CHƯƠNG 09
Đức Phật và Thân Quyến (II)
Đối với thân bằng quyến thuộc, Chân thật là
tốt nhất. -- Kinh Pháp Cú
Đức Phật và
Người Em Khác Mẹ
Ba ngày sau khi
Đức Phật trở về Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ), Hoàng Tử Nanda, con của Đức Vua
Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hoàng Hậu Pajapati Gotami, cử hành ba đại lễ quan
trọng: thành hôn, phong tước và về cung điện mới.
Trong lúc mọi
người nhộn nhịp mang lễ vật đến chúc mừng thì Đức Phật cũng trở về hoàng cung.
Sau khi thọ thực xong, Đức Phật trao bát cho Hoàng Tử Nanda, đọc câu kinh chúc
phúc và đứng dậy ra về, không thâu bát lại.
Hoàng Tử lặng
lẽ ôm bát theo chân Đức Phật, bụng nghĩ rằng chắc rồi đây khi nhớ lại, Ngài sẽ
thâu hồi cái bát một lúc nào. Nhưng Đức Phật làm ngơ, không để ý đến. Vì kính
nể Đức Phật, hoàng tử buộc lòng tiếp tục đi theo.
Vị tân nương
của hoàng tử là Janapada Kalyani nghe thuật lại như vậy thì rất lo ngại, lệ
tuôn đầy mặt, tóc tai rối bời, bà hối hả chạy theo kêu to, "Này Hoàng Tử
quý trọng, hãy mau trở lại". Tiếng gọi đầy tình mến yêu quý chuộng ấy thấm
sâu vào lòng Ngài, nhưng dầu hết sức cảm kích, hoàng tử không dám trao bát lại
cho Đức Phật vì nể nang, tôn trọng một bậc trưởng thượng đáng kính. Và cứ thế,
hoàng tử ôm bát lủi thủi bước theo Đức Phật về đến ngự uyển là nơi Ngài tạm lưu
ngụ. Đến đây, Đức Phật hỏi hoàng tử muốn xuất gia không. Hoàng tử Nanda kính
trọng và sùng bái Đức Phật rất sâu xa vì lẽ Ngài là một vị Phật, vừa là người
anh trưởng. Do đó, dầu miễn cưỡng nhưng không dám chối từ, hoàng tử ưng thuận
thọ lễ xuất gia.
Nhưng quả thật
Tỳ Khưu Nanda không tìm thấy chút hạnh phúc tinh thần nào trong sự từ bỏ thế gian
vật chất. Tinh thần ngày càng suy nhược vì luôn luôn mơ tưởng đến vị tân nương.
Một hôm, thầy tỳ khưu mới xuất gia thuật lại cho các vị khác như sau:
"Này các
đạo hữu, tôi rất lấy làm bất mãn. Tuy đã thọ lễ xuất gia và sống đời đạo hạnh
cao thượng, nhưng tôi cảm thấy không thể còn chịu nổi nữa. Tôi có ý định từ bỏ
những giới luật thanh cao này để trở về cuộc đời thấp kém hơn, làm người cư
sĩ."
Khi nghe thuật
lại, Đức Phật hỏi Tỳ Khưu Nanda có quả thật vậy không. Tỳ Khưu Nanda nhìn nhận
tinh thần suy nhược của mình và tỏ ra rất lo ngại cho vị tân nương.
Để dẫn dắt Tỳ
Khưu Nanda vào con đường chân chánh, Đức Phật dùng oai lực thần thông, đưa vào
cung Trời Đấu Xuất, thưởng ngoạn sắc đẹp của những vì tiên nữ. Trên đường đi,
Tỳ Khưu Nanda được thấy một con khỉ cái đã bị mất mắt, tai, mũi và đuôi trong
một đám hỏa hoạn, còn đang cố bám lấy thân cây cháy trơ trọi giữa đám rừng vừa
bị thiêu rụi. Khi đến cảnh Trời, Đức Phật chỉ những vị tiên nữ và hỏi Tỳ Khưu
Nanda:
"Này
Nanda, những tiên nữ này và Công Chúa quý trọng Janapada Kalyani, ai đẹp đẽ mỹ
miều hơn?"
- Bạch Đức Thế
Tôn, nếu so với các tiên nữ vô cùng mỹ lệ yêu kiều này thì Janapada Kalyani tựa
như con khỉ cái bị cháy, cố bám lấy thân cây.
