Lời Mở Đầu
Để
trình bày đời sống và giáo huấn của Đức Phật cho những ai muốn hiểu Phật giáo,
nhiều quyển sách quý giá đã được ấn hành, do những học giả Đông, Tây, trong
hàng Phật tử, cũng như những người không theo đạo Phật.
Trong rừng thư
mênh mông ấy, quyển "Ánh Sáng của Á Châu" (The Light of Asia), do tác
giả Sir Edwin Arnold, được chú trọng và ưa thích nhất. Nhiều người phương Tây
muốn tìm hiểu chân lý đã hướng về đạo Phật sau khi đọc tập thơ trứ danh này.
Người Phật tử,
ở phương Đông cũng như ở phương Tây, hết lòng ca ngợi công đức của các nhà học
giả đã viết ra những thiên sách hữu ích để rọi sáng Giáo Pháp.
Bản khái luận
mới mẻ này là một cố gắng khiêm tốn khác của một hội viên Giáo Hội Tăng Già,
căn cứ trên kinh điển Nam Phạn (Pali) các chú giải, và các tập tục cổ truyền nhởi
bật nhất trong những quốc gia Phật giáo, nhất là ở Tích Lan (Sri Lanka).
Phần đầu quyển
sách này đề cập đến đời sống của Đức Phật, phần nhì là Phật Pháp, giáo lý của
Ngài, danh từ tiếng Phạn (Pali) là Dhamma.
-oOo-
Phật Pháp là
một hệ thống triết học và luân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác
Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông, hay
để thỏa mãn tri thức.
Giáo Pháp chắc
chắn phải được học, nhưng hơn nữa, phải được thực hành, và trên hết, phải được
tự mình chứng ngộ.
Học suông mà
không thật sự mình thực hành thì không bổ ích. Đức Phật dạy rằng người có pháp
học mà không có pháp hành cũng tựa hồ như tai hoa lộng lẫy mầu sắc, nhưng không
hương vị.
Người không học
Giáo Pháp như mù. Nhưng người học mà không hành thì chẳng khác nào một thư
viện.
-oOo-
Có vài lời phê
bình vội vã cho rằng Phật Giáo là một tôn giáo tiêu cực và thụ động. Lời chỉ
trích vô căn cứ ấy hẳn còn xa sự thật.
Đức Phật là nhà
truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất lịch sử nhân loại. Trải qua bốn
mươi lăm năm trường, Ngài đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương giáo lý, đến
hàng đại chúng cũng như các bậc thiện trí. Chí đến giây phút cuối cùng Ngài
phục vụ nhân loại bằng gương lành trong sạch và giáo huấn cao thượng. Hàng môn
đệ lỗi lạc của Ngài cũng bước đúng theo dấu chân Ngài. Không một xu trong túi,
các vị ấy đi đến những phương trời xa lạ để truyền bá Giáo Pháp mà không bao
giờ cầu mong đền đáp.
"Liên tục
và kiên trì nỗ lực" là di huấn tối hậu của Đức Phật. Không có sự giải
thoát nào, không có sự thanh lọc nào có thể thực hiện được nếu không có cố gắng
cá nhân. Như vậy, Phật giáo không chủ trương van vái nguyện cầu mà thay vào đó,
dạy thực hành thiền tập, là một phương pháp tự kiểm soát, tự thanh lọc và giác
ngộ. Hai đặc điểm nổi bật nhất của Phật giáo là hành thiền và phục vụ. Trên
thực tế, tất cả những quốc gia Phật giáo đã vươn mình trưởng thành trong tổ ấm
của Phật giáo và dưới tàng bóng mát mẻ của Đức Phật.
"Không
hành ác", tức không làm cho mình trở thành một tội khổ cho mình và cho
kẻ khác, là lời khuyên nhủ đầu tiên của Đức Phật. Lời dạy tiếp theo - " hành
thiện" - là hãy trở nên một phước lành, cho mình và cho kẻ khác, và lời
kêu gọi cuối cùng - "thanh lọc tâm" - thật vô cùng quan trọng
và cực kỳ thiết yếu.
