CHƯƠNG 10
Những Người Chống Đối và Những Đại Thí Chủ
"Cũng như tảng đá vững chắc
không bị gió
làm lay chuyển,
bậc trí tuệ
không xúc động
trước những
lời tán dương hay khiển trách."
-- Kinh Pháp
Cú
Đức Phật gia
công kiến tạo hạnh phúc cho nhân loại một cách bất vụ lợi và không có bất luận
sự phân biệt nào giữa người giàu và người nghèo, hạng cao sang quyền quý và
hạng khốn khổ thấp hèn. Những người theo chân và những người hộ trì Ngài xuất
thân từ cấp bậc thấp nhất đến nấc thang xã hội cao nhất. Từ vua chúa đến quan
quyền, từ các nhà trưởng giả, triệu phú, đến hạng cùng đinh, từ người có tâm
đạo nhiệt thành đến gái giang hồ trụy lạc, nam và nữ giới thuộc các giai cấp xã
hội đều hết lòng quý mến Đức Phật, chen nhau phụng sự Ngài và đem sứ mạng cao
cả của Ngài đến mức thành công rực rỡ. Người giàu tiền của thì xây dựng tu
viện, còn người nghèo - vẫn giàu đức tin - thì biểu lộ tâm thành của mình một
cách khiêm tốn hơn. Với tâm xả hoàn toàn, Đức Phật thọ lãnh vật cúng dường của
người giàu như người nghèo, không có sự khác biệt nào.
Tuy nhiên, đối
với người nghèo khó và hạng thấp hèn đê tiện thì Ngài bày tỏ lòng bi mẫn nhiều
hơn. Tựa hồ như ong, hút mật từ nhụy hoa mà không làm tổn thương đến hoa, Đức
Phật sống giữa tín đồ và thí chủ mà không làm tổn hại ai mảy may nào. Lễ vật
nhiều loại được dâng tới tấp đến Ngài. Ngài thọ nhận tất cả, nhưng hoàn toàn
không luyến ái.
Mặc dầu phục vụ
thế gian với chủ ý tuyệt đối tinh khiết và hoàn toàn bất vụ lợi, Đức Phật lắm
khi phải đương đầu với nhiều sự đối nghịch mãnh liệt trong những ngày châu du
hoằng Pháp. Ngài bị chỉ trích nghiêm khắc, bị đối xử tàn tệ, chửi mắng và tấn
công một cách tàn bạo. Không bao giờ có vị Giáo Chủ nào phải chịu sự đối xử
khắc nghiệt đến mức ấy. Những người tự xem mình là thù nghịch của Đức Phật
thường là đạo sư hay tín đồ của các hệ thống tôn giáo chủ trương những nghi
thức dị đoan, tạo những phong tục vô ích, có hại đến sự tiến bộ tinh thần. Nguy
hiểm nhất là người anh vợ của Ngài -- khi còn là Bồ tát Siddhattha (Sĩ Đạt Ta),
và cũng là môn sinh của Ngài -- sau khi đắc Quả Phật. Đó là Devadatta (Đề Bà
Đạt Đa), người quyết tâm mưu sát Ngài.
Đức Phật và
Devadatta
Devadatta (Đề
Bà Đạt Đa) là con Vua Suppabuddha và Hoàng Hậu Pamita [1], một người cô của Đức
Phật. Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La) là chị ông Devadatta. Như vậy, ông vừa
là anh em cô cậu, vừa là em vợ của Thái Tử Gotama, tức Đức Phật khi còn là Bồ
Tát. Ông xuất gia cùng một lúc với Đại Đức Ananda và các hoàng thân dòng Sakya
(Thích Ca). Tỳ Khưu Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) không đắc được thánh Quả nào nhưng
có nhiều phép thần thông (Pothujjanika-iddhi) lỗi lạc. Một trong những đại thí
chủ hộ trì Ngài là Vua Ajatasattu (A Xà Thế), người đã kiến tạo cho Ngài một tu
viện.
Trong những
ngày đầu tiên sau khi xuất gia, Tỳ Khưu Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) có một nếp
sống gương mẫu, cao thượng đến độ Đại Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) đi khắp thành
Rajagaha (Vương Xá) ca ngợi tài đức Ngài. Về sau, bị danh lợi trần thế làm mù
quáng, Đại Đức Devadatta lại ganh tỵ với Đức Phật và hoàn toàn đổi tánh, trở
nên người thù nghịch nguy hiểm nhất của Đức Phật. Cùng một lúc, khi lòng sân
hận đối với Đức Phật phát sanh trong tâm, bao nhiêu phép thần thông của ông tự
nhiên mất hết.
Mặc dầu tư cách
xấu xa và sống đời đồi trụy, Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) có rất đông đệ tử và có
người sùng bái và tôn trọng ông còn hơn Đại Đức Sariputta.
Một hôm Tỳ Khưu
Devadatta đến hầu Phật, và thỉnh cầu Đức Phật giao quyền cho ông chưởng quản
Giáo Hội Tăng Già, vì lúc ấy niên thọ Đức Phật đã cao. Đức Phật thẳng thắn từ
chối: "Chí đến Sariputta (Xá Lợi Phất) và Moggallana (Mục Kiền Liên), Như
Lai còn chưa giao phó Giáo Hội Tăng Già, có đâu Như Lai giao cho ngươi".
Đại Đức Devadatta lấy làm tức giận và nguyện trả thù. Để giữ gìn và bảo trì uy
tín của chúng Tăng, Đức Phật cho công bố rằng chỉ có Devadatta chịu trách nhiệm
về những hành động của ông dưới danh nghĩa Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng).
Sau đó
Devadatta âm mưu với Thái Tử Ajatasattu (A Xà Thế) toan sát hại Đức Phật. Ông
khuyên Ajatasattu nên giết cha đoạt ngai vàng. Phần ông sẽ giết Đức Phật để nắm
quyền chưởng quản Giáo Hội Tăng Già. Kẻ bất hiếu, Ajatasattu, thành công mưu
sát người cha có tâm đạo nhiệt thành. Còn Devadatta thì thuê những tay thiện xạ
đi giết Đức Thế Tôn. Nhưng trái với điều ông mong muốn, tất cả những người được
thuê ấy, lúc gần đến Đức Phật đều xin quy y Tam Bảo và theo Ngài. Mưu đồ bất
thành, Devadatta quyết tâm chính ông ta sẽ ra tay sát hại Đức Phật. Trong lúc
Đức Phật đi bên sườn núi Gijjhakuta (Linh Thứu), ông trèo lên đỉnh cao, xô một
tảng đá to lăn xuống ngay Đức Phật. May thay, đá va nhằm một tảng đá khác, bể
ra làm nhiều mảnh và chỉ có một mảnh vụn rơi nhẹ vào chân Đức Phật làm máu
chảy. Vị lương y Jivaka liền đến săn sóc vết thương cho Ngài.
