CHƯƠNG 41
Ba La Mật
"Hãy tích cực hoạt động để tạo an lành cho kẻ
khác."
Sutta Nipata.
Có mười đức
tánh cao quí vượt hẳn thế tục gọi là Parami (Ba La Mật) [1], mà chư vị Bồ Tát
đều thực hành tròn đủ để thành tựu Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác (Samma
Sambuddha).
Mười pháp Ba La
Mật là: Bố Thí (Dana), Trì Giới (Sila), Xuất Gia (Nekkhamma), Trí Tuệ (Panna),
Tinh Tấn (Viriya), Nhẫn Nại (Khanti), Chân Thật (Sacca), Quyết Định
(Adhitthana), Tâm Từ (Metta) và Tâm Xả (Upekkha).
Theo lời giải
thích trong kinh Cariya Pitaka, Ba La Mật không nhuộm màu vị kỷ, không đuộm
nhuần tà kiến và không ẩn ý ngã mạn. Ba La Mật nhờ trí tuệ dẫn dắt và do lượng
từ bi vun quén đắp bồi.
Hành động của
vị Bồ Tát tuyệt đối vị tha. Với đức từ bi vô lượng, lòng bác ái vô biên, xuyên
qua bao nhiêu kiếp sống, các Ngài không ngừng nỗ lực để nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người nghèo nàn thấp kém, giúp đỡ cho mọi người bằng ngàn
cách và làm giảm bớt phiền não cho tất cả chúng sanh.
Một vị Bồ Tát
không nghĩ đến việc an hưởng thú thanh nhàn trong khi những người bạn của mình
còn ở trong vòng lao khổ. Để làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau của nhân loại, Bồ
Tát sẵn sàng hy sinh tất cả các vật sở hữu quý báu nhất, cho đến mạng sống của
mình đi nữa, cũng không tiếc.
Câu truyện
trong Túc Sanh Truyện "Vyaghri Jataka" là một thí dụ.
Mặc dầu Bồ Tát
không khi nào mà làm điều gì mà không suy nghĩ trước, các Ngài luôn luôn tạo
hạnh phúc an vui hạnh phúc cho tất cả, không quên bỏ một chúng sanh nhỏ bé nào.
Lòng đầy bi mẫn, tuy nhiên các Ngài luôn luôn cân phân tâm trí. Và trong khi
phục vụ, Ngài không hề cầu mong một thế lực hoặc một quyền lợi vật chất nào
trên thế gian. Khi đã hành động xứng đáng, danh thơm tự nhiên đến, không cần phải
chạy theo nó. Bồ Tát hoàn toàn vị tha, luôn luôn sống cho kẻ khác, không khi
nào nghĩ đến mình. Không hề có một điểm ích kỷ, dầu nhỏ nhen đi nữa, trong tâm
một vị Bồ Tát.
Kinh Dhammapada
(Pháp Cú) có câu:
"Hãy để
cho hàng cư sĩ và các tỳ khưu nghĩ rằng chính ta đã làm điều phải đó. Trong mọi
công việc, dầu lớn, dầu nhỏ, hãy để họ nhắc đến ta. Đó là nguyện vọng của người
cuồng si. Nghĩ như vậy thì lòng tham vọng và tính ngã mạn sẽ tăng trưởng".
Một vị Bồ Tát
không khi nào có tư tưởng ích kỷ và hẹp hòi như vậy. [2]
1. Bố Thí (
Dana)
Bố Thí, hay
lòng quảng đại, là Ba La Mật đầu tiên mà trong khi thực hiện hành giả thành tựu
hai nghiệp thiện là: tiêu trừ những tư tưởng ích kỷ, xấu xa, và phát triển
những tư tưởng vị tha, trong sạch. Bố thí là một niềm hân hoan, một phước lành
cho cả người tặng, lẫn cho thọ lãnh.
Bồ Tát không
thắc mắc tìm hiểu người mà mình muốn cho sự vật, hoặc ban một đặc ân nào, có ở
trong tình trạng thiếu thốn món đó không. Ngài cho ra mà không chạy theo vật
mình cho. Ngài bố thí vì lòng quảng đại mà cũng để diệt lần mọi luyến ái còn
tiềm tàng trong tâm. Niềm vui khi phụng sự của kẻ khác tự nhiên đến. Làm dịu
bớt nỗi đau khổ của chúng sanh là một hạnh phúc khác do sự bố thí đem lại.
Tình thương của
một vị Bồ Tát thật là bao la. Lòng từ bi của Ngài rải ra cho tất cả muôn loài.
Nhưng khi bố thí, Ngài không nhắm mắt cho càn. Lòng quảng đại không làm cho sự bố
thí trở nên mù quáng. Nếu có một người nghiền rượu đến nhờ sự giúp đỡ của Ngài
và Ngài biết chắc chắn người này sẽ lãnh món quà để dùng trong việc sai quấy, vị
Bồ Tát sẽ không ngần ngại từ chối. Đặt lòng quảng đại trong một hành động sai
lầm không phải là Ba La Mật (Parami).
Khi giúp đỡ một
người vì lý do chính đáng, Bồ Tát không hề lộ vẻ quan trọng hoặc tỏ ý tự tôn tự
đại; trái lại, thấy đó là một cơ hội quý báu để làm bổn phận mình nên sẵn sàng
và vui vẻ phục vụ kẻ khác một cách khiêm tốn. Ngài không bao giờ thấy mình cao
hơn ai vì lẽ người đó nhờ mình. Khi giúp đỡ, Ngài không thấy đó là thi ân, cũng
không coi người mình giúp là đã thọ ân mình. Bồ Tát làm việc gì chỉ vì đó là
điều phải, không tìm danh vọng, không mong đền đáp.
Bồ Tát không bỏ
lỡ một dịp may nào để phục vụ kẻ khác, nhưng không hạ mình cầu xin ân huệ. Túc
Sanh Truyện Brahma Jataka (số 323) thuật rằng có một vị Bồ Tát sống đời tu sĩ
trong vườn ngự uyển. Thường ngày vua đến viếng và cung cấp mọi vật dụng, nhưng
dầu sao nhà vua không thể thấy hết mọi nhu cầu của Ngài. Đôi dép và cây dù của
Bồ Tát rách hư đã mười hai năm trường mà vua không hay. Ngài không hề hở môi.
Ngày kia vua hay được. Trước cử chỉ tuy khiêm tốn nhưng lạ lùng như vậy, vua
hỏi Ngài tại sao? Ngài trả lời:
"Tâu bệ
hạ, kẻ cầu khẩn mà không được sẽ buồn rầu, kẻ được người khác nhờ đến mà không
thể giúp, càng buồn rầu hơn nữa".
Bồ Tát cho ra
không xiết kể, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tôn giáo, nhưng không
bao giờ cầu mong người khác trả lại. Một đặc điểm của các Ngài là tri túc hoàn
toàn. Thi hào Edward Dyer ca ngợi đức tánh ấy trong mấy dòng thơ:
"Vài người
có thật nhiều mà vẫn còn ham muốn,
Tôi có ít nhưng
cảm thấy đủ
Chính họ
"nghèo", mặc dầu tiền rừng, bạc bể.
Và chính tôi
"giàu", tuy túi rỗng không.
Túc Sanh Truyện
Kanha Jataka (số 440) có ghi chép rằng một hôm vua trời Sakka nghe danh vị một
Bồ Tát nọ là một gương mẫu, có nhiều đức độ, vua trời lấy làm cảm phục, kính
cẩn đến bạch xin Ngài cho biết có cần món chi để vua cúng dường. Bồ Tát vui vẻ
xin được thành tựu bốn điều ước nguyện:
1. Ước nguyện
tôi không sân hận, không phiền hà hay có ác ý với người láng giềng;
2. Ước nguyện tôi
không ham muốn vật sở hữu của người láng giềng;
3. Ước nguyện tôi
không luyến ái riêng người nào;
4. Ước nguyện tôi
có tâm xả.
Nghe vậy , tuy
hết sức cảm phục, vua trời Sakka lấy làm thất vọng xin ngài chọn thêm một vật
gì khác để vua cúng dường. Vị Bồ Tát trả lời:
"Bất luận
nơi nào mà rừng sâu tôi sống,nơi nào mà tôi ở một mình, xin cho tôi được khoẻ
mạnh. Bởi vì bệnh hoạn sẽ làm xáo trộn cuộc sống yên tĩnh và làm trở ngại công
phu hành thiền của tôi."
Vua trời Sakka
nghĩ thầm: "Thật là tiếng đồn chẳng sai. Quả thật Bồ Tát Kanha là bậc trí
thức, thay vì ước mong thỏa mãn nhu cầu vật chất, Ngài chỉ chọn những điều cần
thiết cho đời sống đạo hạnh."
Lần thứ ba Vua
trời Sakka lại xin Bồ Tát chọn một món gì khác để cúng dường. Bồ Tát trả lời:
"Tâu Hoàng Thượng, tôi có thêm một nguyện vọng nữa. Bất luận ở đâu, không
một chúng sanh nào làm tổn thương thân thể tôi, không một chúng sanh nào làm
hại đến tâm trí tôi, đó là lời nguyện của tôi."
Lòng quảng đại
của một vị Bồ Tát thật không cùng. Ngài cho ra tất cả: của cải, tài sản, sự
nghiệp. Ngài có thể cho cả ngai vàng, cả quốc vương, một cánh tay, một cái
chân, cho đến vợ, đến con. Đến mạng sống, Ngài cũng không ngần ngại cống hiến
để tạo hạnh phúc cho nhân loại.
Túc Sanh Truyện
Vessantara Jataka (số 547) có thuật rằng hoàng tử Vessantara, lúc còn tám tuổi,
có lần thành thật nghĩ rằng:
"Nếu một
ngày kia có người cần đến trái tim của ta, ta sẽ tự tay mổ ngực, moi tim cho
ra. Nếu có người cần lấy mắt, ta sẽ tự móc mắt ra biếu. Nếu có người cần đến
thịt ta, ta sẽ tự tay cắt một miếng thịt để tặng."
Túc Sanh Truyện
Vyaghri Jataka cũng thán phục thuật lại một câu chuyện một hoàng tử sẵn sàng và
vui vẻ hy sinh mạng sống để đem lại hạnh phúc cho kẻ khác.
Trong Jatakamala,
câu truyện được thuật lại rằng:
"Ngày kia,
một vị Bồ Tát đi ngang qua một khu rừng nọ cùng với người đệ tử. Ngài nhìn thấy
một con cọp mẹ cùng với ba con cọp con nằm ngất ngư gần chết đói. Động lòng bi mẫn,
người bảo người đệ tử đi tìm thức ăn cho cọp. Nhưng chính là cái cớ để được ở
lại một mình với cọp vì ngài nghĩ rằng:
'Tại sao ta
phải đi tìm một thân sống khác, khi có sẵn món ăn ta đây để làm món ăn cho cọp.