Có thể gọi một
tôn giáo như vậy là thụ động và tiêu cực không?
Cũng nên ghi
nhận là trong ba mươi bảy yếu tố dẫn đến Giác Ngộ (Bhodhipakkhiya Dhamma, ba
mươi bảy pháp Trợ Đạo, hay ba mươi bảy Bồ Đề Phần), tinh tấn (viriya) được nhắc
đến chín lần.
Để minh định rõ
ràng mối tương quan giữa Ngài và hàng tín đồ, Đức Phật dạy:
"Các con
hãy tự mình cố gắng,
Các đấng Như Lai
chỉ là những đạo sư".
Đức Phật vạch
ra con đường. Phần chúng ta là có noi theo con đường ấy để tự thanh lọc hay
không. Cố gắng là rất quan trọng trong Phật Giáo.
"Chính ta
làm cho ta trong sạch;
Chính ta làm cho
ta ô nhiễm."
-oOo-
Phải khép mình
vào khuôn khổ kỷ cương, chư vị tỳ khưu chỉ có thể hoạt động trong phạm vi giới
luật của các ngài. Hàng cư sĩ thì có thể phục vụ đạo pháp, quốc gia, và thế
gian một cách khác, nhưng vẫn theo tinh thần của những nguyên tắc Phật Giáo.
Phật Giáo vạch
ra một lối sống cho bậc xuất gia và một lối sống khác cho hàng cư sĩ.
Hiểu một cách,
tất cả Phật tử là những chiến sĩ can đảm. Họ chiến đấu, nhưng không phải bằng
súng ống và bom đạn. Họ giết chóc, nhưng không giết đàn ông, đàn bà và trẻ con
vô tội.
Vậy người Phật
tử chiến đấu chống ai, và bằng khí giới nào? Người Phật tử giết ai một cách tàn
nhẫn?
Họ chiến đấu
chống chính họ, bởi vì con người là kẻ thù tệ hại của con người. Tâm là địch
thủ nguy hiểm nhất, mà cũng là người bạn tốt nhất. Không chút xót thương, người
Phật tử tàn sát và tận diệt những khát vọng tham ái, sân hận và si mê ở trong
tâm họ bằng võ khí Giới, Định và Tuệ.
Những ai thích
một mình chiến đấu chống lại khát vọng của mình trong cảnh tịch mịch vắng vẻ,
hoàn toàn được tự do làm theo ý mình. Chư tỳ
khưu sống ẩn dật là những gương lành đáng được kính nể. Đối với hạng người biết
tri túc, trạng thái cô đơn là một nguồn hạnh phúc. Những vị nào muốn chiến đấu
với những vấn đề khó khăn của đời để cố gắng tạo nên một thế gian hữu phúc
trong ấy con người có thể sống như những công dân lý tưởng, thanh bình và hoà
hợp, cũng có thể nhận lãnh trách nhiệm, dấn thân trên con đường gian truân ấy.
Con người
được sanh ra, không phải để phục vụ Phật Giáo. Nhưng Phật Giáo được thành lập
để phục vụ con người.
-oOo-
Hiểu đúng theo
giáo lý của Đức Phật, tình trạng giàu hay nghèo không thể là một trở ngại cho việc
trở thành Phật tử lý tưởng. Ông Anathapindika (Cấp Cô Độc), vị thí chủ trung kiên
nhất của Đức Phật, là một triệu phú gia. Ghatikara, được kính nể còn hơn một vì
vua, chỉ là người thợ đồ gốm nghèo nàn.
Phật Giáo thích
hợp với cả hai giai cấp, nghèo và giàu. Phật Giáo cũng thích hợp với cả hai
hạng người, đại chúng và tri thức.
Hạng người kém
học hướng về Phật Giáo do phần tình cảm nhiệt thành với đạo pháp và phần luân
lý giản dị. Người tri thức thì say mê trong giáo lý thâm diệu và phương pháp
trau giồi tâm trí.