Một lần khác,
Devadatta mưu toan làm hại Đức Phật bằng cách cho tượng Nalagiri uống rượu mạnh
đến say rồi xua nó chạy ngay vào Đức Phật. Khi tượng Nalagiri trở nên rất dữ
tợn chạy vồ đến gần, thì Đại Đức Ananda, lật đật đứng chặn trước, định hy sinh
cho voi đạp mình để cứu nguy Đức Phật. Nhưng Đức Thế Tôn dùng tâm "Từ
" (Metta) cảm hóa voi say.
Sau hành động
tội lỗi ấy, Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) mất hết uy tín, và dư luận cực kỳ chống
đối ông. Vua Ajatasattu (A Xà Thế) phải bỏ rơi, không nâng đỡ ông nữa. Tiếng
xấu lan rộng và bao nhiêu ân huệ của nhà vua đều mất dần. Nhưng Devadatta (Đề
Bà Đạt Đa) vẫn còn nhiều ngã mạn và cố hại Đức Phật cho kỳ được. Với trí thông
minh sẵn có, ông ta xoay qua một mưu toan có vẻ hòa bình hơn. Cùng với những
tâm hồn không kém xấu xa tội lỗi như Tỳ Khưu Kokalika, ông âm mưu chia rẽ Tăng
Già.
Một hôm, ông
đến yêu cầu Đức Phật ban hành thêm năm điều sau đây trong giới luật cho hàng
xuất gia:
1. Tỳ Khưu phải
sống trọn đời trong rừng.
2. Tỳ Khưu phải
sống đời du phương hành khất.
3. Tỳ Khưu phải
đắp y Pamsakula (y may bằng những mảnh vải lượm ở các đống rác, hoặc ở nghĩa
địa).
4. Tỳ Khưu phải
sống dưới gốc cây.
5. Tỳ Khưu phải
trường chay (ăn chay suốt đời).
Biết trước rằng
Đức Phật sẽ không chấp thuận lời yêu cầu, nhưng cố ý thỉnh nguyện để Đức Phật
từ chối, rồi ông sẽ dựa vào đấy để nói xấu Đức Phật và do đó ông mong sẽ được
sự ủng hộ của đám người kém hiểu biết.
Với lòng từ bi
và đức quảng đại khoan dung bao la, Đức Phật tuyên bố rằng các đệ tử Ngài được
tự do hành động về năm điều này, muốn áp dụng hay không cũng được. Ngài không
bắt buộc phải theo một chiều nào nhất định.
Devadatta (Đề
Bà Đạt Đa) liền dựa vào sự từ chối ấy làm cớ để gây chia rẽ trong hàng Tăng
chúng. Ông kêu gọi các tỳ khưu như sau: "Này các đạo hữu, những điểm yêu
cầu của tôi và những lời của Đức Phật, lời nào cao thượng hơn? Ai muốn thoát
khỏi mọi đau khổ hãy theo tôi". Lúc ấy có những vị mới xuất gia, không
rành Giáo Pháp, nhìn thấy đề nghị của Devadatta có vẻ hợp lý nên đi theo ông
đến Gayasisa. Nhưng hai Ngài Sariputta và Moggallana, theo lời dạy của Đức
Phật, đi theo sau đến đó để giải thích Giáo Pháp cho những người lầm đường lạc
lối ấy, và đưa các vị ấy về.
Từ đó về sau,
những ngày đen tối vồn vã đến Devadatta. Ông lâm bệnh trầm trọng.
Trước khi nhắm
mắt, ông thành thật ăn năn hối cải và mong muốn yết kiến Đức Phật. Nhưng lúc ấy
nghiệp dữ trổ sanh và ông phải chết một cách cực kỳ khốn khổ, không được gặp
Đức Phật. Tuy nhiên, đến phút cuối cùng ông đọc câu kinh quy y Phật.
Mặc dầu ông
phải chịu sống trong khổ cảnh vì những tội ác quan trọng, kinh sách ghi rằng
trong một tương lai xa xôi, do nhờ cuộc sống trong sạch và cao thượng trong
những năm đầu, Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác tên
Atthissara.
Anathapindika
(Cấp Cô Độc)
Vị thí chủ
(dayaka) quan trọng nhất thời Đức Phật còn tại tiền là ông Anathapindika (Cấp
Cô Độc), một trưởng giả triệu phú. Tên tộc của ông là Sudatta. Về sau, do lòng
quảng đại vô song của ông, người đời tặng ông danh hiệu Anathapindika, có nghĩa
là "nuôi ăn những người không được giúp đỡ", hay "trợ cấp những
kẻ cô đơn hiu quạnh". Savatthi (Xá Vệ) là nơi chôn nhau cắt rún của ông.
Ngày kia ông có
việc đi từ Savatthi đến Rajagaha (Vương Xá) để gặp người anh rể. Hôm ấy ông anh
rể không ra tận cửa để đón ông như thường lệ mà ông Sudatta phải vào tận phía
sau nhà để gặp anh, lúc ấy đang bận rộn lo chuẩn bị một bữa tiệc. Khi hỏi ra,
Sudatta lấy làm vui được biết rằng người anh rể đang sửa soạn để đón tiếp Đức
Phật vào ngày hôm sau.
Thoáng nghe đến
danh từ "Buddha" - Phật, trong lòng Sudatta đã chớm nở một hứng thú
lạ thường và ông hết lòng mong mỏi được gặp Đức Phật. Ông cũng được biết rằng
lúc ấy Đức Phật đang ngự trong cụm rừng Sitavana, gần đấy, và khi nghĩ rằng qua
hôm sau sẽ được cơ hội quý báu yết kiến Ngài thì ông lấy làm hoan hỷ, yên trí
đi ngủ. Nhưng lòng vẫn nôn nao mong gặp Đức Phật, đến độ không làm sao ngủ
được. Trong đêm khuya, ông dậy sớm và đi lần đến rừng Sitavana, xuyên qua một
nghĩa địa. Lúc ấy một hiện tượng mới lạ xảy đến cho ông. Khi ra đi trong đêm
tối, đức tin của ông với Đức Phật thật vô cùng trong sạch. Do đó, có những tia
sáng phát tủa ra từ thân. Thấy ánh sáng tự nhiên phát sinh, ông đâm ra sợ hãi
và muốn quay trở về. Bấy giờ Trời Yakkha (Đế Thích) khuyến khích ông như sau:
"Hàng trăm
thớt tượng hay, cả trăm ngựa giỏi,
Đúng vậy, và hàng
trăm cỗ xe,
Cả trăm ngàn thị
nữ, tai đeo
Đầy vòng vàng -
tất cả những điều ấy không bằng
Một phần nhỏ
(nguyên văn: một phần mười sáu) của một bước đi (như thế này).
