GIỚI THIỆU AN BAN THỦ Ý KINH CHÚ GIẢI
An
ban thủ ý kinh chú giải là một trong ba tác phẩm chú giải kinh của
Khương Tăng Hội. Hai bản chú giải kia là Pháp kính kinh chú giải và Đạo
thọ kinh chú giải ngày nay đã thất lạc, tuy lời tựa viết cho Pháp kính
kinh chú giải do Tăng Hựu chép lại trong Xuất tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145
tờ 46b19-c12 biết dưới tên Pháp kính kinh tựï còn được bảo tồn. Chỉ bản
chú giải viết cho kinh An ban thủ ý cùng lời tựa của nó hiện lưu còn
lại nguyên vẹn trong bản dịch kinh An ban thủ ý của An Thế Cao ở bản in
Đại Chính của Đại tạng kinh có nhan đề Phật thuyết đại An ban thủ ý
kinh.
I. Vấn đề truyền bản và tên gọi
Các
kinh lục từ Xuất tam tạng ký tập 13 tờ 97a15, Chúng kinh mục lục 6 ĐTK
2146 tờ 147a22 đến Lịch đại tam bảo ký 5 ĐTK 2034 tờ 59b4, Đại Đường nội
điển lục 2 ĐTK 2149 tờ 230a19, Cổ kim dịch kinh đồ kỷ 1 ĐTK 2151 tờ
352b21, Khai Nguyên thích giáo mục lục 2 ĐTK 2154 tờ 491b20 và Trinh
Nguyên tân định thích giáo mục lục 3 ĐTK 2157 tờ 788c19 cùng với Cao
tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 326a23 đều ghi nhận Khương Tăng Hội có chú
giải kinh An ban thủ ý một quyển. Nhưng trong bản in Đại Chính ngày nay
không có một bản An ban thủ ý kinh chú giải riêng. Ngược lại, chỉ có bản
Phật thuyết đại An ban thủ ý kinh được ghi là do An Thế Cao dịch và xếp
vào kinh tập bộ số ĐTK 602 tờ 163a1-173a28, gồm hai quyển thượng và hạ,
với lời tựa An ban thủ ý kinh tự của Khương Tăng Hội.
Tuy
nhiên, nếu đọc trực tiếp Phật thuyết đại An ban thủ ý kinh, thì ngay
câu đầu ta thấy đây không phải là một bản kinh dịch bình thường, mà là
một bản chú giải kinh đó. Thực vậy, nó khởi đầu với câu “Phật ở nước
Việt Kỳ”, thì tiếp đến là cụm từ “Nước Xá Mi Sậu, cũng nói một tên Già
Nặc Ca La”. Rõ ràng cụm ấy là một chú giải từ “nước Việt Kỳ” của câu đi
trước. Rồi câu kế “Bấy giờ đức Phật ngồi hành An ban thủ ý chín mươi
ngày” cũng vậy, tiếp theo là cả một đoạn chú giải dài về ý nghĩa bốn chữ
An ban thủ ý. Nhưng từ đó trở đi, chính văn của bản dịch An Thế Cao với
lời chú của Khương Tăng Hội trở nên có đoạn không phân biệt được tách
bạch rõ ràng.
Sự
tình này, một ghi chú cuối bản kinh ở tờ 173a25-28 xác nhận: “Kinh này,
xét lời tựa đầu kinh và xem kinh, hình như là người chép lầm lẫn, lời
chú kinh không phân ra mà chép liền vào. Đáng lẽ phải cắt mà chia ra.
Nhưng thường có nhiều chỗ không tách được, nên không dám tự tiện cắt.
Xin để lại cho các bậc hiền sau”.
Ghi
chú đây không có trong các bản in đời Tống năm 1104-1148 và 1239, đời
Nguyên năm 1290 và đời Minh khoảng năm 1601, song lại xuất hiện trong
bản in Cao Ly 1151. Bản in này chắc chắn phải dựa vào bản in Đại tạng
kinh Phật giáo đầu tiên tại Trung Quốc do Tống Thái Tổ ra lệnh in năm
972 và hoàn thành năm 983 gồm cả thảy 1076 kinh, 480 tập, và 5048 quyển,
chứ không thể dựa trên bản in Sùng Ninh Vạn Thọ bắt đầu năm 1080 nhưng
mãi đến năm 1176 mới xong. Vậy, ghi chú trên dứt khoát phải viết ra
trước năm 972. Nhưng do ai và trước năm 972 ấy bao nhiêu, ta hiện chưa
thể biết được đích xác.
Điểm
thú vị là việc chép lẫn lời chú giải vào chính văn kinh An ban thủ ý đã
xảy ra từ lâu và người ta đã nhận thấy rất sớm. Một nỗ lực sửa sai nhằm
tách chính văn ra khỏi chú giải đã được tiến hành, nhưng không thành
công do “thường có nhiều chỗ không thể tách”, nên “xin để lại cho các
bậc hiền sau”. Vì thế, bản Phật thuyết đại An ban thủ ý kinh hiện nay
thực chất phải nói là bản An ban thủ ý kinh chú giải. Và An ban thủ ý
kinh chú giải này phải là của Khương Tăng Hội, chứ không thể của Đạo An,
bởi vì nó đã bắt đầu với lời tựa của Hội, chứ không phải lời tựa của
An.
Không
những vì bắt đầu với lời tựa, nó còn chứa đựng một văn phong đặc biệt
Khương Tăng Hội, đó là sự pha trộn một ít cấu trúc mang tính ngữ pháp
tiếng Việt trong các tác dịch phẩm tiếng Trung Quốc của ông, mà ta đã có
dịp đề cập tới trong phần giới thiệu Lục độ tập kinh và Cựu tạp thí dụ
kinh. Và văn phong này không chỉ xuất hiện trong bản chú giải, mà còn cả
trong lời tựa. Cụ thể là câu “Ngưỡng chiêm vân nhật” (tờ 163c1) với
nghĩa “ngửa trông mây trời”. “Vân nhật” của tiếng Trung Quốc không có
nghĩa là mây và mặt trời bình thường của nó, mà đã được hiểu theo “mây
trời” tiếng Việt, nghĩa là mây trên trời. Trong bản chú giải, ta cũng có
những cấu trúc tương tự, như câu “kiến sắc vạn vật” (tờ 169a6) với
nghĩa “thấy sắc của vạn vật”. Cấu trúc “quá tinh tấn” (tờ 166a8) nhắc
nhở chúng ta lối dùng trạng từ quá trong tiếng Việt hiện đại, kiểu “quá
tốt”, “quá đẹp”, cấu trúc “thủy vũ” (tờ 172a20) với nghĩa “nước mưa”,
các cấu trúc “tín bản nhân duyên” (tờ 172b21), “hành hạnh vô vi”
(tờ172b26) với nghĩa “tin gốc nhân duyên”, “làm hạnh vô vi” v.v...
Những
cấu trúc vừa nêu tất không thể nào xuất hiện dưới ngòi bút của một
người Trung Quốc tầm cỡ thiên tài là Thích Đạo An được. Thực tế, một
kiểm tra sơ bộ những tác phẩm của Đạo An bảo tồn cho đến nay, cụ thể là
các bài tựa do Tăng Hựu sưu tập lại trong Xuất tam tạng ký tập 6-10, ta
không phát hiện có những cấu trúc pha trộn trên. Do thế, bản An ban thủ ý
kinh chú giải hiện biết dưới tên Phật thuyết đại An ban thủ ý kinh chắc
chắn không phải do Đạo An viết. Ngược lại nó là một tác phẩm của Khương
Tăng Hội. Việc đặt bài tựa của Hội lên đầu bản văn vì vậy không phải là
một động tác ngẫu nhiên tùy tiện của người chép truyền bản, mà phản ảnh
một đánh giá đúng đắn về tương quan nội dung và tác quyền giữa lời tựa
và bản chú giải.
Như
thế, từ đây trở đi ta gọi Phật thuyết đại An ban thủ ý kinh ĐTK 602 là
An ban thủ ý kinh chú giải. Tên này xuất hiện trong Chúng kinh mục lục
của Pháp Kinh. Lịch đại tam bảo ký, Đại Đường nội điển lục, Cổ kim dịch
kinh đồ kỷ, Khai Nguyên thích giáo lục và Trinh Nguyên tân định thích
giáo mục lục có tên gọn hơn là An ban kinh chú giải. Xuất tam tạng ký
tập và Cao tăng truyện chỉ nói “Khương Tăng Hội chú An ban thủ ý kinh”.
Do vậy, có lúc người ta đã gọi bằng tên Chú an ban thủ ý kinh, như Cao
tăng truyện 1 tờ 32a27 đã có.
II. Vấn đề niên đại
Kể
từ ngày Tăng Hựu viết trong Xuất tam tạng ký tập 13 DTK 2145 tờ
97a13-16 là: “Hội ở chùa Kiến Sơ, dịch ra kinh pháp (...) lại chú ba
kinh An ban thủ ý, Pháp kính và Đạo thọ cùng viết tựa kinh, lời lẽ trông
đẹp, nghĩa lý vi diệu, đều được đời sau kính trọng”, những người viết
sử và kinh lục Phật giáo Trung Quốc tiếp theo đã thống nhất đặt thời
điểm xuất hiện các tác dịch phẩm của Khương Tăng Hội vào sau năm 247 lúc
Hội đang ở chùa Kiến Sơ tại Kiến Nghiệp Trung Quốc. Huệ Hạo viết Cao
tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 326 a19-24 đã nói: “Hội ở chùa Kiến Sơ dịch ra
các kinh (...) lại chú ba kinh An ban thủ ý, Pháp kính và Đạo thọ, cùng
viết tựa kinh, lời lẽ đẹp tiện, nghĩa lý vi diệu, đều thấy ở đời”.
Đạo
Tuyên soạn Đại Đường nội điển lục 2 ĐTK 2149 tờ 230c17-20 cũng ghi:
“(Hội) ở chùa Kiến Sơ, dịch ra các kinh, phần nhiều đã mất bản, như
riêng đã rõ, lại chú thuật các kinh cùng viết tựa, đều khéo được chính
thể, văn nghĩa chuẩn hay. Kinh do ông chú là An ban thủ ý, Pháp kính và
Đạo thọ, xem đủ ở lục”. Nhưng đến Tỉnh Mại, do tiếp thu những thông tin
của Phí Trường Phòng trong Lịch đại tam bảo ký, đã nói thẳng ra ở Cổ kim
dịch kinh đồ kỷ 1 ĐTK 2151 tờ 352b 15-22 là: “Vào năm Thái Nguyên thứ
hai (252) nhà Ngô nhằm năm Tân Mùi ở Dương Đô (Hội) dịch Lục độ tập kinh
(...) An ban kinh chú giải 1 quyển”.
Trí
Thăng nhận ra năm Tân Mùi là Thái Nguyên thứ nhất, chứ không phải thứ
hai, nên đã viết trong Khai Nguyên thích giáo lục 2 ĐTK 2154 tờ
491b14-21: “Hội vào năm Tân Mùi Thái Nguyên thứ nhất (251) của Tôn Quyền
ở chùa Kiến Sơ do mình sáng lập dịch Lục độ v.v...7 bộ kinh (...) lại
có Pháp kính kinh chú giải một quyển, An ban kinh chú giải một quyển, ba
kinh trên này Hội gồm viết tựa...”. Viên Chiếu chép lại ý kiến vừa dẫn
của Trí Thăng trong Trinh Nguyên tân định thích giáo mục lục 3 ĐTK 2175
tờ 788c-21 không thêm bớt.
