CHƯƠNG 27
Những
Cảnh Giới
"Không thể đi đến mức cùng tận của thế gian".
Tăng Nhứt A Hàm
Theo Phật Giáo, quả địa cầu chỉ là một điểm nhỏ trong vũ trụ bao la, không phải
là nơi duy nhất trên đó có sanh linh, mà con người cũng không phải là chúng
sanh duy nhất. Chúng sanh vô cùng tận, mà hệ thống tinh tú cũng cô cùng tận. "Bào
thai không phải là con đường duy nhất để đi tái sanh" . Ta cũng có thể đi
mãi đến mức cùng tận của thế gian [1]. Đức Phật dạy như vậy.
Tùy theo nghiệp
thiện hay bất thiện đã tạo, chúng sanh có thể tái sanh vào một trong ba mươi
mốt (31) cảnh giới.
Có bốn trạng
thái bất hạnh được xem là khổ cảnh (apaya) [2] vì cả tinh thần lẫn vật chất đều
chịu đau khổ. Bốn cảnh giới ấy là:
1. Địa Ngục (Niraya).
"Ni" là
không có. "Aya" là hạnh phúc. Niraya là cảnh giới trong đó không có
hạnh phúc, là cảnh khổ mà một chúng sanh phải chịu vì đã tạo nghiệp bất thiện,
hay nói cách khác, là trạng thái đau khổ mà chúng sanh phải chịu để trả quả bất
thiện đã tạo lúc nào trong quá khứ. Khổ cảnh không phải là địa ngục trường cửu
mà chúng sanh bị bắt buộc phải ở trong đó để chịu hình phạt đau khổ một cách vĩnh
viễn.
Đến lúc trả
xong nghiệp xấu, kẻ bất hạnh cũng có thể tái sanh vào một cảnh giới khác, an
vui hạnh phúc, nhờ các thiện nghiệp đã tạo.
2. Cảnh Thú
(Tiracchana-yoni).
"Tiro"
là xuyên qua. "Acchana" là đi. Tiracchana-yoni là cảnh giới của loại
cầm thú. người Phật tử tin có sự tái sanh vào cảnh thú vì đã tạo nghiệp xấu.
Tuy nhiên, nếu có tích trữ thiện nghiệp thích đáng, từ cảnh thú chết đi, cũng
có thể tái sanh vào cảnh người. Một cánh chính xác, ta phải nói rằng cái nghiệp
đã biểu hiện dưới hình thức thú có thể biểu hiện dưới hình thức người, hay
ngược lại. Cũng như luồng điện có thể biển hiện kế tiếp dưới nhiều hình thức như
ánh sáng, hơi nóng, động lực v.v... Như vậy, động lực không phải do hơi nóng,
cũng không phải do ánh sáng mà phát sanh. Cùng thế ấy, không phải người trở
thành thú hay thú trở thành người [3].Ta cũng ghi nhận rằng lắm khi có những con
thú như mèo, chó sống còn đầy đủ hơn người, tuy vẫn mang hình thức thú. Đó cũng
do tiền nghiệp.
Chính Nghiệp
tạo tinh chất của sắc tướng. Hình thể như thế nào là do hành động thiện hay bất
thiện trong quá khứ.
3. Cảnh Ngạ Quỉ
(Peta-joni).
Đúng theo nguyên
ngữ, "Peta" là người đã ra đi, hay người tuyệt đối không có hạnh
phúc. Cảnh ngạ quỉ có nhiều hình thù xấu xa dị tướng mà mắt thường của người
không thể thấy. Ngạ quỉ không có cảnh giới riêng biệt của mình mà sống trong
rừng bụi, ở những nơi dơ bẩn v.v... Bộ Samyatta (Tạp A Hàm) cũng có đoạn nhắc
đến cảnh ngạ quỉ.
Đức Moggallana
(Mục Kiền Liên) miêu tả trạng thái đau thương ấy như sau:
"Vừa rồi,
đi từ đồi kên kên xuống, tôi có thấy một đám diều, quạ và kên kên tranh nhau xô
đẩy và mổ cắn một chúng sanh chỉ còn bộ xương, đang bay lơ lửng trên không
trung và kêu la rên siết. Nầy đạo hữu, lúc đó tôi có ý nghĩ như sau:- Thật là
quái lạ!Vì sao chúng sanh có thể đến đỗi ký hình dị thể, tàn tệ như thế, thật
là kinh dị."
