CHƯƠNG 16
Vài đặc điểm của Phật Giáo
" Giáo pháp mà Đức thế
tôn khéo giảng dạy và được truyền bá đầy đủ là để tự chứng ngộ, là Giáo Pháp có
hiệu năng tức khắc, khuyến khích suy gẫm tìm tòi, dẫn đến nơi (Niết Bàn), để
bậc thiện trí am hiểu, mỗi người cho riêng mình." -- Trung A Hàm.
Nền tảng của
Phật Giáo
Tứ Diệu Đế mà
chính Đức Phật đã khám phá và truyền dạy thế gian là đặc điểm chánh yếu mà cũng
là nền tảng vững chắc của Phật Giáo.
Bốn Chân Lý
Thâm Diệu ấy là Khổ (lý do tồn tại của Phật Giáo ), nguồn gốc của sự khổ (ái
dục), chấm dứt sự khổ (Niết Bàn, mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo), và con đường
"Trung Đạo".
Ba chân lý đầu
tiên là phần triết lý của Phật Giáo. Chân lý thứ tư là phần luân lý căn cứ trên
triết lý ấy. Tất cả bốn, gồm trọn vẹn giáo lý của Đức Phật, đều tùy thuộc nơi
cơ thể vật chất này. Đây là những sự kiện hoàn toàn dính liền với con người và
những chúng sanh khác, những sự kiện hiển nhiên, không còn tranh luận gì nữa.
Dầu chư Phật có
thị hiện trên thế gian cùng không, các chân lý ấy vẫn tồn tại mãi mãi. Các Ngài
chỉ phát lộ cho thế gian.
Phật Giáo nằm
vững trên nền tảng đau khổ. Mặc dầu nhấn mạnh vào sự hiện hữu của đau khổ, Phật
Giáo không phải là một giáo lý bi quan. Phật Giáo không hoàn toàn bi quan, cũng
không hoàn toàn lạc quan, mà chỉ thực tiễn. Người ta sẽ có lý do để chủ trương
rằng Phật Giáo là bi quan nếu giáo lý nầy chỉ đề cập dong dài đến trạng thái
đau khổ mà không vạch ra con đường để thoát khổ và tiến đạt hạnh phúc trường
cửu. Đức Phật đã nhận ra tính cách phổ thông của sự khổ và kê liệt một phương
thuốc trị liệu cho chứng bệnh chung của nhân loại. Theo Đức Phật Niết Bàn, sự
chấm dứt đau khổ, là hạnh phúc cao thượng nhất mà con người có thể quan niệm.
Trong quyển
bách khoa tự điển "Encyclopaedia Britannica", tác giả viết :
"Chủ nghĩa
bi quan yếm thế bày tỏ thái độ tuyệt vọng đối với đời sống, một ý niệm tổng
quát và mơ hồ rằng đời sống dẩy đầy đau khổ và tội lỗi. Trong thực tế, giáo lý
nguyên thủy của Đức Phật cũng lạc quan như bất luận chủ nghĩa lạc quan nào khác
ở phương Tây. Chủ trương rằng Phật Giáo là "bi quan", là chỉ áp dụng
suông vào Phật Giáo, nguyên tắc đặc cách của người phương Tây theo đó, không
thể có hạnh phúc nếu không có tự ngã. Người Phật tử chân chánh nhìn tương lai
với lòng nhiệt thành hướng về hạnh phúc trường cửu."
Hạnh Phúc
Đức Phật không
bao giờ khuyên nhủ hàng thiện tín nên đem hết tâm trí và thì giờ để than van
sầu muộn về những bất hạnh của kiếp sinh tồn. Hành động như vậy chỉ làm cho
cuộc sống càng thêm đau khổ.
Tâm phỉ (Piti)
là một trong những yếu tố chánh yếu, hay điều kiện phải có trước tiên, để thành
tựu giác ngộ. Theo ý của nhiều văn hào vô tư, không thiên vị, người Phật tử
được xem là hạnh phúc nhất trên thế gian. Người Phật tử không có mặc cảm tự ti
rằng mình là kẻ có tội, đáng được thương hại. Chư Vị Hội Viên của Giáo Hội
Thánh Thiện, những người đã khép nếp sống của mình vào khuôn khổ đạo đức đầy đủ
nhất và phẩm hạnh cao siêu nhất. "Aho sukham, aho sukham", "Quả
thật hạnh phúc! Quả thật hạnh phúc!" "Chúng ta sẽ sống trong phỉ
lạc." là những lời thường được người bước theo dấu chân Đức Phật lặp đi và
nhắc lại.
Ngày nọ có một
vị Trời đến hầu Phật và hỏi:
" Những
người thường lai vãng chốn rừng sâu.
Những bậc thánh
nhân, có đời sống đạo hạnh,
Mỗi ngày chỉ ăn
một lần.
Tại sao các vị ấy
trông có vẻ tự tại ?
Xin Ngài dạy
cho."
Đức Phật đáp :
"Những vị
ấy không than van sầu muộn những chuyện đã qua,
Không nóng nảy
khao khát những gì chưa đến,
Mà chỉ tập chung
tâm trí vào hiện tại.