Quan
điểm chung của các nhà kinh lục và sử học Phật giáo Trung Quốc như vậy
coi toàn bộ sự nghiệp phiên dịch và trước tác của Khương Tăng Hội được
thực hiện sau năm 248 ở Trung Quốc, cụ thể là tại chùa Kiến Sơ của Kiến
Nghiệp. Song vấn đề không đơn giản đến thế, đặc biệt đối với An ban thủ ý
kinh chú giải, bởi vì ta có An ban chú tự của Đạo An do Tăng Hựu chép
lại trong Xuất tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145 tờ 43c4-24. Trong lời tựa này,
Đạo An nói: “Ngụy sơ, Khương Hội chú nghĩa cho nó, nghĩa hoặc ẩn mà
chưa rõ, An trộm không tự lượng mình, dám nhân người trước, viết giải ở
dưới...”
“Ngụy
sơ” là những năm đầu nhà Ngụy. Nhà Ngụy do con Tào Tháo là Tào Phi
thành lập năm 221 và chấm dứt năm 265 Hàm Hy thứ nhất của Nguyên đế Tào
Hoán, tổng cộng được 45 năm. Cho nên, nếu Đạo An nói đầu đời nhà Ngụy,
Khương Tăng Hội viết chú nghĩa cho kinh An ban thủ ý, như thế chắc chắn
An ban thủ ý kinh chú giải không thể viết vào năm 247 về sau, mà phải từ
những năm 221 trở đi cho tới khoảng năm 230. Lý do nằm ở chỗ, từ những
năm 247 về sau dứt khoát không thể gọi là “Ngụy sơ”, “những năm đầu nhà
Ngụy” được, trái lại chúng thực tế là những năm cuối cùng của nó, là
“Ngụy mạt”.
Điều
này cũng có nghĩa là Khương Tăng Hội đã không viết An ban thủ ý kinh
chú giải tại chùa Kiến Sơ ở Trung Quốc, như các bản kinh lục đã có, mà
đã viết nó tại nước ta vào giữa những năm 221-230. Đây là một kết luận
khá lôi cuốn, bởi vì như vậy ngoài Mâu Tử Lý hoặc luận, ta bây giờ có
thêm một tác phẩm khác của không những lịch sử Phật giáo, mà còn của văn
học và tư tưởng Việt Nam, vào những thế kỷ đầu của cuộc đấu tranh với
kẻ thù phương Bắc. Kết luận này ta không có gì để nghi ngờ cả do việc
Đạo An sống đã cách Khương Tăng Hội không xa về mặt thời gian, mà còn là
người “đã hiệu huyệt các kinh, chép ghi truyền dịch”, như Cao tăng
truyện 1 ĐTK 2059 tờ 324a23-24 đã ghi.
Tiểu
sử của Đạo An trong Cao tăng truyện 5 ĐTK 2059 tờ 353c11-12 nói An mất
vào năm Thái Nguyên thứ 10 (382) nhà Tấn thọ 72 tuổi. Vậy, An phải sinh
năm 311, như thế chỉ cách thời gian Hội mất hơn 30 năm. Mẩu tin về niên
đại An ban thủ ý kinh chú giải trong lời tựa trên của An, do đó là một
mẩu tin sớm nhất liên quan đến Hội và có độ đáng tin cậy cao. Không
những vậy, An còn là một nhân vật kiệt xuất của lịch sử Phật giáo cũng
như văn học và tư tưởng Trung Quốc, một con người đã đào tạo ra cả một
thế hệ những nhà văn hóa có tài năng như Huệ Viễn, Pháp Thải v.v... Cho
nên, không phải chỉ sống gần thời với Khương Tăng Hội, mà với tư cách
một thiên tài tầm cỡ, những gì Đạo An viết trên về Hội có giá trị hơn
nhiều so với những nhà kinh lục và sử học đời sau như Tăng Hựu, Huệ Hạo,
chứ khoan nói chi đến Đạo Tuyên và Trí Thăng.
Không
những thế, Đạo An đã dựa theo An ban thủ ý kinh chú giải của Khương
Tăng Hội để viết An ban chú, như lời tựa dẫn trên đã ghi nhận và mở đầu
cho phong trào nghĩa học ở Trung Quốc. Theo tiểu sử của Đạo An trong Cao
tăng truyện 5 ĐTK 2059 tờ 352a21-27, “Xưa kinh dịch ra đã lâu, mà cựu
dịch có lúc sai lầm đến nỗi khiến nghĩa sâu chìm mất chưa thông, mỗi khi
giảng thuyết, chỉ nói sơ đại ý, rồi đọc Kinh Thi. An xem hết kinh điển,
móc sâu vói xa, các kinh Bát nhã đạo hành, Mật tích, An ban do ông chú
đều tìm văn so câu, nêu hết các nghĩa, rồi bẻ nghi ngờ, giải rõ, phàm 22
quyển. Lời tựa uyên bác, phong phú, khéo được nghĩa sâu, điều mục đã
bày, văn ý được thông, nghĩa kinh khắc rõ, bắt đầu từ An”. Công tác chú
giải kinh điển và viết tựa của Đạo An công phu như vậy. Cho nên, khi An
nói: “Ngụy sơ Khương Tăng Hội viết chú nghĩa”, thì đây không phải là một
câu nói vô trách nhiệm, không căn cứ.
Hơn
nữa, Đạo An cũng là người đầu tiên viết bản kinh lục đầy đủ về lịch sử
truyền dịch kinh điển Trung Quốc. Cao tăng truyện 5 tờ 352a27-b1 nói:
“Từ Hán Ngụy đến Tấn, kinh đến càng nhiều, tên tự của người dịch không
nói, người sau truy tìm, không biết niên đại. An bèn tổng hợp danh mục,
chép ra người thời nào, ghi phẩm mới cũ, soạn làm Kinh lục, các kinh có
chứng cứ, thật do công của An”. Như thế, không chỉ nghiên cứu An ban thủ
ý kinh chú giải của Khương Tăng Hội để viết An ban chú, Đạo An còn tập
hợp các kinh điển tiếng Trung Quốc, truy tìm niên đại và tên tự người
dịch chúng, để viết thành Tổng lý chúng kinh mục lục mà Tăng Hựu trong
Xuất tam tạng ký tập 2 ĐTK 2145 tờ 5c2 nói đó là bản kinh lục “đầu tiên
chép lại tên kinh, ghi ra phẩm chương người dịch, nêu lên năm tháng”. Do
đó, niên đại “Ngụy sơ” do An đưa ra ở trên đã trải qua một quá trình
thẩm tra cân nhắc kỹ càng dưới sức ép của các dữ kiện và tư liệu thu
thập được.
Thực
tế, vào thời An các tác phẩm của Hội chưa đến nỗi thất lạc nhiều. Viết
Thập pháp cú nghĩa kinh tự mà Hựu sao lại trong Xuất tam tạng ký tập 10
ĐTK 2145 tờ 74b11-13, An nói: “Xưa Nghiêm Điều soạn Thập tuệ chương cú,
Khương Tăng Hội biên tập Lục độ yếu mục, mỗi tìm dấu họ, tôi mừng có
hiểu, nhưng còn thiếu, lưu hành lâu mà chưa chép, nay sao ra đề tên Thập
pháp cú nghĩa...”. Vậy, Khương Tăng Hội có viết Lục độ yếu mục, mà An
đã sử dụng cùng với Thập tuệ chương cú của Nghiêm Phù Điều, để viết Thập
pháp cú nghĩa. Điểm đáng tò mò là từ Tăng Hựu trở về sau không một nhà
kinh lục nào nhắc đến tác phẩm ấy của Hội.
Nói
thế cũng có nghĩa niên đại “Ngụy sơ”, khi nêu lên, Đạo An không phải
không có căn cứ của nó. Ngoài những tư liệu Đạo An có thể có, mà ngày
nay đã mất như Lục độ yếu mục, chỉ cần đọc lại lời tựa do Khương Tăng
Hội viết cho An ban thủ ý kinh chú giải của ông, ta thấy ngay đề ra một
niên đại như vậy là hợp lý. Khi mô tả việc An Thế Cao đến ở Lạc Dương,
Hội viết: “Bèn ở kinh sư”. Gọi Lạc Dương bằng kinh sư, Hội dứt khoát
không thể ở Kiến Nghiệp mà làm việc ấy được, bởi vì năm 220 Tôn Quyền
xưng đế và đóng đô ở Kiến Nghiệp, như Ngô chí 2 tờ 16a12 đã ghi, trong
lúc Lạc Dương vẫn là kinh sư của nhà Ngụy, kẻ thù của Tôn Quyền.
Thêm
vào đó, năm Hoàng Vũ thứ năm (226) Sĩ Nhiếp chết, Tôn Quyền bộc lộ ý
định thôn tính nước ta của mình, bằng cách ngay năm đó chia Giao Châu
thành hai châu, như Ngô chí 2 tờ 14b6 đã ghi. Hợp Phố về bắc gồm Thương
Ngô, Nam Hải, Uất Lâm và Hợp Phố làm Quảng Châu, cử Lữ Đại làm Thứ sử.
Giao Chỉ về nam gồm thêm Cửu Chân, Nhật Nam làm Giao Châu, cử Tải Lương
làm thứ sử, Trần Thì làm thái thú thay Nhiếp. Tải Lương đến Hợp Phố, Sĩ
Huy con Nhiếp đã tự xưng làm Thái thú, cử binh đóng cửa biển để chống
Lương v.v... Đại do thế dâng sớ xin đánh tội Huy, thúc quân ba ngàn
người ngày đêm vượt biển. Có người bảo Đại: “Huy nhờ ơn nhiều đời, cả
châu dốc theo, chưa dễ khinh địch”. Đại nói: “Huy tuy có nghịch kế,
nhưng chưa xong. Ta biết chợt đến, như giấu quân nhẹ cử, ập vào khi nó
không chuẩn bị, thắng là chuyện chắc. Nếu ở lâu không nhanh, khiến nó
sinh lòng ôm thành cố thủ, trăm mọi của bảy quận hưởng ứng như mây dồn,
thì tuy có người tài mưu trí, ai có thể làm được”, như truyện Đại trong
Ngô chí 15 tờ 7b5-10 đã chép.
Chép
vậy thực chất “phần nhiều đã bị nhuận sắc, nên chỗ chép thuật trước có
điều chẳng thực, những tác giả sau lại sinh ý cải đổi thất thật, càng
không xa ư?” như lời than của Bùi Tùng Chi trong Ngụy chí 1 tờ 12b1-2 đã
biểu lộ. Và quả đúng thế, Lữ Đại thắng Sĩ Huy không phải do Đại tiến
quân nhanh, mà chủ yếu do Huy “tài cán tầm thường” như Trần Thọ bình
luận, nên đã giết thuộc hạ mình là Hoàn Lân, dẫn anh và con Lân là Hoàn
Trị và Hoàn Phát vây thành chống lại Huy. Rồi sau đó không kiên quyết,
nghe Sĩ Khuông, do Lữ Đại phái tới thuyết phục, Huy ra đầu hàng và bị
Đại giết, như truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 8b8-9a5 ghi. Việc này xảy
ra khoảng vào năm 228.
Qua
năm 229 Tôn Quyền xưng đế, đóng đô Kiến Nghiệp. Do thế, nếu Khương Tăng
Hội viết An ban thủ ý kinh chú giải trong khoảng 221-230, thời điểm có
khả năng Hội viết nhất, hẳn rơi vào những năm 226-228, khi Sĩ Huy công
khai thách thức Tôn Quyền và từ đó chắc có ý định liên minh với nhà
Ngụy, như Lữ Hưng sẽ làm về sau, để cho Hội gọi Lạc Dương là kinh sư.
Kết luận này hoàn toàn phù hợp với những gì Hội viết trong bài tựa về
quá trình thành của bản chú giải ấy.
III. Quá trình hình thành và Mâu Tử
Hội
nói: “Tôi sinh muộn màng, mới biết vác củi, cha mẹ chết mất, ba thầy
viên tịch, ngửa trông mây trời, buồn không biết hỏi ai, nghẹn lời trông
quanh, lệ rơi lã chã. Song phước chưa hết, may gặp Hàn Lâm từ Nam Dương,
Bì Nghiệp từ Dĩnh Xuyên, Trần Tuệ từ Cối Kê. Ba vị hiền này tin đạo dốc
lòng, giữ đức rộng thẳng, khăng khăng vươn tới, chí đạo không mỏi. Tôi
theo xin hỏi, thước giống góc đúng, nghĩa không sai khác. Trần Tuệ chú
nghĩa, tôi giúp châm chước, chẳng phải chỗ thầy truyền, thì không dám tự
do”.