"Khi bạch
với Đức Phật. Ngài dạy rằng người ấy trước kia là một tên đồ tể, do nghiệp đã
tạo trong quá khứ , phải lâm vào trạng thái ấy trong hiện tại. [4]
Theo sách
Milinda Vấn Đạo, có bốn hạng ngạ quỉ:
Hạng Vantasika,
sống bằng vật ói mửa của kẻ khác, hạng Khuppipasino, phải luôn luôn chịu đói
khát, hạng Nijjhamatanhika, phải chịu khát đến hao mòn tiều tụy, hạng
Paradattupajivino, chỉ sống nhờ thực vật của người khác cho.
Trong kinh
Tirokudda sutta (Khuđaka Patha) có dạy rằng những hạng ngạ quỉ kể trên có thể
hưởng được phước báu mà thân quyến họ đã tạo nên và hồi hướng đến họ, và cũng
có thể nhờ đó mà tái sanh sang một cảnh giới khác có hạnh phúc hơn.
4. Cảnh Giới A
Tu La (Asura-yoni).
Là cảnh giới
của những người không bao giờ hớn hở vui tươi và không bao giờ có những cuộc
tiêu khiển giải trí. Họ là một hạng chúng sanh khác cũng đau khổ tương tợ như
ngạ quỉ. Nên phân biệt hạng nầy với hạng Asuras thường hay chống đối chư Thiên.
-oOo-
Trên bốn cảnh
giới bất hạnh (duggati) ấy, có bảy cảnh giới hữu phúc (sugati). Bảy cảnh ấy là:
1. Cảnh Người
(Manussa). [5]
Là một cảnh
giới trong đó hạnh phúc và đau khổ lẫn lộn. Chư vị Bồ Tát thường chọn tái sanh
vào cảnh nầy vì ở đây có nhiều hoàn cảnh thuận lợi để phục vụ và thực hành
những Pháp cần thiết nhằm thành tựu Đạo Quả Phật. Kiếp cuối cùng của Bồ Tát
luôn luôn ở cảnh người.
2. Cảnh Tứ Đại
Thiên Vương (Catummaharajika).
Cảnh trời thấp
nhất, nơi mà những vị Trời canh phòng bốn hướng lưu ngự cùng với đoàn tùy tùng.
3. Cảnh Đạo Lợi
(Tavatimsa).
Tavatimsa có
nghĩa là ba mươi ba. Có tên như vậy vì Đạo Lợi cũng là cung Trời của ba mươi ba
vị, trong đó Trời Sakka (Đế Thích) là vua. Theo một tích chuyện, có ba mươi ba
người kia do Magha (một tên khác của Trời Đế Thích) lãnh đạo, tình nguyện thực
hiện nhiều công tác từ thiện. Cả ba mươi ba vị đều tái sanh vào cảnh nầy. Chính
ở cung Trời Đạo Lợi mà Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp cho chư thiên nghe trong ba
tháng liền.
4. Cảnh Dạ Ma
(Yama).
Yama có nghĩa
cái gì tiêu diệt khổ đau, là tên cảnh giới của các vị Trời Dạ Ma.
5. Cảnh Đấu
Xuất Đà (Tusita).
Theo nghĩa
trắng, Tusita là dân cư có hạnh phúc, là cảnh giới khoái lạc.
Những vị Bồ Tát
đã thực hành tròn đủ các Pháp cần thiết để đắc Quả Phật đều lưu ngụ ở cảnh giới
nầy, chờ cơ hội thich nghi để tái sanh vào cảnh người lần cuối cùng. Bồ Tát
Mettaya (Di Lạc), vị Phật tương lai, hiện đang ở cảnh Trời nầy chờ ngày tái
sanh vào cảnh người để thành tựu Đạo Quả Phật. Hoàng hậu Maya (Ma Da), mẹ của
Bồ Tát Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), sau khi chết cũng tái sanh vào cảnh Trời Đấu
Xuất Đà và từ đó sang cung Trời Đạo Lợi nghe Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma).
6. Cảnh Hóa Lạc
Thiên (Nimmanarati).
Cảnh giới của
những vị Trời ở trong những cung điện to lớn, đẹp đẽ.
7. Cảnh Tha Hóa
Tự Tại (Paranimmitavasavatti).