- Này Nanda,
vậy hãy hăng hái, cố gắng lên! Như Lai bảo đảm rằng nếu Nanda kiên trì thực
hành giáo huấn, thì một ngày kia Nanda cũng sẽ đạt được những phi tần mỹ lệ như
vậy.
Như một đứa trẻ
được khuyến khích, Tỳ Khưu Nanda bạch:
"Nếu vậy,
đệ tử sẽ lấy làm hoan hỷ mà sống đời thanh khiết cao thượng."
Khi các vị Tỳ Khưu
khác hay rằng Tỳ Khưu Nanda cố gắng sống đời đạo hạnh thanh cao chỉ vì muốn đạt
cho được các tiên nữ, thì tỏ ý chế nhạo, gọi là "người làm thuê".
Đại Đức Nanda
tỉnh ngộ, nhận thức được lý do thấp hèn của mình nên lấy làm hổ thẹn và gạt bỏ
mọi tư tưởng xấu xa, tận lực cố gắng, kiên trì tu tập và đắc Quả A La Hán. Bấy
giờ Ngài đến bạch với Đức Phật:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn hãy hủy bỏ lời mà Ngài hứa, bảo đảm với đệ tử rằng
nếu thực hành đúng giáo huấn, đệ tử sẽ được các tiên nữ đẹp đẽ."
- Này Nanda,
chừng nào ngươi không còn bám níu vào sự vật ở thế gian, tâm ngươi đã được hoàn
toàn thanh lọc, không còn vướng chút bợn nhơ, lúc ấy Như Lai sẽ hủy bỏ lời hứa.
Đức Phật trả lời như vậy và đọc lên bài kệ:
"Người đã
vượt lên khỏi bùn nhơ và chế ngự dục vọng,
Người đã tận diệt
mọi ảo tưởng (si mê),
Người ấy không bị
cảm kích trong khoái lạc cũng như trong đau khổ."
Khi có một vài
vị tỳ khưu tỏ ý hoài nghi về thành quả của Đức Nanda, Đức Thế Tôn giải thích:
"Nước mưa
không thể lọt qua lớp tranh dầy của một nóc nhà khéo lợp kín. Cũng dường thế
ấy, dục vọng không thể thấm vào tâm thuần thục đã được phát triển đầy đủ."
[1]
Sau khi đã thọ
hưởng hạnh phúc giải thoát, Ngài Nanda tán dương công đức của Đức Phật như sau:
"Phương pháp của Đấng Bổn Sư thật là tuyệt diệu, nhờ đó mà ta được cứu
vớt, thoát ra khỏi hiểm họa của vòng luân hồi sanh tử triền miên và thành đạt
Đạt Quả Niết Bàn."
Theo kinh
Theragatha, chính Đức Nanda đã thốt ra những lời sau đây:
"Có một
thuở nào, vì không nghĩ suy chân chánh, tôi chỉ ham mê luyến ái những gì biểu
hiện ra ngoài. Bị lòng khát khao ham muốn chế ngự, tâm tôi luôn luôn phóng dật
và loạn động.
"Nhờ sự
khéo léo và lòng từ bi quảng đại của Đức Thế Tôn, nguyên là 'dòng dõi Thái
Dương', tôi có diễm phúc được đưa vào đời sống thanh cao, hành động chân chánh,
và từ ao tù của những kiếp sinh tồn, tâm tôi được vớt lên và cứu thoát.
[2]"
Trong hàng đệ
tử của Đức Phật, Ngài Nanda được nổi tiếng là người tự kiểm soát rất chặt chẽ.
Đức Phật và
Đức Ananda
Ananda là con
của ông Hoàng Amitodana, một người em của Vua Suddhodana (Tịnh Phạn). Như vậy
Ananda là em chú bác của Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta). Sự ra đời của Ngài là
một đại hạnh cho hoàng tộc, vì lẽ đó, tên Ngài là Ananda.
Hai năm sau khi
Đức Phật Thành Đạo, Hoàng Thân Ananda xuất gia cùng với năm vị quý phái khác
của dòng Sakya (Thích Ca) là Anuruddha, Bhaddiya, Kimbila và Devadatta. Không
bao lâu sau khi nghe một thời Pháp của Đại Đức Punna Mantaniputta, Ngài đắc Quả
Tu Đà Hườn (Sotapatti, Nhập Lưu), tầng đầu tiên trong tứ thánh.
