CHƯƠNG 17
Bốn Chân Lý Thâm Diệu hay Tứ Diệu Đế
"Ánh sáng phát sanh đến
Như Lai, rọi rõ những việc trước kia chưa từng được nghe đến." -- Kinh
Chuyển Pháp Luân
Chân lý (Sacca)
là cái gì thấy sự có. Danh từ Sanskrit (Bắc Phạn), Satya, có nghĩa là một sự
kiện hiển nhiên, không còn tranh luận.
Theo Phật Giáo,
có bốn chân lý như thế, Tứ Diệu Đế [1]. Cả bốn đều liên quan đến cái gọi là
chúng sanh.
Trong kinh
Rohitassa, Đức Phật dạy:
"Trong
chính tấm thân dài một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng, Như Lai tuyên
bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến
sự chấm dứt thế gian. [2] "
Trong đoạn kinh
này, danh từ"Loka" - được phiên dịch là "Thế gian" - ám chỉ
tình trạng đau khổ.
Bài kinh quan
trọng này đề cập đến bốn chân lý Thâm Diệu (Tứ Diệu Đế) mà chính Đức Phật đã
khám phá ra do chính tri kiến trực giác của Ngài. Dầu chư Phật có xuất hiện hay
không, các chân lý ấy vẫn tồn tại, và một vị Phật chỉ là nhân vật đã trực nhận
và truyền dạy lại cho thế gian còn đang bị màn vô minh che lấp. Những chân lý
ấy tuyệt đối, vĩnh cửu, bất di bất dịch, không thể biến đổi. Đức Phật đã tự
mình chứng ngộ chớ không nhờ sự hỗ trợ của ai khác. Chính lời của Ngài là
"... trước kia chưa từng được nghe đến. [3]"
Phạn ngữ (Pali)
gọi chân lý ấy là Ariyasaccani (Thánh Đế). Gọi như vậy vì đây là những chân lý
mà bậc hoàn toàn trong sạch, bậc thánh vĩ đại nhật là Đức Phật đã tìm ra.
Chân lý đầu
tiên đề cập đến Dukkha - một danh từ khó có thể chính xác chuyển sang ngôn ngữ
nào khác - mà ta thường gọi là đau khổ hay phiền não (Khổ Đế). Đứng về phương
diện cảm giác, Dukkha là cái gì làm cho ta khó chịu đựng ("du" là
khó, "kha" là chịu đựng).
Nếu xem như một
chân lý trừu tượng, Dukkha hàm xúc ý nghĩa khinh miệt ("du"), và
trống rổng ("kha"). Thế gian nằm trong đau khổ, và như vậy là đáng
khinh miệt, không đáng cho ta bám níu. Thế gian là một ảo ảnh, không có chi
thực tế. Do đó thế gian là trống rỗng, hư vô. Vậy Dukkha là sự hư vô đáng khinh
miệt.
Hạng người
thường chỉ thấy lớp ngoài, nhưng bậc thánh nhân thấy được thực tướng của sự
vật. Đối với các Ngài, tất cả mọi kiếp sinh tồn đều dẩy đầy đau khổ và các Ngài
nhận thấy rằng không thể có hạnh phúc thật sự, hoàn toàn bền vững, trong một
thế giới huyền ảo, tạm bợ và vô thường. Không thể có hạnh phúc trường tồn vĩnh
cửu trong một thế gian luôn luôn biến đổi. Hạnh phúc vật chất chỉ là thỏa mãn
một vài ước vọng. Như "khi Ta vừa đạt đến thì nó vội lìa bỏ ta". Dục
vọng không khi nào được thỏa mãn trọn vẹn. Không bao giờ ta cho là đủ.
Mọi người đều
phải trãi qua giai đoạn sanh (jati), và do nơi sự sanh, có già (jara), bệnh
(vyadhi), và cuối cùng là chết (marana). Không ai tránh khỏi bốn nguyên nhân ấy
của sự đau khổ.