Cảnh giới của
những vị Trời có khả năng tạo thêm những vị khác để phục vụ mình
Chư Thiên trong
sáu tỉnh Trời thuộc Dục Giới kể trên cũng có hình thể, nhưng cơ thể vật chất
(sắc) của các vị ấy rất vi tế hơn "sắc" ở cảnh người nhiều. Vì thế,
thông thường mắt người không thể trông thấy.
Tất cả những vị
ấy đều phải chết, mặc dầu trên một vài phương diện, như về hình thể, nơi ở, vật
thực, thì được sung sướng hơn ở cảnh người. Về trí tuệ, các vị ấy thường không
hơn người .
Chư Thiên trong
cảnh Dục Giới đều là hóa sanh, bỗng nhiên xuất hiện dưới hình thức một thiếu nữ
hay một thanh niên lối mười lăm hay mười sáu tuổi. Đó là những cảnh giới có nhiều
khoái lạc tạm bợ.
Bốn (4) cảnh
khổ (Apaya) và bảy (7) cảnh hữu phúc (Sugati) đều nằm trong Dục Giới
(Kamaloka).
-oOo-
Trên Dục Giới có
Sắc Giới (Rupaloka), cảnh giới các vị Phạm Thiên, những vị Trời đã từ bỏ tham
dục và đang thọ hưởng hạnh phúc của Thiền (Jhana).
A.- Cảnh Giới
tương ứng với Sơ Thiền
1. Phạm Chúng
Thiên (Brahma Parisajja). Cảnh giới của các vị Trời tùy tùng các vị Phạm Thiên.
2. Brahma
Purohita. Cảnh giới của những vị Trời thân cận các vị Phạm Thiên.
3. Đại Phạm
Thiên (Maha Brahma). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên có nhiều hạnh phúc, đẹp
đẽ và tuổi thọ nhiều hơn các Phạm Thiên khác, nhờ phước báu đạo do thiền tập.
B.- Cảnh Giới
tương ứng với Nhị Thiền:
4. Thiều Quang
Thiên(Parittabha). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên có ít ánh sáng.
5. Vô Lượng
Quang Thiên (Appamanabha). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên có ánh sáng vô
cùng, vô hạn định.
6. Quang Âm
Thiên (Abhassara). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên có ánh sáng rực rỡ chói
lòa.
C.- Cảnh Giới
tương ứng với Tam Thiền:
7. Thiền Tịnh
Thiên (Parittasubha). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên có hào quang nhỏ.
8. Vô Lượng
Tịnh Thiên (Appamanasubha). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên co hào quang vô
cùng, vô hạn định.
9. Biến Tịnh
Thiên (Subha kinha). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên có hào quang vững chắc,
không lay động.
D.- Cảnh Giới
tương ứng với Tứ Thiền:
10. Quảng Quả
Thiên (Vehapphala). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên hưởng quả rộng lớn.
11. Vô Tưởng
Thiên (Asannasatta). Cảnh giới của những vị Trời không có tâm (danh).
12. Vô Phiên
Thiên (Suđhavasa). Cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Cảnh nầy lại chia làm năm
(5) là:
i. Aviha, cảnh
giới trường cửu.
ii. Atappa, cảnh
giới êm đềm tĩnh lặng.
iii. Sudassa, cảnh
giới đẹp đẽ.
iv. Sudassi, cảnh
giới quang đãng.
v. Akannittha,
cảnh giới tối thượng.
Chỉ có những vị
đắc Thiền Sắc Giới mới tái sanh vào những cảnh Sắc Giới kể trên. Đắc Sơ Thiền
thì sanh vào ba cảnh giới thứ nhất (A), đắc Nhị Thiền thì sanh vào ba cảnh giới
thứ nhì (B), đắc Tam Thiền thì sanh vào ba cảnh giới thứ ba (C), đắc Tứ Thiền
thì sanh vào bảy cảnh giới thứ tư (D).
Trong mỗi tầng
Thiền-na, có nhiều bậc. Cũng cùng đắc một tầng thiền, như Sơ Thiền chẳng hạn,
mà có người ở bậc thấp còn có người ở bậc cao. Bậc thứ ba là những người đã nắm
vững hoàn toàn tầng Thiền của mình.