Một du khách
không quen thuộc với tập tục của các dân tộc Phật Giáo ắt có những cảm nghĩ lầm
lạc khi bước chân vào chùa lần đầu tiên, và cho rằng Phật Giáo chỉ là những
nghi thức lễ bái, là một tôn giáo có tánh cách dị đoan, chứa đựng những hình
thức cúng tế sùng bái tượng gỗ và cây cối.
Là một tôn giáo
khoan hồng, Phật Giáo không phủ nhận hay bác bỏ những hình thức kỉnh mộ bề
ngoài ấy, vì nó cần thiết cho đại chúng. Ta có thể nhìn thấy phần đông thiện
tín thành tâm kính cẩn như thế nào lúc đến chùa dự lễ. Do thái độ tôn kính ấy
đức tin càng tăng trưởng.
Người Phật tử
quỳ lạy trước pho tượng Phật và tỏ lòng kỉnh mộ của mình đối với lý tưởng mà
pho tượng ấy biểu hiện. Người Phật tử hiểu biết suy niệm về những phẩm hạnh cao
cả của Đức Phật và không cầu mong một ân huệ vật chất hay tinh thần nào. Cây bồ
đề, đàng khác, tượng trưng sự giác ngộ.
Đức Phật không
trông chờ hàng tín đồ mãi sống trong những nghi lễ mà trái lại, khuyên dạy nên
thực hành đúng theo Giáo Huấn của Ngài. "Người thực hành đúng theo giáo
huấn của Như Lai nhất là tôn sùng Như Lai nhất", là lời dạy của Đức
Phật.
Một người Phật
tử hiểu biết có thể thực hành Giáo Pháp (Dhamma) mà không cần những hình thức
lễ bái bề ngoài ấy. Chùa chiền và tượng Phật không tuyệt đối cần để hành Bát Chánh
Đạo.
-oOo-
Có đúng không
nếu nói rằng Phật Giáo chỉ đề cập đến những việc hoàn toàn ngoài thế gian, mặc
dầu Phật Giáo chủ trương có một chuỗi dài những kiếp sống, trong quá khứ và ở vị
lai, và một số cảnh giới vô tận trong ấy chúng sanh có thể sống?
Sứ mạng của Đức
Phật nhằm vào sự giải thoát chúng sanh ra khỏi khổ đau phiền não bằng cách tận
diệt nguồn gốc của nó và vạch ra con đường để cho ai muốn, có thể chấm dứt cả
sanh lẫn tử. Tuy nhiên, đôi khi Đức Phật cũng truyền dạy những bài kinh hướng
tiến bộ vật chất. Cả hai tiến bộ - vật chất và tinh thần - đều cần thiết cho sự
phát triển của một quốc gia. Không nên tách rời cái này ra khỏi cái kia. Cũng
không nên hy sinh tiến bộ tinh thần để thành đạt những mức tiến vật chất như
chúng ta đang mục kích tại một vài quốc gia quá thiên về đời sống vật chất. Nhiệm
vụ của các chánh phủ và các hội từ thiện là phát triển sống vật chất và tạo
điều kiện thuận lợi cho dân chúng. Trong khi ấy, các tôn giáo, như Phật Giáo
chẳng hạn, có phận sự chăm lo phát huy tinh thần đạo đức, giúp cho mỗi người có
thể trở thành một công dân lý tưởng.
Phật Giáo đi
ngược chiều với phần đông các tôn giáo khác khi khai quang con đường
"Trung Đạo" và truyền bá giáo lý lấy nhân bản làm trung tâm thay vì
giáo điều lấy thần linh làm trụ cốt. Như vậy, Phật Giáo hướng nội và nhằm
giải thoát từng cá nhân. Giáo Pháp (Dhamma) phải được tự mình chứng ngộ
(sanditthiko).
-oOo-
Theo thường,
cứu cánh của phần đông nhân loại là "tuyệt diệt hoàn toàn" hoặc
"trường tồn vĩnh cửu". Người theo chủ nghĩa vật chất tin rằng sau khi
chết con người hoàn toàn trở thành hư vô, không còn gì nữa. Một vài tôn giáo
chủ trương rằng mục tiêu cứu cánh chỉ có thể thành tựu sau kiếp sống trong sự
hợp nhất vĩnh viễn với một Thần Linh Vạn Năng, hoặc một sinh lực không thể giải
thích, hay nói cách khác, một hình thức trường tồn vĩnh cửu.