Khi Đức Phật
được năm mươi lăm tuổi thì Đại Đức Ananda trở thành vị thị giả chánh.
Trong khoảng
hai mươi năm sau khi Đức Phật Thành Đạo, Ngài không có chọn ai làm người hầu
cận thường trực. Một vài vị tạm thời hầu Đức Phật, nhưng tỏ ra không được
chuyên cần và phẩm hạnh không đúng mực thanh cao. Ngày kia, tại Jetavana (Kỳ
Viên Tịnh Xá), Đức Phật gọi các đệ tử đến và dạy:
"Giờ đây
Như Lai đã lớn tuổi, này các Tỳ Khưu, lắm khi Như Lai nói: Ta hãy đi lối này,
thì có người lại đi lối kia. Cũng có người đánh rơi y, bát của Như Lai. Vậy các
Thầy hãy chọn một người để thường xuyên hầu cận Như Lai." [3]
Từ Đức
Sariputta (Xá Lợi Phất) trở xuống, hầu hết các vị Tỳ Khưu đều xin được phục vụ
Đức Phật, nhưng Ngài khước từ tất cả. Lúc ấy Đại Đức Ananda ngồi im lặng một
bên. Các vị khác khuyên Ngài xin, và Ngài quỳ lên xin được phục vụ Đức Phật với
tám điều kiện:
1.- Đức Phật
không ban cho Ngài (Ananda) những bộ y mà thiện tín dâng đến Đức Phật
2.- Đức Phật
không ban cho Ngài những vật tực do thiện tín dâng đến Đức Phật.
3.- Đức Phật
không cho phép Ngài cùng ở chung trong một tịnh thất với Đức Phật.
4.- Đức Phật
không cho phép Ngài cùng đi với Đức Phật đến nơi mà thí chủ chỉ thỉnh Đức Phật.
5.- Đức Phật sẽ
hoan hỷ cùng đi với Ngài (Ananda) đến nơi nào có một thí chủ thỉnh Ngài
(Ananda) đến.
6.- Đức Phật sẽ
hoan hỷ cho phép Ngài được tiến dẫn những vị khách từ phương xa đến yết kiến
Đức Phật.
7.- Đức Phật sẽ
hoan hỷ cho phép Ngài đến bạch Đức Phật một khi có điều hoài nghi phát sanh.
8.- Đức Phật sẽ
hoan hỷ lặp lại thời Pháp mà Đức Phật giảng lúc không có mặt Ngài tại đó.
Đức Phật chấp
thuận tám điều thỉnh cầu, bốn có tính cách tiêu cực và bốn có tính cách tích
cực, của Đại Đức Ananda và kể từ đấy, Đại Đức Ananda trở nên vị thị giả, hầu
cận thường xuyên Đức Phật đến giờ phút cuối cùng, trong suốt hai mươi lăm năm
trường.
Như bóng theo
hình, Ngài theo Đức Phật đi khắp mọi nơi, rất chuyên cần chăm sóc mọi nhu cầu
của Đức Phật với mọi lòng kính mến và quý trọng. Đêm như ngày, lúc nào Ngài
cũng sẵn sàng để phụng sự Đức Phật.
Kinh sách ghi
rằng đêm đêm Đại Đức Ananda tay cầm gậy, tay cầm đuốc đi quanh tịnh thất của
Đức Phật chín lần để giữ mình khỏi ngủ quên và để Đức Phật khỏi bị quấy rầy.
Cây bồ đề
Ananda
Cây Bồ Đề mang
tên là Ananda vì chính Ngài đã trồng nó.
Lúc bấy giờ,
thiện tín đến hầu Đức Phật thường mang theo bông hoa hay những tràng bông để
cúng dường. Trong những lúc Đức Phật đi vắng thì thiện tín đặt những thứ hoa ấy
trước cửa tịnh thất Ngài rồi ra về. Trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) thấy
vậy thỉnh cầu Đại Đức Ananda bạch với Đức Phật xem có nơi nào khác để thiện tín
có thể đến lễ bái cúng dường trong lúc Đức Phật mắc bận châu du hoằng Pháp,
không có mặt ở chùa.
Đại Đức Ananda
vào hầu Đức Phật và bạch:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, có bao nhiêu bảo vật để chúng sanh lễ bái cúng dường (Cetiyani)?