Hãy tiến bước! Hãy
mạnh dạn đi tới!
Tiếp tục đi có lợi
hơn là trở về. [2]"
Được khích lệ,
trưởng giả Sudatta hết sợ, can đảm bước tới, và đức tin trở lại trong sạch. Ánh
sáng do đó phát sanh lại. Ông sợ. Ánh sáng mất. Trời Đế Thích khuyến khích. Và
như vậy đến lần thứ ba. Rốt cục ông đến rừng Sitavana nhằm lúc Đức Phật đang đi
kinh hành ngoài trời, biết rằng lúc ấy ông sẽ đến. Đức Phật gọi ông lại gần.
Trưởng giả
Anathapindika (Cấp Cô Độc) lấy làm hoan hỷ được yết kiến Đức Phật và cung kính
hỏi thăm Ngài có yên vui không. Đức Phật trả lời:
"Chắc chắn
lúc nào cũng yên vui
Vì bên trong một
vị A La Hán
Mọi thứ lửa đều
được dập tắt.
Không còn đeo níu
dục vọng,
Hoàn toàn mát mẻ.
Dứt bỏ mọi mầm
mống khả dĩ tạo đời sống mới,
Cắt đứt mọi trói
buộc phiền phức,
Chế ngự mọi đau
khổ và phiền não
Một vị A La Hán
luôn luôn được an tĩnh vắng lặng
Vì tâm đã thành
tựu trạng thái thanh bình an lạc. [3]"
Sau khi nghe
Pháp, ông Anathapindika (Cấp Cô Độc) đắc Quả Tu Đà Hườn (Sotapatti, Nhập Lưu),
và cung thỉnh Đức Phật nhập Hạ tại Savatthi. Đức Phật chấp thuận và gợi ý rằng
chư Phật chỉ thích ở nơi vắng vẻ. Trưởng giả Cấp Cô Độc trở về Savatthi mua một
thửa đất của hoàng thân Jeta. Chuyện tích thuật rằng giá tiền của thửa đất ấy
được phân định bằng cách sắp tiền vàng trên mặt đất. Tiền trải ra đến đâu là
đến đó đất đã được bán. Trên đất ấy, Trưởng Giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) kiến
tạo ngôi tịnh xá trứ danh Jetavana (Kỳ Viên). Nơi đây Đức Phật nhập Hạ mười
chín lần. Phần lớn các bài Pháp cũng được Đức Phật thuyết giảng tại đây.
Đa số các bài
Pháp có liên quan đến hàng cư sĩ là do Đức Phật giảng cho ông Anathapindika,
mặc dầu nhiều lần ông muốn mà không dám hỏi vì sợ làm phiền Đức Phật.
Lần nọ, khi
thuyết giảng về pháp bố thí cho ông Anathapindika (Cấp Cô Độc), Đức Phật dạy
rằng dâng cúng đến chư Tăng hay Đức Phật tạo rất nhiều phước báu. Nhưng kiến
thiết tu viện, giúp chư tỳ khưu có chỗ tu hành càng được nhiều phước báu hơn.
Càng nhiều phước hơn xây cất tu viện là quy y Tam bảo. Càng nhiều phước hơn quy
y Tam Bảo là nghiêm trì Năm Giới. Càng nhiều phước báu hơn Trì giới là hành
Thiền một lúc về tâm Từ. Và cuối cùng, hơn tất cả các phước báu, là phát triển
sự chứng ngộ tánh cách vô thường của vạn hữu (Vipassana - Minh Sát Tuệ) [4].
Vậy theo tinh
thần bài Pháp này, bố thí là bước đầu tiên trên đường tu tập của người Phật tử.
Quan trọng hơn bố thí là nghiêm trì ít nữa là năm giới căn bản, tức tự khép
mình vào kỷ cương có khuynh hướng kiểm soát hành động và lời nói. Quan trọng và
hữu ích hơn nữa là trau dồi những đức tánh cao thượng như tâm Từ (Metta). Nhưng
trên tất cả, quan trọng và hữu ích hơn tất cả mọi kỷ cương mà mình tự đặt cho
mình là thành thật cố gắng, kiên trì tận lực chuyên cần để thấu triệt sự vật,
thông hiểu thực tướng của đời sống.
Giảng về bốn
loại hạnh phúc của người cư sĩ, Đức Phật dạy:
"Có bốn
loại hạnh phúc vật chất mà người tại gia cư sĩ có thể thọ hưởng, thỉnh thoảng
và tùy cơ hội, là: hạnh phúc được có vật sở hữu (atthisukha), hạnh phúc được có
tài sản (bhogasukha), hạnh phúc không nợ nần (ananasukha), và hạnh phúc không
bị khiển trách (anavajjasukha).
'Hạnh phúc được
có sở hữu là gì?'
"Là hạnh
phúc của người kia đã tạo nên tài sản do nhờ nỗ lực cố gắng, nhờ sức lao động
chân tay và mồ hôi nước mắt, thâu thập và thọ lãnh một cách hợp pháp. Khi nghĩ
rằng tài sản này ta đã tạo nên do nhờ sự nỗ lực cố gắng, thâu thập và thọ lãnh
hợp pháp, người kia cảm thấy thỏa thích và mãn nguyện. Đó là hạnh phúc được có
vật sở hữu.
'Hạnh phúc được
có tài sản là gì?'
"Là hạnh
phúc của người kia đã tạo tài sản do nhờ nỗ lực cố gắng. Giờ đây chính mình thọ
hưởng tài sản ấy, hoặc dùng của ấy để gieo phước. Khi nghĩ rằng nhờ tài sản đã
tạo nên nay chính ta thọ hưởng và gieo thêm phước, người kia cảm thấy thỏa
thích và mãn nguyện. Đó là hạnh phúc được có tài sản.
'Hạnh phúc
không mang nợ là gì?'
"Là hạnh
phúc của người kia không thiếu ai món nợ nhỏ nợ lớn nào. Khi nghĩ rằng ta không
thiếu ai món nợ nhỏ lớn nào, người kia cảm thấy thỏa thích và mãn nguyện. Đó
gọi là hạnh phúc không mang nợ.
'Hạnh phúc
không bị khiển trách là gì?'