Do đó các vị ấy tự
tại."
Chư tỳ khưu sống an vui trong hiện tại trường cửu, không âu sầu
hối tiếc quá khứ mà cũng không lo âu cho tương lai.
Định Luật
Nhân Quả và Hạnh Phúc
Trong bộ
Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm) có lối diễn tả hứng thú pháp Paticca Samuppada
(Thập Nhị Nhân Duyên) bằng hạnh phúc như sau:
"Đau khổ
dẫn đến Tín nhiệm (Saddha); Tín nhiệm dẫn đến Hoan hỷ thỏa thích (Pamajja);
Thỏa thích dẫn đến Phỉ lạc (Piti); Phỉ lạc dẫn đến Khinh An tịch tịnh
(Passaddhi); Khinh An dẫn đến Hạnh Phúc (Sukha); Hạnh phúc dẫn đến tâm Định
(Samadhi); Định dẫn đến Tri và Kiến chân tướng của sự vật
(Yathabhutannanadassana); Tri kiến chân tướng của sự vật dẫn đến khước từ, Đoạn
tuyệt (Nibbida). Đoạn tuyệt, khước từ, dẫn đến buông xả (Viraya); Buông xả,
không luyến ái, dẫn đến giải thoát (Vimutti); Giải thoát dẫn đến dập tắt mọi
dục vọng (Khaye-Nana), tức là Đạo quả A La Hán." [1]
Đoạn kinh quan
trọng này giải thích tại sao đau khổ có thể dẫn đến hạnh phúc và cuối cùng đến
các thánh Đạo và thánh Quả.
Đức Khoan
Hồng Trong Phật Giáo
Không cần phải
có đức tin mù quáng để thấu hiểu Tứ Diệu Đế. Người phàm tục có thể kinh nghiệm
hai chân lý đầu tiên - chân lý tại thế. Còn hai chân lý sau - thuộc về siêu thế
(Lokuttara) - chỉ có bậc thánh nhân mới chứng nghiệm.
Giáo Huấn của
Đức Phật được xây dựng trên nền tảng vững chắc ấy, những sự kiện mà ai ai cũng
có thể trắc nghiệm và kinh nghiệm, chớ không phải xây dựng trên sự sợ sệt một
cái gì mà chính ta không biết. Như vậy Phật Giáo thuần lý và rỏ ràng thực tiễn.
Trong toàn thể
Giáo Pháp, không có điều nào không hợp với lý trí hay không thể thực hành. Đức
Phật đã thực hành những điều Ngài dạy, và dạy những gì Ngài đã thực hành. Điểm
quan trọng nhất được nhấn mạnh trong giáo lý là pháp hành, bởi vì tín ngưỡng
suông không thể thanh lọc thân tâm con người
Kinh Pháp Cú
dạy:
"Người lão
thông pháp học và đọc thuộc lòng kinh điển mà không hành theo lời dạy, con
người dể duôi ấy cũng tựa như kẻ chăn bò. Có đếm bò, nhưng bò thì của người
khác. Người ấy không hưởng được phước báu của bậc Sa môn." (câu 19)
Một hệ thống thuần
lý và thực tiễn không thể chứa đựng giáo lý bí truyền hay thần bí.
Trong kinh Maha
Parinibbana sutta (Đại Niết Bàn) Đức Phật tuyên bố rỏ ràng:
"Như Lai
đã truyền dạy chân lý mà không có sự phân biệt nào giữa giáo lý bí truyền và
giáo lý công truyền bởi vì, khi đề cập đến chân lý, Như Lai không hề có bàn tay
nắm lại của ông thầy còn muốn giữ lại điều gì."
Đức Phật dùng
danh từ Anantaram [2] và Abahiram. Nếu Ngài có ý nghĩ : "Bao nhiêu giáo lý
nầy, Ta sẽ không dạy ai khác" ắt ta có thể liệt Ngài vào hàng các ông thầy
dạy học với bàn tay nắm lại. Nếu Đức Phật có ý nghĩ : "Ta sẽ dạy những
người này", hay "Ta sẽ không dạy những người kia", ắt Ngài đã
tạo ra một nhóm người ở bên trong và một nhóm người khác ở bên ngoài. Đức Phật
không phân biệt như vậy.
Khi đề cập đến
giáo lý bí truyền, trong bộ Anguttara Nikaya (Tăng Nhứt A Hàm), Đức Phật dạy:
"Nầy các
đệ tử, có ba hạng còn giữ lại bí mật của mình, không cởi mở. Là ba hạng nào?
Hàng phụ nữ không cởi mở, giữ kín bí mật. Tri kiến thần bí được giữ kín, không
cởi mở. Tà giáo được giữ kín, không cởi mở. Giáo Pháp và Giới Luật do một vị
Phật toàn thiện công bố thì rực rỡ chói sáng trong thế gian, chớ không giữ
kín."