Một ước vọng
không được toại nguyện làm cho ta đau khổ. Chúng ta không muốn sống chung với
người không ưa thích mà cũng không muốn xa lìa người thân yêu. Những điều thiết
tha mong mỏi không phải lúc nào cũng được thành tựu. Trái lại, những hoàn cảnh
nghịch lòng lắm lúc xảy đến một cách đột ngột, làm cho ta vô cùng khốn khổ. Đôi
khi một vài trường hợp khó khăn trở thành không thể chịu đựng nổi và đau khổ
đến mức độ có người suy nhược và kém hiểu biết phải nghĩ đến việc quyên sinh
tánh mạng, tưởng chừng như cái chết sẽ giải quyết mọi vấn đề.
Hạnh phúc thực
sự nằm bên trong chúng ta không thể định nghĩa bằng những danh từ như tài sản,
quyền thế, danh vọng, hay chinh phục, xâm lăng, chiếm đoạt. Nếu sự nghiệp vật
chất ấy được thâu đoạt bằng bạo lực hay bằng một phương tiện bất công nào khác,
hoặc giả, nếu sự nghiệp vật chất ấy được hướng theo một chiều lầm lạc, nếu ta
đem lòng luyến ái, trìu mến nó , thí đó là một nguồn đau khổ và phiền não - cho
người làm chủ nó.
Đối với người
thường, thọ hưởng dục lạc là hạnh phúc tốt đẹp duy nhất. Chắc chắn rằng có hạnh
phúc nhất thời trong khi mơ ước, lúc thọ hưởng, và khi hồi nhớ lại những khoái
lạc vật chất tương tợ, nhưng hạnh phúc ấy quả thật là huyền ảo và tạm bợ. Theo
Đức Phật, không luyến ái (viragata), tức là vượt lên trên mọi dục lạc, là hạnh
phúc cao thượng hơn.
Tóm tắt, chính
cơ thể vật chất nầy là cội nguồn của đau khổ.
Khổ đế, chân lý
đầu tiên về sự khổ - tùy thuộc nơi cái được gọi là chúng sanh và các sắc thái
của đời sống - phải được phân tách tỉ mĩ và quan sát tận tường . Sự quan sát
nầy dẫn đến tri kiến chân chánh về thực tướng của ta .
Nguồn cội của
sự đau khổ nầy là ái dục (tanha), lòng khát khao thèm muốn, hay luyến ái, bám
níu, là Chân lý Thâm Diệu thứ nhì (Tập Đế).
Kinh Pháp Cú
ghi nhận:
"Do ái dục
phát sanh sầu muộn, Do ái dục phát sanh lo sợ. Người đã trọn vẹn thoát khỏi ái
dục không còn sầu muộn, càng ít lo sợ." (câu 216).
Ái dục là một
năng lực tinh thần hết sức hùng mạnh, luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi
người, mọi chúng sanh, là nguyên nhân của bao nhiêu điều bất hạnh trong đời.
Chính ái dục - thô tục hay vi tế - là cho ta đeo níu sự sống dưới mọi hình thức
và, do đó, dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạc trong vòng luân hồi.
Hình thức thô
kịch nhất của ái dục được giảm suy khi ta đắc Quả Tư Đà Hàm (Sakadagami, Nhứt
Lai), tầng thứ nhì trong tứ thánh, và tận diệt khi đắc Quả A Na Hàm (Anagami,
Bất Lai). Đến khi chứng đắc Quả A La Hán mới hoàn toàn dập tắt mọi hình thức vi
tế của ái dục.
Cả hai, đau khổ
và ái dục chỉ có thể được tận diệt bằng cách đi theo con đường "Trung
Đạo" mà Đức Phật đã vạch ra để thành đạt hạnh phúc Niết Bàn tối thượng .
Diệt Đế, chân
lý thâm diệu thứ ba, là sự chấm dứt toàn vẹn mọi hình thức đau khổ, tức Niết
Bàn, mục tiêu cứu cánh của người Phật tử. Mục tiêu nầy phải được thành tựu bằng
cách tận diệt ái dục.