Xin Ngài hoan hỷ giải thích."
- Này Ananda,
có tất cả ba. Đó là: Những vật để chúng sanh lễ bái cúng dường có liên quan đến
thân (Sarikira) [4], những vật liên quan đến đồ dùng riêng (Paribhogika), và những
vật để tưởng niệm Đức Phật (Uddesika).
- Bạch hóa Đức
Thế Tôn, trong lúc Ngài còn tại tiền, có nên xây dựng tháp thờ Ngài không?
- Không, vật để
chúng sanh lễ bái cúng dường có liên quan đến thân chỉ nên được kiến tạo sau
khi Như Lai nhập diệt. Vật lễ bái cúng dường để tưởng niệm Đức Phật hoàn toàn
thuộc về tinh thần, những vật kỷ niệm ấy chỉ là những vật tượng trưng, không có
một căn bản vật chất. Nhưng cây Bồ Đề to lớn mà xưa kia đã có lần che mưa đỡ
nắng cho Như Lai là vật để chúng sanh lễ bái cúng dường, dầu Phật còn tại thế
hay đã nhập diệt.
- Bạch hóa Đức
Thế Tôn, khi Ngài đi thuyết Pháp phương xa, Tịnh Xá Kỳ Viên rộng lớn này không
còn nơi nương tựa, và thiện tín đến đây không biết hướng vào đâu để lễ bái cúng
dường. Bạch hóa Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho phép con lấy một hột của cây
Bồ Đề mẹ để gieo trồng trước cổng Tịnh Xá.
- Được lắm này
Ananda, hãy trồng đi. Làm thế ấy cũng như luôn luôn có mặt Như Lai ở đây. [5]
Đại Đức Ananda
thuật câu chuyện lại cho những vị đại thí chủ như ông Anathapindika (Cấp Cô
Độc), Bà Visakha và Vua Kosala, rồi xin Đức Moggallana (Mục Kiền Liên) giữ lại
một trái chín mùi từ cây rơi xuống và trao lại Đức Ananda để Ngài dâng cho Vua.
Vua đưa cho trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) trồng. Một cây Bồ Đề sớm mọc
lên tươi tốt, mang tên là Bồ Đề Ananda. [6]
Đức Ananda
và Giới Phụ Nữ
Cũng chính Ngài
Ananda thỉnh cầu Đức Phật chấp nhận giới phụ nữ vào Giáo Hội. Nhờ vậy mà bà
Maha Pajapati Gotami được xuất gia tỳ khưu ni. Toàn thể các tỳ khưu ni đều hết
lòng kính mến Ngài.
Một lần nọ, Đại
Đức Ananda đến hầu Đức Phật và bạch:
- Bạch hóa Đức
Thế Tôn, chúng con phải đối xử với nữ giới như thế nào?
- Nầy Ananda,
dường như không trông thấy.
- Nhưng đã
trông thấy rồi, bạch hóa Đức Thế Tôn, chúng con phải làm thế nào?
- Nầy Ananda,
không nên nói chuyện.
- Nhưng nếu
được hỏi, chúng con phải làm thế nào?
- Nầy Ananda,
phải cẩn thận đề phòng, giữ vững chánh niệm.
Lời khuyên dạy
tổng quát này nhắc nhở các vị tỳ khưu phải luôn luôn thận trọng mỗi khi có việc
liên quan đến nữ giới.
Đại Đức Ananda
có một trí nhớ lạ thường. Ngài lại có diễm phúc hy hữu là được thường trực hầu
cận Đức Phật và nghe tất cả những lời giảng dạy của Đức Phật. Vì lẽ ấy, Đại Đức
Ananda được xem là vị Dhama-bhandagarika, "Bảo Thủ Giáo Pháp".
Để trả lời câu
hỏi của một vị bà la môn, Đại Đức Ananda nói đến tri kiến về Giáo Pháp của mình
như sau:
"Tám mươi
hai ngàn của chính Đức Phật
Tôi được học.
Ngoài ra còn thêm hai ngàn nữa, tôi học với các đạo hữu.
Như vậy, có tất cả
tám mươi bốn ngàn bài Pháp mà tôi được học." [7]
Đức Phật liệt
Đại Đức Ananda vào hàng các đại đệ tử của Ngài vì năm lý do: sức học uyên thâm
(bahussutanam), trí nhớ vô cùng trung thực (satimantanam), phẩm hạnh cao thượng
(gatimantanam), kiên trì (dhitimantanam) và chuyên chú cần mẫn (upatthakanam)
[8].