Quả thật Đức
Phật không bày tỏ quan điểm riêng của mình về vài thắc mắc của nhân loại mà giữ
im lặng một cách đặc biệt về những đề tài tranh luận ấy, vì nó không thích nghi
với sứ mạng cao cả của Ngài và không cần thiết cho sự giải thoát của chúng
sanh. Trong trường hợp nọ, có một vị tỳ khưu tên Malunkyaputta đến hầu Phật và
nóng nảy muốn Ngài giải thích tức khắc vài điểm thắc mắc, và nếu không được như
vậy, thầy dọa sẽ hườn tục, từ bỏ đời tu sĩ. Thầy bạch :
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, đến nay Đức Thế Tôn chưa hề giải rỏ. Ngài đã gát qua một bên và đã
loại bỏ những lý thuyết đề cập đến quan điểm: thế gian này có trường tồn vĩnh
cửu không, thế gian này có giới hạn không, hay vô hạn định, v.v. [3]"
Đức Phật khuyên
thầy không nên lãng phí thì giờ và năng lực trong những học thuyết chỉ có hại
cho tiến bộ đạo đức.
"Cũng như
người kia bị một mũi tên tẩm độc đâm sâu vào mình, và khi lương y muốn nhổ mũi
tên ra để điều trị thì ông vội vã ngăn cản lại và nói: Tôi sẽ không để cho ai
nhổ mũi tên này ra, trước khi biết rỏ ràng và đầy đủ chi tiết về người bắn tôi,
về tánh chất của mũi tên v.v... Người này sẽ chết trước khi biết được những
điều ấy. Đây cũng vậy, người nọ sẽ chết trước khi thắc mắc của mình được giải
thích."
Giải quyết
những vấn đề siêu hình ấy không dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ dục vọng, giác ngộ,
Niết Bàn.
Một lần khác,
khi có một vài đệ tử muốn tìm hiểu về những điểm này, Đức Phật thuật lại truyện
ngụ ngôn con voi với người mù. [4]
Con voi được
dẫn đến trước một nhóm người mù để những người này biết hình dáng con voi như
thế nào. Mỗi người rờ nhằm một bộ phận của thân voi và có ý niệm khác nhau về
hình dáng toàn thể, rồi bênh vực quan điển của mình. Rốt cùng cuộc tranh luận
trở nên sôi nổi.
Bằng cách giữ
im lặng, không bàn đến, Đức Phật gát qua một bên những khảo sát vô ích, chỉ
nhằm thỏa mãn tánh tò mò, mà không dẫn đến giải thoát.
Phật Giáo không
chủ tâm cung cấp giải đáp cho tất cả mọi vấn đề luân lý và triết học của nhân
loại. Phật Giáo cũng không đề cập đến những khảo sát và học thuyết không có
chiều hướng đem lại tiến bộ tinh thần đạo đức. Phật Giáo có một mục tiêu rỏ
ràng và thực tiễn - chấm dứt đau khổ - luôn luôn nhắm vào mục tiêu ấy, và hoàn
toàn gát bỏ qua một bên tất cả những gì không thích nghi. Tuy nhiên,mọi quan
sát sâu sắc về bản chất thực sự của đời sống đều được khuyến khích.
Cưỡng bách,
ngược đãi, hay cuồng tính, không thể có một vai trò nào trong Phật Giáo. Xuyên
qua đoạn đường 2.500 năm dài dẳng và ôn hòa, không một giọt máu bị đổ vì danh
nghĩa của Đức Phật. Không có một ông vua hùng dũng nào đã tung kiếm hoặc múa
gươm để truyền bá Phật Pháp, và không có sự cảm hóa bằng võ lực hay bằng một
phương tiện cưỡng bách nào khác. Tuy nhiên, Đức Phật là nhà truyền bá đầu tiền
và vĩ đại nhất thế gian. Phật Giáo đã được hoằng khai rộng rãi, vẫn còn đang mở
rộng trên khắp thế gian, và đang ôn hòa thâm nhập vào tất cả các quốc gia,
chính vì giá trị cố hữu sẵn có và tánh cách tốt đẹp của giáo huấn, chớ tuyệt
nhiên không phải nhờ sự hỗ trợ của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa quân phiệt,
hoặc một phương tiện gián tiếp nào khác để đưa người ngoài vào đạo.
Aldous Huxley
viết:
"Một mình
trong các tôn giáo lớn trên thế giới, Phật Giáo đã vạch ra con đường của mình
mà không có sự ngược đãi, áp bức, kiểm duyệt hay điều tra."
Lord Russell
ghi nhận:
"Trong tất
cả các tôn giáo lớn của lịch sử, tôi chọn Phật Giáo, đặc biệt trong những hình
thức nguyên thủy; bởi vì ở đây yếu tố ngược đãi là nhỏ bé nhất."
Dưới danh nghĩa
của Đức Phật, không có nơi thiêng liêng thờ phượng não đã bị máu của hàng phụ
nữ vô tội làm hoen ố, không có tư tưởng gia chân chánh nào đã bị thiêu sống, và
không có sự thiêu đốt tàn nhẫn những người khác đạo.