Ta
biết Hội mất năm 280 và viết An ban thủ ý kinh chú giải trong khoảng
221-230. Do đó, ông phải sinh sớm lắm là khoảng năm 200. Năm “ba thầy”
trao giới Tỳ kheo hẳn là 220, lúc ông đã được hai mươi tuổi, một qui
định tuổi bắt buộc, dù cũng có vài ngoại lệ. Sau khi thọ giới xong, “ba
thầy điêu táng”. Với chí tánh hiếu thảo, ông chắc đã để tang thầy. Cho
nên, nếu có viết An ban thủ ý kinh chú giải, thì cũng phải từ năm 223
trở đi. Và trước khi viết, Hội đã gặp Hàn Lâm, Bì Nghiệp và đặc biệt là
Trần Tuệ, để đem những gì Hội học với thầy mình ra hỏi họ. Hội phát hiện
không có gì “sai khác cả”. Quá trình học và so này chắc phải mất một
thời gian. Vì thế, Hội có đặt bút viết thì cũng từ những năm 224-225. Từ
đó, Hội hoàn thành khoảng vào năm 226-228.
Điểm
lôi cuốn là Hội nói “Trần Tuệ chú nghĩa, tôi giúp châm chước”, trong
khi từ Đạo An trở về sau cho đến Trí Thăng, Viên Chiếu, ai cũng nhận Hội
là tác giả của An ban thủ ý kinh chú giải. Thế phải chăng bản chú giải
này là của Trần Tuệ? Cứ chính vào nội dung hiện có của An ban thủ ý kinh
chú giải ngày nay, mà trong quá trình lưu truyền sao chép đã bị “nhuận
sắc” ít nhiều, ta vẫn còn phát hiện một số cấu trúc mang sắc thái ngữ
pháp tiếng Việt, như đã thấy. Cho nên, không thể một người từ Cối Kê
sang như Trần Tuệ lại viết An ban thủ ý kinh chú giải với những cấu trúc
kiểu đó. Vì vậy, Đạo An cũng như những nhà kinh lục về sau đã không
lầm, khi ghi nhận Hội viết chú nghĩa cho kinh ấy.
Từ
đó, việc Hội bảo “Trần Tuệ chú nghĩa, tôi giúp châm chước” một mặt biểu
lộ sự khiêm tốn và lòng biết ơn đối với Trần Tuệ. Mặt khác, nó xác nhận
sự kiện Trần Tuệ có một ảnh hưởng nhất định trên công tác chú giải của
Khương Tăng Hội. Sự thật, Cao tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 324a11-b12 có
ghi một truyền thuyết về quan hệ giữa Trần Tuệ và Khương Tăng Hội trong
sự nghiệp truyền bá học phong của An Thế Cao qua câu “Tôn đạo ta là cư
sĩ Trần Tuệ, truyền thiền kinh là Tỳ kheo Khương Tăng Hội”. Và đây là
tất cả những gì ta hiện biết về nhân vật Trần Tuệ này. Hai nhân vật kia,
Hàn Lâm và Bì Nghiệp (Cao tăng truyện có tên Văn Nghiệp), ngoài lời tựa
trên, không thấy đâu nhắc tới nữa.
Tuy
nói “Trần Tuệ chú nghĩa”, Hội không quên thêm câu “chẳng phải lời thầy
truyền thì không dám tự do”, để rõ ràng xác nhận bản chú giải do Hội
viết là ghi lại lời thầy Hội truyền. Thầy đây là thầy của Hội, chứ không
phải chỉ An Thế Cao, như có người đã lầm tưởng và bảo Trần Tuệ đã học
với An Thế Cao. Thực tế, như Cao tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 324a9-10 đã
dẫn, Tổng lý chúng kinh mục lục của Đạo An nói: “An Thế Cao từ Hán Hoàn
đế Kiến Hòa năm thứ 2 (152) đến trong khoảng Kiến Ninh (169-172) của
Linh đế hơn 20 năm dịch ra hơn 30 bộ kinh”. Vậy, An Thế Cao sống cho tới
khoảng những năm 170, trong khi Trần Tuệ gặp Khương Tăng Hội sau khi
thầy Hội đã mất, tức từ khoảng năm 220 đến 230. Trần Tuệ như thế phải
gặp An Thế Cao lúc mới mười mấy tuổi nếu ta giả thiết Tuệ có học với Cao
về An ban thủ ý kinh.
Đấy
là một điểm đáng nghi ngờ. Giả như Tuệ có học với Cao, thì tuy Hội nói
“Trần Tuệ chú nghĩa, tôi giúp châm chước”, An ban thủ ý kinh chú giải
vẫn không phải do Tuệ viết, ngược lại, nó do Hội thực hiện. Cho nên, vị
thầy nói tới trong lời tựa là thầy của Hội, chứ không thể là thầy của
Trần Tuệ. Việc nhắc tới thầy mình trong khi viết chú giải hay phiên dịch
là một nét đặc trưng của học phong Khương Tăng Hội. Ta đã thấy lúc dịch
Cựu tạp thí dụ kinh, Hội đã ghi lại 14 lời bình luận của thầy ông với
câu: “Thầy nói” (sư viết). Rồi khi viết Pháp kính kinh tựï trong Xuất
tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145 tờ 46c9, ông một lần nữa nói: “Tang thầy
nhiều năm, nên không do đâu hỏi lại.”
Nói
khác đi, tuy Trần Tuệ cùng với Hàn Lâm và Bì Nghiệp có một ảnh hưởng
nhất định đối với Khương Tăng Hội, Hội vẫn sẵn sàng thừa nhận tư tưởng
chủ yếu khi viết An ban thủ ý kinh chú giải vẫn là những gì do “thầy”
của Hội truyền dạy lại. Thế thì, vị thầy này là ai? Căn cứ vào chính lời
của Hội, khi viết chú giải, Hội chủ trương “chẳng phải lời thầy thì
không truyền, không dám tự do”, ta thấy lời tựa tóm tắt ý chính của bản
chú giải đã chứa đựng quá nhiều văn cú liên quan đến Lý hoặc luận.
Cụ
thể là khi định nghĩa tâm là gì, Khương Tăng Hội viết ở tờ 163a8-12:
“Tâm chi dật đảng, vô vi bất hiệp, hoảng hốt phảng phất, xuất nhập vô
gián, thị chi vô hình, thính chi vô thanh, nghênh chi vô tiền, tầm chi
vô hậu, thâm vi tế diệu, hình vô ty phát, Phạn thích tiên thánh, bất
năng chiếu minh, mặc chủng vu thử, hóa sinh hồ bỉ, phi phàm sở đổ, vi
chi ấm giả...”. Và khi mô tả thành quả của người thực hành An ban, Hội
lại viết ở tờ 163b 12-16: “Đắc An ban hành giả, quyết tâm tức minh
(...), vô hà bất kiến, vô thanh bất văn, hoảng hốt phảng phất, tồn vong
tự do, đại di bất cực, tế quán mao ly, chế thiên địa, trụ thọ mạng
(...)”.
Văn
cú hai đoạn vừa trích rõ ràng ít nhiều phản ảnh quan niệm Phật và đạo
của Mâu Tử trong điều 2 và 3 của Lý hoặc luận ở Hoằng minh tập 1 ĐTK
2102 tờ 2a9-11 và 2a 14-18: “Phật chi ngôn giác dã, hoảng hốt biến hóa,
phân thân tán thể, hoặc tồn hoặc vong, năng tiểu năng đại, năng viên
năng phương (...) Đạo chi ngôn đạo dã, đạo nhân trí vô vi, khiên chi vô
tiền, dẫn chi vô hậu, cử chi vô thượng, át chi vô hạ, thị chi vô hình,
thính chi vô thanh, tứ biểu vi đại, uyển diên kỳ ngoại, hào ly vi tế,
gián quan kỳ nội, cố vi chi đạo”.
Rõ
ràng, so sánh các đoạn trích văn trên, ta thấy chúng có nhiều câu đồng
nhất hay như đồng nhất với nhau. Sự tình này có thể giải thích dễ nhất
bằng cách nói đến việc tiếp thu văn phong Mâu Tử của Khương Tăng Hội
thông qua công tác tìm hiểu nghiên cứu Lý hoặc luận. Nhưng ta cũng có
thể giải thích Khương Tăng Hội đã học trực tiếp với Mâu Tử. Chính nhờ
nghe Mâu Tử giảng dạy trực tiếp, Khương Tăng Hội mới có được những tương
đồng văn cú trên. Chúng thể hiện chủ trương của Hội khi viết An ban thủ
ý kinh chú giải là “chẳng phải (lời) thầy truyền, không dám tự do”. Và
trên thực tế, Hội đã làm như vậy.
Hẳn
dưới sự dạy dỗ dìu dắt, hướng dẫn của Mâu Tử, Khương Tăng Hội đã hình
thành một hướng đi cho mình. Đó là truyền bá Phật giáo Việt Nam qua
Trung Quốc, thực sự chứng minh khả năng văn hóa Việt Nam đã phục hồi sau
sự biến chính trị năm 43 phá vỡ hệ thống nhà nước Hùng Vương. Đây phải
nói là một đòn phản công văn hóa và nó đã thắng lợi hoàn toàn, khẳng
định sự tồn tại và thách đố của nó đối với nền văn hóa Trung Quốc đang ồ
ạt tràn sang, có nguy cơ nhận chìm nó. Chắc với ý đồ ấy, Mâu Tử đã
hướng dẫn cho Khương Tăng Hội viết những tác phẩm tiếng Trung Quốc đầu
tiên nhắm tới đối tượng là người Trung Quốc. Song việc đang tiến hành,
Mâu Tử cùng hai thầy kia của Hội đã mất, vì tuổi lớn (Mâu Tử lúc ấy phải
trên sáu mươi), để lại trong lòng Hội một niềm tiếc thương vô hạn.
Nhìn
sự việc dưới góc độ này, ta bây giờ mới thấy tại sao những tác phẩm đầu
tay của Khương Tăng Hội ở nước ta lại được viết bằng tiếng Trung Quốc.
Chúng được thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ và chuẩn bị phục vụ
công tác truyền bá Phật giáo cho người Trung Quốc, mà lúc đó đang cần
đến những bản chú giải như An ban thủ ý kinh chú giải hay Pháp kính kinh
giải tử chú v.v... Lý do nằm ở chỗ “ban đầu kinh dịch ra đã lâu, mà cựu
dịch có lúc sai lầm, đến nỗi khiến nghĩa sâu chìm mất chưa thông, mỗi
tới giảng thuyết, chỉ nói sơ đại ý, rồi đọc kinh mà thôi...” như Cao
tăng truyện 5 ĐTK 2059 tờ 352a21-4 đã ghi. Nói khác đi, kinh điển do An
Thế Cao, Chi Sấm v.v... dịch ra, vì khó hiểu nên chỉ để tụng, chứ không
thể đọc mà hiểu. Vì thế, đang cần những bản giải thích.
Ý
thức được nhu cầu ấy, nên những vị thầy của Hội, chủ yếu là Mâu Tử đã
hướng dẫn Hội tập sự chú giải một số kinh điển Phật giáo Trung Quốc lưu
hành ở nước ta thời bấy giờ, cụ thể là An ban thủ ý kinh của An Thế Cao,
Pháp kính kinh của An Huyền và Đạo thọ kinh v.v..., mà kết quả là bản
An ban thủ ý kinh chú giải hiện có. Tuy thế, nền Phật giáo do Mâu Tử và
Khương Tăng Hội truyền đạt vẫn mang tính Việt Nam, vì nó do người Việt
Nam nhận thức, tiếp thu và truyền thụ. Nó vì thế mang sắc thái văn hóa
Việt Nam. Đây là lý do giải thích tại sao những truyền thuyết như trăm
trứng vẫn được giữ nguyên trong Lục độ tập kinh, trong khi ta biết chắc
chắn là truyền thuyết một trăm cục thịt đã lưu hành ở Kiến Nghiệp với
bản dịch Soạn tập bách duyên kinh của Chi Khiêm, lúc Hội mới qua Trung
Quốc và mang theo dịch bản kinh ấy.