"Là hạnh
phúc của bậc thánh nhân trong sạch, không có gì để bận tâm hối cải, không có gì
đáng bị phiền trách về tư tưởng. Không nghĩ rằng mình thọ hưởng hạnh phúc,
không có gì đáng bị khiển trách về hành động, không có gì đáng bị khiển trách
về lời nói và không có gì đáng bị khiển trách về tư tưởng, bậc thánh nhân cảm
thấy hoan hỷ. Đó là hạnh phúc không bị khiển trách.
"Thành tựu
hạnh phúc không mang nợ.
Người kia có thể
nghĩ rằng mình được phước báu thật sự có quyền sở hữu.
Khi thọ hưởng hạnh
phúc có tài sản, người kia nhận thấy đó là nhờ trí tuệ. Và nhận thấy tức hiểu
biết.
Vậy người kia sáng
suốt về cả hai phương diện.
Nhưng đó chỉ một
phần nhỏ (nguyên văn: một phần mười sáu)
So với hạnh phúc
không bị khiển trách." [6]
Nhân một cơ hội
khác, khi Đức Phật đến viếng nhà Trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc), Ngài
nghe có tiếng ồn ào phía sau nên hỏi thăm. Ông Cấp Cô Độc bạch:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, đó là Sujata, dâu của con, vẫn sống chung với chúng con. Nó là con
nhà giàu có và trưởng thành trong cảnh sung túc của gia đình. Nó không nghe lời
cha mẹ chồng và không để ý đến lời khuyên dạy của cha mẹ chồng. Nó cũng không
biết tôn trọng, kính nể và sùng bái Đức Thế Tôn". Đức Phật cho gọi cô dâu
và giảng cho nghe một bài Pháp về bảy hạng vợ trên thế gian, thời xưa cũng như
trong xã hội hiện đại:
"Người
không sẵn lòng bi mẫn, tâm hồn đồi bại, không ngó ngàng chăm sóc chồng và không
nhã nhặn ôn hòa. Người dễ bị khiêu gợi, dễ bị kích thích làm chuyện hư hèn trắc
nết, có khuynh hướng phá rối quấy rầy - Hãy gọi kẻ ấy là "một người vợ
khuấy rối!" -- (Vadhakabhariya)
"Kẻ phung
phí của chồng, dầu chút đỉnh nào mà chồng đã có công tạo nên bằng tiểu công
nghệ, thương mại hay nông nghiệp - Hãy gọi kẻ ấy là "một người vợ có tánh
trộm cắp!" -- (Corabhariya)
"Người làm
biếng, tham ăn, cả ngày không làm gì mà chỉ ngồi lê đôi mách và la lối gắt gỏng
om sòm, không để ý đến công lao khổ nhọc và chuyên cần của chồng - Hãy gọi kẻ
ấy là "một người vợ như bà chủ!" -- (Ayyabhariya)
"Người
luôn luôn hiền lương và từ mẫn, bảo vệ chồng như bà mẹ hiền chăm sóc đứa con
duy nhất và thận trọng giữ gìn của cải mà chồng tạo nên. Trông nom và để ý từng
tí một - Hãy gọi người ấy là "một người vợ như mẹ!" -- (Matubhariya)
"Người
kính nể chồng như em đối với anh, khiêm tốn ôn hòa và hết lòng phục vụ mọi ý
muốn của chồng - Hãy gọi người ấy là "một người vợ như em gái!" --
(Bhaginibhariya)
"Người
hoan hỷ đến với chồng như gặp lại người bạn thân lâu ngày xa cách, con người
cao quý, đức hạnh và trong trắng - Hãy gọi người ấy là "một người vợ như
người bạn!" -- (Sakhibhariya)
"Người,
khi bị hăm dọa sẽ làm tổn hại đến mình, hay hình phạt mình, không nổi giận mà
trầm tĩnh, chịu đựng tất cả mà không ác ý, luôn luôn vâng lời chồng mà không
bao giờ sân hận - Hãy gọi người ấy là "một người vợ như tớ gái!" --
(Dasibhariya) [6]
Đức Phật giảng
giải về đặc tánh của bảy hạng vợ trong thế gian và lưu ý rằng hạng vợ gây rối
cho chồng, trộm cắp và làm bà chủ của chồng là xấu. Trái lại, hạng vợ đối với
chồng có tình thương như mẹ, như em gái, như bạn và như người tớ gái trung
thành là tốt và đáng được tán dương. Và Ngài hỏi: "Này Sujata, đó là bảy
hạng vợ, con thuộc về hạng nào?"
-- Bạch hóa Đức
Thế Tôn, xin Ngài hãy nghĩ rằng kể từ nay con thuộc về hạng vợ như người tớ
gái.
Ông
Anathapindika (Cấp Cô Độc) đến viếng Đức Phật mỗi ngày và đôi khi nhận thấy
rằng trong lúc Đức Phật vắng mặt có nhiều thiện tín tỏ ra thất vọng vì đến mà
không được yết kiến Ngài, nên ông bạch với Đại Đức Ananda xin thuật lại cho Đức
Phật và thỉnh ý, xem có cách nào để cho thiện tín bày tỏ lòng kính mến ngưỡng
mộ khi Ngài bận châu du hoằng Pháp. Kết quả là một cây Bồ đề được trồng ngay
giữa lối vào tịnh xá [7].
Vợ Trưởng Giả
Cấp Cô Độc, Bà Punnalakkhana, là một người hiền lương đạo đức. Maha Subhadda,
Cula Subhada,và Sumana, ba người con gái ông đều có tâm đạo rất nhiệt thành.
Hai chị đắc Quả Tu Đà Hườn. Người em út đắc Quả Tu Đà Hàm. Con trai duy nhất
của ông, Kala, lúc ban đầu không thích đi chùa lễ Phật và không chịu ghép mình
vào nếp sống đạo hạnh nhưng về sau, nhờ sự khéo léo của cha, nghe lời dạy của
Đức Phật và đắc Quả Tu Đà Hườn.
Ông
Anathapindika (Cấp Cô Độc) trút hơi thở cuối cùng sau khi nghe Đức Sariputta
(Xá Lợi Phất) thuyết một thời Pháp [8].
Lúc cảm thấy
không còn sống được lâu ngày nữa, ông gởi người đến báo tin cho Đức Phật hay
rằng bệnh tình ông đã đến hồi trầm trọng, xin kính cẩn đảnh lễ Đức Phật và cung
thỉnh Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) mở lượng bi mẫn, quang lâm đến viếng trước
khi ông nhắm mắt.
Theo lời thỉnh
cầu, Đại Đức Sariputta đi cùng với Đại Đức Ananda đến nhà Trưởng Giả
Anathapindika (Cấp Cô Độc) và hỏi thăm về bệnh trạng ông. Ông Cấp Cô Độc bạch
rằng mình đang đau đớn vô cùng và không thấy dấu hiệu thuyên giảm.