Phật Giáo không
dạy giáo điều bí ẩn và không nói đến phép lạ. Đức Phật chắc chắn có nhiều oai
lực thần thông siêu phàm vì Ngài đã dày công trau giồi tâm linh, nhưng Đức Phật
không dùng phép lạ. Như phép Yamaka Patihariya [5] chẳng hạn, mà có nơi sai lầm
gọi là "đôi phép lạ" là hiện tượng tâm linh mà chỉ có vị Phật mới có
thể tạo nên. Trong trường hợp đặc biệt này, do oai lực thần thông, Đức Phật làm
cho nước và lửa đồng thời phát sanh từ thân Ngài, xuyên qua các lỗ chân lông .
Phật Giáo nhắm
đến phần tri thức nhiều hơn phần tình cảm và chú trọng đến phẩm cách của hàng
tín đồ hơn là sức mạnh về số lượng.
Ngày kia nhà
triệu phú Upali, một tín đồ của Nigantha Nataputta, đến gần Đức Phật và lấy làm
thỏa thích được thính pháp nên quỳ xuống bày tỏ lòng mong muốn được Đức Phật
cho phép bước theo dấu chân Ngài. Nhưng Đức Thế Tôn khuyên trưởng giả Upali:
"Nầy người
cư sĩ, ông hãy nghĩ suy cặn kẽ. Một người lỗi lạc như ông nên suy tư cẩn thận
trước khi làm điều gì."
Nghe những lời
bất ngờ ấy, trưởng giả Upali lại càng thỏa thích, và bạch:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, nếu con đến một vị đạo sư nào khác và xin đi theo để tu học, các
đệ tự của vị ấy kiệu con lên, rồi đi khắp đường phố hò reo, công bố rằng triệu
phú gia này đã từ bỏ tôn giáo mình để đi theo đạo sư kia. Bạch Đức Thế Tôn,
Ngài thì trái lại, khuyên con hãy đi về suy nghĩ lại. Con càng thêm thỏa thích
với những lời khuyên dạy vàng ngọc ấy."
Và ông lặp lại
lời thỉnh cầu:
"Lần thứ
nhì con xin được quy y Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo."
Mặc dầu nhà
triệu phú Upali đã trở thành Phật tử do sự hiểu biết và lòng tự nguyện , Đức
Phật bi mẫn vô biên, và khoan hồng rộng lượng, khuyên ông cứ tiếp tục hộ trì vị
đạo sư cũ.
Kêu gọi tất cả
những ai đi tìm chân lý không nên để thế lực bề ngoài ảnh hưởng, Đức Phật đi xa
đến mức khuyên dạy các đệ tử không nên khấu đầu khuất phục một cách mù quáng
trước oai quyền của bậc trưởng thượng mà phải suy tư xét đoán.
Phật Giáo đượm
nhuần tinh thần tự do tìm hiểu và hoàn toàn quảng đại khoan hồng. Đây là một
giáo huấn được truyền bá với tinh thần cởi mở và thiện cảm, một giáo huấn rọi
sáng và sưởi ấm toàn thể vũ trụ bằng đuốc tuệ và từ bi, và bao trùm trong ánh
hào quang rực rỡ của mình tất cả chúng sanh đang lặn hụp chiến đấu trong đại
dương của vòng sanh tử triền miên.
Lòng bi mẫn và
đức khoan hồng của Đức Phật quả thật vô biên. Ngài không dùng oai quyền của
mình để ban hành những điều răn cấm. Thay vì dùng thời mệnh lệnh cách, sai bảo:
- "Ngươi phải làm thế nầy không được làm thế kia", Ngài khuyên dạy: -
"Điều nầy con nên làm, điều kia con không nên làm".
Những giới luật
thông thường của Phật tử không phải là những điều răn, những mệnh lệnh mà là kỹ
cương (Sikhapada) do chính người Phật tử tự nguyện khép mình vào.
Lượng khoan
hồng và lòng từ bi của Đức Phật bao gồm tất cả nam nữ, và tất cả chúng sanh.
Phật Giáo và
Đẳng Cấp Xã Hội
Đức Phật là
người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã cố gắng loại bỏ chế độ mua tôi bán
mọi, đã xây dựng một nền luân lý cao thượng và ý niệm về tình huynh đệ giữa
loài người, và bằng những danh từ mạnh mẽ, Ngài lên án hệ thống đẳng cấp, có
tánh cách xúc phạm đến phẩm giá con người, lúc bấy giờ đã ăn sâu trong xã hội
Ấn Độ. Ngài tuyên bố:
"Là cùng
đinh, không phải do sanh trưởng.
Là bà la môn,
không phải do sanh trưởng.
Do hành động, người
nầy là cùng đinh
Do hành động,
người kia là Bà la môn. [6]"
Kinh Vasettha
Sutta [7] thuật lại câu truyện hai người thanh niên bà la môn bàn cãi nhau về
vấn đề cái gì làm cho con người thuộc về thành phần bà la môn. Một người chủ
trương là sự sanh trưởng. Người kia thì cho rằng chính phẩm hạnh cá nhân làm
cho con người được liệt vào đẳng cấp ưu tú ấy. Và không người nào thuyết phục
được người kia. Nên cả hai đồng ý đem câu chuyện đến nhờ Đức Phật phân xử.
Rồi hai người
bạn đến cầu Đức Phật và trình bầy sự việc lên Ngài.