Niết Bàn phải
được thấu triệt bằng nhãn quang tinh thần và do sự từ bỏ tất cả mọi luyến ái
bên trong đối với thế gian bên ngoài. [4]
Chân lý nầy
(Diệt Đế) phải được chứng ngộ bàng cách trau dồi Bát Chánh Đạo (con dường chân
chánh chia làm tám chi). Đó là con dường duy nhất dẫn đến Niết Bàn (Đạo Đế).
Con đường nầy tránh xa cực đoan ép xác khổ hạnh, làm suy giảm trí thức, và cực
đoan lợi dưỡng, làm chậm trễ mọi tiến bộ tinh thần.
Bất Chánh Đạo
gồm tám yếu tố, hay tám chi, được kể ra như sau:
1.- Chánh kiến
(Samma ditthi)
2.- Chánh Tư Duy
(Samma Samkappa)
3.- Chánh Ngữ
(Samma Vaca)
4.- Chánh Nghiệp
(Samma Kammanta)
5.- Chánh Mạng
(Samma Ajiva)
6.- Chánh Tinh Tấn
(Samma Vayama)
7.- Chánh Niệm
(Samma Sati)
8.- Chánh Định
(Samma Samadhi)
1.- Chánh Kiến
là hiểu biết đúng đắn, tức am hiểu tận tường Tứ Diệu Đế. Nói một cách khác,
Chánh Kiến là thấu triệt thực tướng của bản thân mình. Kinh Rohitassa Sutta dạy
rằng tất cả chân lý trong vũ trụ đều nằm vỏn vẹn trong tấm thân một trượng nầy.
Chánh Kiến là
yếu tố tất yếu trong Phật Giáo để thành tựu mục tiêu cứu cánh.
2.- Do sự hiểu
biết chân chánh, có những tư tưởng đúng đắn. Chánh Tư Duy là chi thứ nhì của
Bát Chánh Đạo. Nhận định rằng Chánh Tư Duy là "quyết định", hay
"có nguyện vọng", chân chánh ắt không đúng hẳn với Phạn ngữ Sampaka.
Ý nghĩ chân chánh, hay suy niệm chân chánh, có phần sát nghĩa hơn. "Có
những tư tưởng chân chánh" được coi là chính xác hơn hết.
Trong Bát Chánh
Đạo, Samkappa đồng nghĩa với "Vitakka", "Tầm", là một tâm
sở rất quan trọng giúp ta gạt bỏ những ý tưởng và những khái niệm sai lầm, đồng
thời tạo những tâm sở có tánh cách thiện.
Tâm làm cho con
người dơ bẩn hay trong sạch. Tâm xây đấp bản tánh và gầy dựng số mạng con
người. Tư tưởng thấp hèn làm cho ta trở nên bần tiện. Trái lại, tư tưởng trong
sạch nâng đỡ con người đến chỗ thanh cao siêu thoát. Lắm khi chỉ một tư tưởng
cũng đủ tiêu diệt thế gian.
Chánh Tư Duy
gồm ba phần:
a.- Nekkhamma.
Xuất gia, là sự từ khước những dục vọng trần tục, hay lòng vị tha, nghịch nghĩa
với tâm luyên ái, vị kỹ, bám níu vào tư sản.
b.- Avyapada,
tâm từ ái, thiện chí , hay hảo tâm, nghịch nghĩa với thù hận, ác ý, ganh ghét.
c.- Avihimsa,
không hung bạo, hay ôn hòa, hiền lương, bi mẫn, nghịch nghĩa với tính hung bạo,
tàn ác.
Những đức tánh
và những tật xấu kể trên luôn luôn ngủ ngầm bên trong mọi người. Ngày nào mà
chúng ta còn là phàm nhân thì các đức tánh và tật xấu ấy cón có thể đột ngột
bộc phát và biểu hiện ra ngoài với sức trỗi dậy khó lường trước được.
Đến khi tận
diệt mọi ô nhiễm và đắc quả A La Hán rồi tâm mới hoàn toàn trong sạch.
Trong thế gian
vô minh nầy, tham, sân, si là nguồn cội của tất cả tội lỗi. Kẻ thù độc hiểm
nhất của nhân loại là lòng tham, tức sự luyến ái, bám níu vào cái được gọi là
"Ta", hay "Của Ta". Tất cả mọi nghiệp dữ đều có thể xảy ra
do lòng tham gây nên.