Tìm thức ăn nơi khác là một việc cầu may, hơn nữa, ta có thể bỏ lỡ một cơ hội tốt
đẹp để làm bổn phận.
"Chính cái
thân ô trược nầy là nguồn gốc của bao nhiêu phiền não, bao nhiêu bất hạnh. Nếu
ta cứ khư khư bám chặt lấy nó và nếu không biết dùng nó để phụng sự kẻ khác thì
thật là không sáng suốt chút nào. Trong đời chỉ có hai nguyên do làm cho con
người hững hờ trước sự đau khổ của kẻ khác. Đó là lòng luyến ái, cột trói chúng
sanh vào những lạc thú, cố bám lấy sự vui sướng cá nhân, sợ nó mất đi, là một
nguyên do làm cho ta lãnh đạm trước sự đau khổ của kẻ khác. Thiếu lòng từ
thiện, thiếu ý chí giúp đời là nguyên do khác. Nhưng ta không thể an vui khi kẻ
khác đau khổ. Ngày nào chưa giúp được kẻ khổ, ngày ấy ta không thể an hưởng
hạnh phúc. Như vậy làm sao ta có thể thản nhiên trước cảnh tượng hấp hối vì đói
khát của cọp mẹ và bầy cọp con nầy.
"Nếu ta
nhảy xuống vực sâu để làm mồi cho cọp thì ít ra ta cũng dùng cái thân khốn khổ
nầy vào một việc hữu ích. Ta sẽ nuôi sống cọp mẹ, tránh cho nó khỏi phải làm
điều ác là ăn thịt con nó, và cũng tránh cho bầy con nhỏ vô tội kia khỏi phải
chết vì nanh vuốt của mẹ chúng.
"Lại nữa,
hành động như vậy ta còn nêu một gương sáng cho ai còn ham muốn những gì mà cho
là tốt đẹp, trên đời nầy. Ta hy sinh thân nầy để cứu bốn mạng sống, để an ủi và
khuyến khích những ai bé nhỏ yếu đuối, làm vui lòng những ai thấu triệt ý nghĩa
sâu xa của lòng từ thiện và tạo nên lý tưởng cho những ai muốn sống cuộc đời
đạo hạnh. Vậy, đây là cơ hội hy hữu để bước lần đến mức độ giác ngộ hoàn
toàn."
Nghĩ như vậy Bồ
Tát liền gieo mình xuống vực thẳm, hy sinh mạng sống để ban sự lành cho bốn con
cọp sắp chết.
Theo Nevari
(Nepala Basha), câu chuyện đáng thương tâm và đầy ý nghĩa thú vị trên được
thuật lại như sau:
"Vào thuở
xa xưa kia có một ông vua tên Maharattha có thế lực oai hùng và tâm đạo nhiệt
thành. Đức vua có ba hoàng tử là Maha Prashada, Maha Deva và Maha Sattva, cả ba
đều hiền lành và dễ dạy.
Một buổi sáng
tươi đẹp nọ, đức vua cùng ba hoàng tử dạo chơi trong rừng. Mãi lo nhìn xem
phong cảnh và mê mẩn với hoa thơm cỏ lạ, ba vị hoàng tử càng đi sâu vào rừng.
Quan hầu cận thấy
vắng bóng ba vị hoàng tử bèn tâu lại với đức vua. Đức vua liền truyền lệnh cho
các quan đi tìm, rồi ngự giá hồi cung.
Ba vị hoàng tử
đi mãi đến một ngọn núi kia. Đứng trên tảng đá nhìn xuống, người anh cả trông
thấy một con cọp cái và năm cọp con ở dưới vục sâu. Cả mẹ lẫn con chỉ còn da
bọc xương, đang nằm thoi thóp. Đã nhiều ngày từ khi đẻ con, cọp mẹ không tìm
được thức ăn. Bầy cọp con bu theo mẹ để nút sửa, nhưng vú mẹ cạn khô không còn
gì để bú. Cọp mẹ có vẻ đói lắm, rỏ ràng đang sắp sửa ăn thịt con.
Người anh cả
nhận thấy tình trạng bi đát ấy, chỉ cho các em và nói rằng: "Các em hãy
nhìn cảnh tượng đáng thương tâm kia, các em có thấy cọp mẹ không? Vì quá sức
đói nên nó đang sắp sửa ăn thịt con cho đỡ dạ. Thật là một trạng thái vô cùng
khốn khổ."
Maha Sattva hỏi
anh:"Cọp thường ăn vật chi?" Anh trả lời rằng thịt sống là món ăn của
loài cọp và sư tử.
Maha Deva lưu ý
anh rằng cọp mẹ có vẻ đã đuối sức, chắc chắn nó nhịn đói đã lâu lắm rồi. Phải
chi có ai dám hy sinh thân mình cho nó thì quý biết mấy. Nhưng ai đâu lại vui
lòng làm cái việc cao cả ấy.
Maha Prashada
nói:"Chắc chắn là không có ai làm được việc ấy."
Với một giọng
cảm động, Maha Sattva tiếp:"Em còn nhỏ, chắc chắn là chưa đủ trí khôn, nên
em nghĩ rằng những người thiểu trí như chúng ta có lẽ không thể hy sinh mạng
sống mình để cứu người. Nhưng cũng có hạng người từ bi hoàn toàn sống cho kẻ
khác. Những người như thế có thể sẽ vui lòng hiến thân mình để cứu sáu sanh
mạng nầy."
Ba anh em bàn
luận như vậy rồi bỏ đi nơi khác.
Maha Sattva
nghĩ thầm: "Ta phải hy sinh tánh mạng để cứu sống bầy cọp nầy. Tấm thân tứ
đại mà ta mang đây chỉ là một đống ô trược đã gây cho ta bao nhiêu phiền não,
bao nhiêu bệnh hoạn, tật nguyền. Tuy rằng hiện nay ta có thể ướp hoa, thoa dầu
cho nó xinh đẹp, thơm tho, nhưng rồi một ngày kia nó sẽ tanh hôi và tan
rã."
Chàng bèn bảo
hai anh đi trước để mình chậm rãi ngoạn vật ngắm cảnh. Chờ hai anh đi xa, chàng
hối hả trở lại chỗ cọp nằm, cởi quần áo treo lên nhánh cây và nghĩ rằng:
"Ta phải tích cực hành động để tạo an lành cho kẻ khác. Phải rải tâm từ
đến tất cả chúng sanh. Phục vụ những ai cần đến ta là nhiệm vụ trọng đại. Ta
hãy hy sinh tấm thân ô trược nầy để cứu mạng sống cho cọp mẹ và năm con. Do
hành động xứng đáng nầy, mong rằng ta sẽ bước lần đến mức giác ngộ hoàn toàn,
hầu cứu độ chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi đau khổ. Ước mong tất cả chúng sanh
đều an vụi hạnh phúc!"
Hướng tâm về
tinh thần phục vụ vị tha, hoàng tử Maha Sattva nhẹ nhàng gieo mình xuống hố,
gần nơi bầy cọp nằm. Nhưng hoàng tử không chết, chỉ bị thương nặng. Cọp kia,
dầu bẩm tánh rất hung dữ, cũng động lòng thương hại vị Bồ Tát, không nỡ chạm
đến chân Ngài. Bồ Tát nghĩ rằng cọp đã quá yếu đuối nên không đủ sức vật mình
để ăn. Ngài lần bò đi tìm một khí cụ để tự sát. May thay, gần nơi cọp nằm có
một khúc tre bể. Ngài nhặt lấy tre rồi tự cứa cổ đến chết. Ngài té ngã nằm trên
vũng máu. Cọp vừa đói vừa khát, thấy vậy đi lần đến, liếm vũng máu và xé thây
Bồ Tát ra, ăn ngon lành. Phút trốc chỉ còn lại một đống xương tàn.
Chuyện thêm
rằng lúc Bồ Tát tự sát để hiến thân cho cọp, trời đất chuyển động, nước biển
nổi sóng to, ánh mặt trời bỗng tối sầm lại, cảnh vật trở nên lờ mờ, tất cả chư
Thiên đồng thanh reo to: "Lành thay! Lành thay!", và từ trên không
trung, bông Parijata rơi xuống như mưa.
Trước cảnh tượng
phi thường của trời đất, hai người anh đoán chắc rằng em mình đã hiến thân làm
mồi cho cọp rồi.
Hai anh liền đi
lần trở lại tìm em và lấy làm kinh hoàng trước cảnh tượng hãi hùng. Đâu là hình
bóng của người em yêu mến. Chỉ còn đống xương trắng điểm máu hồng, bên cạnh bầy
cọp no bụng. Gần tảng đá, trên cành cây, quần áo của Maha Sattva còn phất phơ
trước gió.
Hai vị hoàng tử
đau lòng xót dạ, khóc than thê thảm và buồn bã trở về tâu lại với vua cha.
Chính ngay lúc
Bồ Tát liều thân cứu cọp, hoàng hậu ở cung nội đang ngủ. Bà nằm mộng thấy một
cái răng của mình bỗng nhiên rụng xuống và nghe nhức nhối đau xót tựa hồ như có
ai cầm dao thẻo thịt ra từng miếng. Nhìn ra ngoài cửa, hoàng hậu lại thấy từ
trên không, một con ó đáp xuống, xớt một trong ba con bồ câu xinh đẹp đang đậu
trên nóc nhà và tha đi mất.
Hoàng hậu lấy
làm kinh sợ, giật mình tỉnh dậy, nhớ đến ba con còn lạc bước trong rừng. Bà lật
đật chạy tìm vua để thuật lại điềm mộng.
Vừa lúc ấy tin
dữ cũng được đưa đến. Câu chuyện thê thảm được thuật lại. Tất cả đều cảm động
và khóc than không xiết kể.
Đức vua an ủi
hoàng hậu rồi cởi voi đi rước hai vị hoàng tử đau khổ còn chưa ra khỏi rừng.
Gặp cha, hai hoàng tử nghẹn ngào không nói được một lời. Sau cùng, cố sức nén
lòng, hai vị lần lượt thuật lại cho vua cha và mọi người nghe cái chết dũng cảm
của người em vô cùng cao quý.
Vua hạ lệnh sắm
sửa ngựa voi để cùng hoàng hậu và bá quan đến nơi lịch sử. Vừa thấy xương tàn
còn dính đầy máu đỏ, vua và hoàng hậu ngã ra bất tỉnh. Ngự y hối hả đem thuốc
cứu cấp. Một hồi lâu vua và hoàng hậu dần dần tỉnh dậy. Vua truyền gom góp tóc,
xương và quần áo để lại một nơi, rồi đến trước đó đứng chiêm ngưỡng người con
yêu dấu. Tất cả quần thần cũng đến tỏ lòng sùng kính người anh hùng cao quý.