Trước tiên, Đức
Phật nhắc nhở hai người rằng các loài cây cối, côn trùng, loài thú có bốn chân,
rắn rít, cá tôm, chim chóc, đều có hình thể riêng biệt và có thể phân biệt với
nhau, còn trường hợp con người thì khác, không có biệt mạo riêng từng loại. Rồi
Ngài giải thích làm thế nào con người có thể phân biệt với nhau bằng việc làm
hằng ngày. Để kết luận, Đức Phật chú giải:
"Sự sanh
trưởng không làm cho con người được liệt vào giai cấp bà la môn hay bị loại ra
khỏi giai cấp này.
Nếp sống hằng ngày
tạo nên người nông dân, thương gia hay nô bộc.
Nếp sống hằng ngày
tạo ra hạng trộm cắp, binh sĩ, tu sĩ, hay vua chúa."
Một cuộc đối
thoại có liên quan đến vấn đề đẳng cấp cũng được ghi chép trong kinh Madhura
Sutta [8]. Vua Madhura thuật lại câu chuyện sau đây với Đại Đức Kaccana:
"Kính bạch
Đại Đức, những vị bà la môn nói như thế nầy: Trong bốn đẳng cấp mà con người
được phân hạng, Bà la môn là cao cả hơn hết. Các đẳng cấp khác đều thấp kém
hơn. Chư vị Bà la môn được xem là trong sạch.
Những người khác thì không. Những vị bà la môn là con chánh thức của thần
Braham (Phạm thiên), được sanh ra từ trong miệng Ngài, được đặc cách tạo nên,
và sẽ là thừa kế của Ngài. Kính bạch Đại Đức. người nghĩ như thế nào?"
Đại Đức Kaccana
giải đáp rằng đó là một lối quả quyết vô căn cứ, và Ngài chỉ dẫn rằng một người
giàu có sang trọng có thể thuê mướn một người khác để làm gia đinh cho mình.
Người xấu xa tội lỗi, dầu ở đẳng cấp nào, cũng phải tái sanh vào cảnh khổ, còn
người hiền lương đạo đức thì vào nhàn cảnh. Người đã gây tội ác, bất luận thuộc
về đẳng cấp nào, cũng phải chịu hình phạt, và Ngài nhấn mạnh rằng khi xuất gia
nhập chúng thì mọi người đều được kính nể tôn trọng bằng nhau, không có bất
luận sự phân biệt nào. Theo Phật giáo, đẳng cấp hay chủng tộc không gây trở
ngại cho việc trở thành một Phật tử hay được chấp nhận vào Giáo Hội Tăng Già,
tập đoàn những bậc thánh nhân cao thượng. Ngư phủ, người hốt rác, gái giang hồ,
cùng với các chiến sĩ và Bà la môn, đều được chấp nhận vào Giáo hội, được hưởng
đồng đều cấp bậc và địa vị.
Đức Upali,
trước kia là thợ cạo, giữa đám đông các vị khác, được chọn làm đại đệ tử chuyên
về những vấn đề có liên quan đến giới luật. Đức Sunita, được các vua chúa và
hành quý tộc trong nướctôn kính như bậc A La Hán, chỉ là người hốt rác. Triết
gia Sati là con một ngư ông. Cô gái giang hồ Ambapali được chấp thuận vào Giáo
hội và đắc quả A La Hán. Rajumala, được Đức Phật cảm hóa lúc nàng sắp sửa quyên
sinh mạng sống, là một cô gái nông nô. Punna cũng thuộc giai cấp nông nô, được
Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu nhập Hạ, trong lúc Ngài từ chối Trưởng giả
Anathapindika (Cấp cô độc), chủ của nàng. Subha là con gái của người thợ rèn.
Capa là con gái của một người đuổi nai cho thợ săn. Những trường hợp tương tợ,
còn nhiều trong kinh điển, chứng tỏ rằng cánh cửa của Phật Giáo rộng mở cho tất
cả mọi người, không có bất luận sự phân biệt nào.
Đức Phật tạo cơ
hội đồng đều cho tất cả và nâng cao quy chế con người, hơn là hạ thấp. Phật
Giáo có sửa cho trẻ sơ sinh, mà cũng có thức ăn đầy đủ dinh dưỡng cho người
trưởng thành khỏe mạnh. Phật Giáo kêu gọi đồng đều, người giàu cũng như kẻ
nghèo.
Phật Giáo và
Hàng Phụ Nữ
Cũng chính Phật
Giáo đã nâng cao quy chế của hàng phụ nữ và dắt dẫn nữ giới thực hiện địa vị
quan trọng của mình trong xã hội. Trước thời Đức Phật, người đàn bà Ấn Độ không
được trọng đãi.
Một văn hào Ấn,
Hemacandra, khinh rẽ và xem nữ giới như những "ngọn đuốc soi sáng con
đường dẫn xuống địa ngục" - Naraka margadvarasya dipika.
Đức Phật không
coi rẻ phẩm giá mà chỉ ghi nhận bẩm chất yếu đuối của người phụ nữ. Ngài nhìn
nhận có thiên tánh trong cả hai giới, nam và nữ, và trong giáo huấn Ngài đặt
mỗi giới vào đúng vị trí của nó. Nam hay nữ không phải là một trở
ngại việc thanh lọc thân tâm hay trong công trình phục vụ độ tha.
