Nếu chỉ vì có một vài hạch tuyến phát triển khác
thường thì làm sao John Stuart Mill có thể đọc chữ Hy Lạp lúc mới ba tuổi, làm
sao Macaulay có thể viết Thế Giới Sử lúc vừa sáu tuổi, làm sao William James
Sidis đọc và viết rành chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ) lúc mới lên hai, đã đọc và viết những
tiếng Pháp, Nga, Anh, Đức và chút ít La Tinh và Hy Lạp khi lên tám, làm sao
Charles Bennet ở Manchester có thể nói được nhiều thứ tiếng lúc mới ba tuổi?
Những người không phải trong giới khoa học có giải thích được chăng các sự kiện
lạ lùng ấy? [16] Các nhà khoa học có giải thích được chăng vì sao các hạch
tuyến ấy lại phát triển khác thường trong một vài người mà không phát triển
trong người khác, hay tất cả mọi người? Vấn đề thực sự còn chưa được giải
quyết.
Thuyết truyền
thống riêng rẽ không đủ để giải thích các trường hợp thần đồng.
"Phải chi
trong ông bà cha mẹ hay trong hàng con cháu các vị ấy cũng có những thần đồng,
dầu kém hơn, thì cũng là những sự kiện để chứng minh thuyết truyền thống."
Để giải thích
vấn đề phức tạp ấy một cách thỏa đáng ta phải thêm vào thuyết truyền thống lý
Nghiệp Báo và Tái Sanh.
Có lý do nào để
tin rằng chỉ vỏn vẹn kiếp sống hiện tại nầy mà đủ có thể quyết định hạnh phúc
vĩnh cửu hay cảnh khốn cùng vô tận trong tương lai không? Bao nhiêu cố gắng
trong kiếp sống ngắn ngủi nhiều lắm là một trăm năm có thể là sự chuẩn bị thích
nghi cho cuộc sống vĩnh cửu không?
Nếu chúng ta
tin có hiện tại và tương lai, tất nhiên chúng ta tin có quá khứ.
Nếu có những lý
do để tin rằng có những kiếp sống trong quá khứ thì cố nhiên chúng ta không có
lý do nào để không tin rằng sau khi kiếp hiện tại tạm thời chấm dứt chúng ta
vẫn tiếp tục sống. [17]
Chính những
kiếp sống quá khứ và vị lai giải thích vì sao trong đời, lắm khi người hiền
lương đạo đức phải chịu gian lao khốn khổ và có những người gian ác tàn bạo lại
được giàu sang may mắn. [18]
Chúng ta sanh
ra trong trạng thái mà chính hành động của ta trong quá khứ đã tạo nên. Nếu
trong kiếp hiện tại, mặc dầu sống trong sạch, mà ta gặp phải những điều bất
hạnh thì nên biết rằng đó là do nghiệp xấu của ta trong quá khứ. Trái lại, nếu
đời sống nhơ bẩn tội lỗi mà ta vẫn được an vui hạnh phúc, giàu sang, may mắn,
thì đó cũng do nghiệp tốt của ta đã tạo trong quá khứ. Hành động tốt và xấu của
ta trong hiện tại cũng sẽ tạo quả ngay khi cơ duyên hội đủ.
Mộ văn hào Tây
Phương nói:
"Dầu tin
có những kiếp sống quá khứ hay không, niềm tin nầy là giả thuyết hợp lý duy
nhất khả dĩ bắt nhịp cầu để vượt qua những cái hố trong sự hiểu biết của chúng
ta về các sự kiện trong đời sống hằng ngày. Lý trí cho ta biết rằng ý niệm về
đời sống quá khứ và lý nghiệp báo có thể giải thích chẳng hạn như mức độ khác
biệt giữa hai đứa trẻ sanh đôi, như làm thế nào có người như Shakespeare, với
kinh nghiệm ít ỏi, giới hạn trong một kiếp sống, có thể mô tả chính xác một cách
kỳ diệu bao nhiêu nhân vật, thuộc nhiều loại rất khác nhau, những cảnh tượng
v.v... mà thực ra ông không thể biết được. Nó giải thích tại sao các tác phẩm
của các bậc vĩ nhân vượt lên khỏi rất xa kinh nghiệm mà các vị ấy có thể có. Nó
giải thích hiện tượng thần đồng và sự khác biệt sâu xa giữa người nầy và người
khác, trên phương diện tâm trí, đạo đức, tinh thần và vật chất, điều kiện, hoàn
cảnh v.v... mà ta có thể quan sát ở khắp nơi trên thế gian."