Vua hạ lệnh xây
dựng tại chổ một bảo tháp khảm vàng để thờ vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp. Vua
và hoàng hậu ra về, lòng như dao cắt.
Về sau, bảo
tháp thờ xá lợi của Bồ Tát Maha Sattva được gọi là "Om Namo Buddha".
Sách Túc Sanh
Truyện thuật lại câu chuyện có thêm rằng hiện nay bảo tháp ấy có tên là
"Namura" (tiếng gọi tắt chữ Om Namo Buddha, có nghĩa tôn kính Đức
Phật).
Hai câu chuyện
thuật lại có khác nhau nhưng dầu vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp là nhà tu sĩ
hay hoàng tử, thì đó chỉ là hình thức bề ngoài. Điểm quan trọng chính là gương hy
sinh cao cả và hoàn toàn vị tha chứa đựng bên trong.
Theo thường lệ,
khi sách Jataka (Túc Sanh Truyện) chép lại một sự tích nào đều có nêu ra cho
biết nhân cơ hội nào Đức Phật nhắc lại chuyện ấy. Tiếng Phạn gọi cơ hội ấy là
Nidana (nguyên do dẫn cớ tích), thì hai câu chuyện kể trên đều có Nidana.
Những nhân vật
trong câu chuyện không được xác nhận ở đoạn cuối cùng như trong các bài Jataka
khác.
Sách Nevari
Jakata thật ra có vẻ đầy đủ hơn bản Sanskrit "Jatakamala" nhưng căn
nguyên của kinh Nevara không được chắc chắn.
Về tư cách một
vị Bồ Tát hành Bố Thí Ba La Mật, có đoạn kinh"Carija Pitaka" giải
rằng:
Mỗi khi Bồ Tát
tặng vật thực cho ai, Ngài ước mong người ấy được sống lâu, có sắc đẹp, yên
vui, khỏe mạnh, có trí tuệ và đắc Quả cao thượng nhất là Niết Bàn. Đối với người
khát nước, Ngài ban cho thức uống với ước nguyện rằng thức uống nầy không những
giải cho người ấy cái khát của cơ thể vật chất mà còn làm suy giảm lòng khát khao
dục vọng. Ban quần áo, Ngài cho với ước nguyện người ấy sẽ biết hổ thẹn và ghê
sợ tội lỗi. Khi giúp đỡ phương tiện đi đứng Ngài chú nguyện người thọ nhân sẽ trau
giồi các năng lực tinh thần. Ban cho nhang trầm, Ngài ngưỡng mong người thọ
lãnh sẽ hưởng hương thơm của Giới Đức (Sila). Ban dầu và hoa, Ngài chú nguyện
người nhận sẽ hưởng danh thơm của người sống đời đạo hạnh như Đức Phật. Giúp
cho ai chỗ ngồi, Ngài nguyện cho người ấy có được nền tảng của sự giác ngộ.
Giúp chỗ ở, Ngài mong người ấy sẽ là nơi nương tựa cho cả thế gian. Giúp ánh
sáng, Ngài chú nguyện người nhận có được năm loại nhãn quan là mắt thịt, mắt
trí tuệ, Thiên Nhãn, mắt của một vị Phật, và tri kiến thông suốt chân tướng vạn
pháp.
Bố thí
"Sắc", Bồ Tát chú nguyện người nhận lãnh được có hào quang như Đức
Phật ; "Thinh", được lời nói tao nhã dịu dàng như chư vị Phạm Thiên;
"Xúc", có được cơ thề thanh lịch và tinh hảo như Đức Phật; và khi
giúp đỡ thuốc men cho ai, Bồ Tát cầu chúc cho người ấy được sống mãi mãi, tức
chứng ngộ Đạo Quả Niết Bàn.
Bồ Tát phá gông
cùm, giải phóng cho những người nô lệ với hy vọng cũng giải phóng con người,
cùng một thế ấy, ra khỏi vòng xiềng xích của bao nhiêu dục vọng.
Bồ Tát ly da
cắt ái, từ bỏ những đứa con yêu quý của mình để nối rộng tình phụ tử đậm đà ấy
đến tất cả chúng sanh. Ngài từ bỏ vợ để làm chủ thế gian, bỏ ngai vàng để thừa
hưởng vương quốc của sự chánh trực, công minh, và đạo đức.
Đoạn kinh trên
không những chỉ cho ta thấy thế nào là thái độ vị tha của vị Bồ Tát mà còn nói
lên sự nỗ lực không ngừng và bất vụ lợi của các Ngài để phục vụ nhân loại. Tuy
nhiên, mục tiêu cuối cùng của Bồ Tát là trở thành Phật, và Ngài không bao giờ
lãng quên mục tiêu cứu cánh ấy.
2. Trì Giới
(Sila)
Giới (Sila) nằm
trong lòng quảng đại khác thường của một vị Bồ Tát. Danh từ "Sila"
trong Phạn ngữ có nghĩa là quy luật. Giới gồm có những bổn phận phải làm
(caritta) và những điều nên tránh (varitta). Đạo làm cha mẹ, làm con, làm vợ, làm
chồng, làm trò, làm thầy, làm bạn, bổn phận đối với các bậc tu sĩ, với kẻ ăn
người ở trong nhà v.v... đều được giảng giải rỏ ràng và cặn kẽ trong kinh
Sigalo-vada sutta.
Tán dương bộ
kinh nầy, Giáo sư Rhys Davids có nói:
"Người nào
được ở trong một gia tộc hoặc trong một làng nằm dài theo lưu vực sông Hằng
(Ganges) thật là hữu phúc, vì nơi đây dân chúng sống trong tinh thần bác ái an
lành, trong tinh thần công lý cao thượng, nơi đây dân chúng thở được một thứ
không khí nhẹ nhàng, do những lời nói giản dị, chất phác tạo nên..."
Và Giáo sư Rhys
Davids thêm rằng:
"Ta cũng
có thể nói rằng những người sống trong một gia đình hoặc trong một làng nằm dài
theo lưu vực sông Thames ngày nay cũng không kém phước, vì nơi đây (Anh Quốc)
giáo lý ban dạy lòng từ bi giữa người và người của Đức Phật đã thấm nhuần đời
sống gia đình, xã hội, và đã làm căn bản cho một nền luân lý vững chắc. Giáo lý
ấy vẫn còn rõ ràng, đầy đủ và thích hợp với người Anh ngày nay, cũng như từ bao
giờ, đã thích hợp với người Ấn.
"Thật vậy,
ngày nay và tại Anh Quốc, Tạng luật hay những quy luật trong tạng ấy vẫn còn
nguyên vẹn sự công hiệu của nó, như thuở xưa kia tại thành Vương Xá (Rajagaha).
Những giới nầy, được ban hành với một tinh thần sáng suốt, rộng rãi và lành
mạnh, rất cần thiết để tạo cho con người một đời sống an lành và hữu
phước."
Bổn phận của
người Phật tử đại khái có năm phần:
1. Con đối với
cha mẹ, có bổn phận:
* Phải phụng
dưỡng và cung cấp đầy đủ vật dụng cho cha mẹ.
* Làm công việc
thay thế cha mẹ.
* Có một tác phong
đạo đức thế nào để giữ tròn danh giá cho gia tộc.
* Tỏ ra xứng đáng
thọ hưởng di sản của ông cha, và
* Để bát cúng
dường, hồi hướng phước báu cho những người trong gia tộc đã quá vãng.
2. Cha mẹ, được
con săn sóc và giúp đỡ như vậy, phải biết thương con và có bổn phận:
* Khuyên lơn và
ngăn cản, không để con làm điều tội lỗi, tạo nghiệp bất thiện.
* Nhắc nhở và dẫn
dắt con luôn luôn đi trên đường thiện.
* Giúp con hành
nghề sanh sống chân chánh.
* Khi con lớn
khôn, dựng vợ gả chồng một cách xứng đáng, và
* Kịp thời chia
lại cho con phần tài sản của mình.
3. Học trò đối
với thầy có bổn phận:
* Luôn luôn tỏ
lòng cung kính
* Trông nom săn
sóc thầy.
* Chăm chỉ nghe
lời thầy dạy.
* Khi cần đến, hết
lòng giúp đỡ.
* Kính cẩn thọ
nhận lời thầy dạy bảo.
4. Thầy, được
trò tôn kính và đối đãi như thế , phải biết thương trò và có bổn phận:
* Rán sức dạy
dỗ trò biết tôn trọng kỷ luật.
* Cố gắng làm cho
trò lãnh hội dễ dàng lời dạy.
* Dạy những môn kỹ
thuật và khoa học thích hợp.
* Tiến dẫn trò vào
giới thân cận của mình để trò giao thiệp với bạn bè thân thuộc mình.
* Đào tạo trò cho
ra những người hoàn hảo trên mọi phương tiện.
5. Chồng đối
với vợ, có bổn phận:
* Luôn luôn nhã
nhặn, thanh tao.
* Không khi nào tỏ
ý khinh rẻ.
* Luôn luôn trung
thành với vợ.
* Giao quyền hành
cho vợ.
* Mua sắm cho vợ
các đồ trang sức.
6. Vợ, được
chồng đối đãi như vậy, phải biết thương chồng và có bổn phận:
* Làm tròn bổn
phận trong nhà,
* Vui vẻ, tử tế
với thân bằng quyến thuộc của chồng,
* Luôn luôn trung
thành với chồng.
* Giữ gìn cẩn thận
những đồ trang sức, thận trọng coi sóc của cải trong nhà, và
* Luôn luôn siêng
năng, không tháo trút công việc.
7. Một thiện
hữu đối với bạn bè thân thuộc, có bổn phận:
* Quảng đại,
khoan hồng.
* Cư xử nhã nhặn,
thanh tao.
* Sẵn sàng làm
việc phải đối với bạn bè thân thuộc. Thấy ai hữu sự liền ra tay giúp đỡ, không
đợi cầu khẩn.
* Có tinh thần
bình đẳng, và
* Luôn luôn thành
thật.
8. Người bạn,
được đối xử như vậy có bổn phận:
* Bảo vệ bạn
trong lúc cô đơn, cứu vớt bạn trong cơn sa ngã.
* Khi tài sản bạn
không ai trông nom, hết lòng bảo vệ, không để bạn bị hao tổn.
* Nếu bạn lâm vào
tình trạng khủng hoảng, hết lòng đùm bọc và làm cho mình trở nên chỗ nương tựa
của bạn.
* Không nên bỏ bạn
lẻ loi trong cơn nguy biến.
* Đối với gia đình
bạn, luôn luôn nhã nhặn, khiêm tốn.