Mặc dầu là một
đệ tử lỗi lạc, thông suốt giáo lý, Ngài Ananda vẫn còn sống với Pháp-Học
(Sekha), tức là còn cần phải được rèn luyện thêm nữa, chưa đắc Quả A La Hán,
cho đến ngày Đức Phật nhập diệt. Lời khuyên nhủ cuối cùng của Đức Phật là:
"Con đã tạo nhiều phước báu, Ananda, con sẽ sớm thanh lọc mọi ô nhiễm.
[9]"
Mãi đến sau khi
Đức Phật nhập diệt, Đại Đức Ananda mới đắc Quả A La Hán.
Trong buổi Kết
Tập Tam Tạng lần đầu tiên gồm toàn những vị A La Hán, Đức Ananda cần phải giữ
một vai trò quan trọng nên Ngài tận lực cố gắng, đắc Quả trong đêm trước, trong
khi nghiêng mình nằm xuống. Kinh sách ghi rằng Ngài là vị đệ tử duy nhất đắc
Quả A La Hán ngoài lúc đi, đứng, nằm, ngồi [10].
Đại Đức Ananda
nhập diệt lúc được một trăm hai mươi tuổi thọ. Bản chú giải Kinh Pháp Cú ghi
rằng lúc ấy, vì dân cư ở hai bên bờ sông Rohini đều hết lòng kính mến và ước
muốn cung phụng Ngài, và cả hai bên bờ đều mong mỏi được tôn thờ Xá Lợi của
Ngài, nên Ngài dùng thần thông ngồi trên không trung, giữa dòng sông, thuyết
Pháp cho đám đông và phát nguyện rằng một phần nhục thể của mình sẽ rơi một bên
bờ và phần còn lại sẽ rơi xuống bờ bên kia. Rồi Ngài chú tâm hành thiền về đề
mục Lửa (Tejokasina Samapatti). Tức khắc lửa phừng nổi dậy từ thân Ngài, và như
ý nguyện, một phần nhục thể của Ngài rơi xuống một bên bờ và phần khác rơi
xuống bờ bên kia.
Kinh Theragatha
có ghi lại nhiều bài kệ do Đại Đức Ananda đọc trong nhiều trường hợp. Những
dòng thơ rất ý nhị sau đây của Ngài đề cập đến tánh cách tạm bợ của cái gọi là
thân hình đẹp đẽ:
"Hãy xem
kìa hình thể giả dối, phỉnh phờ của cái bù nhìn.
Một khối đau đớn
khốn khổ,
Một ổ chứa đựng
bệnh tật đông đầy như kiến cỏ,
Bao nhiêu kế hoạch
và mục tiêu.
Nhưng trong ấy (kế
hoạch và mục tiêu) không có mảy may khả năng tồn tại.
Hãy nhìn kìa, hình
dáng giả dối, nhờ những món đồ phụ thuộc bên ngoài trang trí,
Nhưng tất cả chỉ
là bộ xương, bên trong một bao da. [11]"
Đức Phật và
Bà Di Mẫu Maha Pajapati Gotami
Maha Pajapati
Gotami là em gái út của Vua Suppabuddha. Chị cả của bà là Hoàng Hậu Maha Maya.
Cả hai chị em đều là Hoàng Hậu của Vua Suddhodana (Tịnh Phạn). Bà có hai người
con, một gái tên Nandã và một trai là Nanda, về sau cả hai đều xuất gia. Đến
khi Hoàng Hậu Maha Maya mệnh chung, bà nuôi dưỡng cháu là Thái Tử Siddhattha
(Sĩ Đạt Ta). Con trai bà, Nanda, thì nhờ một bà vú cho bú và chăm sóc.
Tên tộc bà là
Gotami. Gọi là Maha Pajapati bởi vì các nhà tiên tri lúc bấy giờ tiên đoán rằng
về sau bà sẽ cầm đầu một đám đông người. Khi Đức Phật trở về cung điện và
thuyết bài Pháp Dhammapala Jataka, Trì Pháp Túc Sanh Truyện, thì bà đắc Quả Tu
Đà Hườn.