Nghiệp Báo và
Tái Sanh giải thích những gì?
Thuyết Nghiệp
Báo và Tái Sanh giải thích:
1.- Vấn đề đau
khổ mà chính ta phải chịu trách nhiệm;
2.- Tình trạng
chênh lệch tựa hồ như bất công giữa người và người;
3.- Sự hiện hữu
của những bậc vĩ nhân và những thần đồng;
4.- Tại sao hai
trẻ sanh đôi giống nhau y hệt về mặt vật chất, được nuôi dưỡng y như nhau, mà
lại có những đặc tính hoàn toàn khác biệt về mặt tinh thần, đạo đức và trí tuệ;
5.- Tại sao
trong một gia đình, nếu theo định luật truyền thống thì con cái phải giống nhau
hết, mà trong thực tế thì lại khác;
6.- Tại sao có
những người có khiếu đặc biệt:
7.- Tại sao cha
mẹ và con cái lại có những đặc tính khác nhau về mặt đạo đức và trí tuệ;
8.- Tại sao trẻ
con lại có những tật xấu như tham lam, sân hận, ganh tỵ;
9.- Tại sao khi
gặp một người nào lần đầu tiên, ta đã có thiện cảm hay ác cảm;
10.- Tại sao
trong mỗi người lại có tiềm tàng ngủ thầm "một kho tàng đức hạnh và một
hầm tật xấu";
11.- Tại sao có
sự thay đổi bất ngờ, bậc thiện trí thức trở thành tầm thường hay kẻ sát nhân
bổng nhiên đổi tánh, sống như bậc thánh;
12.- Tại sao có
trường hợp cha mẹ hiền lương mà sanh con hung ác, trái lại cha mẹ hung dữ
lạisanh con nhân từ;
13.- Tại sao,
một đàng, ta như thế nào trong hiện tại là do ta đã như thế nào trong quá khứ,
và ta sẽ như thế nào trong tương lai là do ta như thế nào trong hiện tại; theo
một đàng khác, trong hiện tại ta như thế nào không hoàn toàn bởi vì trong quá
khứ ta đã như thế nào và trong tương lai ta sẽ như thế nào cũng không hoàn toàn
tùy thuộc nơi chúng ta như thế nào trong hiện tại;
14.- Tại sao có
những cái chết đột ngột và có sự thay đổi bất ngờ về tài sản sự nghiệp;
15.- Và trên
tất cả, thuyết Nghiệp Báo và Tái Sanh giải thích vì sao có bậc toàn giác, những
bậc giáo chủ toàn thiện như chư Phật, với đầy đủ đức tánh vật lý, tinh thần và
trí tuệ.
Chú thích:
[1] Majjhima
Nikaya, Trung A Hàm, Mahasaccaka Sutta, kinh số 36, i, 248
[2] Dhammapada,
kinh Pháp Cú, câu 153.
[3] MahaVagga,
trang 10, Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, câu 428. Xem Chương 6.
[4] Majjhama
Nikaya, Trung A Hàm, phần i, trang 169.
[5] Majjhama
Nikaya, Trung A Hàm, phần ii, trang 45 (kinh số 81).
[6] Majjhama
Nikaya, Trung A Hàm, phần iii, trang 258 (kinh số 143).
[7] Majjhama
Nikaya, Trung A Hàm, phần i, trang 111
[8] Digha
Nikaya, phần ii, trang 91 (kinh số 16).
[9] Xem J. G.