9. Đối với kẻ
ăn người ở, chủ nhà có bổn phận:
* Không nên
giao phó công việc làm quá sức.
* Thù lao và nuôi
cơm đầy đủ.
* Khi đau ốm, tận
tình săn sóc.
* Chia sớt những
món ngon vật lạ.
* Không bắt làm
quá giờ.
10. Người làm
công, được chủ đối đãi tử tế như vậy, phải biết thương chủ và có bổn phận:
* Thức dậy
trước chủ.
* Đi ngủ sau chủ.
* Chỉ lấy hoặc
dùng những vật chi mà chủ đã cho.
* Tận tình làm cho
công việc trong nhà được vẹn toàn.
* Giữ gìn danh giá
cho chủ, làm cho danh thơm của chủ được truyền ra xa rộng.
11. Người cao
quý sang trọng phải đối xử với hàng tu sĩ như sau:
* Tỏ lòng từ ái
trong hành động.
* Tỏ lòng từ ái
trong lời nói.
* Tỏ lòng từ ái
trong tư tưởng.
* Luôn luôn mở
rộng cửa nhà để tiếp đón.
* Sẵn sàng hỗ trợ
và dâng cúng những vật dụng cần thiết.
12. Hàng tu sĩ,
được người cao quý sang trọng đối xử như vậy, phải biết thương và có bổn phận:
* Khuyên nhủ và
cản ngăn không để rơi vào con đường lầm lạc.
* Nhắc nhở và dẫn
dắt đi trên đường thiện.
* Hết lòng thương
mến.
* Thuyết giảng
những pháp mà người ấy chưa từng nghe, và giải thích rõ ràng, cặn kẻ những pháp
đã thuyết rồi.
* Vạch cho thấy
con đường dẫn đến những cảnh giới an vui hạnh phúc.
Người đã làm
tròn những điều đáng làm (Caritta Sila) nầy thật đúng là con người thanh lịch,
hoàn toàn trong sạch và cao quý trong xã hội.
Ngoài những bổn
phận ấy, Bồ Tát còn phải cố gắng tránh những điều không nên làm (Varita Sila),
ghép mình trong giới luật để sống cuộc sống lý tưởng của một Phật tử thuần
thành chân chánh.
Sau khi suy
luận rõ ràng và đúng đắn thế nào là định luật nhân quả. Bồ Tát cố gắng tránh xa
tất cả những điều bất thiện xấu xa lầm lạc và tận lực làm tất cả những điều
thiện mà mình có thể làm. Ngài nhận thức rằng bổn phận của mình là trở thành
một nguồn hạnh phúc cho tất cả và không bao giờ gây phiền toái cho một chúng
sanh nào, dầu người hay thú.
Mọi người đều
quý trọng đời sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác, Bồ Tát
rãi tâm Từ đến tất cả chúng sanh, cho đến những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân,
và không khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn
sẵn có một thú tính xúi giục giết hại những sinh vật khác để ăn thịt mà không
chút thương xót. Cũng có khi sát sanh để tiêu khiển thì giờ. Dầu để nuôi sống
thân mạng hay để tìm thú vui, không có lý do nào chánh đáng để giết một sanh
linh hoặc làm cách nào khác cho một sanh linh bị giết. Có những phương pháp tàn
nhẫn, đáng ghê tởm, cũng có những phương pháp mà người ta gọi là nhân đạo, để
sát sanh. Nhưng làm đau khổ một chúng sanh là đã thiếu lòng từ ái. Giết một con
thú đã là một hành động bất chánh, nói chi đến giết một con người, mặc dầu
nhiều lý do đã được viện dẫn, gọi là chánh đáng, có khi gọi cao quý, để con
người tàn sát giết hại con người.
Bồ Tát cũng
tránh trộm cắp, bất luận dưới hình thức nào, trực tiếp hay gián tiếp. Làm như
vậy, những đức tính thanh bạch, thành thật và ngay thẳng được phát triển rộng
có thể phương hại đến phẩm giá con người, và hết sức cố gắng giữ mình hoàn toàn
trong sạch.
Ngài không nói
dối, không nói lời thô lổ cộc cằn, không nói điều nào làm cho người nầy có thể
phiền trách người khác, không nói những lời vô ích. Ngài chỉ nói những lời thanh
tao nhã nhặn, chân thật, dụi dàng, những lời có thể đem lại cho người khác hoàn
cảnh hòa hợp, tình trạng an vui hạnh phúc, và những lời hữu ích.
Bồ Tát không
dùng món chi có chất độc hoặc có thể làm cho tinh thần mất sáng suốt. Trái lại,
Ngài luôn luôn luyện tập cho tâm được an trụ, cho trí được sáng suốt.
Mặc dầu có phải
bị thiệt thòi đi nữa, Bồ Tát cũng không hề dể duôi để phạm phải một điều nào
trong năm nguyên tắc căn bản để kiểm soát hành động và lời nói mình. Để giữ
tròn năm giới, không những Bồ Tát có khi phải hy sinh tài sản, sự nghiệp, mà
cũng có vài trường hợp Ngài phải hy sinh cả tánh mạng.
Không nên lầm
tưởng rằng trong vòng luân hồi, một vị Bồ Tát phải hoàn toàn trong sạch. Đã
sanh ra làm chúng sanh trong cõi phàm, Ngài cũng có những nhược điểm và lỗi
lầm. Vài câu chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jataka) như Kanavera Jataka (số 318)
có mô tả một vị Bồ Tát nọ như một tên trộm cướp vô cùng lợi hại. Tuy nhiên, đó
là một trường hợp hy hữu, hơn là một thông lệ.
Đối với Bồ Tát,
là người có nguyện vọng trở thành Phật, thì công trình nghiêm túc giữ gìn giới
luật trong sạch là điều vô cùng quan trọng. Túc Sanh Truyện Sila Vimamsa Jataka
(số 362) có đoạn thuật lại lời một vị Bồ Tát như thế nầy:
"Trí tuệ
ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không có giá trị."
Trong sách
Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Đạo), Đức Buddhaghosa viết rằng giới luật là nền
tảng của tất cả đức hạnh:
Đạo chính đáng
cho người vững chí;
Sống thanh cao,
cao quý chi bằng.
Nên trang đức hạnh
ai tầng.
Mấy ai tả được uy
hùng đến đâu.
Cũng không phải
dòng sâu lồng lộng
Cửa Hằng Giang với
ngọn Yama (Yanuma)
Thủy triều reo rắc
sông Sa (Sarabhu)
Sông A Ti
(Acivarati) với đại hà Ma Hi
Mà rửa sạch những
gì nhơ bợn
Và những chi bất
tịnh nơi lòng.
Chỉ đức hạnh, sức
khôn cùng.
Gội tan ác ý, rửa
dần mê tâm.
Với gấm vóc, hương
trầm bảo vật
Cùng trăng thu
vằng vặc ánh vàng.
Nhẹ nhàng gió mát
đêm trường.
Cũng không xoa dịu
nỗi lòng tham sân.
Chỉ đức hạnh trong
ngần cao quý
Là vững bền, tiết
chế lòng người.
Trầm hương bay
thuận gió đời.
Chỉ hương đức hạnh
ngát trời gần, xa.
Nào nấc tiến cho
ta tinh tấn
Để ta nương đến
tận trời cao.
Cửa vào mở lối ta
vào
Niết Bàn cảnh giới
muôn màu cho ta.
Đời đạo hạnh, tinh
hoa, giới đức
Không điểm tô,
trang sức chi hơn
Mà luôn sáng tỏ vô
ngần.
Chỉ nơi đức hạnh
rỡ ràng hào quang.
Nào vua chúa ngọc
vàng lóng lánh
Dường mờ lu bên
ánh rạng nầy
Tâm người đạo hạnh
ngày ngày
Chỉ còn thanh tịnh
và đầy an vui.
Qua kinh sách lòng
người phải rõ.
Đời thanh cao uy
chế chi bằng:
Đạo là nguồn cội
phước lành.
Đạo là nguồn tiêu
diệt mọi căn mê lầm. [3]
3. Xuất Gia
(Nekkhamma)
Xuất Gia, hay
xa lìa cuộc đời phồn hoa đô hội và khoái lạc vật chất, là điều mà chư vị Bồ Tát
hết lòng mong mỏi, vì bẩm tánh của các Ngài là ưa thích vắng vẻ, yên tĩnh.
Danh từ
Nekkhamma có nghĩa là từ khước những lạc thú trần gian để trọn lấy cuộc sống
của hàng tu sĩ. Nekkhamma cũng có nghĩa là tạm thời vượt qua khỏi các pháp che
lấp con đường Niết Bàn (Nivarana) bằng cách thực nghiệm các tầng Thiền
(Jhanas).
Trong mọi hành
động, một vị Bồ Tát không bao giờ vị kỷ cũng không bao giờ dành để sở hữu nào
cho riêng mình, mà luôn luôn vị tha. Bao giờ Ngài cũng hy sinh hạnh phúc của
riêng mình để tạo hoàn cảnh an lành cho kẻ khác.
Mặc dầu đôi
khi, để tiện bề giúp đỡ người nào, Bồ Tát có thể sống sung sướng và đầy đủ tiện
nghi, nhưng luôn luôn các Ngài không mê đắm trong lạc thú phù du tạm bợ của
trần gian.
"Đời sống
gia đình tựa hồ như sào huyệt của bao điều tranh chấp, bao nhiêu gay go, cãi
vã, như nơi chứa dựa của bao nhiêu thiếu thốn, bao nhu cầu, như chỗ cư trú của
bao điều phiền não khổ đau, bao nhiêu sự thất bại, bao nhiêu việc trái lòng.
Nhưng đời sống của người đã ly da cắt ái thật là thong dong tự tại, thâm diệu
như trời xanh."
Nhận thức rằng
xa hoa vật chất là ảo huyền và thú vui vật chất không tạo hạnh phúc thật sự, Bồ
Tát tự nguyện lìa bỏ tất cả sự nghiệp trên đời để khoác lấy tấm ý vàng và cố
gắng sống hoàn toàn trong sạch. Ngài tự nguyện giữ tròn giời luật và nỗ lực
nâng cao đức hạnh đến tột độ để trở nên hoàn toàn vị tha trong mọi hoạt động. Không
gì có thể lay chuyển lòng Ngài. Thanh danh, sự nghiệp, hoàn cảnh vinh hiển giàu
sang chỉ là vật báu của trần gian, không thể làm cho Bồ Tát lãng quên lồi sống
thanh đạm của mình.
Lắm khi, như
trong câu chuyện của Túc Sanh Truyện Makhadeva Jataka (số 9), chỉ một con thỏ
xám cũng đủ nhắc nhở Bồ Tát, làm cho Ngài từ bỏ không khí nhộn nhịp, bất tịnh,
của đền đài cung điện, để sống đời vắng vẽ cô đơn và biết bao lần thuận tiện
hơn cho sự tiến hóa trên đường giác ngộ. Có khi một giọt sương trên cây cỏ
trong buổi bình minh, có khi một lá đắng, cũng đủ làm cho Ngài thức tỉnh.