Trong cảnh thứ
11, Vô Tưởng Thiên (Asannasatta), chúng sanh không có tâm. Chỉ có sự biến
chuyển liên tục của Sắc. Trong lúc năng lực của Thiền (Jhana) diễn tiến thì tâm
tạm thời chấm dứt. Thông thường Danh và Sắc dính liền với nhau, không thể phân
tách ra được. Nhưng đôi khi, do năng lực của Thiền, như trường hợp kể trên,
cũng có thể tách rời Danh và Sắc. Khi một vị A La Hán nhập đại định (Nirodha Samapatti,
Diệt Thọ Tưởng Định) cũng vậy, tâm của Ngài tạm thời không có. Đối với hạng
phàm nhân như chúng ta thì khó mà quan niệm được một trạng thái tương tợ. Tuy nhiên,
có nhiều việc không thể quan niệm mà thật sự có.
Vô Phiên Thiên
(Suddavasa) hay cảnh giới hoàn toàn tinh khiết là cảnh giới tuyệt đối riêng
biệt của các vị A Na Hàm (Anagami). Chúng sanh ở trong một cảnh khác mà đắc Quả
Bất Lai, hay A Na Hàm, thì tái sanh vào cảnh nầy. Về sau, các Ngài đắc Quả A La
Hán và sống cảnh hoàn toàn tinh khiết ấy cho đến lúc hết tuổi thọ, nhập Đại
Niết Bàn.
-oOo-
Có bốn (4) cảnh
gọi là Arupaloka (Vô Sắc Giới), hoàn toàn không có phần vật chất (Sắc) hay hình
thể.
Theo Phật Giáo,
có những cảnh giới trong ấy chỉ có Danh (tâm) mà không có Sắc (vật chất).
"Cũng như khi ta cầm một thanh sắt và buông thả tay ra thì thanh sắt rơi
xuống đất. Tuy nhiên cũng có thể dùng đá nam châm để giữ thanh sắt lơ lững giữa
không trung. Cùng một thế ấy, do Thiền, có thể tách rời Danh ra khỏi Sắc và giữ
trạng thái ấy cho đến khi chấm dứt Thiền. Đó chỉ là sự tách rời tam thời Danh và
Sắc, hai yếu tố theo thường phải dính liền nhau." Cũng nên ghi nhận rằng
không có giống nam, hay giống nữ trong hai cảnh Sắc và Vô Sắc Giới.
Trong Vô Sắc
Giới có bốn cảnh tương xứng với bốn tâm Thiền Vô Sắc Giới:
1. Không Vô
Biên Xứ Thiên (Akasanankayatana). Cảnh giới có quan niệm rằng không gian vô
tận.
2. Thức Vô Biên
Xứ Thiên (Vinnancayatana). Cảnh giới có quan niệm quan niệm rằng thức là vô cùng
tận.
3. Vô Sở Hữu Xứ
Thiên (Akincannancayatana). Cảnh giới có quan niệm về hư không.
4. Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Thiên (Neva Sanna
Nasannayatana). Cảnh giới có quan niệm rằng không có tri giác cũng không có
không-tri-giác. [6]
Nên ghi nhận
rằng Đức Phật không nhằm mục đích truyền bá một lý thuyết về vũ trụ. Dầu những
cảnh giới trên có hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáo lý của Ngài.
Không ai bị bắt buộc phải tin điều nào, nếu điều ấy không thích hợp với suy
luận của mình. Nhưng nếu bác bỏ tất cả những gì mà lý trí hữu hạn của con người
không thể quan niệm thì điều ấy cũng không hoàn toàn chánh đáng.
Bảng Tóm Tắt
Chú thích:
[1] Xem Kindred
Sayings, phần i, trang 85-86.
[2] Apa + aya
=không có hạnh phúc. Niraya (Ni + aya) cũng có nghĩa "thiếu hạnh
phúc"
[3] Xem Chương
31.
[4] Xem Kindred
Sayings, phần ii, trang 170.
[5] Đúng theo
nghĩa trắng, là những chúng sanh có tâm phất triển, hay ở một trình độ cao
(mano ussannam etasam). Dùng từ Bắc Phạn (Sanskrit) tương đương với Manussa là
Manushya, có nghĩa là những người con của Manu. Gọi như vậy vì họ trở nên những
chúng sanh có văn hóa cao hơn nhờ thần Manu.
[6] Xem "A
Manual of Abhidhamma", do tác giả Narada Thera, trang 234-246, để có thêm
chi tiết về tuổi thọ của những cảnh giới khác nhau.