CHƯƠNG 37
Chướng ngại Tinh thần
(Năm Triền
cái)
"Có năm chướng ngại làm cản trở tâm.
Do các chướng
ngại này, tâm không mềm dẻo,
không nhu
thuận, không trong sáng,
không thể
được phân tách dễ dàng,
cũng không
được cấu tạo hoàn bị để tiêu trừ ô nhiễm".
Tạp A Hàm.
Chướng ngại
tinh thần, Nivarana (Ni + Var, có nghĩa làm trở ngại, ngăn chận), là cái gì gây
trở ngại cho tiến bộ tinh thần của ta, hay cái gì ngăn chận con đường đưa đến
giải thoát và những cảnh Trời.
Nivarana cũng
có nghĩa là cái gì "bịt trùm, bao kín, hay ngăn trở tư tưởng."
Có năm loại
chướng ngại tinh thần, hay năm pháp Triền Cái là:
1. Tham dục
(Kamacchanda), 2. Oán ghét (Vyapada, Sân hận), 3. Hôn trầm - Dã dượi
(Thina-Middha), 4. Phóng dật - Lo âu (Uddhacca-Kukkuca, Trạo hối), và 5. Hoài
nghi (Vicikiccha).
1. Kamacchanda
- Tham dục: là ham muốn về nhục dục, luyến ái theo ngũ trần (sắc, thinh, hương,
vị, xúc). Tham dục cũng được xem là một trong những thằng thúc, trói buộc chúng
sanh vào vòng luân hồi.
Một người ở mức
độ trung bình thường xu hướng chạy theo những ham muốn có tánh cách huyền ảo
tạm bợ của cơ thể vật chất, nếu không đủ khả năng để kiểm soát và kềm chế thì
chắc chắn phải bị sa đọa trong dục vọng. Chướng ngại tinh thần này có thể chế
ngự bằng tâm an trụ vào một điểm (ekaggata, nhất điểm tâm), một trong năm chi
thiền. Khi đắc Quả Tư Đà Hàm (Sakadagami), hành giả khắc phục được phần lớn, và
chỉ hòa toàn chế ngự Tham Dục khi đắc Quả A Na Hàm (Anagami). Những hình thành
vi tế của luyến ái như Rupa Raga, luyến ái theo níu theo những cảnh sắc giới,
và Arupa Raga, luyến ái theo vô sắc giới, chỉ được trọn vẹn tiêu trừ khi đắc
Quả A La Hán.
Sáu điều kiện
sau đây có khuynh hướng tận diệt tham dục:
1. Nhận thức
mối nguy hại của đối tượng, 2. Kiên trì quán tưởng về những nguy hại ấy, 3. Thu
thúc lục căn, 4. Ẩm thực độ lượng, 5. Tạo giới thân cận tốt, và 6. Luận đàm hữu
ích.
2. Vyapada, Oán
ghét, hay không bằng lòng, bất toại nguyện: Điều ưa thích dẫn đến luyến ái, còn
điều trái với sở thích đưa đến tâm ghét bỏ, không bằng lòng. Luyến ái và ghét
bỏ là hai ngọn lửa to lớn, thiêu đốt thế gian. Được sự hỗ trợ của vô minh, cả
hai tạo lên những bất hạnh trong đời.
Một yếu tố khác
của Thiền (jhana), "Phỉ", có khả năng chế ngự tâm oán ghét. Chướng
ngại này được khắc phục phần lớn khi hành giả đắc Quả Tư Đà Hàm, và được trọn
vẹn chế ngự khi đắc Quả A Na Hàm.
Sáu điều kiện
sau đây có xu hướng tiêu trừ chướng ngại oán ghét:
1. Hay biết,
ghi nhận đối tượng với thiện ý, 2. Kiên trì quán tưởng tâm Từ (Metta), 3. Suy
nghiệm rằng Nghiệp (kamma) là do chính ta tạo nên, 4. Sống theo quan điểm ấy,
5. Tạo giới thân cận tốt, và 6. Luận đàm hữu ích.
3.
Thina-Middha, Hôn Trầm - Dã Dượi: Thina, là trạng thái uể oải của tâm vương và
Middha, Dã Dượi, là trạng thái uể oải của tâm sở.
Một tâm trạng
nhuễ nhoại cũng bất động như một vật vô tri vô giác, như cái nón treo trên cây,
như nhựa đeo dính trên khúc gỗ hay một miếng bơ quá đặc cứng không có thể trét
ra.