Hầu như đó là
một thông lệ, tuy nhiên không phải tất cả chư vị Bồ Tát đều hành pháp Xuất Gia
Ba La Mật.
Túc Sanh Truyện
Kusa Jakata (số 531) có thuật tích chuyện một vị Bồ Tát phải chịu nhiều tủi
nhục vì không tự chế ngự được tình yêu một bà công chúa xinh đẹp tên Pabhavati.
Túc Sanh Truyện
Darimukha Jataka (số 378) thuật rằng có một vị Độc Giác Phật (Pacceka Buddha)
một hôm, gặp một vị Bồ Tát và nhận rằng trước kia vị nầy là bạn mình. Đức Phật
Độc Giác lại gần Bồ Tát và khuyên:
"Những khoái
lạc của nhục dục ngũ trần không khác nào bùn non, hơi, bụi. Tất cả đều tạm bợ,
không bền vững, bởi nó bắt nguồn từ tham, sân, si. Ta khuyên bạn hãy từ bỏ nó
đi."
Bồ Tát liền trả
lời
"Tôi thật
điên cuồng. Các thú vui của trần gian đã thấm nhuần, ăn sâu vào xương tủy. Tôi
biết rằng đời sống vật chất thật vô cùng ghê tởm, thật đáng sợ, đáng tránh.
Nhưng nầy hỡi con người cao quý, tôi rất trìu mến nó và không thể từ bỏ được.
Tôi chỉ có thể cố gắng làm một điều là tự nguyện luôn luôn phục vụ kẻ
khác."
Nếu Bồ Tát ra
đời không nhằm nhiệm kỳ của một vị Phật, Ngài sẽ tự mình tìm nơi vắng vẻ để
sống đời độc thân cao thượng của nhà tu sĩ. Nếu sanh ra trong nhiệm kỳ của một
vị Phật, Bồ Tát khép mình vào giới luật để sống đời hoàn toàn trong sạch. Một
vị tỳ khưu có đời sống gương mẫu, một vị tỳ khưu lý tưởng, là một nguồn hạnh
phúc cho mình và một phước lành cho kẻ khác. Mọi người đều có thể học hỏi nơi
Ngài, noi theo gương lành của Ngài và thực hành những lời vàng ngọc mà Ngài dạy
dỗ. Bên trong, các Ngài tự làm cho mình trong sạch, bên ngoài, các Ngài làm cho
kẻ khác trong sạch.
Một vị Bồ Tát
luôn luôn tinh tấn trau giồi trí tuệ, đồng thời Ngài cũng tự thấy có bổn phận
giúp đỡ những ai còn sút kém, và tạo cho họ cơ hội học hỏi để trở nên sáng
suốt. Không làm phiền ai, không muốn cho ai nặng lo vì mình, các Ngài sống như
loài ong, hút mật của hoa, nhưng không làm tổn thương đến đời sống của hoa.
Ngài từ bỏ tất cả sự nghiệp, của cải, không giữ lấy một món chi của trần thế. Nhu
cầu của một vị tỳ khưu thật là ít oi. Bao nhiêu tài sản của Ngài chỉ gồm vỏn
vện trong hạnh tri túc.
Vị tỳ khưu
thuần thành không thắc mắc hối hận những lỗi lầm trong quá khứ và không lo âu
sợ sệt vì tương lai. Ngài chỉ sống trong hiện tại, sống ngoài những trách nhiệm
và những phiền nhiễu của đời sống xã hội, gia đình, Ngài luôn luôn sẵn sàng đi
bất luận nơi đâu để phục vụ chúng sanh, nhưng không hề quyến luyến một nơi nào.
Trong cảnh vô thường tạm bợ của trần gian, trong cuộc thăng trầm của thế sự,
Ngài luôn luôn giữ tâm bình thản và sẵn sàng hiến thân để giúp ích cho những ai
cần đến. Nhưng không bao giờ ước mong được đền ơn đáp nghĩa.
Trong sạch, độc
thân, tự ý kham khổ, nghèo nàn, đơn giản, vị tha phục vụ, và thanh tao nhã nhặn
là một vài đặc tánh của vị tỳ khưu chân chánh.
Thầy tỳ khưu
không phải là người đi ăn xin như người đời thường lầm hiểu, mặc dầu Phạn ngữ
"bhikkhu" có nghĩa là "người ăn xin". Thầy tỳ khưu cũng
không phải là vị trung gian giữa người và một thần linh toàn tri, toàn năng,
cũng không phải là người thay mặt, thế quyền một nhân vật ngự trị con người.
"Tu sĩ hành khất" có lẽ là định nghĩa gần nhất của danh từ
"bhikkhu".
Ngày nay, khi
dùng danh từ "bhikkhu", người ta hàm ý là những tu sĩ Phật Giáo. Tu
sĩ các tôn giáo khác được gọi là Paribbajaka, Ajivaka, Sanyasin v.v... Giới luật
của Giáo Hội Tăng Già không cho phép thầy tỳ khưu thọ lãnh tất cả mọi vật mà
người ta dâng đến cho mình. Nếu có người dâng, thầy chỉ được nhận bốn món vật
dụng thông thường là: y, thức ăn, chổ ở, và thuốc men. Khi cần dùng một trong
bốn món "vật dụng" ấy mà không có ai dâng đến cho mình, thầy tỳ khưu
chỉ được phép hỏi những bà con thân thuộc, hoặc những thí chủ nào đã có hứa
trước và đã có yêu cầu Ngài cho biết khi cần đến. Thiện tín không thể nhờ thầy
tỳ khưu chuyển đạt lên thần linh những lời cầu nguyện,vì trong Phật Giáo, không
có quyền lực nào ở trên và ngoài con người, có thể tiếp nhận những lời cầu khẩn
xuyên qua trung gian của một tu sĩ, để ban phước hoặc xá tội.
Thầy tỳ khưu
không bắt buộc phải giữ trọn đời lời nguyện xuất gia. Giới tử tự ý xin khép
mình vào giới luật để sống trong sạch đời sống của người tu sĩ, cho đến ngày muốn
hườn tục, cũng tự ý bước chân ra khỏi Giáo Hội Tăng Già. Nhưng ngày nào còn
khoác bộ y vàng, tượng trưng chư vị A La Hán, là bậc đáng tôn kính (Ưng cúng),
thì chư vị tỳ khưu có bổn phận phải giữ tròn giới hạnh. Ngày nào cảm thấy mình
không còn đủ nghị lực để sống đời cao thượng, vị tỳ khưu có thể hườn tục bất
luận lúc nào mà vẫn không làm hoen ố cửa thiền.
Đồi với tỳ
khưu, có bốn trọng tội là: hành dâm, trộm cắp, sát nhân và khoe khoang mình đã
thành đạt các pháp của bậc cao nhân mà thật sự mình không có. Vị nào vi phạm
một trong bốn trọng tội ấy tức thì không còn là tỳ khưu nữa (bất cộng trụ). Ví
dụ như có vị nào, chưa đắc Quả Tu Đà Hườn mà khoe khoang rằng mình đã chứng đắc
(tội thứ tư), tức thì vị ấy không còn là tỳ khưu nữa, và bị trục xuất khỏi Giáo
Hội Tăng Già.
Ngoài bốn trọng
tội ấy, nếu vị tỳ khưu vi phạm giới luật nào khác thì phải sám hối.
Để sống hoàn
toàn trong sạch và vị tha, để kiểm soát và giữ tâm luôn luôn thanh tịnh, để
thấy rỏ chân tướng của sự vật, để có những tư tưởng đúng đắn và sâu rộng, để phát
triển thể cách và phẩm giá cao thượng của con người, để hoàn toàn có thể xác
nhận chân giá trị của tinh thần cao thượng, không còn lối sống nào thích hợp
hơn, không còn lối sống nào đem lại nhiều phương tiện và nhiều cơ hội thuận lợi
hơn là đời sống tỳ khưu.
Vị tỳ khưu có
thể sống trầm lặng ở một nơi vắng vẻ, tịch mịch, yên tĩnh, hoặc tích cực hoạt
động trong xã hội. Lối sống cô độc, trầm lặng, rất thích hợp với lý tưởng của
vị tỳ khưu.
Y vàng tượng
trưng cho sự trong sạch và khiêm tốn. Khi vị tỳ khưu khoác lên thân mình bộ y
vàng, Ngài đã nhắm lấy mục tiêu cuối cùng là tận diệt ái dục để chứng đạt Đạo
Quả Niết Bàn.
Cũng nên ghi
chú rằng đời sống tỳ khưu hay nói cách khác, sự từ bỏ những thú vui và những
khát vọng của đời sống trần tục chỉ là một phương tiện hữu hiệu để thành đạt
mục tiêu.
Sự xuất gia, tự
nó, không phải là một cứu cánh.
4. Trí Tuệ
(Panna)
Trí Tuệ (Panna)
đi liền theo Xuất Gia.
Trí Tuệ Ba La
Mật là hiểu biết rỏ ràng và đúng đắn, thấu triệt chân tướng của vạn pháp xuyên
qua ánh sáng của ba đặc tướng: vô thường, khổ và vô ngã. Bồ Tát thường suy niệm
về ba đặc tướng ấy, nhưng không đi sâu vào đề mục như chư vị A La Hán, vì mục
đích của Ngài không nhằm Đạo Quả Tứ Thánh mà hướng về Đạo Quả Vô Thượng, Chánh
Đẳng chánh Giác.
Mặc dầu luôn
luôn cố gắng thành đạt thánh tuệ, Bồ Tát không xem thường các sự hiểu biết của
đời và hằng để tâm học hỏi bất luận ai, dầu lớn nhỏ, cao thấp, sang hèn. Không
bao giờ khoe khoang tầm mắt thấy xa hiểu rộng của mình, nhưng Ngài không thẹn
thùng nói ra giữa công chúng những gì mình chưa biết. Ngài không hề nói khoác.
Bồ Tát luôn luôn sẳn sàng dạy dỗ người khác. Trí tuệ của Ngài là vật sở hữu
chung của tất cả mọi người . Ngài không bao giờ dấu ai điều chi.
Trí tuệ có ba
loại:
1. Trí tuệ phát
sanh bằng cách nghe lời dạy của người khác (sutamaya panna, Văn Huệ) là loại
đầu tiên. Xưa kia, chưa có sách vở, ấn loát, nên đi học có nghĩa là đến nghe
lời thầy giảng dạy rồi ghi nhớ nằm lòng. Do đó những nhà học giả thời bấy giờ
được gọi là "bahussuta", người đã có nghe nhiều (đa văn).