Đôi khi, để chỉ
người đàn bà, phạn ngữ (Pali) có danh từ "matugama" nghĩa là
"hạnh làm mẹ" hay "xã hội những bà mẹ". Là mẹ, người phụ nữ
được hưởng danh dự xứng đáng trong Phật Giáo. Bà mẹ được xem là cây thang thích
nghi để con cái nương theo đó mà lên tận những cảnh trời. Vợ hiền là người bạn
chí thân của chồng (parama sakha).
Mặc dầu thoạt
tiên Ngài từ chối, không chấp nhận nữ giới vào Giáo Hội, nhưng về sau , do lời
thỉnh cầu tha thiết của Đức Ananda và của bà Maha Pajapati, kế mẫu Ngài, Đức
Phật cho phép thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni (nữ tu sĩ). Như vậy, Đức Phật là
người đầu tiên sáng lập một đoàn thể phụ nữ có giới luật và kỹ cương đầy đủ.
Cũng như hai vị
A La Hán Sariputta (Xá Lợi Phất) và Moggallana (Mục Kiền Liên) là đại đệ tử cai
quản Giáo Hội Tỳ Khưu, giáo hội độc thân có tánh cách dân chủ xưa nhất trong
lịch sử, hai vị A La Hán Khema và Uppalavanna là đại đệ tử bên phái nữ, cai
quản Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Nhiều vị đệ tử khác cũng được Đức Phật liệt vào hàng
lỗi lạc và nhiệt thành nhất. Trong những người dòng Vajjian cũng vậy, tánh cách
tự do của người phụ nữ được xem là một trong những nguyên do đưa dân tộc này
đến trạng thái phồn thịnh. Trước thời Đức Phật, người phụ nữ không được hưởng
tự do đầy đủ và không được có cơ hội để phát triển khả năng tinh thần và bẩm
tánh đạo đức của mình. Ở Ấn Độ, vào thời xưa cũng như còn ở nhiều nơi ngày nay,
sanh con gái là thêm một trở ngại, một bất hạnh trong gia đình.
Hôm nọ, trong
lúc Đức Phật đang nói truyện với vua Kosala thì có tên lính hầu vào báo tin
hoàng hậu hạ sanh công chúa. Được tin, vua tỏ vẻ không bằng lòng. Thấy vậy Đức
Phật khuyện:
"Một bé
gái, tâu đại vương, có khi là đứa con quý, còn hơn con trai."
Đối với người
phụ nữ bị ngược đãi đủ điều trước thời Đức Thế Tôn, sự thành lập Giáo Hội Tỳ
Khưu Ni chắc chắn là một phước lành. Trong Giáo Hội nầy, các bà hoàng hậu, công
chúa, các tiểu thơ trong hàng quý tộc, các mệnh phụ phu nhân, những bà mẹ khổ
đau, những người phụ nữ thân cô, chí đến hạng gái giang hồ, bất luận ở đẳng cấp
nào trong xã hội, đều tụ hợp nhau lại, ôn hòa và vui vẽ, cùng nhau đồng hưởng
và đồng hấp thụ không khí tự do bình đẳng, khác hẳn với nếp sống lầu son gác
tía và cung vàng điện ngọc. Có rất nhiều người, theo lẽ thông thường ắt phải
mãi mãi bị lãng quên trong bóng tối, đã tỏ ra lỗi lạc và đã thành tựu mục tiêu
giải thoát sau khi tìm nương tựa nơi Giáo Hội.
Tỳ Khưu Ni
Khema, vị đệ tử đứng đầu hàng trong Giáo Hội, trước kia là thứ hậu sinh đẹp của
vua Bimbisara (Bình Sa Vương), không chịu gặp Đức Phật vì nghe nói rằng Đức
Phật thường nhắc đến sắc đẹp bề ngoài với những lời lẽ không tưng bốc. Ngày kia
bà tình cờ đi đến một ngôi chùa để thưởng ngoạn phong cảnh, rồi dần dần vào
giảng đường, lúc ấy Đức Phật đang thuyết Pháp. Đọc được tư tưởng của bà, Đức
Phật dùng thần thông tạo nên một thiếu nữ sinh đẹp đứng hầu bên cạnh và cầm
quạt, quạt Ngài. Bà Khema mãi mê ngắm sắc đẹp tuyệt trần của thiếu nữ. Đức Phật
làm cho thiếu nữ biến dần từ trẻ đẹp đến trưởng thành, rồi già nua, tóc bạc
răng long, da nhăn, lưng còm và cuối cùng kiệt sức, té quỵ xuống đất.
Chỉ đến lúc ấy
bà Khema mới nhận định tánh cách phú du tạm bợ của sắc đẹp bề ngoài và bản chất
vô thường của đời sống. Bà nghĩ: "Thân hình sinh tươi đẹp đễ kia phút chốc
đã trở nên héo tàn hư hoại dường ấy. Vậy thì hình dáng mỹ miều của ta sẽ tàn tạ
có khác gì?"