Vậy,
người thầy tham gia vào quá trình hình thành An ban thủ ý kinh chú giải
có khả năng không ai khác hơn là Mâu Tử. Những bản chú giải khác như
Đạo thọ kinh chú giải và Pháp kính kinh giải tử chú của Khương Tăng Hội,
Mâu Tử có tham gia không, ta ngày nay không thể trả lời dứt khoát được,
dù Pháp kính kinh tựï có nhắc đến sự kiện “tang thầy nhiều năm nên
không do đâu hỏi lại”. Nhắc thế cũng có nghĩa Hội viết Pháp kính kinh
giải tử chú theo những gì thầy mình đã dạy. Một lần nữa, Mâu Tử có thể
ít nhiều tham gia vào quá trình hình thành Pháp kính kinh giải tử chú,
nhưng ta không có một chứng cớ nào cả.
Một
khi trở thành một trong các vị thầy của Khương Tăng Hội, có khả năng,
chúng tôi nói “có khả năng”, vì Mâu Tử không nhất thiết phải xuất gia
mới làm thầy của Khương Tăng Hội, bởi bản thân Mâu Tử với học lực và tài
ba của mình cũng có thể đủ để làm thầy của Hội. Mâu Tử đã xuất gia, sau
thời gian cư tang mẹ xong, khoảng vào năm 198. Nghĩa là chính vào năm
Mâu Tử viết Lý hoặc luận. Viết Lý hoặc luận, ngoài nhiệm vụ chính là trả
lời “bọn thế tục cho ông bỏ năm kinh, mà đi theo đạo khác”, ông hẳn
gián tiếp trình bày lý do ông xuất gia. Cụ thể là thời buổi nhiễu nhương
chẳng phải là lúc ra làm quan và chọn lối sống “thiên tử không có bề
tôi, chư hầu không có người bạn”. Nói thế tức cũng gần như nói “không
tham dự việc đời”, một nét đặc trưng của các sa môn, theo Mâu Tử.
Điều
này giải thích cho ta không ít tại sao Lý hoặc luận có một quan tâm đặc
biệt đối với lối sống của những người xuất gia Phật giáo thể hiện qua
các điều 1, 9, 10, 11, 16, 27 và 35, tức chiếm hơn 20% tác phẩm. Đặc
biệt điều 27 nói: “Tôi xưa ở kinh sư, vào Đông quan, chơi Thái học, thấy
nề nếp của tuấn sĩ, nghe luận bàn của rừng nho, chưa nghe tu đạo Phật
là quí, bớt dung nhan là hay, sao bạn lại mê thế? Phàm đi lạc thì đổi
đường, cùng thì về cũ, há không đáng suy nghĩ ư?” Đặt câu hỏi thế này,
rõ ràng muốn nói Mâu Tử đã “xuống tóc” đi tu. Vì thế, khi Mâu Tử viết
ông “dốc chí vào đạo Phật”, nó không chỉ có nghĩa “dốc chí” chung chung,
mà đã hiến mình hoàn toàn cho cuộc sống đạo, nghĩa là đã trở thành một
nhà tu. Như vậy, Mâu Tử là nhà sư đầu tiên được biết tên của lịch sử
Phật giáo nước ta.[11]
Việc
Mâu Tử có quan hệ với quá trình hình thành An ban thủ ý kinh chú giải
đến lượt nó trở lại giải thích cho ta khá nhiều những điểm chưa sáng tỏ
trong Lý hoặc luận. Điển hình là câu hỏi kết thúc của người đối thoại
với Mâu Tử về lý do “Tại sao chỉ viết 37 điều, thế có khuôn mẫu không?”.
Mâu Tử trả lời: “Tôi xem Phật kinh chi yếu có ba mươi bảy phẩm, Đạo
kinh họ Lão cũng có ba mươi bảy thiên, nên làm theo mẫu đó”. Trước đây,
khi nghiên cứu Lý hoặc luận, chúng tôi nói câu “Phật kinh chi yếu có 37
phẩm” và 37 phẩm ở đây là 37 phẩm trợ đạo truyền thống của Phật giáo.
Nhưng cũng có thể hiểu là có một cuốn sách lưu hành vào thời Mâu Tử có
tên Phật kinh chi yếu gồm 37 chương.
Bây
giờ, nếu chấp nhận Mâu Tử đã dạy An ban thủ ý kinh cho Khương Tăng Hội
và Khương Tăng Hội đã viết An ban thủ ý kinh chú giải để truyền lại lời
thầy, thì rõ ràng cách hiểu thứ nhất trên là có cơ sở hơn. Lý do nằm ở
chỗ trong bản chú giải ngày nay ở tờ 172c4-5 có câu: “Mười hai bộ kinh
đều thảy nằm trong kinh Ba mươi bảy phẩm, vì như muôn suối bốn sông đều
chảy về biển lớn”. Kinh Ba mươi bảy phẩm đây không chỉ gì khác hơn là ba
mươi bảy phẩm trợ đạo bao gồm bốn niệm xứ, bốn chính cần, bốn như ý
túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám con đường chính. Và một khi đã
nói “Mười hai bộ kinh thảy đều nằm trong kinh Ba mươi bảy phẩm” thì cũng
muốn nói “Yếu lý kinh Phật có ba mươi bảy phẩm”.
Do
đó, “Yếu lý kinh Phật có 37 phẩm” thực chất là kinh Ba mươi bảy phẩm
của An ban thủ ý kinh chú giải, mà khi viết Lý hoặc luận, Mâu Tử đã lấy
làm khuôn mẫu để hình thành 37 điều của mình. Như thế, vào thời Mâu Tử,
ngoài Lục độ tập kinh, Tạp thí dụ kinh, Cựu tạp thí dụ kinh và những bản
kinh tiếng Trung Quốc khác như Tứ thập nhị chương kinh, An ban thủ ý
kinh, Pháp kính kinh, Đạo thọ kinh v.v... ta bây giờ phải ghi nhận thêm
Tam thập thất phẩm kinh, một bản kinh ra đời trước Tam thập thất phẩm
kinh do Đàm Vô Lan tập thành vào năm Tấn Thái Nguyên 21 (393) từ các văn
bản kinh khác nhau, như Tam thập thất phẩm kinh tự của ông trong Xuất
tam tạng ký tập 10 ĐTK 2145 tờ 70b16-c12 đã ghi.
Sự
thực, trước thời Đàm Vô Lan, Đạo An đã thu thập được một bản Tam thập
thất phẩm kinh không tên người dịch, như Xuất tam tạng ký tập 3 ĐTK 2145
tờ 16c29 đã chép. Bản này Đạo Tuyên viết Đại đường nội điển lục 1 ĐTK
1249 tờ 225c24 xếp vào loại thất dịch đời Hán, nhưng không nói rõ. Đến
Trí Thăng viết Khai Nguyên thích giáo lục 1 ĐTK 2145 tờ 484b22, dẫn Lịch
đại tam bảo ký 5 ĐTK 2034 tờ 55 b17 của Phí Trường Phòng, nó được xếp
hẳn vào loại thất dịch đời Hán. Viên Chiếu cũng làm thế trong Trinh
Nguyên tân định thích giáo mục lục 2 ĐTK 2157 tờ 781c13. Bản Tam thập
thất phẩm kinh do Đạo An thu thập được có khả năng do bản Tam thập thất
phẩm kinh tiếng Việt, mà Mâu Tử sử dụng dịch ra, như trường hợp Tạp thí
dụ kinh ĐTK 206 ta đã bàn tới.
Có
thể Mâu Tử đã gọi Tam thập thất phẩm kinh là Phật kinh chi yếu, để cho
nó đối với Lão thi đạo kinh ở câu sau. Cho nên, hiểu Phật kinh chi yếu
như tên một cuốn sách không phải là không có cơ sở. Thêm vào đó, An ban
thủ ý kinh chú giải tờ 169c7 có dẫn một bản văn có tên Yếu kinh. Yếu
kinh này phải chăng là Phật kinh chi yếu? Đây là một có thể, bởi vì tra
lại các bản kinh lục hiện nay không có một bản văn nào tên Yếu kinh
trước thời Khương Tăng Hội cả. Chỉ Xuất tam tạng ký tập 4 ĐTK 2145 tờ
32a6 dưới mục Điều tân soạn mục lục khuyết kinh có ghi Xuất yếu kinh 20
quyển và nói là khuyết bản “chưa thấy văn kinh”. Vậy phải chăng Yếu kinh
trên là Xuất yếu kinh này chăng? Một lần nữa, đó là một có thể. Nếu
thế, ta biết thêm vào thời Mâu Tử có lưu hành một bản văn gọi là Xuất
yếu kinh, hay Yếu kinh tại nước ta. Và Yếu kinh đó có thể là Phật kinh
chi yếu của Lý hoặc luận, vì An ban thủ ý kinh chú giải tờ 172b13 có nói
tới Tam thập thất phẩm kinh yếu. Chỉ có điều Xuất yếu kinh có tới 20
quyển, trong khi ta không biết Yếu kinh và Phật kinh chi yếu có bao
nhiêu quyển. Có khả năng Yếu kinh và Phật kinh chi yếu có số quyển như
vậy, bởi vì người đối thoại với Mâu Tử than phiền “kinh Phật quyển lấy
muôn kể, lời lấy ức đếm” trong điều 5 của Lý hoặc luận, còn trong điều 1
Mâu Tử nói: “Phật viết kinh phàm 12 bộ hợp tám ức bốn ngàn vạn quyển,
quyển lớn vạn lời trở xuống, quyển nhỏ ngàn lời trở lên”. Đúng là nếu
Yếu kinh hay Phật kinh chi yếu tóm tắt “Yếu lý kinh Phật” đã lên đến 20
quyển, thì bình thường ra kinh Phật có thể nhiều và dài tới mức nào,
phải lấy số vạn số ức mà đếm. Thế, tình hình kinh điển Phật giáo ở nước
ta có cho phép nói đến những số lượng như vậy không vào thời Mâu Tử?
Đây
là điển hình thứ hai, mà An ban thủ ý kinh chú giải có thể giúp soi
sáng Mâu Tử Lý hoặc luận, khi ta trả lời câu hỏi vừa nêu. Sự thực, quan
điểm coi “yếu lý kinh Phật có 37 phẩm” của Lý hoặc luận, hay “mười hai
bộ kinh thảy đều nằm trong kinh 37 phẩm” của An ban thủ ý kinh chú giải
là một quan điểm đặc biệt a tỳ đàm của Phát trí túc luận mà A tỳ đạt ma
đại tỳ bà sa luận 183 ĐTK 1545 tờ 917b7-981a17 chép thế này: “Chánh pháp
là gì? Đáp: Là căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu (...) Hỏi: Niệm trụ,
chính đoạn, thần túc cũng là chánh pháp không? (...) Đáp: Kia cũng là
chánh pháp (....) Bốn niệm trú tức bao gồm trong tuệ căn, tuệ lực, trạch
pháp giác chi, chính kiến. Bốn chính đoạn tức bao gồm trong tinh tấn
căn, tinh tấn lực, tinh tấn giác chi, chính cần. Bốn thần túc tức bao
gồm trong định căn, định lực, định giác chi, chính định (...) Trong đó
có hai thứ chánh pháp. Một là thế tục chánh pháp. Hai là thắng nghĩa
chánh pháp. Thế tục chánh pháp là tên, câu, văn, tức kinh, luật, luận.