2. Lối hiểu
biết thứ nhì phát sanh do sự suy luận, "cintamaya panna", Tư Huệ.
Những kiến thức khoa học có tánh cách thực dụng của người phương Tây là sản
phẩm của lối hiểu biết nầy.
3. Cách thứ ba
để trở nên sáng suốt là khai thông trí tuệ bằng lối thực hành thiền tập
(bhavanamaya panna, Tu Huệ).
Hai phương pháp
đầu chỉ mở mang kiến thức trong phạm vị luận lý của thế gian. Nhờ thiền tập, hành
giả có thể trực giác chứng nghiệm những chân lý ngoài phạm vi của lý trí. Bhavana,
thiền tập, hay phương cách trau giồi tâm trí, không phải là tâm trạng mơ màng
tiêu cực mà là một nỗ lực linh động và tích cực. Nhờ hành thiền hành giả có thể
vượt qua khỏi cảnh giới vật chất, tự đặt mình vào đời sống kỹ cương, tự kiểm
xoát thân tâm, tự mình giác ngộ và trở nên sáng suốt hoàn toàn. Thiền tập là
thuốc bổ cho cả tâm lẫn trí.
Trí tuệ là yếu
tố cực kỳ quan trọng trong Phật Giáo. Trong Bát Chánh Đạo, Chánh Kiến
(Samma-Ditthi) đứng đầu. Tuệ là một trong bẩy nhân sanh Quả Bồ Đề (Dhamma
Vicaya Sambojjhanga). Tuệ là một trong bốn năng lực để thành đạt Tứ Thần Túc
(Vimansa Iddhipada, nghiệm chứng bốn phép thần thông: dục, niệm, tấn, tuệ). Tuệ
là một trong năm lực tinh thần (Pannabala, Tuệ Lực), và cũng là một trong năm
khả năng kiểm soát tâm (Pannindriya, Tuệ Căn).
Chính nhờ trí
tuệ mà hành giả tiến đến trạng thái hoàn toàn Thanh Tịnh, và Giải Thoát cùng
tột.
5. Tinh Tấn
(Viriya)
Tinh Tấn mật
thiết với Trí Tuệ. Tinh Tấn Ba La Mật là giữ vững nghị lực, kiên trì cố gắng,
quyết tâm thành đạt mục tiêu cuối cùng. Tinh Tấn ở đây không phải là năng lực
vật chất, mặc dầu sức mạnh vật chất cũng là một điểm lợi. Tinh Tấn ở đây là
năng lực tinh thần, sức khỏe tâm linh, là sự nỗ lực không ngừng, tình trạng
chuyên cần tích cực hoạt động của tâm nhằm vào mục đích phục vụ kẻ khác. Bồ Tát
luôn luôn cố gắng và luôn luôn tự tin.
Tiến sĩ Tagore,
cũng là một vị Bồ Tát, đã thảo ra những vần thơ về hạnh tinh tấn, như sau:
"Trong cơn
nguy biến, không nên cầu xin được bảo bộc. Hãy cần có đủ nghị lực, đủ quả cảm,
để vượt qua mọi trở ngại.
"Trong đau
khổ, không nên khấn vái, trông chờ ai cứu độ. Chỉ cần có dủ tâm trí và có đủ
can đảm để chế ngự nó.
"Không nên
sống thụ động trong lo âu sợ sệt hay chờ mong một tha lực nào đến cứu vãn. Phải
luôn luôn kiên trì, phấn đấu liên tục cho đến kỳ cùng, để tự giải thoát lấy
ta."
Túc Sanh Truyện
Mahajanaka Jakata (số 539) có diễn tả rỏ ràng như thế nào là Tinh Tấn Ba La Mật
của một vị Bồ Tát:
Đi ngoài biển
cả, thuyền của Bồ Tát bị đắm. Trong bảy ngày liên tiếp, không một phút chán
nản, không hề tuyệt vọng, Ngài luôn luôn tranh đấu cho đến lúc có người đến
cứu.
Thất bại là một
bước tiến đến thành công. Chướng ngại, nghịch cảnh, chỉ có thể làm cho Bồ Tát
tăng thêm nghị lực và ý trí phấn đấu. Nguy biến chỉ thêm can đảm cho Ngài. Khó khăn
nặng nhọc chỉ làm rủn chí kẻ yếu kém suy nhược, chướng ngại chỉ làm sờn lòng
người thiếu nghị lực, Bồ Tát vạch lối đi của mình xuyên qua mọi khó khắn, vượt qua
mọi trở ngại. Ngài nhắm thẳng đến mục tiêu cuối cùng và không có gì làm cho
Ngài chùng bước.
Khi Ma Vương
đến khuyên nên từ bỏ cuộc tranh đấu, Ngài không ngần ngại trả lời:
"Đối với
ta, chết trong cuộc chiến đấu chống dục vọng còn thập phần danh dự hơn là sống
thất bại."
Bồ Tát dùng trí
tuệ để phục vụ. Ngài cũng dùng tinh tấn để tạo an lành cho kẻ khác. Thay vì tập
trung nỗ lực vào trong lối sống hẹp hòi và riêng tư để thành tựu mục tiêu, Ngài
hướng mọi cố gắng về con đường hoạt động rộng lớn, mong tạo hạnh phúc đại đồng
cho toàn thể chúng sanh chung hưởng. Không hề biết mệt, biết chán, Bồ Tát luôn luôn
tích cực tạo tình trạng an lành cho tất cả, không chút ẩn ý vụ lợi, không trông
mong một đặc ân nào.
Đứng về một
phương tiện, Tinh Tấn Ba La Mật lại còn quan trọng hơn Trí Tuệ Ba La Mật. Trong
Bát Chánh Đạo, Chánh Tinh Tấn (Samma Vayama hay Viriya) là ngăn ngừa không cho
phát sanh những tư tưởng bất thiện chưa phát sanh và làm cho những tư tưởng thiện
đã phát sanh rồi càng nẩy nở thêm lên. Tinh Tấn là một trong Thất Giác Chi, hay
bảy nhân sanh Quả Bồ Đề (Viriya sambojjhanga, Tinh Tấn Giác Chi). Tinh Tấn là
một trong Tứ Thần Túc hay Tứ Căn Thông (Viriyiddhipada, Tấn Thông). Tinh Tấn là
tác động của bốn lối cố gắng chân chánh (Sammappadhana, Tứ Chánh Cần) tức là
tinh tấn duy trì thiện pháp sẵn có và làm phát sanh thiện pháp chưa có. Tinh
Tấn diệt trừ ác pháp đã có và ngăn ngừa không cho ác pháp chưa có khởi sanh. Tinh
Tấn là một trong năm năng lực tinh thần (Viriya Bala, Tấn Lực), và là một trong
năm khả năng kiểm soát tâm (Viriya Indriya, Tấn Căn).
Tinh Tấn là
pháp "đáo bỉ ngạn" (paramita), một mình đảm đang chín nhiệm vụ. Tinh
Tấn hiệp với Trí Tuệ thành một năng lực vô cùng trọng yếu có thể hoàn tất mọi
việc.
6. Nhẫn Nại
(Khanti)
Nhẫn Nại cũng
quan trọng như Tinh Tấn.
Nhẫn Nại Ba La
Mật là chịu đựng những phiền não mà người khác gây ra cho mình và gánh chịu
những lỗi lầm của kẻ khác.
Bồ Tát hành
pháp Nhẫn Nại đến mức độ nếu phải cắt đi một cánh tay hoặc một cái chân cũng
không uất ức khó chịu.
Một tích chuyện
trong Túc Sanh Truyện Khantivadi Jataka (số 313) cho thấy rằng không những Bồ
Tát vui vẽ thọ nhận những khổ hình do một ông vua say rượu truyền lệnh không
chút xót thương. Vua ra lệnh cắt tay, chân, mũi, tai của Bồ Tát, mà Ngài vẫn lấy
tâm từ đối xử với tàn bạo, thành thật cầu chúc cho vua được an lành hạnh phúc.
Sau cùng, ngã
lăn nằm dài trên vũng máu, Bồ Tát thốt lên lời cầu nguyện:
"Ngưỡng nguyện
đức vua được trường thọ. Mặc dầu bàn tay độc ác của người đã xẻo thịt và cắt
chân tay tôi, một tâm hồn trong sạch không khi nào biết oán giận."
Khi Bồ Tát bị
ai làm tổn thương Ngài nghĩ rằng:
"Người làm
hại ta hôm nay có lẽ đã quen biết với ta trong một kiếp sống quá khứ nào, và vô
tình hay cố ý, ta đã cột oan trái với người ấy. Cũng có thể đây là quả xấu mà
ta đã gieo nhân trong hồi nào trong dĩ vãng. Chính đây là kết quả của một hành
động bất thiện của ta trong quá khứ. Tại sao ta trở lại oán giận người làm hại
ta?"
Nếu có kẻ ngã
mạn đến trêu ghẹo hoặc gây gổ với Bồ Tát, Ngài cũng giữ tâm bình thản.
Về đức tánh
nhẫn nại, trong kinh Kakacupama Sutta, Đức Phật dạy:
"Dầu có
bọn cướp đến bắt con và dùng gươm giáo cắt lìa tay chân con đi nữa, hãy luôn
luôn giữ tâm trong sạch, vì nếu để cho tâm có những tư tưởng không lành tức là
con đã không làm theo đúng lời dạy của Như Lai.
"Hãy tinh
tấn rèn luyện cho được như thế nầy: giữ tâm luôn luôn trong sạch. Không khi nào
thốt ra lời xấu. Khoan hồng độ lượng, bi mẫn với tâm từ. Không oán giận, không
ác ý với ai.
"Những tư
tưởng từ bi của con phải bao trùm tất cả chúng sanh, cho đến những tên cướp tàn
ác. Hằng ngày cố gắng làm như vậy, con sẽ rãi ra khắp thế gian một tình thương
rộng lớn, bao la, mỗi ngày một phát triển, vô biên, vô lượng, một tình thương
đem lại an lành cho tất cả và coi tất cả là một, đồng nhất thể."
Là Phật tử,
chúng ta hãy cố gắng hành pháp nhẫn nại và khoan hồng. Thay vì thấy sự xấu xa
của kẻ khác, hãy cố gắng tìm cái tốt đẹp trong mọi người, mọi vật.
7. Chân Thật
(Sacca)
Chân Thật là Ba
La Mật thứ bảy.
Sacca (chân
thật) có nghĩa là giữ tròn lời hứa. Đó là một đặc tính của Bồ Tát, luôn luôn
hành động theo lời nói và nói theo hành động (Yathavadi tathakari, yathakari
tathavadi, nói sao làm vậy, làm sao nói vậy).
