Đây là
những tác phẩm hiện được bảo lưu trong các truyền bản khác nhau, mà đầu
thế kỷ XX Takakusu Junjiro đã cho khảo dị và in lại trong bộ Đại Chính
tân tu đại tạng kinh (viết tắt ĐTK) vào những năm 1915-1925 của triều
vua Đại Chính (Taisho) ở Nhật Bản. Sáu lá thư của Lý Miễu, Đạo Cao và
Pháp Minh cũng được xuất bản trong bản in ấy. Chúng tôi đã sử dụng bản
in vừa nói cho việc nghiên cứu phiên dịch các tác dịch phẩm vừa nêu.
Trong
Tổng tập 2 này, để hiểu Pháp kính kinh tự của Khương Tăng Hội, chúng
tôi cho dịch luôn bản Pháp kính kinh của Kỵ đô úy An Huyền. Đây là một
trong những bản kinh xưa nhất của nền dịch thuật Phật giáo Trung Quốc,
nên đầy dẫy những văn cú khó khăn của giai đoạn cổ dịch. Vì thế trong
khi dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Pháp Hộ đối với kinh
này, biết dưới tên Uất Ca La Việt vấn Bồ tát hạnh kinh (ĐTK 323).
Tổng
tập 2 này cũng bao gồm phần nghiên cứu và bản dịch kinh Tạp thí dụ. Đây
là một bản kinh, mà các kinh lục Trung Quốc thường xếp vào loại thất
dịch của đời Hán, nghĩa là một bản dịch không biết do ai thực hiện. Vì
bản thân bản kinh có chứa đựng một số cấu trúc ngôn ngữ mang tính chất
ngữ pháp tiếng Việt, gần gũi với văn phong của Khương Tăng Hội, nên để
cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và đời sống văn hóa Việt
Nam, chúng tôi cho đưa vào phần phụ lục các tác dịch phẩm của Khương
Tăng Hội.
Giống
như Tổng tập 1, Tổng tập 2 này cũng sẽ có phần phụ bản chữ Hán, nhằm
cung cấp cho người đọc những tư liệu tham khảo và nghiên cứu khi cần
thiết.
Vạn Hạnh
Tết Nguyên đán năm Tân Tỵ (2001)
Lê Mạnh Thát