Thắng nghĩa chánh pháp là thánh đạo, tức vô lậu căn, lực, giác chi, giác
đạo...”
Thế,
chính pháp, đặc biệt “thắng nghĩa chính pháp”, chứ không phải “thế tục
chính pháp”, là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Cho nên, khi nói “Yếu lý kinh
Phật có 37 phẩm” và “mười hai bộ kinh thảy đều nằm trong kinh Ba mươi
bảy phẩm”, rõ ràng phản ảnh quan điểm vừa nêu của A tỳ đạt ma đại tỳ bà
sa luận. Và A tỳ đạt ma đại tỳ bà sa luận, tuy đến thời Huyền Tráng
(600-664) mới được dịch trọn vẹn gồm cả thảy 200 quyển, nhưng đã xuất
hiện vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, như bài kệ của Tráng chép ở
cuối quyển 200 tờ 1004a 5-7 ghi nhận:
Sau Phật niết bàn bốn trăm năm
Vua Ca Nị Sắc Ca đất Ấn
Triệu tập năm trăm bậc ứng chân
Ca Thấp Di La giải ba tạng
Trong đó đối pháp Tỳ bà sa
Có đủ bản văn nay dịch xong
Vì
vậy, có khả năng văn bản đã truyền tới đất nước ta và ít nhiều được
trích dịch, để cho một mặt ta có Tam thập thất phẩm kinh và quan điểm
“yếu lý kinh Phật” nói trên, và mặt khác Mâu Tử mới mô tả kinh Phật
“quyển lấy vạn kể, lời lấy ức đếm”. Quả thế, chỉ dựa vào bản dịch của
Huyền Tráng hiện có, thời Đạo An đã biết nó có 15072 “thủ lô”, tức
482304 “lời”, tương đương với tiếng Tần là 195250 “lời”. Xem A tỳ đàm tự
của Đạo An trong Xuất tam tạng ký tập 10 ĐTK 2145 tờ 72b5-7, chỉ A tỳ
đạt ma đại tỳ bà sa luận thôi ta cũng có tới 200 “quyển” và một triệu
rưỡi “lời”, chứ khoan nói chi đến một số bộ khác, mà ta biết có khả năng
hiện diện ở nước ta. Cụ thể là Bát nhã bát thiên tụng mà sau này Khương
Tăng Hội đã dịch thành Ngô phẩm hay Đạo phẩm. Tính về lời, cứ trên số
tụng của Phạn văn, ta có ít nhất 250.000 “lời”. Đạo An viết Đạo hành
kinh tự trong Xuất tam tạng ký tập 7 ĐTK 2145 tờ 47b14 cũng nói nó có
“ba mươi vạn lời”. Điều này cũng dễ tính thôi. Bộ Bát nhã do Hội dịch
thuộc dạng 8.000 kệ, mỗi kệ có 32 âm, nên tất cả có 250.000 “lời”[12].
Cũng nên nhớ điển huấn Trung Quốc, “thánh nhân vốn chế bảy kinh, không
quá ba vạn lời”.
Cho
nên, với một tình hình hiểu biết kinh sách như vừa mô tả, Mâu Tử đã
không quá lời khi nói “kinh Phật quyển dùng vạn kể, lời lấy ức đếm”. Và
từ số kinh sách giới hạn được biết chắc chắn ở nước ta này, có thể Mâu
Tử đã suy luận ra, để viết câu: “Kinh được trước tác phàm có 12 bộ hợp
thành tám ức bốn ngàn vạn quyển”, để ghi nhận sự phong phú của kinh điển
Phật giáo khi so với bảy kinh Nho giáo cỡ “Ngũ nhạc đối với gò đồi”,
“sông biển đối với kinh rạch”. An ban thủ ý kinh chú giải do thế giúp ta
hiểu thêm những gì Mâu Tử đã viết trong Lý hoặc luận là có cơ sở, chứ
không phải là những lời khoa đại vô căn cứ. Thế Mâu Tử đã truyền những
tư tưởng chủ yếu gì cho Khương Tăng Hội thông qua An ban thủ ý kinh chú
giải?
IV. Nội dung tư tưởng
An
ban thủ ý kinh chú giải tự tên sách đã xác định đây là một bản chú giải
về kinh An ban thủ ý do An Thế Cao dịch. Văn kinh và văn bản chú giải
từ trước thế kỷ thứ X, như đã nói, nhiều chỗ đã bị chép lẫn vào nhau
không dễ gì tách ra một cách dễ dàng. Cho nên, nội dung tư tưởng của bản
chú giải chính là nội dung tư tưởng của bản kinh, và ngược lại. Vì thế,
những gì An Thế Cao dịch cũng chính là những gì Khương Tăng Hội giải
thích. Yêu cầu giải thích kinh điển vào thời Hội đã trở nên bức thiết,
vì tình hình “xưa kinh dịch đã lâu, mà cựu dịch có lúc sai lầm đến nỗi
khiến nghĩa sâu chìm mất chưa thông, mỗi khi tới giảng thuyết chỉ nói sơ
đại ý rồi đọc kinh thôi”, như Huệ Hạo đã nhận xét trong Cao tăng truyện
5 ĐTK 2059 từ 352a21-23.
Chính
do nguyên nhân đó, mà nội dung tư tưởng của kinh cũng chính là nội dung
những lời giải thích của Khương Tăng Hội. Tuy nhiên, vì bản thân kinh
An ban thủ ý ngày nay đang có những tương đương nguyên bản Phạn và Pàli
cũng như bản dịch chữ Hán, nên ta có thể truy ít nhiều về nội dung chính
của nó. Từ đó ta có thể phân biệt tối thiểu đâu là nguyên ý của kinh
văn và đâu là những đóng góp của Khương Tăng Hội cùng vị thầy của mình
là Mâu Tử, dù biết rằng An Thế Cao có thể dùng một bản đáy khác với các
bản tương đương ta hiện có, trong khi dịch An ban thủ ý kinh của ông.
An
ban thủ ý là một nửa phiên âm, một nửa dịch chữ Phạn Ànàpànasmrti
(Pàli: Ànàpànasati) với nghĩa niệm hay nhớ nghĩ hơi thở ra và hơi thở
vào. Đoạn phiến Phạn bản của kinh này được tìm thấy ở Thổ Phồn (Turfan)
và đã được Hàn Lâm viện Khoa học Đức ở Bá Linh xuất bản năm 1972. Nguyên
bản Pàli Ànàpànasatisutta hiện nằm trong Trung bộ kinh M.III.18 cùng
với bản dịch chữ Hán Tri ý kinh ĐTK. Điểm đặc biệt là khi so sánh các
bản này với An ban thủ ý kinh và An ban thủ ý kinh chú giải chúng không
nói gì đến “Sáu phương pháp mầu nhiệm” (lục diệu pháp môn), mà An ban
thủ ý kinh và An ban thủ ý kinh chú giải đã kể ra và có một quan tâm nổi
bật trong việc giải thích.
Sự
tình này đã gây thắc mắc cho một số người về nguồn gốc của sáu phương
pháp ấy. Người ta tự hỏi phải chăng chúng do An Thế Cao hay Khương Tăng
Hội khi chú giải đã thêm thắt vào. Thực tế, ngay vào nửa cuối thế kỷ thứ
VI, Trí Khải (538-597) trong Thích thiền ba la mật thứ đệ pháp môn 7
ĐTK 1916 tờ 524b18 đã dẫn kinh Thụy ứng bản khởi, nói: “Kinh Thụy ứng
nói: Nhân sáu pháp đó (Ngài) đến nghĩ tam (thiền) tứ (thiền), xuất sinh
mười hai (thiền môn)”. Tờ tiếp 525b16-20, tuy không nêu đích danh kinh
Thụy ứng bản khởi, nhưng rõ ràng đã dẫn từ kinh ấy, nói: “Như đức Thích
Ca lúc mới đến cây Bồ đề, bên trong liền nghỉ An ban, một sổ, hai tùy,
ba chỉ, bốn quán, năm hoàn, sáu tịnh, đến nghĩ ba bốn, xuất sinh mười
hai, nhân đó chứng hết thảy mọi pháp môn, hàng phục ma mà thành đạo.”
“Sáu phương pháp mầu nhiệm” như vậy không phải chỉ giới hạn vào kinh An
ban thủ ý của An Thế Cao và bản chú giải của Khương Tăng Hội. Nói theo
Trí Khải trong Thích thiền ba la mật thứ đệ pháp môn 7 tờ 525b14-16:
“Nên biết sáu phương pháp mầu nhiệm tức là Đại thừa,...ba đời các đức
Phật lúc mới vào đạo, trước hết đều lấy sáu phương pháp mầu nhiệm làm
gốc”. Đây là một cách phát biểu khác ý chính câu mở đầu của lời tựa do
Khương Tăng Hội đề cho bản chú giải mình: “An ban là Đại thừa của chư
Phật để cứu chúng sinh nổi trôi. Nó có sáu việc để trị sáu tình”. Vậy,
nội dung kinh An ban thủ ý cùng bản chú giải là trình bày rõ “sáu việc”
hay sáu phương pháp mầu nhiệm ấy.
Quả
đúng vậy, sau một đoạn giải thích về ý nghĩa bốn chữ An ban thủ ý cả
đen lẫn bóng, bản văn xác định ngay nội dung chính của bản kinh cũng như
bản chú giải với câu: “An ban thủ ý có mười trí, tức là sổ tức, tương
tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh, và bốn sự thật. Đó là thành tựu mười trí.
Nếu hợp với kinh Ba mươi bảy phẩm là thành tựu đạo hạnh”. Nội dung
chính, chủ đề tư tưởng chính của An ban thủ ý kinh và An ban thủ ý kinh
chú giải do thế là mười trí và ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Việc
kết hợp sáu phương pháp mầu nhiệm với bốn sự thật và ba mươi bảy phẩm
trợ đạo được trình bày như sau. Đối với bốn sự thật, nó viết: “Tại sao
sổ tức? Vì không muốn theo năm ấm. Tại sao tương tùy? Vì muốn biết năm
ấm. Tại sao chỉ? Vì muốn quán năm ấm. Vì sao quán năm ấm? Vì muốn biết
gốc của thân. Tại sao biết gốc của thân? Vì muốn bỏ khổ. Tại sao hoàn?
Vì chán sinh tử. Vì sao tịnh? Vì muốn phân biệt năm ấm không nhận. Rồi
theo tám con đường trí tuệ đạt được hiểu biết là đạt sở nguyện”.
Vậy
sáu phương pháp mầu nhiệm là bốn sự thật, là đưa bốn sự thật vào cuộc
sống hằng ngày của từng cá nhân, từng con người. Nội dung bài giảng đầu
tiên của đức Phật ở vườn Nai từ đó nằm ngay trong việc thi hành sổ, tùy,
chỉ, quán, hoàn và tịnh.
Không
chỉ nội dung bài giảng đầu tiên của đức Thế Tôn, mà ngay cả toàn bộ
kinh điển đạo Phật đều nằm trong sáu phương pháp đó. Lý do nằm ở chỗ
“mười hai bộ kinh thảy đều nằm trong kinh Ba mươi bảy phẩm”. Mà quan hệ
của kinh Ba mươi bảy phẩm này với sáu phương pháp cũng được xác định rõ
ngay từ đầu: “Sổ tức là bốn ý chỉ (niệm xứ). Tương tùy là bốn ý đoạn
(chính cần). Chỉ là bốn thần túc (như ý túc). Quán là năm căn năm lực.
Hoàn là bảy giác chi. Tịnh là tám hạnh”. (Chính đạo, con đường chính).
Thế, hiển nhiên ba mươi bảy phẩm bao gồm trong “sáu phương pháp mầu
nhiệm”. Thực hành sáu phương pháp ấy là thực hành ba mươi bảy phẩm trợ
đạo, là đưa tới sự giác ngộ trọn vẹn, viên mãn, đúng như Khương Tăng Hội
đã nói ngay câu đầu của bản chú giải: “An ban là Đại thừa của chư Phật
để cứu giúp chúng sinh nổi trôi”.