Theo Túc Sanh
Truyện Harita Jataka (số 431), Bồ Tát không bao giờ thốt ra một lời nào mà
chính Ngài không nghĩ như vậy, và nếu phải phạm nhằm một trong bốn điều kiêng
cữ của ngũ giới, Ngài cũng không hề nói dối.
Chân Thật là
kim chỉ nam của Bồ Tát. Ngài tự xem có bổn phận phải luôn luôn giữ lời. Trước
khi hứa với ai điều gì, Ngài thận trọng suy nghĩ. Khi đã thốt ra lời rồi thì
quyết định phải giữ, dầu có phải hy sinh mạng sống cũng phải ưng chịu.
Trong Túc Sanh
Truyện Hiri Jataka (số 363), Bồ Tát khuyên dạy:
"Phải thực
hiện cho kỳ được những điều đã hứa. Phải biết từ chối, không hứa những điều
không làm được. Bậc thiện trí thức không muốn thân cận với hạng người nói
dối."
Túc Sanh Truyện
Maha Sutasoma Jataka (số 537) cũng có chép lại tích chuyện một vị Bồ Tát hy
sinh mạng sống để giữ lời hứa.
"Giống như
sao mai mà ta thấy buổi sáng trên trời. Ngày nào như ngày nấy, lặng lẽ xuất
hiện nơi vị trí của nó, không sai chạy. Năm tháng trôi qua, sao mai vẫn y hẹn.
Lời nói của bậc thiện trí thức cũng phải đúng như vậy. Không khi nào lệch khỏi sự
thật, không hề sai hẹn."
Bồ Tát thật là
chánh trực, thành thật và trong sạch. Nghĩ sao nói vậy và luôn luôn dung hòa tư
tưởng, lời nói và việc làm.
Trong mọi việc,
Ngài luôn luôn ngay thẳng và không hề sai chạy. Không giả dối, không chút sai
ngoa giữa thân tâm và lời nói của Ngài. Đời tư thế nào, đời công như thế ấy, Bồ
Tát không dùng lời nịnh bợ để mua lòng người khác, không hăng hái nhất thời để
được ca tụng, không khoe khoang cái tốt, cũng không che đậy điều xấu của mình.
Ngài khen tặng những ai đáng khen, chê trách những người đáng chê, và làm như
vậy, không vị lý do nào khác hơn là lòng bi mẫn.
Nhưng Bồ Tát
không nói tất cả sự thật.
Sự thật nào
không đem lại lợi ích và hạnh phúc cho người khác thì Ngài không nói ra. Trái
lại, sự thật nào có lợi cho ai khác, dầu có bị thiệt hại cho mình đi nữa, Ngài
cũng nói.
Bồ Tát tôn
trọng lời nói của người cũng như tôn trọng lời nói của mình.
8. Quyết Định
(Adhitthana)
Adhitthana là
Quyết Định chắc chắn. Sự quyết định nầy giúp nhiều cho Bồ Tát hành các pháp Ba
La Mật khác. Ta có thể so sánh pháp Quyết Định với nền tảng của một tòa nhà to
lớn. Nhờ hùng lực của một ý chí bất thối, Bồ Tát phá tan các chướng ngại ngổn
ngang trên đường. Ngài một mực ngó ngay, nhắm thẳng mục tiêu. Bệnh hoạn, phiền
não, thất bại v.v... không làm cho Ngài chợp mắt lãng quên sứ mạng thiêng
liêng.
Như Bồ Tát
Gotama (Cồ Đàm), đã quyết định từ bỏ ngai vàng và cuộc đời vương giả để tìm
giác ngộ hoàn toàn. Trong sáu năm trường, Ngài phấn đấu mãnh liệt phi thường,
phải chịu đựng bao nhiêu kham khổ và phải đối phó với biết bao nỗi khó khăn.
Rồi đến lúc quyết định, khi cần sự giúp đỡ bên ngoài hơn bao giờ hết, thì năm
vị đệ tử lại bỏ Ngài ra đi. Ngài vẫn bền gan một lòng một dạ cố gắng thêm, và
cố gắng thêm mãi cho đến lúc thành tựu mục tiêu cuối cùng.
"Giữa rừng
già một mình phấn đấu. Không có chi làm lay chuyển quyết định của Ngài, Bồ Tát
không khác nào ngọn núi đá vững chắc. Bão táp phong sương liên miên dồn dập,
núi vẫn vững như rồng, chống chỏi trời cao.
Sự quyết định
của Bồ Tát cứng như sắt, vững như núi. Ngài tự đặt ra những nguyên tắc để sống
và không gì làm cho Ngài xa lìa nếp sống quy củ ấy. Khuyến khích làm điều thiện
là một việc rất dễ, nhưng không ai có thể xúi giục Ngài hành động ngược lại
nguyên tắc. Lắm khi Bồ Tát mềm mại và dịu dàng như một tai hoa, cũng có nhiều
trường hợp, Ngài tỏ ra vững chắc và cứng rắn như một tảng đá.
9. Tâm Từ
(Metta)
Tâm Từ quan
trọng nhất trong các Ba La Mật.
Phạn ngữ Metta
(Từ) có nghĩa là hiền lành, hảo tâm, từ ái hay tình huynh đệ. Metta là lòmh
thành thật ngưỡng nguyện rằng mỗi chúng sanh, không trừ bỏ sanh linh nhỏ bé
nào, đều được an vui hạnh phúc. Chính Tâm Từ (Metta) đã thúc giục Bồ Tát từ
khước sự giải thoát riêng rẽ của mình để cứu độ tha nhân. Tâm Ngài đã thấm
nhuần tình thương vô hạn vô biên đối với tất cả, không phân biệt giai cấp,
chủng tộc, tôn giáo, nam nữ. Ngài là hiện thân của tình thương đại đồng, không
làm ai sợ mà cũng không sợ ai. Những con thú đơn độc ở giữa chốn rừng là bạn
thân của Ngài và chính nhờ sống chung với loài cầm thú mà Ngài đã nuôi dưỡng
tình tương thân, tương ái ấy. Ngài luôn luôn ôm ấp trong lòng một tình thương
vô hạn đối với tất cả chúng sanh.
Tâm Từ (Metta)
trong Phật Giáo không phải sự trìu mến riêng một người (pema), cũng không phải
tình thương có liên quan đến xác thịt. Theo Phật Giáo, người thù trực tiếp của
Tâm Từ là lòng oán hận và người thù gián tiếp của Tâm Từ là lòng trìu mến luyến
ái. Trìu mến sanh lo sợ và phiền muộn. Tâm Từ đem lại an vui, hạnh phúc.
Nên ghi nhận
rằng khi thực hiện Tâm Từ, ta không quên mình. Metta phải được rải cho kẻ khác
cũng như cho ta. Tâm Từ không phân biệt "ta" và "người".
Tâm Từ trong Phật Giáo bao trùm toàn thể càn khôn vạn vật mà trong đó cũng có
ta. Túc Sanh Truyện Maha Dhammapala Jataka (số 385) cho biết có một vị Bồ Tát
tuổi trẻ kia rải Tâm Từ đồng đều, đến luôn cả người cha tàn ác đã hạ lệnh hành
hình Ngài, đến tên đao phủ, đến người mẹ thân ái đang xót xa than khóc, và cũng
rải cho chính bản thân từ tốn của Ngài.
Tâm Từ có oai
lực rất huyền bí, và oai lực nầy có thể gieo ảnh hưởng cho những người ở gần và
những người ở xa. Một tấm lòng trong sạch đã rải ra năng lực từ ái như vậy có
thể đổi dữ ra lành, đổi ác ra thiện, có thể làm cho một con ác thú trở nên
ngoan ngoản như chó, như mèo, làm cho kẻ hung tợn sát nhân trở thành một người
hiền lành như thánh.
Oai lực huyền
bí ấy không phải tìm ở đâu xa lạ. Nó nằm trong phạm vi năng lực của mọi người.
Chỉ một chút cố gắng là thực hiện được nó.
Đức Phật đã có
lần dạy:
"Ta sống
trên một ngọn núi, giữa đám sài lang hổ báo, và để tự bảo vệ không có gì khác
hơn Tâm Từ của ta. Chung quanh là sư tử, cọp, beo, nai, hươu các thứ. Ngoài ra
là rừng rậm cỏ hoang, không có con vật nào sợ ta và ta cũng không sợ con vật
nào. Chính oai lực của Tâm Từ nâng đỡ, bảo vệ và giúp ta sống yên ổn."
Khi ta thương
người, tức nhiên người thương ta. Không có một động lực tương phản nào, không
có sự rung động thù nghịch nào, không có tư tưởng tría ngược nào có thể va chạm
đến một người đã được hào quang của Tâm Từ bảo vệ. Tâm yên tĩnh là ta sống
trong cảnh thiên đàng và cảnh thiên đàng ấy do chính ta tạo.
Có Tâm Từ là có
hạnh phúc. Sống lân cận với người có Tâm Từ cũng được hưởng phần nào trạng thái
mát mẻ. Nếu thường ngày trau giồi và thể hiện Tâm Từ bằng lời nói và hành động,
tự nhiên bức màn ngăn chận giữa "ta" và "người" dần dần
biến mất, và cái "ta" sẽ đồng nhất với toàn thể chúng sanh. Không còn
"ta" nữa. Ta sẽ đồng hóa với tất cả (Sabbattata). Đó là mức cùng tột
của Tâm Từ, Metta.
Một người Phật
tử thuần thành phải hành tâm "Từ" đối với mọi chúng sanh và phải tự
mình đồng hóa với tất cả, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, nam
nữ. Tâm Từ trong Phật Giáo phá tan mọi chấp trước giữa người và người. Đối với
Phật tử chân chánh, không có người thân kẻ sơ, không có kẻ thù người lạ, không
có hạng người bị ruồng bỏ, cũng không có hạng người cao sang quyền quý phải sợ
sệt không dám động đến. Tâm Từ đại đồng của Phật Giáo căn cứ trên sự sáng suốt.
Tâm Từ của Phật Giáo xây dựng tình huynh đệ vững chắc giữa tất cả chúng sanh:
người Phật tử hẳn là một công dân thế giới vậy.
10. Tâm Xả
(Upekkha)
Tâm Xả là Ba La
Mật thứ mười.
Phạn ngữ
Upekkha do hai căn "upa" và "ikkha" mà ra. "Upa"
là đúng đắn, chân chánh, không thiên vị. "Ikkha" là trông thấy, nhận
định, suy luận. Vậy Upekkha là trông thấy đúng đắn, nhận định chân chánh, suy
luận vô tư, không luyến ái cũng không ghét bỏ. Không ưa thích cũng không oán
giận.
Upekkha (Xả) ở
đây không phải là "vô ký" như theo nghĩa thông thường của nó.