Khi bị trở
ngại, lòng tham tức giận, sanh ra thù hằn. Chúng ta luôn luôn lựa chọn. Hoặc
vui thích với những gì vừa ý, hoặc ghét bỏ điều gì phật lòng. Vừa ý thì luyến
ái, bám níu. Trái lòng thì bất mãn, xua đuổi, sân hận, oán ghết. Lòng tham
thường thúc giục ta bám níu vào dục lạc và tìm mọi phương cách để thỏa mãn nhục
dục. Tâm sân làm cho ta tức giận, lắm khi đến độ cố gắng tiêu diệt điều mình
không ưa thích. Đến khi diệt được tự ngã, không còn chấp cái "Ta" nữa
thì ta nhận thức rằng tất cả đều tạm bợ, và tất cả đều nằm dưới sự chi phối của
định luật vô thường. Lúc ấy tham và sân tự nhiên tiêu tan, không còn nữa.
Kinh Pháp Cú có
ghi:
"Không có
lửa nào như lửa tham
Không có ngục tù
nào như lòng sân
Không có lưới nào
như vô minh
Và không có dòng
sông nào như ái dục". (câu 251)
Trong khi lần
bước trên bậc thang tiến hóa tinh thần, chúnh ta lần hồi từ bỏ mọi luyến ái,
thô kịch và vi tế, mọi hình thức đeo níu vào những gì có liên quan đến
"Của Ta" và "Ta", tựa hồ như em bé kia, càng trưởng thành,
em dần dần từ bỏ những món đồ chơi thân yêu quý chuộng một thời nào. Nếu lúc
còn trẻ thơ mà có người đến giải thích cho rằng các món đồ chơi kia là vô ích,
nên bỏ đi, thì chắc là em không bằng lòng. Vì tuổi còn thơ, em không thể có sự
hiểu biết của người đã trưởng thành, không thể tin được rằng những thú vui tạm
bợ ấy không đem lại lợi ích. Nhưng đến lúc lớn lên, hiểu biết rộng hơn, em bé
tự nhiên vứt bỏ không chút luyến tiếc, những vật mà trước kia em tưởng chừng
như không thể rời được.
Cùng một thế
ấy, khách lữ hành trên đường tiến bộ tinh thần để đến chổ tuyệt đỉnh cao
thượng, nhờ chuyên chú suy niệm và tinh thần hành thiền, một ngày kia sẽ nhận
thức rằng những thích thú khoái lạc mà thủa nào tưởng chừng như là điều kiện
tất yếu của đời sống, chỉ là những giọt mật hiếm hoi thỉnh thoảng rơi vào
miệng, trong lúc đó ta đang sống giữa khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá
nhọn, vô cùng gian lao nguy khốn. Đến chừng ấy hành giả tự nhiên xem thường dục
lạc, lần hồi chấm dứt mọi hình thức luyến ái và một ngày tươi đẹp kia, hoàn
toàn dập tắt lửa tham.
"Thế gian
nầy, không luyến ái là hạnh phúc.Và vượt hẳn lên mọi hình thức dục lạc là hạnh
phúc".
Đức Phật nhiều
lần khuyên dạy và nhắc nhở hàng môn đệ như thế.
Sân hận là một
bẩm tánh khác rất khó đối trị, Phạn ngữ "Vyapada" bao hàm ý nghĩa tức
giận, ác ý, không thỏa mãn, bất toại nguyện, thù hận. Tâm sân hận không những
hao mòn người ôm ấp dưỡng nuôi nó mà còn ảnh hưởng không tốt đến những người ở
xung quanh. Vyapada là kém tình thân hữu.
Nghịch nghĩa
của sân hận (vyapada) là Avyapada, Từ ái, có thiện chí, một Phạn ngữ đồng nghĩa
với tâm "Từ". Từ (Metta) là hiền lành, hảo tâm, tình thương bao trùm
tất cả chúng sanh không có bất luận sự phân biệt nào.