Sau
khi đã xác định quan hệ giữa bốn sự thật và ba mươi bảy phẩm trợ đạo
với phương pháp An ban, Khương Tăng Hội tiếp tục trình bày nội dung cụ
thể của từng phương pháp, từ sổ tức, tương tùy cho đến hoàn và tịnh.
Chẳng hạn, về sổ tức, ông viết: “Sổ tức có ba việc. Một là phải ngồi và
hành. Hai là thấy sắc, phải nghĩ vô thường bất tịnh. Ba là phải hiểu sân
giận, nghi ngờ, ganh ghét, khiến qua đi”. Khi đã giải thích sổ tức như
thế, ông viết tiếp: “Có ba lối ngồi theo đúng đạo. Một là ngồi sổ tức.
Hai là ngồi tụng kinh. Ba là ngồi vui nghe kinh”. Nhân đó, ông ghi nhận
luôn ba phẩm chất của việc ngồi: “Ngồi có ba tính chất: một là ngồi hiệp
vị, hai là ngồi tịnh, ba là ngồi không có kiết sử. Sao gọi là ngồi hiệp
vị? Là ý bám hành không rời, đó là ngồi hiệp vị. Sao gọi là ngồi tịnh?
Tức là không niệm, là ngồi tịnh. Ngồi không có kiết sử là gì? Tức là
kiết sử đã hết, là ngồi không có kiết sử”.
Đó
là ngồi. Còn về hành, hành đây là “hành tức”, tức là thực hành hơi thở.
Theo Khương Tăng Hội thì, “lúc thực hành hơi thở (hành tức) là theo
sổ”. Thế thì, ngồi cũng ngồi sổ tức, và hành cũng hành sổ tức. Vậy,
“ngồi với hành giống hay không giống?” Khương Tăng Hội trả lời: “Có lúc
giống, có lúc không giống. Sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh, sáu
việc này, có lúc là ngồi, có lúc là hành. Vì sao? Sổ tức, ý định, đó là
ngồi. Yù theo pháp (đối tượng), đó là hành. Đã khởi ý không rời là
hành, cũng là ngồi”. Dù ngồi hay hành, việc chủ yếu là đếm hơi thở, là
sổ tức, là đếm hơi thở mình từ 1 đến 10.
Mục
đích của phương pháp đầu tiên này là nhằm “cột ý” (hệ ý). Nói như lời
tựa của Khương Tăng Hội, thì “hành tịch là cột ý vào việc đếm hơi thở từ
1 cho đến 10. 10 đếm không sai, ý định tại đó”. Khi đã thành công như
vậy, người ta có được tình trạng “định nhỏ 3 ngày, định lớn 7 ngày, lặng
không niệm khác, vắng yên như chết”. Tình trạng này được gọi là thiền
thứ nhất hay đệ nhất thiền, và người ta trút bỏ được “Mười ba ức ý uế
niệm” của chính bản thân mình, mà mỗi ngày mình phải kinh qua và chịu
đựng những tác động quấy rầy do chúng tạo nên đối với đời sống nội tâm.
Sổ
tức như vậy là “cột ý”. Mà “cột ý” là “vì muốn ý không loạn”. Khương
Tăng Hội đặt vấn đề: “Vì sao đức Phật dạy mười sổ tức của ý? Đáp: Có bốn
lý do. Một là vì không muốn cảm thọ. Hai là vì tránh loạn ý. Ba là vì
đóng cửa nhân duyên, không muốn gặp sinh tử. Bốn là vì muốn được đạo Nê
hoàn”. Một khi “ý đã không loạn, thì người ta lại thực hành tương tùy”.
Nếu ở giai đoạn “cột ý”, việc sổ tức phải tiến hành đếm từ 1 đến 10 thì
đến giai đoạn tương tùy, người ta “bỏ tám, chỉ có 2 ý”. Đó là biết hơi
thở vào và biết hơi thở ra. Từ việc theo dõi hơi thở ra vào này đã làm
nảy sinh một phương pháp. Đó là phương pháp 16 thắng hay “đặc thắng”.
Mười sáu thắng này theo Khương Tăng Hội gồm có:
1. Tức thời tự biết hít hơi thở dài
2. Tức thời tự biết hít hơi thở ngắn
3. Tức thời tự biết hít hơi thở động thân
4. Tức thời tự biết hít hơi thở nhỏ
5. Tức thời tự biết hít hơi thở nhanh
6. Tức thời tự biết hít hơi thở không nhanh
7. Tức thời tự biết hít hơi thở ngưng
8. Tức thời tự biết hít hơi thở không ngưng
9. Tức thời tự biết hít hơi thở vui lòng
10. Tức thời tự biết hít hơi thở không vui lòng
11. Tức tự biết nội tâm niệm vạn vật đã qua không thể lại được.
12. Hít hơi thở tự biết trong không có gì lại nghĩ
13. Hít hơi thở tự biết vứt bỏ điều đã nghĩ
14. Hít hơi thở tự biết không vứt bỏ điều đã nghĩ
15. Hít hơi thở tự biết buông bỏ thân mạng
16. Hít hơi thở tự biết không buông bỏ thân mạng.
Bản
16 thắng đây của An ban thủ ý kinh chú giải khi so với 16 thắng của
kinh Quán niệm hơi thở trong truyền bản Pàli (Ànàpànasatisuttam. M.
III.118.82 và Mahàràhuloràdasuttantam M.11.62.425) có một số sai khác
đáng chú ý, đặc biệt là từ thắng thứ 4 trở đi như ta thấy trong bản sau:
1. Thở vô dài, biết thở vô dài, thở ra dài, biết thở ra dài
(Dìgham và assasanto: Dìgham assasàmìti pajànàti; dìgham và passanto: Dìgham passasàmìti pajànàti)
2. Thở vô ngắn, biết thở vô ngắn; thở ra ngắn, biết thở ra ngắn
(Rassam và assansanto: Rassam assasàmìti pajànàti rassam và passansanto: Rassam passasàmìti gajànàti)
3. Cảm giác cả toàn thân, tôi thở vô; cảm giác cả toàn thân, tôi thở ra
(Sabba kàyapatisamvedì assasissàmìti sikkati
Sabba kàyapatisamvedì passasissàmìti sikkati)
4. An tịnh thân hành, tôi thở vô; an tịnh thân hành, tôi thở ra
(Passambayam kàyasamkhàram assasissamìti sikkati
Passambayam kàyasamkhàram passasissàmìti)
5. Cảm giác hỷ thọ, tôi thở vô; cảm giác hỷ thọ, tôi thở ra
(Pìtipatisamvedì assasissàmìti sikkati, Pìtipatisamvedì passasissàmìti sikkati)
6. Cảm giác lạc thọ, tôi thở vô; cảm giác lạc thọ, tôi thở ra
(Sukhapatisamvedì assasissamìti, Sukhapatisamvedì passasissàmìti)
7. Cảm giác tâm hành, tôi thở vô; cảm giác tâm hành, tôi thở ra
(Cittasamkhàrapatisamvedì assasissàmìti,
Cittasamkhàrapatisamvedì passasissàmìti)
8. An tịnh tâm hành, tôi thở vô; an tịnh tâm hành, tôi thở ra
(Passambayam citttasamkhàrapatisamvèdi assasissàmìti, Passambayam citttasamkhàrapatisamvèdì passasissàmìti)
9. Cảm giác tâm, tôi thở vô; cảm giác tâm, tôi thở ra
(Cittapatisamvedì assasissàmìti, Cittapatisamvedì passasissàmìti)
10. Tâm hân hoan, tôi thở vô; tâm hân hoan, tôi thở ra
(Abhippamodayam cittam assasissànùti, Abhippamodayam cittam passasissàmìti)
11. Tâm thiền định, tôi thở vô; tâm thiền định, tôi thở ra
(Samàdaham cittam assasissàmìti, Samàdaham cittam passasissàmìti)
12. Tâm giải thoát, tôi thở vô; tâm giải thoát, tôi thở ra
(Vimocayam cittam assasissàmìti, Vimocayam cittam passasissàmìti)
13. Tùy quán vô thường, tôi thở vô; tùy quán vô thường, tôi thở ra
(Aniccànupassyassasissàmìti, Aniccànupassy passasissàmìti)
14. Tùy quán ly dục, tôi thở vô; tùy quán ly dục, tôi thở ra
(Viràgànupassy assasissàmìti,Viràgànupassy passasissàmìti)
15. Tùy quán diệt, tôi thở vô, tùy quán diệt, tôi thở ra
(Nirodhànupassy assasissàmìti, Nirodhànupassy passasissàmìti)
16. Tùy quán ly dục, tôi thở ra; tùy quán ly dục, tôi thở vô.
(Patinissaggànupassy assasissàmìti, Patinissaggànupassy passasissàmìti)
Theo Lục diệu pháp môn ĐTK 1917 tờ 549b12-17 của Trí Khải, 16 đặc thắng ấy bao gồm:
1. Biết hơi thở vào
2. Biết hơi thở ra
3. Biết hơi thở dài ngắn
4. Biết hơi thở khắp thân
5. Bỏ các hành của thân
6. Tâm mới vui
7. Tâm cảm nhận sướng
8. Cảm nhận các hành của tâm
9. Tâm tạo hỉ
10. Tâm tạo nhiếp
11. Tâm giải thoát
12. Quán vô thường
13. Quán xuất tán
14. Quán ly dục
15. Quán diệt
16. Quán vứt bỏ
Thành
phần mười sáu đặc thắng này đem so với bảng của Khương Tăng Hội có một
số xuất nhập. Tuy nhiên, về cơ bản chúng tương đối thống nhất với nhau.
Điểm lôi cuốn là Lục diệu pháp môn ĐTK 1917 tờ 549a12-13 coi chúng như
là một chi tiết hóa của phương pháp tương tùy khi viết: “Hành giả nhân
theo dõi hơi thở, nên liền có thể làm nảy sinh ra 16 đặc thắng”. Trong
Pháp giới thứ đệ sơ môn quyển hạ của Thượng ĐTK 1925 tờ 673c7-9, Trí
Khải lúc đề cập đến quan hệ giữa “sáu diệu pháp môn” và 16 đặc thắng, đã
nói: “Hai thứ thiền định này, đại ý tuy giống, nhưng sáu diệu môn nói
chung thì dọc cạn ngang rộng, còn 16 đặc thắng thì dọc dài ngang giới
hạn”.
Thích
thiền ba la mật thứ đệ pháp môn 7 ĐTK 1916 tờ 524a23-b7 nói rõ hơn:
“Nay nói gọn về ba thứ phương pháp để giải thích thiền cũng hữu lậu cũng
vô lậu (...). Một là tự có chúng sinh tuệ tính nhiều mà định tính ít,
nên giảng sáu diệu môn. Trong sáu diệu môn, vì tuệ tính nhiều, nên trong
sơ thiền ở dục giới liền có thể phát vô lậu, song đó chưa hẳn đạt tới
các thiền bậc trên. Hai là tự có chúng sinh căn định nhiều mà tuệ tính
ít, nên giảng 16 đặc thắng, vì gốc tuệ tính ít nên bậc dưới không liền
phát vô lậu, và vì định tính nhiều nên nhờ đủ các thiền bậc trên, mới
được tu đạo. Ba là tự có chúng sinh căn tính định tuệ bằng nhau, nên
giảng thông minh...”