Sau khi đức vua
thăng hà, lúc bấy giờ cả hai con trai bà, Thái Tử Siddhattha và Hoàng Tử Nanda
đều thoát ly thế tục, bà quyết định xuất gia và sống đời thiêng liêng cao cả.
Khi Đức Phật đến Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) để giàn xếp một vụ tranh chấp giữa
hai thân tộc Sakya và Koliya về một con kinh đào từ con sông Rohini, Ngài ngự
tại vườn Nigrodha. Bà Pajapati Gotami đến gần và cung thỉnh Đức Phật hoan hỷ
cho phép nữ giới được xuất gia. Bà bạch như sau:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, sẽ là một đại hạnh cho nữ giới nếu Đức Thế Tôn chấp nhận cho hàng
phụ nữ được phép từ bỏ nếp sống gia đình để khép mình vào đời sống không nhà
cửa, trong khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật mà Đức Như Lai đã công
bố."
Đức Phật từ
chối ngay, nhưng không nêu lý do.
Lần thứ nhì và
lần thứ ba, bà Maha Pajapati Gotami lặp lại lời thỉnh cầu, nhưng Đức Phật một
mực từ chối.
Sau khi ở
Kapilavatthu một thời gian, Đức Phật đi lần hồi đến Vesali. Ngài ngự tại Mahavana,
trong đền Kutagara.
Bà Pajapati
Gotami đã quyết tâm. Không nản chí trước lời chối từ của Đức Phật, bà xuống
tóc, đắp y vàng, và cùng một số đông những mệnh phụ phu nhân của dòng Sakya
(Thích Ca), đi bộ từ Kapilavatthu, trải qua nhiều gian khổ đến Vesali, một
khoảng đường dài độ hai trăm cây số. Với đôi chân sưng vù, thân thể lấm lem cát
bụi, bà đến Vesali, đứng một bên cổng của tịnh thất, nơi Đức Phật ngự. Đại Đức
Ananda thấy bà đang khóc nên đến hỏi han. Sau khi được biết về tình trạng sầu
muộn của bà, Ngài đến hầu Đức Phật và bạch:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy nhìn kìa, bà Pajapati Gotami đang đứng phía ngoài
cổng, chân sưng vù, mình mẩy lấm lem đầy cát bụi, và trông có vẻ rất âu sầu
phiền muộn. Xin Đức Thế Tôn hoan hỷ chấp thuận cho hàng phụ nữ được từ bỏ đời
sống gia đình và khép mình vào nếp sống không nhà cửa, trong khuôn khổ của Giáo
Pháp và Giới Luật mà Ngài đã công bố.
"Bạch Đức
Thế Tôn, sẽ là một đại hạnh cho nữ giới nếu hàng phụ nữ được phép từ bỏ gia
đình và sống đời không nhà cửa."
- Đủ rồi,
Ananda, Như Lai không thể chấp nhận cho hàng phụ nữ xuất gia.
Lần thứ nhì và
lần thứ ba Đức Ananda cố van nài, nhưng Đức Phật một mực chối từ.
Đại Đức Ananda
kính cẩn bạch:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, người phụ nữ có khả năng để thành tựu đắc Quả Tu Đà Hườn
(Sotapanna), Tu Đà Hàm (Sakadagami), A Na Hàm (Anagami) và A La Hán không, nếu
họ có thể tiến bước từ cuộc sống gia đình đến đời sống không nhà cửa và khép
mình vào khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật mà Đức Thế Tôn đã công bố?"
Đức Phật trả lời
rằng hàng phụ nữ sẽ có đủ khả năng thành tựu các thánh Quả.
Được khích lệ
bằng câu trả lời thuận lợi ấy, Đại Đức Ananda thiết tha thỉnh cầu Đức Phật một
lần nữa:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, nếu vậy hàng phụ nữ cũng có đủ khả năng để thành đạt các thánh Quả.
Lệnh bà Maha Pajapati Gotami đã có rất nhiều công nuôi dưỡng Đức Thế Tôn - vừa
là bà dì, vừa là bà vú nuôi. Bà đã nuôi Đức Thế Tôn bằng sữa của chính bà, và
bồng bế Ngài trong lòng thay Đức Hoàng Hậu.
"Sẽ là một
đại hạnh cho nữ giới nếu hàng phụ nữ được chấp thuận từ bỏ thế gian để khép
mình vào nếp sống không nhà cửa, trong khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật mà
Đức Như Lai đã công bố."