Người có tâm Từ
không thể sân hận, thù oán, và không khàc nào một bà từ mẫu. Luôn luôn sẵn sàng
nâng đỡ và bảo bọc đứa con duy nhất, dầu có phải hy sinh tánh mạng cũng vui
lòng. Một hành giả noi theo đường "Trung Đạo" cũng tự mình đồng nhất
với tất cả chúng sanh, rải tâm Từ đến tất cả, không thấy mảy may khác biệt nào
giữa mình và chúng sanh khác, dầu đó là một con vật câm điếc, người bạn xấu số
của chúng ta. Hành giả hòa đồng với tất cả, tự mình chan hòa trong toàn thể,
thấy vạn vật và mình là một. Trong tâm không còn một điểm vị kỷ, hành giả vượt
lên khỏi mọi hình thức chia rẽ, riêng tư. Không bị giam hảm trong những tư
tưởng hẹp hòi, không chịu ảnh hưởng của tinh thần đấu tranh giai cấp, quốc gia,
chủng tộc, tôn giáo, hành giả nhìn tất cả thế gian là quê hương của mình và mọi
người, mọi chúng sanh, là bạn đồng hành trong đại trùng dương mà ta gọi là đời
sống của muôn loài vạn vật.
Avihimsa hay
Karuna - không hung bạo, hay tâm Bi - là yếu tố thứ ba của Chánh Tư Duy. Tâm
"Bi" hay lòng bác ái, là một đức độ êm dịu có đặc tính làm rung động
những tâm hồn trắc ẩn cao thượng trước cảnh khổ của người khác. Cũng như tâm
Từ, tâm Bi không bị hạn định trong một quốc gia, một tôn giáo, một giai cấp,
hay một loại chúng sanh nào. Tình thương mà có giới hạn thì không phải là tâm
Bi.
Người có tâm Bi
mềm dịu như một tai hoa, nhưng lắm khi ý chí muốn giúp người thoát ra cảnh khổ
cũng làm cho tâm Bi cứng rắn như một hòn đá. Ngày nào chưa cứu giúp được người
đau khổ, tâm Bi cũng không thể thỏa mãn. Lắm khi, để làm êm dịu cảnh đau khổ
của kẻ khác, người có lòng bi mẫn không ngần ngại hy sinh đến cả sanh mạng
mình. Trong Túc Sanh Truyện (Jataka), mỗi truyện tích đều chỉ cho ta thấy rằng
Bồ Tát luôn luôn hết sức cố gắng giúp đỡ người bất hạnh và sẵn sàng tạo hạnh
phúc cho mọi chúng sanh.
Tâm Bi giống
như tình thâm của một bà từ mẫu thương xót đứa con đang lâm bệnh. Bao nhiêu tâm
trí, lời nói, và hành động, đều tập trung lại để chuyên chú tìm phương thế làm
cho con đỡ đau khổ. Người có tâm Bi không bao giờ hành hung hay làm hại ai.
Hành tâm Bi đúng mức, ta có thể tiệu diệt mọi hình thức hung bạo, tàn ác.
Kẻ thù trực
tiếp của tâm Bi là lòng độc ác, hung tợn, tàn bạo. Kẻ thù gián tiếp của tâm Bi
là âu sầu, ủ dột, phiền muộn. Tâm Bi trong Phật Giáo không phải là những giọt
nước mắt chảy suông trước sự đau khổ của kẻ khác.
Tâm Từ bào trùm
tất cả càn khôn vạn vật, nghèo cũng như giàu, tốt như xấu, thân như sơ, thù như
bạn. Tâm Bi trái lại, chỉ nhằm vào hạng chúng sanh xấu số, chuyên lo nâng đỡ
người thấp hèn, nghèo đói, cô thân, tuyệt vọng, chăm nom săn sóc người đau ốm
bệnh hoạn, khuyên nhủ và an ủi người thất bại, dẫn dắt và cứu vớt người tội lỗi,
và soi sáng người tối tăm.