Đức Xá Lợi Phất
liền thuyết giảng cho ông một bài Pháp cao siêu. Khi nghe xong, nước mắt ông
ràn rụa trào ra. Đức Ananda thấy vậy hỏi có phải ông lo sợ nên tinh thần trở
nên suy nhược không? Ông trả lời: "Kính bạch Đại Đức, thật không phải vậy,
tinh thần con không chút giảm suy. Ấy chỉ vì mặc dầu đã nghe nhiều bài Pháp do
Đức Tôn Sư thuyết giảng, con chưa hề được nghe Pháp cao siêu như thế này."
Đại Đức Xá Lợi
Phất giải thích rằng: "Những Pháp cao siêu như thế này chỉ để giảng cho
các đệ tử tiến bộ chớ không cho hàng cư sĩ, bởi vì họ sẽ không thể thấu
hiểu."
Ông
Anathapindika (Cấp Cô Độc) nhân cơ hội này thỉnh cầu Đại Đức Sariputta (Xá Lợi
Phất) truyền bá Giáo Pháp cao siêu và khó hiểu này đến những người cư sĩ tại
gia, vì có người sẽ có thể lãnh hội.
Khi hai vị đệ
tử của Đức Phật ra về thì ông Cấp Cô Độc thở hơi cuối cùng và tức khắc tái sanh
vào cung Trời Tusita (Đấu Xuất).
Đêm ấy vị Trời
Anathapindika, từ cung Trời Đấu Xuất trở về tịnh xá, hào quang của Ngài chiếu
ngời, sáng cả Khuppipasa vườn. Ngài đảnh lễ Đức Phật, tán dương phẩm hạnh và
tài đức của Đại Đức Sariputta và bày tỏ niềm hân hoan được gặp lại Đức Phật và
chư vị đệ tử của Đức Phật trong tịnh xá do Ngài kiến tạo. Cũng trong dịp này,
vị Trời Anathapindika ghi nhận:
"Thiện ý
và trí tuệ, cùng với
Tâm được rèn luyện
đúng phương pháp
Và phẩm hạnh cao
thượng nhất
Dựa trên căn bản
giới luật,
Làm cho chúng sanh
trong sạch,
Chớ không phải
giai cấp hay tài sản.[9]
Bà Visakha
Visakha là con
gái nhà triệu phú Dhananjaya. Cô rất giàu lòng quảng đại và có tâm đạo nhiệt
thành. Mẹ cô là Sumana Devi và ông ngoại cô là nhà triệu phú Mendaka mà cô hết
sức thương mến và quý trọng.
Ngày nọ, khi cô
mới lên bảy, Đức Phật có dịp đến viếng Bhaddiya, quê cô, trong Vương Quốc Anga.
Được nghe tin lành ấy, ông ngoại cô bảo: "Này cháu thân mến, hôm nay là
ngày vui của cháu và của ông. Vậy cháu hãy tập trung năm trăm tớ gái, những nô
tỳ của cháu, bắt kế năm trăm cỗ xe cùng với năm trăm thị nữ, cháu hãy đi đón
tiếp Đức Phật".
Cô vui vẻ vâng
lời. Khi đến nơi, cô đảnh lễ Đức Phật rồi cung kính ngồi qua một bên. Đức Thế
Tôn lấy làm đẹp ý thấy tư cách phong nhã lễ độ của cô. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng
tinh thần cô Visakha đã đến mức tiến bộ khá cao. Sau khi nghe Đức Phật thuyết
Pháp, cô đắc Quả Tu Đà Hườn.
Kinh sách ghi
rằng cô Visakha có sức mạnh như đàn ông và rất mỹ miều duyên dáng từ thuở còn
thơ. Tóc nàng tựa như đuôi công và khi bỏ xả ra dài chí lai áo rồi cuộn trở
lên. Môi nàng tự nhiên đỏ hồng và rất dịu dàng. Răng trắng như ngà, khít khao
đều đặn và sáng ngời như hai hàng ngọc. Da cô Visakha mịn màng như cánh hoa sen
màu vàng. Cho đến lúc già và có đông con, Bà Visakha vẫn còn giữ hình dáng đẹp
đẽ của thời son trẻ. [10]
Được phú cho
năm vẻ đẹp của người phụ nữ - tóc, da, xương, vóc và tuổi trẻ - Visakha lại còn
trí tuệ hơn người, sáng suốt trong việc thế gian cũng như trong lãnh vực tinh
thần đạo đức.
Lúc còn mười
lăm mười sáu tuổi, nhân một ngày lễ nọ, nàng cùng đi với nhiều tỳ nữ ra mé sông
để tắm. Tình cờ một đám mưa to từ xa kéo đến. Tất cả mọi người đều lật đật bỏ
chạy vào tạm trú trong một căn nhà bỏ trống, trừ cô Visakha.
Cùng lúc ấy
cũng có vài vị bà la môn đang đi tìm một người phụ nữ có đủ năm vẻ đẹp cho ông
thầy trẻ tuổi của mình. Cô không vội vã hấp tấp mà chậm rãi, khoan thai lần
bước đi vào đụt mưa trong nhà. Các vị bà la môn trông thấy lấy làm ngạc nhiên,
hỏi cô tại sao không chạy mau vào cho khỏi ướt mình.
Cô Visakha nhân
cơ hội, ứng khẩu nói lên quan điểm của mình. Cô nói rằng cô có thể còn chạy mau
hơn những người khác, nhưng cố ý không làm vậy. Và cô giải thích rằng nếu có vị
vua kia đang mặc sắc phục triều đình bỗng nhiên xăn áo quần lên chạy hối hả vào
cung điện, thì ắt không thích đáng. Một thớt ngự tượng đường bệ oai nghiêm,
mình mang đầy trang sức mà không dõng dạc lần bước, lại đâm đầu bỏ chạy ngoài
đường, thì cũng là một cảnh tượng trái mắt. Những nhà sư thanh nhã khả kính
cũng bị chỉ trích nếu các ngài chạy xốc xếch y bát. Cùng thế ấy, người phụ nữ
chạy ngoài đường như đàn ông sẽ mất hết nề nếp đoan trang phong nhã.
Các vị bà la
môn lấy làm hoan hỷ được nghe những lời cao đẹp ấy và nghĩ rằng cô Visakha sẽ
là người vợ lý tưởng cho thầy mình. Sau đó mọi việc thích nghi được sắp xếp để
vị thầy bà la môn Punnavaddhana, con của nhà triệu phú Migara, vốn không phải
là Phật tử, đi cưới cô Visakha.