Phật Giáo dạy
con đường "Trung Đạo". Mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo không phải là
trạng thái tuyệt diệt bởi vì không có cái chi thường còn để tuyệt diệt, cũng
không phải sự trường tồn vĩnh cửu bởi không có một linh hồn trường cửu để vĩnh
viễn hoá. Mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo có thể thành đạt ngay trong chính
kiếp sống này.
-oOo-
Việc gì xảy đến
một vị A La Hán sau khi Ngài viên tịch? Đó là một câu hỏi tế nhị và khó giải đáp,
vì Niết Bàn là pháp siêu thế, ngoài không gian và thời gian, và ngôn ngữ của
con người không thể diễn tả. Nói một cách chính xác, có Niết Bàn nhưng không
có người chứng đắc Niết Bàn. Theo lời Đức Phật dạy, nói rằng một vị A La
Hán còn sống hay không còn sống, "tại" hay "bất tại", sau
khi Ngài viên tịch, đều không đúng. Tỷ như ngọn lửa đang cháy bỗng nhiên tắt,
không thể nói khi tắt, ngọn lửa ấy đi về phía nào trong bốn phương tám hướng.
Khi nhiên liệu hết thì lửa tắt. Đức Phật nêu ra thí dụ ngọn lửa và thêm rằng
câu hỏi đặt như thế không đúng. Chúng ta có thể bối rối và không hiểu gì. nhưng
điều đó cũng không lạ.
Sau đây là một
thí dụ khác của nhà khoa học hiện đại, Robert Oppenheimer:
"Thí dụ,
nếu hỏi hột điện tử có giữ nguyên một vị trí không? Ta phải nói
"không". Nếu hỏi, với thời gian, hột điện tử có thay đổi vị trí
không? Ta phải nói "không". Nếu hỏi, hột điện tử có ở yên không? Ta
phải nói "không". Nếu hỏi, hột điện tử có di động không? Ta phải nói
"không".
"Đức Phật
đã giải đáp tương tợ khi có người hỏi Ngài về điều kiện của một người sau khi
chết. Nhưng đó là câu trả lời không quen thuộc với truyền thống khoa học của hai
thế kỷ XVII và XVIII."
Lẽ dĩ nhiên nhà
học giả uyên thâm muốn ám chỉ một người đã đắc quả A La Hán.
-oOo-
Đạt đến trạng
thái ấy thì có lợi ích gì? Tại sao phải chấm dứt mọi cuộc sinh tồn trên thế
gian? Tại sao không xác nhận rằng đời sống trên thế gian này đầy lạc thú?
Đó là những câu
hỏi điển hình thường được nêu lên do người, hoặc muốn tận hưởng khoái lạc của
đời sống, hoặc muốn phục vụ nhân loại, đảm đương trách nhiệm, và chấp nhận mọi
đau khổ.
Đối với hạng
trên, người Phật tử có thể nói: - "Nếu thấy thoả thích, ông cứ hưởng thọ
khoái lạc của đời sống, nhưng chớ nên làm nô lệ cho những thú vui tạm bợ và
huyền ảo. Dầu có thoả thích hay không, ông cũng phải gặt hái hậu quả của những
gì mà ông đã gieo".
Đối với hạng
sau, người Phật tử có thể nói: - "Ông hãy cố gắng tận dụng mọi phương tiện
để kiến tạo hạnh phúc cho nhân loại và hãy thoả thích với tinh thần phục vụ vị tha
ấy".
Phật Giáo trình
bày mục tiêu Niết-Bàn cho những ai cảm thấy cần đến và không bao giờ có ý cưỡng
bách ai. "Hãy đến và xem", Đức Phật khuyên như vậy.
-oOo-
Cho đến khi đạt
được mục tiêu cứu cánh, người Phật tử phải sống đời thanh cao hữu ích.