Thấu hiểu ý
nghĩ thần kín ấy, Đức Phật khuyên bà:
"Người
khứng làm nô lệ cho tham dục sẽ lăn trôi theo dòng,
Giống như loài
ruồi muỗi bị cuốn quấn trong mạng nhện.
Nhưng, quả thật
thảnh thơi,
Người đã cắt lìa
tất cả những trói buộc,
Tâm tư hướng về
nơi khác, không màng thế sự,
và, bỏ lại một bên
mọi dục lạc của ngũ trần. [9]
Về sau bà Khema
đắc quả A La Hán và, với sự đồng ý của đức vua, bà xuất gia Tỳ Khưu Ni và được
liệt vào hàng cao kiến nhất trong Giáo Hội.
Bà Patacara vừa
mất hai con, chồng, cha, mẹ, và anh trong một trường hợp thê thảm, tâm lực của
Đức Phật dẫn dắt đến Ngài. Sau khi nghe lời khuyên dạy êm dịu của Ngài bà đắc
Quả Tu Đà Hườn và xin xuất gia. Ngày nọ, xuống suối rửa chân, bà ghi nhận rằng
khi rút chân lên có những giọt nườc từ chân liên tiếp gieo điểm xuống dòng
suối, trôi đi một đổi, rồi tan mất. Có những giọt trôi xa hơn nữa, nhưng rồi
cũng tan mất. Bà suy nghĩ:
"Cùng
dường thế ấy, tất cả chúng sanh đều phải chết. Người lúc thiếu thời, người đã
trưởng thành, cũng có người lúc tuổi thọ đã cao, nhưng tất cả đều phải
chết."
Đức Phật đọc tư
tưởng ấy, biến hình xuất hiện trước mặt bà và thuyết giảng một thời Pháp. Khi
nghe xong bà đắc quả A La Hán. Về sau bà trở thành một nguồn an ủi cho nhiều bà
mẹ bất hạnh.
Hai bà
Dhammadinna và Bhadda Kapilani là hai vị Tỳ Khưu Ni được biệt danh là chú giải
Giáo Pháp.
Để giải đáp cho
Mara (Ma Vương), chính Tỳ Khưu Ni Soma [10] đã ghi nhận:
"Bên trong
một người phụ nữ có tâm vững chắc và tri kiến cao thượng, bản chất người phụ nữ
có ảnh hưởng gì đến quyền tìm hiểu Giáo Pháp? Người còn ôm ấp mối hoài nghi về
câu hỏi: "Trong những vấn đề nầy ta có phải là đàn bà không? Hay ta là đàn
ông, hay như vậy, ta là gì khác? - Đó là con người thích nghi để nói chuyện với
ma vương Tâm Ác."
Trong hành tín
nữ cũng có nhiều vị lỗi lạc với tâm đạo nhiệt thành, lòng quảng đại bố thí,
kiến thức sâu rộng và tâm từ.
Bà Visakha là
vị đại thí chủ của Giáo Hội đứng đầu trong hàng thuần thánh chân chánh [11].
Bà Suppiya, một
tín nữ giàu lòng mộ đạo khác, vì không thể tìm ra thịt ở chợ, cắt một miếng ở
đùi mình để nấu bát cháo dâng lên một vị tỳ khưu đang đau ốm.
Bà Nakulamata
là một người vợ trung thành đã cứu được chồng ra khỏi bàn tay tử thần nhờ đọc
lại phẩm hạnh của mình.
Samavati là một
bà hoàng hậu sùng đạo dễ mến, mặc dầu bị thiêu đốt, bà không tỏ ý oán giận,
trái lại, còn rải tâm từ cho người chủ mưu hại mình.
Hoàng hậu
Mallika nhiều lần có thể gián và khuyên giải chồng là vua Pasenadi.
Một tỳ nữ
Khujjuttara, giảng giải Giáo Pháp và cảm hóa được nhiều người.
Bà
Punabbasumata, có lòng muốn nghe Pháp nhưng còn phải dỗ ngủ đứa con đang khóc
cho nó nín rồi mới đi được. Bà ru con:
"Nín đi
con, bé Uttara! Hãy ngủ đi
Punabbasu, để mẹ
được đi nghe Giáo Pháp
Mà bậc tôn sư,bậc
trí tuệ nhất thế gian truyền dạy
Mẹ rất yêu mến con
của mẹ
Và cũng hết lòng
quý trọng cha con.
Nhưng mẹ càng yêu
quý hơn nữa
Giáo lý cao siêu
đã vạch ra con đường" [12]
Một bà mẹ có
nhiều nghĩ ngợi suy tư khác vừa mất đứa con duy nhất. Nhưng bà không than khóc
như người thường.
Có người hỏi
tại sao, bà đáp:
"Nó đến
đây một mình, không ai kêu gọi,
Và sớm ra đi, cũng
một mình, không ai mời mọc.
Đến như thế nào,
nó ra đi cùng thế ấy.
Vậy thì ở đây có
lý do gì để sầu muộn? [13]"
Hai bà Sumana
và Subhadda có những đức tánh gương mẩu và hết lòng đặt niềm tin nơi Đức Phật.