Lễ cưới cử hành
rất trọng thể. Ngoài những của hồi môn rất quan trọng và những món đồ trang sức
quý giá (mahalatapilandhana), người cha sáng suốt còn dạy con gái những điều
sau đây:
1. Không đem
lửa trong nhà ra ngoài ngõ.
2. Không đem lửa
bên ngoài vào nhà.
3. Chỉ cho đến
những người biết cho.
4. Không cho đến
những người không biết cho.
5. Cho đến cả hai,
những người biết cho và những người không biết cho.
6. Ngồi một cách
an vui.
7. Ăn một cách an
vui.
8. Ngủ một cách an
vui.
9. Coi chừng lửa.
10. Tôn trọng các
vị Trời trong nhà.
Các điều ấy có
nghĩa là:
1. Không nên
nói xấu chồng và cha mẹ chồng với người ngoài. Cũng không nên đem chuyện xấu
bên nhà chồng thuật lại cho người ngoài.
2. Không nên
ngồi lê đôi mách, nghe ngóng những chuyện xấu của người ngoài rồi đem về nhà
bàn tán.
3. Đồ trong nhà
chỉ nên đưa cho những người nào mượn rồi trả lại.
4. Không nên
đưa cho những người mượn đồ mà không trả lại.
5. Phải giúp đỡ
thân bằng quyến thuộc nghèo khó, dầu họ trả lại được hay không.
6. Phải ngồi
đúng chỗ thích nghi. Khi thấy cha mẹ chồng đến phải đứng dậy.
7. Trước khi ăn
cơm phải coi có dọn đầy đủ cho cha mẹ chồng và chồng chưa. Cũng phải coi chừng
xem người làm trong nhà có được chăm sóc đầy đủ không.
8. Trước khi đi
ngủ phải quan sát nhà cửa, ghế bàn. Cửa đóng then gài cẩn thận. Xem coi những
người giúp việc trong nhà có làm đủ bổn phận của họ chưa và cha mẹ chồng đã đi
ngủ chưa. Thế thường người nội trợ phải thức khuya dậy sớm, và trừ khi đau ốm,
không nên ngủ ngày.
9. Phải xem
chồng và cha mẹ chồng như lửa. Mỗi khi có việc với cha mẹ chồng và chồng phải
hết sức thận trọng cũng như phải thận trọng khi làm việc với lửa.
10. Cha mẹ
chồng và chồng phải được tôn kính như những vị Trời trong nhà. Nên ghi nhận
rằng Đức Phật thường nhắc đến cha mẹ chồng như những vị Trời trong nhà
(Sassudeva).
Ngày cô Visakha
về nhà chồng tại Savatthi, rất đông người trong thành phố tới tấp gởi đến nàng
đủ loại tặng phẩm. Nhưng vốn giàu lòng quảng đại cô gởi quà, tặng lại mỗi người
với vài lời ân cần và đối xử với mọi người như chính thân bằng quyến thuộc
mình. Do thái độ cao quý ấy, ngay trong những ngày đầu tiên, tất cả mọi người
bên nhà chồng đều quý chuộng cô.
Một việc tình
cở chỉ rõ rằng tình thương của cô bao trùm cả loài thú. Hôm nọ, được biết con
ngựa cái ở sau nhà sắp đẻ, cô tức khắc cùng các nô tỳ đốt đuốc ra tận chuồng và
hết lòng chăm sóc ngựa cho đến khi đẻ xong xuôi mới đi ngủ.
Cha chồng cô là
đệ tử trung kiên của Nigantha Nataputta. Ngày nọ ông thỉnh về nhà rất đông các
tu sĩ lõa thể. Khi các vị đến, Visakha được mời ra để đảnh lễ những vị mà người
ta gọi là A La Hán. Thoạt nghe đến danh từ A La Hán, cô lấy làm hoan hỷ và vội
vã bước ra. Nàng chỉ thấy những tu sĩ lõa lồ ngã mạn. Đối với người phụ nữ
phong lưu thanh nhã như cô Visakha, thật không thể chịu được. Cô phiền trách
cha chồng và quày quả trở vào. Những đạo sĩ lấy làm tức giận, bắt lỗi nhà triệu
phú tại sao đem vào nhà mình một tín nữ của Đức Phật. Họ yêu cầu ông đuổi cô ra
khỏi nhà tức khắc. Ông triệu phú khuyên giải hết lời mới nguôi giận.
Ngày nọ, ông
cha chồng ngồi trên ghế và bắt đầu ăn một món cháo nóng rất ngon trong cái chén
bằng vàng. Ngay lúc ấy có một vị tỳ khưu bước vào nhà khất thực. Cô Visakha
liền đứng qua một bên để cha chồng trông thấy nhà sư. Tuy đã thấy nhưng ông cha
chồng vẫn làm lơ, tiếp tục ăn như thường. Cô thấy vậy cung kính bạch sư:
"Bạch sư, xin thỉnh sư hoan hỷ bước sang nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng
những món ăn đã hư cũ (puranam)."
Nhà triệu phú
kém thông minh, hiểu lầm ý nghĩa của lời nói nên lấy làm tức giận, truyền gia
đình đuổi cô Visakha ra khỏi nhà.
Nhưng tất cả
tôi tớ trong nhà đều hết lòng quý chuộng cô nên không ai dám động đến.
Cô Visakha luôn
luôn biết tôn trọng kỷ luật gia đình nhưng không thể chấp nhận cách đối xử như
thế mà không phản đối, dầu là cha chồng. Cô lễ phép trình bày: "Thưa cha,
quả thật không có đủ lý do để buộc con phải rời khỏi nhà. Không phải cha đem
con về đây như người mua nô lệ. Trong lúc cha mẹ còn sanh tiền, con gái không
thể bỏ nhà ra đi như vậy. Vì lẽ ấy khi con rời nhà để sang đây, cha con có mời
tám người trong thân tộc và gởi gắm con cho các vị ấy. Cha con nói: 'Nếu con
gái tôi có phạm điều gì lỗi lầm, xin các vị hãy dò xét cặn kẽ.' Vậy xin cha hãy
mời các vị ấy đến để xét xử, xem con có lỗi hay không."
Nhà triệu phú
chấp thuận lời đề nghị hữu lý ấy, mời tám vị thân nhân kia lại và phân trần:
"Nhân một
ngày lễ, tôi đang ngồi ăn cháo nấu với sữa trong một cái chén bằng vàng, thì
con dâu tôi nói rằng tôi ăn những vật thực đã hư cũ. Xin quý vị hãy vạch ra cho
nó thấy lỗi và đuổi nó ra khỏi nhà này."
Cô Visakha giải
thích:
"Thật ra
không hẳn tôi nói đúng như vậy. Lúc cha chồng tôi đang dùng cháo thì có một vị
tỳ khưu vào nhà khất thực. Cha chồng tôi thấy mà làm ngơ.