Tâm Bi là quy
tắc đạo đức căn bản của người tu Phật, xuất gia cũng như cư sĩ. Đề cập đến tâm
Bi trong Phật Giáo, Aldous Huxley viết như sau:
"Tánh chất
ôn hòa của người Ấn Độ biểu hiện trọn vẹn giáo lý của Đức Phật. Phật Giáo
truyền bá tinh thần bất bạo động (ahimsa), tức lòng bi mẫn đối với tất cả chúng
sanh. Đối với người cư sĩ Phật tử, chế tạo và buôn bán súng đạn, buôn bán chất
độc, chất say, giết hại cầm thú, đều là những giới luật không nên vi
phạm."
Đức Phật khuyên
hàng đệ tử như sau:
"Nầy hỡi
các Tỳ khưu, dầu có người bình phẩm, chỉ trích các con như thế nào,đúng hay
sai, hợp thời hay không, lễ độ hay thô bỉ, hợp lý hay điên rồ, ngay thẳng hay
gian xảo, các con hãy cố gắng tự rèn luyện tâm tánh giữ tâm luôn luôn trong
sạch, không khi nào thốt ra một lời xấu xa bất thiện, luôn luôn dịu hiền và bi
mẫn đối với những người ấy. Các con hãy mở rộng tấm lòng để tâm từ cuồn cuộn
chảy đến họ như một dòng suối trường lưu bất tức. Các con nên rãi tâm Từ bao
trùm cả càn khôn vạn vật, dồi dào, phong phú, vô lượng vô biên. Không bao giờ
thù oán, không sân hận, các con phải cố gắng tự trau giồi như thế."
Người đã thanh
lọc mọi tham vọng ích kỷ, thù hận, mọi tư tưởng hung ác, tàn bạo, và đượm nhuần
tinh thần vị tha từ ái và ôn hòa sẽ thấy đời sống mình an lành vui vẽ.
3.- Chánh Tư
Duy dẫn đến Chánh Ngữ, lời nói chân chánh, chi thứ ba của Bát Chánh Đạo. Chánh
Ngữ là không nói dối, không nói đâm thọc, làm cho người nầy phiền giận người
kia, không nói lời thô bỉ và nói nhảm nhí. Người đã tận diệt tham vọng tất
nhiên không thể có lời nói giả dối, phỉ báng, thô bỉ vì một mục tiêu ích kỷ
nào, mà luôn chân thành, trung tín, luôn tìm cái đẹp cái tốt nơi người khác hơn
là lừa dối, vu oan sĩ nhục, chia rẽ những người bạn đồng cảnh ngộ với mình. Một
nhân vật hòa nhã và đượm nhuần tâm Từ không thể có lời nói thô lổ cộc cằn để
làm suy giảm giá trị mình và gây tổn hại đến người khác. Lới lẽ của người giàu
lòng từ ái bi mẫn không những chân thật dịu dàng mà còn hữu ích và luôn đem lợi
lộc lại cho kẻ khác.
4.- Sau Chánh
Ngữ là Chánh Nghiệp, hành động chân chánh, khả dĩ tạo thiện nghiệp. Hành động
chân chánh là không sát sanh, không trộm cắp, và không tà dâm.
Nguyên nhân của
tâm luyến ái, thù hận, và tánh hung bạo độc ác là tham, sân, si. Hành giả đã tẩy
sạch tham sân si, và giữ tâm hoàn toàn thanh tịnh thì những xu hướng xấu xa
không khởi sanh lên được. Tâm thanh ý tịnh thì đời sống cũng được trong sạch.
Người không tham, không sân, không si, ắt cũng không thể sát sanh, trộm cắp, tà
dâm.
5.- Chi thứ năm
của Bát Chánh Đạo là Chánh Mạng, hành nghề sinh sống chân chánh. Giữ thân,
khẩu, ý trong sạch, hành giả cố gắng sống đời trong sạch, lánh xa năm nghề nuôi
mạng khả dĩ tạo nghiệp xấu là buôn bán khí giới, buôn bán nô bộc, nuôi thú vật
để bán cho người ta ăn thịt hoặc làm nghề đồ tể, bán vật thực có chất say, và
buôn bán độc dược.