- Này Ananda,
nếu bà Maha Pajapati Gotami chấp thuận Tám Giới Chánh [12] bà sẽ được phép
thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Tám Giới Chánh ấy là:
1.- Tỳ khưu ni,
dầu được trăm tuổi hạ, phải chào hỏi một tỳ khưu, phải đứng dậy trước vị tỳ
khưu, đảnh lễ và thực hành bổn phận đối với tỳ khưu, mặc dầu vị này chỉ mới
xuất gia ngày hôm ấy.
2.- Tỳ khưu ni
không thể nhập Hạ (Vassa) nơi nào không có tỳ khưu.
3.- Đến kỳ sám
hối, tỳ khưu ni phải hỏi các tỳ khưu chừng nào có lễ Phát Lồ (Uposatha) [13] và
giờ nào các ngài đến họp.
4.- Khi mãn
thời gian kiết hạ, mỗi tỳ khưu ni phải hành lễ Tự Tứ (Pavarana) [14], chánh
thức ra Hạ trước mặt những vị tỳ khưu và tỳ khưu ni khác (để kiểm thảo xem
trong ba điều, thấy, nghe, và hoài nghi, mình có lầm lỗi điểm nào không).
5.- Tỳ khưu ni
đã phạm trọng tội phải chịu phạt Manatta [15] trước chư Tăng và chư Ni.
6.- Nữ sa di
(Sikkhamana) đã thọ trì sáu giới trong thời gian hai năm, có thể xuất gia tỳ
khưu ni trước chư Tăng và chư Ni.
7.- Bất luận ở
trường hợp nào, tỳ khưu ni không có quyền khiển trách hay nặng lời với tỳ khưu.
8.- Tỳ khưu
không được sám hối với tỳ khưu ni, nhưng tỳ khưu ni có thể sám hối với những tỳ
khưu.
Những giới luật
trên đây phải được tôn trọng trọn đời, phải được kính nể và không được thay
đổi, xê dịch.
Khi Đại Đức
Ananda thuật lại thì bà Maha Pajapati Gotami hoan hỷ chấp nhận, ưng thuận tôn
trọng Tám Giới Chánh ấy. Do sự ưng thuận này bà đương nhiên được phép thọ cụ
túc giới, xuất gia tỳ khưu ni.
Khi Đức Phật
chấp thuận cho thành lập Giáo Hội các Tỳ khưu ni, Ngài đã tiên đoán những hậu
quả và lưu ý:
" Này
Ananda, nếu nữ giới không được chấp thuận xuất gia để khép mình vào nếp sống
không nhà cửa trong khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật mà Như Lai đã công bố
thì đời sống xuất gia và Giáo Pháp cao siêu sẽ tồn tại lâu dài. Nhưng nữ giới
đã được phép sống đời không nhà cửa thì đời sống xuất gia và Giáo Pháp cao siêu
chỉ còn tồn tại phân nửa thời gian. [16]"
Và Đức Phật
thêm:
"Này
Ananda, trong nhà nào có đông phụ nữ và ít nam giới, thì trộm cướp sẽ dễ lọt
vào. Cũng dường thế ấy, trong bất luận Giáo Pháp và Giới Luật nào, nếu hàng phụ
nữ được phép từ bỏ thế gian và sống đời không nhà cửa, thì đời sống thiêng
liêng sẽ không tồn tại lâu dài, và cũng như người kia đắp bờ đê bên cạnh hồ
nước rộng lớn để chặn nước khỏi tràn qua, Như Lai lo ngăn chặn trước, khi ban
hành "Tám Giới Chánh" cho các tỳ khưu ni, buộc phải giữ nguyên vẹn
trọn đời."
Khi giải thích
như vậy, có thể Đức Phật không làm vừa lòng nữ giới, nói một cách tổng quát,
nhưng Ngài không cố ý làm giảm suy giá trị của hàng phụ nữ, mà chỉ ghi nhận bản
chất yếu đuối của phái này.
Nên ghi nhận
rằng Đức Phật là vị Giáo Chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một
Giáo Hội cho nữ giới với đầy đủ giới luật. Cũng như bên nam môn sinh có hai vị
đại đệ tử là Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) và Đức Moggallana (Mục Kiền Liên),
trong Giáo Hội Tỳ Khưu Ni, Đức Phật chỉ định hai vị, Khema và Uppalavana, làm
Ni trưởng.