Trong
Ma ha chỉ quán 9 thượng ĐTK 1911 tờ 117b13-16, Trí Khải lại viết:
“Phương pháp thiền thì vô lượng, nhưng nói gọn có 10 môn:
1. Căn bản bốn thiền
2. Mười sáu đặc thắng
3. Thông minh
4. Chín tưởng
5. Tám bối xả
6. Đại bất tịnh
7. Từ tâm
8. Nhân duyên
9. Niệm Phật
10. Thần thông”
Vậy
là, Trí Khải đã không đề cập tới sáu diệu môn. Sau này, khi chú giải Ma
ha chỉ quán, Trạm Nhiên đã đặt vấn đề trong Chỉ quán phụ hành truyền
hoằng quyết 9/2 ĐTK 1912 tờ 416b17-18: “Hỏi: nay văn vì sao không nói rõ
sáu diệu môn? Đáp (Hai môn) đầu sổ và tùy nói trong môn thứ nhất căn
bản (4 thiền), còn bốn môn sau thì đưa vào lý nên nay không bàn”. Trước
khi đặt vấn đề, Trạm Nhiên cũng nhắc lại quan điểm của Thích thiền ba la
mật thứ đệ pháp môn là “chứng theo phương pháp thiền, căn tính có ba.
Nếu tuệ nhiều định ít thì nói sáu diệu (môn), vì sáu diệu môn này phần
lớn ở Dục giới đã phát được vô lậu, nên vị tất phải chờ đến bậc trên mới
đủ, lại trải qua hết thảy 6 độ nhân duyên, nên xếp thuộc tuệ nhiều định
ít. Nếu định nhiều tuệ ít thì nói đặc thắng. Trong thiền đặc thắng, vì
tuệ tính ít, nên đến bậc trên mới phát vô lậu. Nếu định tuệ bằng nhau,
thì nói thông minh. Trong thiền thông minh, vì tính định tuệ bằng nhau,
quán tuệ thâm tế, đủ pháp căn bản, tự dưới lên trên, đều pháp vô lậu. Đó
là tùy cơ thuận tập mà nói. Còn về đối trị, nếu trầm uất nhiều, thì nên
tu tuệ nhiều định ít, nếu tán loạn nhiều, thì nên tu định nhiều tuệ ít.
Trầm tán bằng nhau, thì nên tu đặc quán.”
Rõ
ràng, trong quan điểm của Trí Khải, 16 đặc thắng là một phương pháp
thiền cơ bản nhằm cho những người có căn cơ “định nhiều tuệ ít”, có chức
năng ngang với sáu diệu môn dùng cho những căn cơ tuệ nhiều định ít.
Cho nên, khi viết về sáu “diệu môn”, tuy Trí Khải coi mười sáu đặc thắng
như một bộ phận chi tiết của tương tùy, quan điểm ấy vẫn không thay
đổi. Trong lúc đó, An ban thủ ý kinh chú giải lại viết: “Đối với hành
giả mới học, có bốn loại thực hành An ban thủ ý, trừ hai ác và mười sáu
thắng, tức thời tự biết đó là hạnh An ban thủ ý, khiến được ngưng ý. Bốn
loại là gì? Một là sổ, hai là tương tùy, ba là chỉ, bốn là quán”.
Như
vậy, đối với Khương Tăng Hội, mười sáu thắng không thể là một bộ phận
của tương tùy. Nó càng không phải là một phương pháp thiền nhằm cho
những người có căn cơ “định nhiều tuệ ít” như Trí Khải đã chủ trương. Lý
do, như chính Khải đã chỉ ra, nằm ở chỗ “trong thiền đặc thắng, vì tuệ
tính ít, nên đến bậc trên mới phát vô lậu”. Mà yêu cầu của Khương Tăng
Hội, ngay cả với phương pháp đơn giản sổ tức, ngoài đáp ứng việc “không
muốn cảm thọ” và “tránh loạn ý”, là phải “đóng cửa nhân duyên không muốn
gặp sinh tử” và “muốn được đạo nê hoàn”, huống nữa là phương pháp tương
tùy. Cho nên, việc loại bỏ 16 thắng là một tất yếu thôi.
Tuy
nhiên, cũng cần nói là trong truyền thống thiền học Việt Nam thời du
nhập, phương pháp mười sáu thắng vẫn được xác định như một phương pháp
có thể đưa đến “nhất tâm”, như Lục độ tập kinh 7 ĐTK 152 tờ 40c2-12 đã
có và Khương Tăng Hội chắc chắn đã chấp nhận. Bảng liệt kê mười sáu
thắng của nó hầu như thống nhất hoàn toàn với An ban thủ ý kinh chú
giải:
1-2 Hít hơi thở dài ngắn liền tự biết
3 Hít hơi thở động thân tự biết
4-5 Hít hơi thở nhỏ lớn thân tự biết
6-7 Hít hơi thở nhanh không nhanh liền tự biết
8-9 Hít hơi thở ngưng chạy liền tự biết
10-11 Hít hơi thở vui buồn thân tự biết
12 Tự nghĩ vạn vật vô thường, hít hơi thở liền tự biết
13 Vạn vật quá khứ không thể đuổi theo được, hít hơi thở tự biết
14 Trong không nghĩ gì, vứt bỏ điều mình nghĩ hít hơi thở tự biết
15-16 Buông bỏ thân mạng, không buông bỏ thân mạng, hít hơi thở tự biết
Điều này chứng tỏ Khương Tăng Hội đã ít nhiều tiếp thu truyền thống thiền Việt Nam, khi chú giải kinh An ban thủ ý.
Một
khi đã đạt được tùy, “bẩn dơ tiêu hết, tâm hơi trong sạch”, thì “lại bỏ
đi một, chú ý đầu mũi, đó gọi là chỉ”. Đấy là theo những gì Khương Tăng
Hội viết trong lời tựa. Trong phần chú giải, Hội trình bày rõ hơn:
“Hỏi: Thứ ba là chỉ. Vì sao chỉ (ngưng) ở đầu mũi? Đáp: Vì sổ tức, tương
tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh đều từ mũi ra vào. Ý quen chỗ cũ, cũng dễ
biết, vì thế nên bám vào đầu mũi (...). Chỉ có bốn. Một là sổ (tức) chỉ.
Hai là tương tùy chỉ. Ba là tỷ đầu chỉ. Bốn là tức tâm chỉ (...) Hơi
thở vào đến hết đầu mũi thì ngưng, nghĩa là ác không còn vào, nó đến đầu
mũi thì ngưng. Hơi thở ra đến hết thì bám đầu mũi, nghĩa là ý không còn
rời thân làm hướng theo ác, nên bám đầu mũi.”...
Giải
thích này minh bạch cụ thể hơn nhiều, khi so với giải thích chỉ của Trí
Khải trong Thích thiền ba la mật thứ đệ pháp môn 7 ĐTK 1916 tờ
524c7-16: “Chỉ có hai thứ. Một là tu chỉ, hai là tương ứng với chỉ. Tu
chỉ là trong ba chỉ, chỉ dùng chế tâm, chế tâm dứt các duyên lự, không
niệm sổ, tùy, ngưng lặng tâm mình, đó là tu chỉ. Hai, tương ưng với chỉ
là tự biết thân tâm vắng lặng nhập định, không thấy tướng mạo trong
ngoài. Nếu dục giới chưa tới mức ngang với định pháp thì giữ tâm theo ý
không động. Hành giả lúc ấy liền dấy lên niệm này: Nay tam muội này tuy
lại vắng lặng, nhưng không có tuệ phương tiện thì không phá hoại được
sinh tử. Lại dấy lên niệm này: Nay định này đều thuộc nhân duyên do các
pháp ấm, nhập, giới hòa hiệp mà có,dối trá không thực. Ta nay không
biết, nên phải soi tỏ. Dấy niệm ấy xong thì không bám vào chỉ”.
Pháp
giới thứ đệ sơ môn quyển hạ của thượng ĐTK 1925 tờ 673b6-10 cũng lặp
lại, song ngắn gọn hơn: “Dứt lòng lắng nghĩ, đó gọi là chỉ. Hành giả tuy
nhân theo hơi thở (tùy tức) mà tâm yên sáng trong, nhưng định vẫn chưa
phát. Nếu tâm dựa vào tùy thì có chút loạn dấy tưởng. Mà trong vắng yên
ổn không gì hơn chỉ, nên bỏ tùy, tu chỉ. Trong đó phần nhiều dùng ngưng
tâm chỉ. Ngưng tâm lặng nghĩ, tâm không ba động, thì các thiền định tự
nhiên khai phát, nên lấy chỉ làm phương pháp”.
Lục
diệu pháp môn ĐTK 1917 tờ 549b23-c2 trình bày về chỉ lại càng sơ lược,
nhưng đã kết hợp với ngũ luân thiền và chín vô ngại đạo: “Ba là chỉ. Nó
là diệu môn, vì hành giả nhân chỉ tâm, thì liền tuần tự phát ngũ luân
thiền. Một là địa luân tam muội, tức chưa tới địa. Hai là thủy luân tam
muội, tức căn lành các thứ thiền định phát. Ba là hư không luân tam
muội, tức năm phương tiện người ta biết nhân duyên không có tính như hư
không. Bốn là kim sa luân tam muội, tức giải thoát khỏi kiến hoặc và tư
hoặc, không còn bám víu chính tuệ, như cát vàng. Năm là kim cang luân
tam muội, tức đạo vô ngại thứ chín có thể cắt đứt kiết sử của ba cõi
vĩnh viễn hết không còn gì, chứng tận trí, vô sinh trí, vào niết bàn.
Chỉ là diệu môn, ý nghĩa nó là tại đó”.
Điểm
lôi cuốn là chín vô ngại đạo được Trí Khải xếp vào chỉ, trong khi
Khương Tăng Hội lại đặt ở phương pháp quán. Hội viết: “Hành đạo muốn
được ngưng ý phải biết ba việc. Một là trước quán niệm thân vốn từ đâu
lại, chỉ từ năm ấm làm mà có. Dứt năm ấm thì không còn sinh lại, ví như
gửi gắm chốc lát thôi. Ý không hiểu, thì niệm chín đạo để tự chứng. Hai
là tự nên nội thị trong tâm theo hơi thở vào ra. Ba là hơi thở ra hơi
thở vào, khi niệm diệt, hơi thở ra nhỏ nhẹ”. Chín đạo hay chín đạo vô
ngại, như vậy, được Khương Tăng Hội đưa vào bổ sung cho phương pháp
quán, chứ không đặt vào giai đoạn chỉ, như Trí Khải.
Khi
đã đạt chỉ, theo Hội, thì người ta “trở về quán thân mình từ đầu đến
chân, xem kỹ tới lui chất dơ trong người, lông lá xồm xoàm, như thấy mủ
chảy. Do thế, rõ hết trời đất người vật, thịnh cũng như suy, không còn
gì mà không mất. Tin Phật ba sáu, các mờ đều sáng. Đó gọi là tứ thiền”.
Viết như thế trong bài tựa hiển nhiên là một tóm tắt quan điểm về quán
của bản chú giải, theo đó “quán có hai loại: Một là quán ngoại, hai là
quán nội. Quán thân có ba mươi sáu vật, tất cả hữu đối đều quán ngoại.
Quán không có gì là đạo, đó là quán nội.”
Quan
điểm “thân có 36 vật” này, một lần nữa, là một phản ảnh nhận thức cơ
thể học của tư tưởng a tỳ đàm, mà A tỳ đạt ma đại tỳ bà sa luận 40 ĐTK
1545 tờ 208822-24 và 138 tờ 712c26-713a1 đã đề cập tới. Nó viết: “Có Tỳ
kheo như thật quán sát thân mình, từ chân đến đầu đầy đủ các thứ bất
tịnh, tức là tóc (1), lông (2), móng (3), răng (4), cáu dơ (5), da (6),
thịt (7), xương (8), tủy (9), gân (10), mạch (11), gan (12), phổi (13),
tỳ (14), thận (15), đại trường (16), tiểu trường (17), vị (18), mật
(19), sanh tạng (20), thục tạng (21), đàm (22), nhiệt (23), tim (24),
bụng (25), phân (26), nước tiểu (27), nước mũi (28), nước miếng (29), mồ
hôi (30), mủ (31), máu (32), nước mắt (33), mỡ (34), não (35), mô
(36)”.