Không nên hiểu
Hôn Trầm - Dã Dượi là trạng thái mỏi mệt không muốn cử động, bởi vì chư vị A La
Hán, đã tận diệt hai pháp triền cái ấy, đôi khi vẫn còn cảm thấy thân thể mệt
mỏi. Hai chướng ngại này đưa đến tâm lười biếng, uể oải, nghịch nghĩa với hạnh
tinh tấn, đức kiên trì. Yếu tố "Tầm", một chi khác của Thiền, có thể
khắc phục phần lớn, và hoàn toàn chế ngự Hôn Trầm - Dã Dượi khi đắc Quả A La
Hán.
Sáu điều kiện
sau đây có chiều hướng tiêu trừ hai chướng ngại này:
1. Suy niệm về
đối tượng của ẩm thực vô độ lượng, 2. Thay đổi oai nghi, hay tư thế, 3. Quán
tưởng đối tượng ánh sáng, 4. Sống ngoài trời, 5. Tạo giới thân cận tốt, và 6.
Luận đàm hữu ích.
4. Uddhacca,
Phóng Dật: là trạng thái bất ổn, hay chao động, của tâm. Đó là tâm trạng có
liên quan đến tất cả những tâm bất thiện. Thông thường, tâm trở nên chao động,
hay bất ổn định, khi hành động bất thiện.
Kukkucca, Lo
Âu, là hối tiếc một hành động bất thiện đã làm, một một hành động thiện đã bỏ
qua không làm, hay làm không được viên mãn. Chính sự ăn năn về một hành động
bất thiện không ngăn cản được hậu quả không tốt của nó xẩy ra. Hối tiếc tốt đẹp
nhất là quyết tâm không lặp lại hành động bất thiện ấy nữa.
Cả hai pháp
triền cái Phóng Dật và Lo Âu này đều có thể khắc phục bằng chi Thiền
"Lạc" (sukka). Hành giả sẽ tận diệt Phóng Dật lúc đắc Quả A La Hán,
và Lo Âu, với Đạo Quả A Na Hàm.
Sáu điều kiện
sau đây có chiều hướng chế ngự hai tâm trạng ấy:
1. Thông suốt
pháp Học, 2. Nghiên cứu học hỏivà thảo luận, 3. Thấu triệt tinh thần của Giới
Luật, 4. Thân cận với những vị Tăng cao Hạ, 5. Thân cận với người tốt, và 6.
Luận đàm hữu ích.
5. Vicikiccha,
Hoài Nghi: là tâm trạng bất định." Vi" là không chứa đựng.
"Cikkiccha" là trí tuệ. Vicikicha là cái gì không chứa đựng dược liệu
cho trí tuệ.
Cũng được giải
thích là sự va chạm gây nên do suy niệm hỗn tạp, do tâm trạng thắc mắc (Vici:
tìm kiếm; Kiccha, va chạm).
Ở đây, Hoài
Nghi (Vicikiccha) không có nghĩa là mất niềm tin, không phải hoài nghi về Đức
Phật v.v... bởi vì một người không phải Phật tử cũng có thể khắc phục
Vicikiccha, Hoài Nghi, và đắc Thiền (jhana). Nếu xem như một thằng thúc, tức
dây trói buộc chúng sanh vào vòng luân hồi thì Vicikkiccha là hoài nghi về Đức
Phật v.v... nhưng, nếu xem như một chướng ngại tinh thần, thì đó chỉ là một tâm
trạng lỏng lẻo, không nhất quyết về điều mình đang làm. Theo bản Chú giải,
Vicikkiccha là không đủ khả năng quyết định một việc gì đó phải là thế nào. Nói
khác đi, thì đó là tâm trạng bất định.
Trạng thái này
có thể khắc phục được bằng chi Thiền "Sát", nghĩa là liên tục chú
tâm. Hành giả tận diệt Hoài Nghi khi đắc Quả Tu Đà Huờn.
Sáu điều kiện
sau đây có chiều hướng tiêu trừ Hoài Nghi:
1. Thông suốt
Giáo Pháp và Giới Luật, 2. Nghiên cứu tìm học và thảo luận, 3. Thấu triệt tinh
thần của Giới Luật (Vinaya), 4. Niềm tin hoàn toàn vững chắc, 5. Thân cận người
tốt, và 6. Luận đàm hữu ích.