"Xả" không phải là lạnh lùng, lãnh đạm, không màng đến thế sự, cũng
không phải là tâm vô ký, không-vui-không-buồn. Xả Ba La Mật môn cực kỳ quan
trọng, mà cũng rất khó thực hành, nhất là đối với hàng cư sĩ, những người còn
phải lăn lóc trong thế gian vô thường, biến đổi. Khinh rẽ, phỉ báng, nguyền
rủa, là thường tình. Được và thua, danh thơm và tiếng xấu, ca tụng và khiển
trách, lợi lộc và lỗ lã, đau khổ và hạnh phúc đều là những việc thường xảy ra trong
đời. Giữa những thăng trầm của thế sự, Bồ Tát luôn luôn giữ tâm bình thản. Giữa
những cơn giông tố của trường đời, Bồ Tát không hề xúc động. Nghiệp cứng rắn và
vững chắc như tảng đá to sừng sững giữa trời. Đó là Tâm Xả.
Không vui cũng
không buồn. Được ca tụng hay bị chê trách, Bồ Tát luôn luôn thản nhiên, vững
như voi, mạnh như hổ. Tiếng động không làm Ngài run sợ. Miệng lằn lưỡi mối
không làm Ngài xúc động. Như gió, thổi ngang màng lưới mà không bị vướng trong
lưới, Ngài sống giữa chợ người mà không luyến ái những lạc thú huyền ảo và vô
thường của đời người. Như hoa sen, từ bùn dơ nước đục, vượt lên trên bao nhiêu
quyến rũ của thế gian, Ngài riêng sống trong không khí tự do, luôn luôn yên
tĩnh, luôn luôn tinh khiết và an vui.
"Trong hạnh
phúc, trong phiền lụy, lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất.
Cũng như trên đất
ta có thể vất bất luận thứ gì, dầu chua, dầu ngọt. dầu sạch, dầu dơ, đất vẫn
thản nhiên, một mực trơ trơ. Đất không giận, cũng không thương." [4]
Một đặc điểm
quan trọng khác của Bồ Tát là đức tánh công minh, chánh trực. Trong lúc xét
đoán, Ngài giữ được tâm Xả nên không bị ảnh hưởng của tham dục (chanda), sân
hận (dosa), sợ sệt (bhaya) và si mê (moha) làm mù quáng.
-oOo-
Xuyên qua mười
pháp Ba La Mật mà mội vị Bồ Tát đều cố gắng thực hành đến tột độ, ta coi thể
nói rằng cuộc sống của một vị Bồ Tát là gương hy sinh cao cả về kỷ luật nghiêm
khắc, là từ bỏ tất cả những gì trần tục, là giác ngộ hoàn toàn, là nhẫn nhục,
chân thật, không ngừng kiên trì nỗ lực, là một ý chí sắt đá, một tinh thần vững
chắc và hoàn toàn bình thản.
Ngoài mười Ba
La Mật, Bồ Tát còn phải giữ tròn ba đức hạnh (cariya) là:
- Buddhi Cariya,
làm việc thiện với trí tuệ luôn luôn sáng suốt,
- Natyattha
Cariya, tích cực hoạt động để tạo an lành cho thân nhân quyến thuộc, và
- Lokattha Cariya,
phục vụ tất cả chúng sanh để hướng thế gian về chỗ toàn thiện.
Trong ba hạnh,
hạnh thứ nhì là tạo an lành cho thân bằng quyến thuộc. Đây không phải là thiên
vị, đặt bà con thân thuộc lên trên người khác, mà chỉ vì những người nầy gần
gũi, thân cận hơn. Đây không phải là một hành động ích kỹ, mà là một việc làm
hợp lý. Giữ tròn ba đức hạnh tốt đẹp và thực hành đúng đắn mười Ba La Mật, trôi
dạt đó đây theo dòng nghiệp lực, sanh tử, tử sanh trong vô lượng kiếp, Bồ Tát
dần dần vượt qua những cơn bão táp của biển trầm luân sanh tử triền miên.
Có khi Bồ Tát
tái sanh làm Trời Đế Thích hoặc một vị Trời tươi sáng nào. Lúc khác, Ngài trởp
xuống là người sang hay hèn, hoặc trở lại làm thú để rồi sau cùng, khi đã thực hiện
tròn đủ mười pháp Ba La Mật, Ngài sanh lên cung trời Tusita (Đấu Xuất). Nơi đây
Ngài chờ đủ duyên kỳ, trở xuống trần gian lần cuối cùng để hoàn tất giai đoạn
tiến hóa đến bậc Chánh Đẳng Chánh Giác (Samma Sambuddha).
Không nên lầm
tưởng Bồ Tát cố ý tái sanh trong nhiều cảnh giới khác nhau để thâu thập kinh
nghiệm. Không ai tránh khỏi định luật nghiệp báo, và chỉ có luật Nhân Quả quyết
định kiếp sống vị lai của một chúng sanh. Chỉ có chư Phật và chư vị A La Hán là
không còn tạo nghiệp mới và không còn bị luân hồi quả báo.
Tuy nhiên, nhờ
phước báu dồi dào, Bồ Tát cũng có vài oai lực đặc biệt. Thí dụ như khi sanh vào
cảnh Phạm Thiên mà đời sống ở cõi nầy dài thăm thẳm, Ngài có thể dùng ý lực mạnh
mẽ, chấm dứt đời sống ở đó và tái sanh vào một cảnh giới có thể hành mười Ba La
Mật dễ dàng hơn.
Chú giải Túc
Sanh Truyện (Jataka) ghi chép rằng ngoài cảnh giới mà Bồ Tát có thể dùng chí
lực chuyển kiếp tái sanh vào đó (adhimutti-kalakiriya, cái chết theo ý muốn)
còn có mười tám cảnh giới khác mà một vị Bồ Tát, dầu muốn dầu không, không bao
giờ tái sanh vào. Thí dụ như Ngài không thể tái sanh vào hoàn cảnh câm hay
điếc, hoặc làm một chúng sanh hoàn toàn tà kiến (niyata micchaditthi) tức là
không tin tưởng nơi định luật nhân quả. Bồ Tát có thể tái sanh vào cảnh thú,
những dưới hình thức một con thú không lớn hơn voi và không nhỏ hơn chim mỏ
nhác.
Ngài có thể bị
sa đọa vào một trong bốn khổ cảnh (apaya) nhưng không đến nổi phải lâm vào
trạng thái cực kỳ khổ sở của cảnh nầy. Bồ Tát không tìm cách tái sanh vào cảnh
Vô Phiên thiên (Suddhavasa) là cảnh giới mà chư vị A Na Hàm, sau khi bỏ xác, về
đó an nghỉ trước khi đạt thành quả vị A La Hán. Ngài cũng không muốn tái sanh
vào những cảnh giới Vô sắc (arupaloka) vì nơi đây không có cơ hội để phục vụ.
Ta lại có thể
hỏi: "Một vị Bồ Tát có biết rằng trong vô lượng kiếp luân hồi, Ngài sẽ trở
thành Phật không?"
Đôi khi biết,
lắm lúc Ngài cũng không biết. Theo Túc Sanh Truyện (Jataka), Bồ Tát Gotama biết
trước rằng sau khi tận lực cố gắng, Ngài sẽ đắc Quả Phật. Truyện Visayha Setti
Jataka (số 340) chép rằng một ngày kia Trời Đế Thích (Sakka) đến đảnh lễ Đức
Phật và hỏi tại sao Đức Phật lại có tâm lực vô cùng vô tận như vậy. Đức Phật
trả lời rằng vì Ngài không có ý định riêng hưởng một hồng ân nào trong Tam giới
(Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới) mà mục đích của Ngài là chứng Đạo Quả Tối
Thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác.
Trái lại, trong
vài kiếp khác, chẳng hạn như kiếp làm Jotipala [5] , chẳng những Ngài không nhớ
đến chí nguyện cao cả của mình mà lại còn xúc phạm đến một vị Phật, Đức Phật
Kassapa. Cũng nên nói thêm rằng chính Đức Phật Kassapa đã khai tâm điểm đạo,
thọ ký cho Ngài lần cuối cùng.
Chúng ta là
những người đã tận dụng đời sống quý báu nầy để phục vụ thế gian, chúng ta cũng
có thể trở thành một vị Bồ Tát. Không nên nghĩ rằng lý tưởng của Bồ Tát, hay Bồ
Tát Đạo, chỉ dành riêng cho một hạng người xuất chúng. Cái chi mà một người làm
được, người khác cũng có thể làm được. Miễn là có đủ hùng lực và cố gắng cần
thiết thì việc chi cũng có thể thành tựu.
Vậy, cũng nên
nỗ lực tích cực lập công bồi đức để tạo trạng thái an lành cho ta và cho kẻ
khác. Và cũng nên chọn lấy lý tưởng phục vụ cao cả và toàn thiện là mục tiêu cho
đời sống.
Phục vụ để trở
nên hoàn toàn và hoàn toàn để phục vụ.
Chú thích:
[1] "Parami"
do chữ "param" có nghĩa là "phía bên kia", hay sự sáng suốt,
sự giác ngộ, và chữ "i" là "đi". Theo nghĩa trắng, "parami"
là cái gì có thể đưa ta qua bờ bên kia, đáo bỉ ngạn. Phạn ngữ
"patamita" được dùng trong nghĩa nầy.
[2] Ba La Mật
có 10 pháp. Mỗi pháp chia làm 3 hạng: Parami thuộc về tài sản, sự nghiệp, vợ
con; Uparami, thuộc về một hay nhiều bộ phận trong cơ thể; và Paramatthaparami,
thuộc về mạng sống.
Thí dụ Bố Thí
Ba La Mật có 3 hạng: Dana parami, là bố thí tài sản, sự nghiệp, hoặc vợ con;
Dana uparami, là bố thí một bộ phận trong thân thể như tay, chân, mũi, tai,
v.v...; và Dana paramatthaparimi, là hy sinh mạng sống của mình cho kẻ khác, để
cứu một chúng sanh.
Như Trì Giới Ba
La Mật cũng có 3 hạng: Sila parami, là hy sinh tài sản, sự nghiệp hoặc vợ con
để giữ tròn giới luật; Sila uparami là hy sinh một bộ phận trong thân thể để
giữ tròn giới luật; và Sila paramatthaparami là hy sinh mạng sống để giữ giới
luật trong sạch.
Như thế, mỗi Ba
La Mật đều có 3 hạng; cộng chung tất cả có (10 x 3) = 30 Ba La Mật.
[3] Bản dịch
đoạn nầy của sách Thanh Tịnh Đạo được bà Hồ Thị Linh sắp thành văn vần.
[4] Warren,
Buđhism in Translations.
[5] Majjhima
Nikaya, Ghatikara Sutta, Kinh số 81.