Bấy nhiêu thí
dụ tưởng cũng đủ nói lên vai trò quan trọng của hàng phụ nữ trong thời Đức
Phật.
Phật Giáo và
Tinh Thần Bất Bạo Động
Tình thương vô
lượng vô biên của Đức Phật không chỉ hướng về nhân loại mà còn bao trùm luôn cả
loài thú. Chính Đức Phật đã đánh đổ nghi thức giết thú để tế lễ thần linh và
khuyên hàng đệ tử nên nới rộng tâm từ (Metta) đến tất cả chúng sanh, chí đến
những con vật nhỏ bé đang bò dưới chân. Ngài dạy rằng không ai có quyền tiêu diệt
mạng sống của kẻ khác. vì tất cả mọi người đều quý trọng đời sống.
Các vị tỳ khưu
phải rèn luyện tâm từ đến mức độ không được đào đất và cũng không được sai bảo
hay nhờ cậy người khác đào đất. Giới luật dạy như vậy. Các Ngài cũng không thể
uống nước chưa lọc.
Nhà vua Phật
Giáo vĩ đại nhất, Đức Vua Asoka (A-Dục), có cho ghi khắc trong đá những hàng
chữ sau đây:
"Không nên
lấy sự sống nuôi sự sống. Cho đến rơm rạ, nếu còn côn trùng trong ấy, cũng
không nên đốt."
Một người Phật
tử thuần thành phải hành tâm từ đối với mọi chúng sanh và đồng nhất hóa với tất
cả, không nên có bất luận sự phân biệt nào.
Tâm Từ, một
trong những đặc điểm nổi bật nhất trong Phật Giáo, cố gắng phá vỡ mọi trở ngại
đẳng cấp xã hội, chủng tộc hay tín ngưỡng đã gây chia rẽ giữa người và người.
Nếu chỉ vì nhãn hiệu tôn giáo khác nhau mà những người không cùng theo một hệ
thống tín ngưỡng không thể hợp nhau lại trên một lập trường chung, trong tinh
thần huynh đệ tương thân tương ái như anh chị em ruột một nhà thì hẳn các vị
giáo chủ đã thất bại thảm thê trong sứ mạng cao cả của các Ngài.
Trong bản tuyên
ngôn của Ngài về lượng khoan hồng, căn cứ trên hai bài kinh Culla Vyuha Sutta,
và Maha Vyuha Sutta, Đức Vua Asoka (A-Dục) viết:
"Chỉ có
đoàn kết là tốt đẹp. Như vậy có nghĩa là tất cả mọi người đều vui lòng lắng tai
nghe giáo lý của người khác truyền dạy."
Trong tất cả
giáo lý của Đức Phật không có một điểm nào dành riêng cho một quốc gia hay một
dân tôc đặc biệt. Ngài kêu gọi tất cả mọi người.
Đối với người
Phật tử thuần thành, không có người thân kẻ sơ, người thù nghịch hay kẻ xa lạ.
Không có người phải bị xã hội ruồng bỏ, bởi vì tâm Từ là tình thương bao quát,
đại đồng, do sự hiểu biết un đúc rèn luyện. Tâm Từ củng cố tình huynh đệ giữa
tất cả mọi chúng sanh. Người Phật tử chân chánh là một công dân thế giới.
-oOo-
Như vậy, một
vài đặc điểm của Phật Giáo là thuần lý, thực tiễn, công hiệu, không bạo động,
không quá kích, khoan hồng, và đại đồng.
Trên hai ngàn
năm trăm năm, xuyên qua lịch sử nhân loại, Phật Giáo là một ảnh hưởng cao quý
nhất có tánh cách thống nhất, hòa hợp, và nâng đỡ con người.
Có những quốc
gia nổi lên rồi suy tàn. Có những đế quốc - xây dựng trên bạo lực và cường
quyền - đã phồn thịnh cực độ, rồi tan rã. Nhưng vương quốc của Pháp Bảo, kiến
tạo bằng Từ bi và Lý trí, đến nay vẫn còn thịnh vượng, và sẽ tiếp tục thịnh
vượng, ngày nào mà người Phật tử còn biết giữ gìn những quy tắc cao cả của Giáo
Pháp.
Chú thích:
[1] Samyutta
Nikaya, Tạp A Hàm, tập ii, trang 32. Kindred Sayings, phần ii, trang 27.
[2] Xem chú thích
Chương 14.
[3] Majjhima
Nikaya, Trung Hàm, Cula Malunkya, số 63. Xem Chương 22.
[4] Xem Udana,
vi, trang 4; Woodward, Some Sayings of the Buddha, trang 287-288.
[5] Xem chú thích
Chương 8.
[6] Sutta Nipata -
Vasala Sutta. Xem Phụ bản 3.
[7] Cùng bộ
kinh Sutta Nipata, trang 115.
[8] Majjhima
Nikaya, Trung A Hàm, tập II, trang 83-90.
[9] Psalms of
the Sisters, phần I, trang 82.
[10] Xem
Kindred Sayings, phần I, trang 162
[11] Xem Chương 10.
[12] Xem
Kindred Sayings, phần I, trang 270
[13] Jataka
Translation, số 354