Phật Giáo có
những nguyên tắc luân lý tốt đẹp, thích hợp với người sơ cơ trên đường đạo pháp
cũng như người đã tiến triển khá xa. Đó là:
a. Năm giới
(Panca Sila): Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và
không dùng chất say.
b. Bốn Trạng
Thái Cao Thượng (Brahma Vihara, Tứ Vô Lượng Tâm): Từ, Bi, Hỷ và Xả.
c. Mười Phẩm
Hạnh Siêu Thế (Paramita, Ba La Mật): Bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ,
tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
d. Bát Chánh
Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Những ai có nguyện
vọng đắc Quả A La Hán nhân cơ hợi sớm nhất có thể suy niệm về lời Đức Phật
khuyên dạy Rahula (La Hầu La) như sau:
"Thân này
không phải của ta; cái này không phải là ta; đây không phải là linh hồn của
ta." ("N'etam mama, n'eso' hamasmi, na me so atta").
-oOo-
Phải nói lên
một cách từ tốn rằng quyển sách này không phải được viết ra cho hàng học giả,
mà cho các sinh viên, những người muốn tìm hiểu đời sống và giáo lý căn bản mà Đức
Phật đã ban truyền.
Khi soạn thảo,
tôi có dùng những bản dịch của hội "Pali Text Society" và nhiều văn
học phẩm khác mà tác giả có thể là Phật tử, có thể không. Đôi khi tôi chỉ phụ
họa suông quan điểm và dùng từ ngữ thích ứng của tác giả. Mỗi khi có thể được,
tôi đều có ghi xuất xứ.
Bản thảo đầu
tiên của quyển sách này được xuất bản vào năm 1942. Ấn hành lần này, bổn chánh
đã được duyệt sửa và thêm bớt nhiều.
Tôi rất lấy làm
cảm tạ ông V.F. Gunaratna, mặc dầu hết sức bận rộn với công việc phức tạp hằng
ngày trong chức vụ Chưởng Lý Toà Án quốc gia Sri Lanka (Tích Lan), đã dầy công duyệt
lại cẩn thận và xuất bản toàn bộ bản thảo với một niềm tin vững chắc và tâm đạo
nhiệt thành. Tuy không mang lại chút lợi lộc vật chất nào, đối với ông, đây là
một phần việc mà ông thích thú làm với tất cả tâm thành vì ông là một Phật tử
thuần thành, có thực hành, và có sự hiểu biết rộng rãi về Phật Pháp.
Nhưng nếu không
có lòng quảng đại của Ông Bà Trương Đình Dzu, Ông Bà Ong So, Cô Tiến sĩ B.
Pleyer và những thiện tín giàu lòng bố thí của chùa Kỳ Viên (Jetavana Vihara),
Sài Gòn, quyển sách này cũng không thể ấn hành được ở Việt Nam. Ước mong rằng
công đức Bố Thí Chân Lý này sẽ đem đến các vị ấy hạnh phúc trường cửu!
Tôi cũng có lời
cảm tạ các đệ tử chân thành của tôi ở Việt Nam, Ông Phạm Kim Khánh (Sunanda),
các cô Lê Thị Sanh (Jhayini), Cao Thị Cúc (Citra), Lương Tú Xuân (Karuna) và
Nguyễn Thị Phấn (Shanti), nhất là hai cô Sanh và Cúc, đã góp sức giúp tôi hoàn
thành tốt đẹp quyển sách này.
Narada
Kỳ Viên Tự
(Jetavana)
Sài Gòn,
14-7-1964/2508
Ghi chú
về hình bìa của quyển sách Việt ngữ: -- Phần trên một tượng
Phật bề cao 1.20 thước, do Phạm Kim Khánh chụp tại tư gia nhà điêu khắc Phúc
Điền. Hình được dùng làm mẫu để tạo pho tượng ở Thích Ca Phật Đài, Vũng Tàu.
Ghi chú
thêm:
Trong các ấn
bản in Việt ngữ không có phần tiểu sử của Ngài Narada Maha Thera do Cư sĩ Bình
Anson biên tập, chúng tôi bổ túc thêm vào nơi đây cho đầy đủ. Nguồn tư liệu
quyển sách này do Cư sĩ Bình Anson gửi tặng. (TVHS)