Ngày kia, Tỳ
Khưu Ni Maha Pajapati Gotami đến hầu Đức Phật và xin Ngài ban cho phép tu học
để bà cố gắng thành tựu mục tiêu tối hậu. Đức Phật dạy:
"Này
Gotami, trong bất luận Giáo Lý nào, phải nhận thức rõ ràng, rằng những điều này
dẫn đến khát vọng - không dẫn đến an vui, đến tính ngã mạn - không đến lòng tôn
kính, đến ham muốn nhiều - không muốn ít, thích cảnh phồn hoa đô thị - không ưa
ẩn dật, dã dượi - không cố gắng, khó được thỏa mãn - không có đức hạnh tri túc;
thì đúng như vậy, Gotami, phải hiểu biết rằng Giáo Lý ấy không phải là Chánh
Pháp (Dhamma), không phải là Giới Luật (Vinaya), không phải là giáo huấn của
Đức Đạo Sư." [17]
"Nhưng
trong bất luận Giáo Lý nào, phải nhận thức rõ ràng, rằng những điều này dẫn đến
an vui - không đưa đến khát vọng, đến lòng tôn kính - không đến tính ngã mạn,
muốn ít - không tham nhiều, thích ẩn dật - không ưa phồn hoa đô thị, tận lực cố
gắng - không dã dượi hôn trầm, có hạnh tri túc - không khó được thỏa mãn; thì
đúng vậy, Gotami, phải hiểu rằng Giáo Lý ấy hẳn là Chánh Pháp (Dhamma), là Giới
Luật (Vinaya), là Giáo Huấn của Đức Đại Sư."
Ít lâu sau đó
bà đắc Quả A La Hán với tri kiến phân tích (Patisambhida) [18] cùng trí tuệ
trực giác.
Các mệnh phụ
phu nhân dòng Sakya (Thích Ca) đã thọ lễ xuất gia cùng lúc với bà cũng đắc Quả
A La Hán.
Trong hàng nữ
đệ tử của Đức Phật, bà Maha Pajapati được liệt vào hàng cao hạ và nhiều kinh
nghiệm nhất (Rattannu).
Kinh Therigatha
có ghi nhiều dòng thơ do bà đọc lên sau khi đắc Quả A La Hán.
Chú thích:
[1] Dhammapada,
Kinh Pháp Cú, câu 13-14
[2] Psalms of
the Brethren, trang 127. Câu 157-158
[3] Jataka, Túc
Sanh Truyện, số 456. Jataka Translation, tập IV, trang 61.
[4] Như ngọc Xá
Lợi của Đức Phật.
[5]
Kalingabodhi Jataka, số 479. Jataka, tập IV trang 228. Jataka Translation, tập
IV, trang 142.
[6] Đây là cội
cây lịch sử cao niên nhất được sùng bái. Cội Bồ Đề này đến nay vẫn còn sống tại
Sahet Mahet (tên hiện tại), trước kia là Savatthi, Ấn Độ.
[7] Psalms of
the Brethren, trang 354. Theragatha, câu 1424.
[8] Anguttara
Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, tập 1, trang 24. Gradual Sayings , phần 1, trang 19
[9] Digha
Nikaya, Trường A Hàm - Parinibbana Sutta, Kinh Đại Niết Bàn.
[10] Buddhist
Legends, tập III, trang 160.
[11] Psalms of
the Brethren, trang 353. Theragatha, câu 1020. Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu
147.
[12] Trong Tám
Giới Chánh này, người tại gia cư sĩ có thể khó hiểu được một vài giới vì những
giới này chỉ liên quan đến hàng xuất gia.
[13] Vào những
ngày Rằm và Mùng Một các vị tỳ khưu họp lại, đọc những giới luật căn bản.
[14] Nghi thức
chấm dứt thời kỳ kiết hạ.
[15] Một hình
thức phạt kỷ luật.
[16] Xem
Gradual Sayings, IV trang 184.
[17] Vinaya
Texts, phần III, trang 329-330. Gradual Sayings, phần iv, trang 186-187.
[18] Hiểu biết
phân tích về ý nghĩa (Attha), Pháp (Dhamma), căn nguyên (Nirutti), và thấu đáo
cả ba (Patibhana).