Đối với hàng
xuất gia, đạo đức giả dối không phải là Chánh Mạng.
6.- Chánh Tinh
Tấn, cố gắng chân chánh, chi thứ sáu của Bát Chánh Đạo, chia làm bốn:
a.- Cố gắng
tiêu trừ các ác pháp phát sanh.
b.- Cố gắng đè nén
các ác pháp đang, hoặc chưa phát sanh.
c.- Cố gắng làm
cho thiện pháp phát sanh.
d.- Cố gắng trau
giồi các thiện pháp đã phát sanh.
Chánh Tinh Tấn
rất quan trọng. Theo Phật Giáo, chính sự cố gắng liên tục là yếu tố cần thiết
để giải thoát chớ không phải nương nhờ hay van vái ai mà thực hiện được mục
tiêu. Bên trong mỗi người đều có một kho tàng đức hạnh cao thượng và một hầm
tật xấu đê hèn. Chánh Tinh Tấn là đè nén, tuyệt trừ tật xấu và cố gắng vun xới
đắp bồi tánh tốt.
Tóm tắt, Chánh
Tinh Tấn là cố gắng chú tâm kiểm soát thân, khẩu, ý.
7.- Chánh Tinh
Tấn liên quan mật thiết với Chánh Niệm, tức liên tục chú tâm quán tưởng đến
thân, thọ, tâm, và pháp - niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, và niệm pháp.
Suy niệm chân
chánh về bốn đề mục trên có khuynh hướng tận diệt bốn sai lầm rất phổ thông
trong đời sống là:
- Ưa thích
(Subha) cái không được ưa thích.
- Thấy đau khổ
(dukkha) là hạnh phúc (sukha).
- Xem cái vô
thường (anicca) là trường tồn bất biến (nicca).
- Vô ngã (anatta),
lại cho là linh hồn trường cửu (atta).
8.- Chánh Tinh
Tấn và Chánh Niệm dẫn đến Chánh Định, nhiếp tâm an trụ vào một điểm duy nhất.
Chánh Định là yếu tố rất cần thiết giúp minh sát sự vật để thấy rỏ thực tướng
của vạn hữu.
Trong tám yếu
tố hay chi nầy:
- Chánh Kiến và
Chánh Tư Duy thuộc về Trí tuệ (panna).
- Chánh Ngữ ,
Chánh Nghiệp, và Chánh Mạng thuộc về Giới Hạnh (sila).
- Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm và Chánh Định thuộc về Định (samadhi).
Chánh Ngữ
|
Chánh Nghiệp
|
Chánh Mạng
|
|
Giới (Sila)
|
Chánh Tinh Tấn
|
Chánh Niệm
|
Chánh Định
|
|
Định (Samadhi)
|
|
Tuệ (Panna)
|
Theo thứ tự
phát triển, Giới (Sila), Định (Samadhi) và Tuệ (Panna) là ba giai đoạn của con
đường. Một cách chính xác, tám chi của Bát Chánh Đạo là tám tâm sở (cetasika)
luôn luôn nằm trong bốn loại tâm siêu thế (lokuttara cita) có đối tượng là Niết
Bàn.
Tám tâm sở ấy
là tuệ căn (pannindriya), tầm (vitakka), ba điều kiêng cữ (virati), tinh tấn
(viriya), niệm (sati) và nhất điểm tâm (ekaggata).
Tất cả tám yếu
tố ấy cũng cho thấy tâm trạng của người có chú nguyện cố gắng thành đạt giải
thoát.
Chú thích:
[1] Xem Chương 6.
[2] Samyutta
Nikaya, Tạp A Hàm, phần I, trang 62; xem Kindred Sayings, phần I, trang 86.
[3] Do đó không
thể chứng minh giả thuyết cho rằng Phật Giáo là một giai đoạn trưởng thành tự
nhiên của Ấn Độ Giáo, mặc dầu ta phải nhìn nhận rằng có một vài điểm tương đồng
căn bản giữa hai tôn giáo, vì đó là những đặc điểm giáo lý trùng hợp với chân
lý vĩnh cửu hay Pháp (Dhamma).