Nghĩ bụng rằng
cha chồng tôi không làm được điều thiện nào trong hiện tại mà chỉ thọ hưởng
phước báu đã tạo trong quá khứ, nên tôi bạch với vị tỳ khưu: "Bạch sư, xin
thỉnh sư hoan hỷ bước sang nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng những thức ăn đã
hư cũ", tôi nói như vậy thì có điều chi là sai quấy?"
Mọi người nhìn
nhận rằng cô Visakha không có lỗi. Ông cha chồng cũng đồng ý. Nhưng chưa hết
giận, ông bắt qua tội cô dâu tại sao giữa đêm khuya mà thắp đuốc cùng với nô tỳ
đi ra sau vườn.
Một lần nữa cô
giải thích tại sao cô làm vậy. Tám vị thân nhân ghi nhận rằng vì tình thương
một con thú đang chịu đau đớn, cô dâu cao quý đã làm một việc cực nhọc mà cho
đến các nô tỳ chưa chắc đã làm. Như vậy là rất được tán dương, hẳn là không có
lỗi.
Nhưng ông cha
chồng triệu phú đầy lòng thù hận chưa chịu ngừng.
Tìm không ra
lỗi gì nữa của cô, ông bắt qua chuyện khác và nói rằng trước khi về nhà chồng,
nàng có học mười điều, thí dụ như: "Lửa trong nhà không nên đem ra ngoài
ngõ." Vậy, thật sự có thể sống đặng chăng nếu đôi khi không đem lửa cho
hàng xóm láng giềng mồi?
Cô Visakha nhân
cơ hội giải thích rành rẽ mười điểm. Ông cha chồng không còn gì nữa để buộc
tội, ngồi lặng thinh.
Cô là người
biết tự trọng. Sau khi chứng minh rằng mình không có lỗi thì cô tỏ ý muốn ra
đi, theo lời cha chồng đuổi.
Nhà triệu phú
đổi hẳn thái độ. Ông xin lỗi cô vì hiểu lầm.
Đúng theo tinh
thần quảng đại khoan dung của người Phật tử, cô Visakha không phiền trách cha
chồng nữa nhưng xin một điều là về sau cô được tự do sinh hoạt trong truyền
thống tôn giáo của cô.
Ông cha chồng
đồng ý.
Cô Visakha
không để mất thì giờ, nhân cơ hội cung thỉnh Đức Phật về nhà thọ trai. Đức Phật
đến, và sau khi thọ thực, Ngài thuyết một thời Pháp. Ông cha chồng triệu phú
tọc mạch, ngồi sau bức rèm nghe trộm. Khi Đức Phật giảng xong thì ông đắc Quả
Tu Đà Hườn và biểu lộ lòng tri ân vô hạn đối với cô dâu quý đã dẫn dắt ông vào
Con Đường Giải Thoát thật sự. Ông cũng ghi nhận một cách vô cùng cảm động và kể
từ ngày ấy ông sẽ xem cô dâu như một bà mẹ.
Về sau Bà
Visakha sanh được một trai tên là Migara, Đức Phật đến viếng và nhân cơ hội này
bà mẹ chồng được nghe Pháp và đắc Quả Tu Đà Hườn.
Nhờ khôn khéo,
trí tuệ, và nhẫn nại, bà dần dần cảm hóa mọi người và đổi nhà bên chồng trở
thành một gia đình Phật tử đầy an vui hạnh phúc.
Bà Visakha để
bát chư Tăng hàng ngày tại nhà. Trưa, chiều bà thường đến chùa nghe Pháp và xem
các sư có cần dùng vật chi không. Suppiya, một tín nữ khác cũng có tâm đạo
nhiệt thành, thường cùng đi với bà.
Bà Visakha thật
giàu lòng bố thí và tận tình hộ trì chư Tăng. Một lần nọ, bà đến hầu Phật và
thỉnh nguyện tám điều:
1. Dâng y đến
chư Tăng trong mùa nhập Hạ cho đến khi bà chết.
2. Để bát những
vị sư đến thành Savatthi (Xá Vệ).
3. Để bát những
vị sư ra đi, rời thành Savatthi.
4. Dâng thực
phẩm đến những vị sư đau ốm.
5. Dâng thực
phẩm đến những vị ra công chăm sóc các sư đau ốm.
6. Dâng thuốc
men đến những vị sư đau ốm.
7. Dâng lúa
mạch đến chư sư.
8. Dâng y tắm
đến chư tỳ khưu ni.
Đức Phật chấp
thuận.
Ngày nọ, sửa
soạn đến chùa lễ Phật và nghe Pháp, bà mặc bộ đồ đẹp nhất của cha cho lúc đưa
bà về nhà chồng. Nhưng nghĩ lại rằng ăn mặc rực rỡ như thế trước mặt Đức Thế
Tôn ắt không thích nghi. Bà liền thay vào một bộ y phục khác do cha chồng cho,
và gói đồ kia lại giao cho người nữ tỳ cầm giữ. Sau khi nghe Pháp, bà ra về
cùng với người tỳ nữ. Người này lại bỏ quên gói đồ. Đại Đức Ananda nhìn thấy mà
không biết của ai. Theo lời dạy của Đức Phật, Ngài tạm giữ một nơi để chờ trao
lại chủ.
Khi bà Visakha
hay biết rằng người tỳ nữ mình bỏ quên gói đồ trong chùa thì sai trở lại lấy
đem về, nếu chưa có ai động đến. Nếu có người đã chạm đến gói đồ thì thôi,
không đem về.
Người tỳ nữ trở
về thuật lại tự sự. bà liền đến hầu Đức Phật và tỏ ý muốn làm một việc thiện
với số tiền bán bộ y phục ấy. Đức Phật khuyên nên cất một tịnh xá nằm tại phía
Đông cổng vào. Vì không ai có đủ tiền để mua bộ y phục quý giá như vậy nên
chính bà mua lại và dùng số tiền ấy kiến tạo một ngôi tịnh xá đẹp đẽ tên là
Pubbarama.
Theo lời cung
thỉnh của bà, mùa mưa năm ấy Đức Phật nhập Hạ tại tịnh xá rộng rãi này.
Bà rất hân hoan
được Đức Phật chấp thuận nhập Hạ sáu lần nơi ấy.
Kinh sách ghi
rằng bà Visakha hết sức rộng lượng. Thay vì la rầy người tỳ nữ vô ý bỏ quên gói
đồ, bà còn chia phần công đức kiến tạo tịnh xá đến cô nữ tỳ đã tạo cho bà cơ
hội quý báu ấy.