Jennings, "The Vedantic Buddhism of the Buddha"
[10] Trường hợp
của Shanti Devi, xứ Ấn Độ, là một thí dụ hiển nhiên. Xem tạp chí "The
Bosat", tập xiii, số 2, trang 27.
[11] William Q.
Atkinson và E. D. Walyer, trong quyển "Reincarnation and the Law of
Kamma".
[12] Kinh
Theregatha, Trưởng lão Tăng Kệ, ghi rằng có một vị Bà La Mô kia "được tín
đồ khâm phục nhờ mỗi lần gõ móng tay lên trên một đầu lâu khi biết được người
chủ của cái đầu lâu ấy đã tái sanh ở nơi nào."
Có những người
biểu hiện các nhân cách khác nhau trong các thời điểm khác nhau trong đời của
họ. Giáo sư James cũng có nêu lên một vài trường hợp đặc biệt và thú vị trong
quyển "Principles của Psychology". (Xem F. W. H. Myers, "Human
Personality and its Survival of Bodily Death"). Sách Thanh Tịnh Đạo có ghi
một chuyện một vị trời nhập vào một người cư sĩ (Xem The Path of Purity,
phần i, trang 48).
Chính tác giả
(Đ.Đ. Narada) cũng có gặp những người ngồi đồng, làm trung gian cho giới vô
hình chuyển đạt tư tưởng và những người khác bị âm linh không tốt nhập vào. Khi
ở trong trạng thái mê thì những người ấy làm và nói những điều mà thường họ
không hề biết, và sau khi tỉnh lại họ cũng không còn nhớ gì hết.
[13] Xem
"Many Mansions", đã có dịch ra Việt ngữ dưói tựa đề "Những bí ẩn
của cuộc đời" do dịch giả Nguyễn Hữu Kiệt, và "The World Within"
của Gina Cerminara.
[14] Chính
những kinh nghiệm tương tợ làm cho Sir Walter Scott ý thức được thuyết luân
hồi. Khi viết lại tiểu sử của Sir Walter Scott trong quyển "Life of
Scott", tác giả Lockhart có trích một đoạn trong quyển nhật ký của ông,
ngày 17-2-1828 như sau: "Chắc chắn tôi không thể nói rõ có nên viết ra đây
hay không, rằng ngày hôm qua vào giờ cơm chiều, tôi bị cái mà tôi gọi là ý thức
có những tiền kiếp ám ảnh một cách kỳ lạ, thí dụ như một ý nghĩ mơ hồ rằng
không có việc gì xảy ra mà ta có thể nói là lần thứ nhất. Cũng những vấn đề ấy
được đem ra thảo luận và có những người phát biểu những ý kiến y hệt. Sự xúc
động mạnh mễ đến độ có thể tả như cái mà người ta gọi là một ảo ảnh ở sa mạc và
cơn sốt trên biển cả."
"Bulwer
Lytton diễn tả những kinh nghiệm bí ẩn khó hiểu ấy như một loại kỳ lạ thuộc về
tinh thần làm cho ta nhớ lại những nơi và những người chưa từng gặp trước kia.
Những người theo học thuyết của Platon giải thích rằng đó là những tâm tranh
đấu và bất thỏa mãn từ kiếp sống trước, bây giờ trổi lên." -- H.M.
Kitchener, "The Theory of Reincarnation", trang 7.
Chính tác giả
(Đ.Đ. Narada) đã gặp vài người nhớ lại từng đoạn, đời sống của họ trong kiếp
trước. Tác giả cũng có gặp một vài bác sĩ trứ danh ở Âu Châu có thể thôi miên
người khác và làm cho họ nhớ lại tiền kiếp.
[15] Xem
"Buddhist Legends", tập 3, trang 108.
[16] "Ceylon
Observer", 21-11-1948.
[17]
"Chúng ta phải đến chổ nhìn hiện tại như con đẻ của quá khứ và là cha mẹ
của tương lai" -- T.H. Huxley.
[18] Addison.