Trong nhiều
trường hợp khác nhau, Bà Visakha được nghe nhiều bài Pháp của Đức Phật. Giới
"bát quan" [11] mà người cư sĩ Phật tử ở hầu hết các quốc gia Á Đông
thường nghiêm trì, cũng được giảng dạy rành rẽ cho bà.
Đề cập đến
những đức tánh khả dĩ đưa người phụ nữ lên các cảnh Trời, Đức Phật dạy:
"Tích cực
hoạt động, luôn dịu dàng chiều chuộng chồng
Dầu chồng không
đem lại tất cả hạnh phúc.
Không khi nào dùng
lời bất cẩn, nghịch ý, thiếu lễ độ,
Làm chồng nổi
giận.
Tôn trọng tất cả
những người được chồng kính nể,
Vì nàng là người
sáng suốt khôn ngoan,
Khéo léo. lanh lẹ,
thức khuya dậy sớm,
Tận tâm săn sóc
sức khỏe của chồng
Trong khi chồng
làm việc cực nhọc.
Và nhã nhặn hiền
hòa.
Một người vợ như
vậy,
Muốn những điều
chồng muốn và cố làm cho được,
Sẽ tái sanh vào
Cảnh giới của
những vị Trời dễ mến." [12]
Và trong một
trường hợp khác, Đức Phật đề cập đến đức tánh của người đàn bà muốn tạo an vui
hạnh phúc trong thế gian hiện tại và trong cảnh giới tương lai như sau:
"Này
Visakha, đó là hạnh phúc của người phụ nữ có khả năng làm việc, điều khiển
người làm, có lối đối xử làm cho chồng quý mến và gìn giữ của cải trong nhà.
"Này
Visakha, đó là hạnh phúc của người phụ nữ đã thành công trong niềm tin
(saddha), trong giới luật (sila), trong lòng quảng đại (caga) và trí tuệ
(panna)" [13]
Bà Visakha đóng
góp một phần quan trọng trong nhiều lãnh vực khác nhau có liên quan đến Phật
sự. Đôi khi Đức Phật dạy bà đi giải hòa những mối bất đồng giữa các tỳ khưu ni.
Cũng có lúc bà thỉnh cầu Đức Phật ban hành một vài giới cho chư vị tỳ khưu ni.
Do đức độ đại
lượng, bà được xem là người tín nữ có công đức nhiều nhất trong các Phật sự và
cũng là vị thí chủ quan trọng nhất của phái nữ thời Đức Phật. Do phẩm hạnh
trang nghiêm, tư cách thanh nhã, thái độ phong lưu tế nhị, ngôn ngữ lễ độ khôn
khéo, do sự biết vâng lời và tôn kính bậc trưởng thượng, quảng đại, bác ái đối
với người kém may mắn, tánh tình lịch duyệt, hiếu khách và tâm đạo nhiệt thành,
bà ở được lòng tất cả những ai đã gặp bà.
Sách ghi rằng
bà được diễm phúc làm mẹ của mười người con trai và mười người con gái, tất cả
đều hiếu thảo. Bà từ trần lúc được một trăm hai mươi tuổi thọ.
Jivaka, Người
Con Nuôi
Jivaka là vị
lương y trứ danh thường ở gần Đức Phật để chăm lo sức khỏe Ngài.
Lúc vừa ra đời,
mẹ ông đặt ông trong cái thùng rồi đem bỏ trên một đống rác cạnh bên đường.
Hoàng tử
Abhaya, con của Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) tình cờ đi qua, thấy quạ bu xung
quanh và khám phá rằng đứa bé còn sống (jivati) nên đem về cho người nuôi
dưỡng.
Vì lúc tìm ra,
ông còn sống nên đặt tên là Jivaka. Vì được một vị hoàng tử đem về nuôi dưỡng
nên người ta gọi là Komarabhacca.
Đến lúc trưởng
thành, ông là một lương y và một nhà giải phẫu đại tài. Sách ghi rằng hai lần
ông thành công mỹ mãn cuộc giải phẫu cho một nhà triệu phú mắc phải bệnh đau
đầu.
Thường ngày ông
đến hầu Đức Phật ba lần.
Nhân định rằng
ông sẽ có thể thành đạt nhiều lợi ích nếu có một tu viện ở gần nhà nên ông cất
một cái trong khu vườn xoài của ông. Sau khi hoàn thành công tác xây cất, ông
đắc Quả Tu Đà Hườn. Kinh Jivaka Sutta [14] đề cập đến vấn đề ăn thịt là bài
kinh mà Đức Phật giảng cho ông Jivaka.
Sau khi vua
Ajatasattu (A Xà Thế) giết cha, chính ông Jivaka thúc giục vua đến yết kiến Đức
Phật.
Cũng do lời
thỉnh cầu của Jivaka, Đức Phật kêu gọi chư vị tỳ khưu nên hoạt động chân tay
như quét nhà v.v...
Chú thích:
[1] Xem bảng
gia phả, cuối Chương 1.
[2] Kindred
Sayings, phần 1, trang 272.
[3] Kindred
Sayings, phần 1, trang 273.
[4] Xem Gradual
Sayings, tập iv, trang 264-265.
[5] Gradual
Sayings, tập ii, trang 77-78. Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, ii, trang
67-68.
[6] Gradual
Sayings, tập iv trang 56-58. Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, tập iv, trang
92-93
[7] Xem Chương
9 (Cây bồ đề Ananda).
[8] Majjhima
Nikaya iii, 262. Further Dialogues of The Buddha, tập ii, trang 302-305
[9] Kindred
Sayings, phần 1, trang 80.
[10]
Kesakalyana, mamsakalyana, atthikalyana, chavikalyana và vayakalyana.
[11] Đến ngày
mồng 1, mồng 8, rằm và 23 âm lịch, thiện tín thường giữ bát quan giới
(atthasila) tức là kiêng cữ không:
1. sát sanh, 2.
trộm cắp, 3. hành dâm, 4. vọng ngữ, 5. dùng chất say, 6. ăn sau giờ ngọ, 7.
khiêu vũ, ca hát, nghe âm nhạc, xem những tuồng hát không thích nghi, dùng
tràng hoa, nước hoa, dầu trang sức, và 8. ngồi ghế cao và tốt đẹp.
Mặc dầu thông
thường, người Phật tử giữ tám giới trong những ngày giới (Uposatha) kể trên,
không có sự cấm đoán, không cho giữ bát quan trong những ngày khác. Mục đích
của giới này là giúp kiểm soát hành động, lời nói và tư tưởng.
[12] Gradual
Sayings, iv, trang 178-179.
[13] Gradual
Sayings, iv, trang 177-178.
[14] Majjhima
Nikaya, Trung A Hàm, số 55.