Quán
thân có 36 vật, như vậy, là một lối trình bày bất tịnh quán theo tư
tưởng a tỳ đàm. Và đây phải kể là một đóng góp của Khương Tăng Hội, chứ
không phải là của An Thế Cao, bởi vì một mặt trong lời tựa, Hội viết:
“Trở về quán thân mình từ đầu đến chân, xem kỹ tới lui chất dơ trong
người, lông lá xồm xoàm, như thấy mủ chảy... “. Mặt khác, trong bản chú
giải, ta có một lối giải thích khác về quán, kết hợp chặt chẽ với phương
pháp sổ tức, tiêu chuẩn của An ban thủ ý, tứ luyện tập hơi thở. Nó
viết: “Thứ tư là quán. Quán hơi thở lúc băng hoại cùng với việc quán
thân thể khác hơi thở, có nhân duyên thì sinh, không nhân duyên thì
diệt”.
Trong
đoạn chú giải câu “vì biết nhân duyên nên cùng quán nhau”, Khương Tăng
Hội nói rõ hơn: “Nghĩa là hiểu biết nhân duyên năm ấm, thở ra cũng quán,
thở vào cũng quán. Quán là quán năm ấm. Đó là cũng quán, cũng ứng với
quán ý và ý tướng là hai nhân duyên, ở trong dứt ác, niệm đạo”. Rồi chú
giải câu “quán thở ra khác, thở vào khác”, Khương Tăng Hội nói rõ thêm
quán năm ấm là quán gì. Hội viết: “Nghĩa là thở ra là sinh tử ấm (hành
uẩn), thở vào là tư tưởng ấm (tưởng uẩn). Có lúc thở ra là thống dạng
ấm, thở vào là thức ấm, tùy nhân duyên khởi lên, liền nhận ấm. Chỗ ý
hướng tới không có dùng thường, nên là khác”.
Không
những giải thích quán năm ấm là quán sổ tức, ở một đoạn sau, An ban thủ
ý kinh chú giải còn viết: “Từ sổ tức đến tịnh, đó đều là quán, nghĩa là
quán thân tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh vốn là không có, nội ý sổ
tức, ngoại ý dứt ác nhân duyên”. Từ đó, nó đặt vấn đề “vì sao không
trước quán ngoài thân thể, ngược lại trước sổ tức, tương tùy, chỉ, quán,
hoàn, tịnh?”. Và nó được trả lời: “Vì ý không tịnh thì không thấy thân.
Ý đã tịnh liền thấy hết thân trong ngoài”. Như vậy, quán đây là quán
hơi thở, chứ không phải “quán thân có 36 vật” hay “quán thân mình từ đầu
đến chân, xem kỹ tới lui chất dơ trong người, lông lá xồm xoàm, như
thấy mủ chảy”, như Khương Tăng Hội đã giới thiệu ở đầu bài tựa.
Sự
thực, quan điểm coi quán là “quán thân” này có thể nói là Khương Tăng
Hội đã tiếp thu từ quan điểm thiền của Phật giáo Việt Nam thời du nhập
như đã phản ảnh trong Lục độ tập kinh 7 ĐTK 252 tờ 40a4-41a19 chương về
Thiền độ vô cực: “Bồ tát chí đạo, phải nhờ việc gì, có thể khiến trong
lặng tâm nhất, mà được thiền? Hoặc thấy người già đầu bạc, răng rụng,
hình hài đổi khác, thấy đó, ý hiểu: Ta sau tất vậy, nhất tâm được thiền
(...) Người tu tự quán chất dơ trong thân đều là bất tịnh, tóc, lông,
đầu lâu, da, thịt, tròng mắt, nước mũi, nước miếng, gân, mạch, thịt,
tủy, gan, phổi, ruột, dạ dày, tim, mật, lá lách, thận, phân, nước tiểu,
mủ, máu, các dơ họp lại, mới nên con người, giống như lấy túi đựng đầy
ngũ cốc, có mắt đổ túi, phân biệt thấy hết mọi thứ mỗi khác. Biết rõ con
người như vậy, nội quán thân mình, bốn đại số loại, mỗi tự có tên đều
không là người. Dùng vô dục quán mới thấy gốc không, nhất tâm được
thiền”.
Quan
điểm quán là “quán thân 36 vật” này sau đó Trí Khải đã vận dụng để
trình bày quán trong Lục diệu pháp môn ĐTK 1917 tờ 550a13-22: “Quán cũng
có hai. Một là tu quán. Hai là chứng quán. Tu quán là ở trong định tâm,
dùng tuệ phân biệt, quán ở tướng hơi thở vào ra vi tế như gió trong
không, da thịt, gân, cốt, 36 vật như cây chuối không thật. Tâm biết vô
thường sát na không nghỉ, không có ta, người, thân, thọ tâm, pháp, đều
không tự tính; không được nhân pháp, định dựa vào đâu. Đó gọi là tu
quán. Chứng quán là khi quán như vậy, biết hơi thở ra vào khắp các lỗ
chân lông, mắt lòng mở rõ, thấy suốt 36 vật và các cửa trùng trong ngoài
bất tịnh, sát na đổi thay, lòng sinh buồn vui, chứng được bốn niệm xứ,
phá bốn điên đảo. Đó gọi chứng quán”.
Dù
có nhắc đến quán tướng hơi thở vào ra, nhấn mạnh của Trí Khải vẫn là
“36 vật”. Và thực tế, như Khải viết ở Lục diệu pháp môn ĐTK 1917 tờ
549c3-6, “hành giả nhân tu quán, liền có thể sinh xuất 9 tưởng, 8 niệm,
10 tưởng, 8 bối xả, 8 thắng xứ, 10 nhất thiết xứ, 9 thứ đệ định, sư tử
phấn tấn tam muội, siêu việt tam muội, luyện thiền, 14 biến hóa tâm, 3
minh, 6 thông và 8 giải thoát, chứng diệt thọ tưởng, tức vào niết bàn”.
Trong 14 môn sinh xuất này, cơ bản vẫn là 9 tưởng, 8 niệm, 10 tưởng, 8
bối xả và 8 thắng xứ. Mà 9 tưởng và 10 tưởng là hai giai đoạn của một
quá trình, như Pháp giới thứ đệ sơ môn quyển thượng của Trung ĐTK 1995
tờ 676b10-11 dẫn Đại trí độ luận nói: “Chín tưởng như trói giặc, 10
tưởng như giết giặc”. Quá trình ấy là một dạng của quán thân 36 vật.
Thích
thiền ba la mật thứ đệ pháp môn 7 ĐTK 1916 tờ 524c16-525a10 nói rõ hơn:
“Khởi quán phân biệt cũng có hai thứ. Một là tu quán, hai là tương ứng
với quán. Một là tu quán. Quán có ba thứ. Một là tuệ hành quán, tức tuệ
quán chân. Hai là đắc giải quán, tức giải tưởng quán. Ba là thật quán,
theo việc mà quán. Nay, sáu diệu môn, 16 đặc tướng và thông minh này
chính dùng thật quán mà thành tựu, sau đó mới dùng tuệ hành quán quán lý
nhập đạo. Vì sao? Gọi thật là như chúng sinh một đợt quả báo thật có
bốn đại bất tịnh 36 vật tạo thành. Chỉ vì vô minh che lấp, mắt lòng
không mở rõ, nên không dựa vào thật mà thấy. Nếu có thể chân thật quan
sát, mắt lòng mở rõ, dựa sự thật mà thấy, thì gọi là thật tuệ hành quán
và đắc giải quán, mà sẽ rộng phân biệt ở dưới trong bốn sự thật, 12 nhân
duyên, 9 tưởng, 8 bối xả v.v...Vì sao tu tập thật quán? Hành giả ở
trong định tâm dùng mắt lòng thật quán trong thân này tưởng hơi thở ra
vào vi tế như gió trong hư không. Da, gân, xương, thịt, 36 vật như cây
chuối không thật …”.
Như
vậy, tuy vẫn còn nói đến “tưởng hơi thở vào ra”, điểm trọng tâm vẫn là
“da, gân, xương, thịt 36 vật”. Quán thân 36 vật từ đó trong quan điểm
Trí Khải được nhìn nhận như một nội dung chính yếu của phương pháp quán.
Và đây phản ảnh một sự tiếp thu quan điểm quán của Khương Tăng Hội và
vị thầy của ông là Mâu Tử cùng Lục độ tập kinh, dù bản thân Trí Khải
không bao giờ nhắc đến Hội hay những người khác như An Thế Cao và Mâu
Tử.
Sau
khi đạt quán rồi, thì “nhiếp tâm về niệm, các ấm đều diệt, đó gọi là
hoàn”. Khương Tăng Hội viết thế trong lời tựa. Trong phần chú giải, hoàn
được định nghĩa cụ thể hơn. Nó viết: “Hoàn là ý không còn dấy ác. Dấy
ác, đó là không hoàn, cũng có nghĩa trước trợ thân, sau trợ ý. Không
giết, trộm, dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt. Đó là trợ
thân. Không ganh ghét, sân hận, ngu si, đó là trợ ý”. Nói thẳng ra “Hoàn
là bỏ kiết, nghĩa là bỏ bảy ác của thân”. Bảy ác của thân là giết,
trộm, dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối và nói thêu dệt. Nói “của thân”
thực tế là của thân và miệng, hai thành tố của hệ thống ba nghiệp của
Phật giáo.
Giải
thích này về hoàn rõ ràng là dễ hiểu, khi so với giải thích của Trí
Khải trong Thích thiền ba la mật thế đệ pháp môn 7 ĐTK 1916 tờ
525a11-21: “Hoàn cũng có hai. Một là tu tập hoàn. Hai là tương ứng với
hoàn. Tu tập hoàn là khi đã biết quán từ tâm phát, nếu theo cảnh đã phân
tích, thì đó không hiểu bản nguyên. Nên phải trở về quán tâm đó từ đâu
mà sinh, từ quán tâm sinh, hay từ chẳng phải quán tâm sinh. Nếu từ quán
tâm sinh thì trước đã có quán, nay thật không vậy. Vì sao? Vì sổ, tùy,
chỉ trong ba pháp đó chưa có quán. Nếu chẳng phải do quán tâm sinh,
không quán tâm là diệt. Sinh là sinh bất diệt. Nếu sinh bất diệt tức hai
tâm đều (có). Nếu vậy, pháp diệt đã rơi thì không thể sinh hiện tại.
Nếu nói vừa diệt vừa bất diệt sinh, cho đến chẳng phải diệt chẳng phải
bất diệt sinh, thì đều không thể được. Nên biết quán tâm vốn tự bất
sinh, bất sinh nên bất hữu, bất hữu nên tức là không. Không là không có
quán tâm, há có quán cảnh. Cảnh trì đều quên là yếu chỉ về nguồn. Đó là
tu hoàn. Hai là tương ứng với hoàn. Tuệ tâm khai phát, không cần nỗ lực,
mặc ý tự phá chiết (điên đảo), trở lại gốc về nguồn. Đó là tương ưng
với hoàn.”
Lục
diệu pháp môn ĐTK 1917 tờ 550a23-b6 đã chép y lại giải thích vừa dẫn,
khi trình bày về hoàn. Pháp giới thứ đệ sơ môn quyển hạ của thượng ĐTK
425 tờ 673b17-23 định nghĩa khác hơn chút đỉnh: “Năm là hoàn môn. Chuyển
tâm rọi trở lại, gọi là hoàn. Hành giả tuy tu quán chiếu, mà chân minh
chưa phát. Nếu kể có ngã có thể quán chiết phá được điên đảo thì cái sai
kể ngã trở lại dựa vào quán mà sinh giống với ngoại đạo. Cho nên nói
các ngoại đạo đó nghĩ bám trí tuệ quán không, không được giải thoát. Nếu
biết bệnh đó liền phải chuyên tâm rọi trở lại tâm năng quán. Nếu biết
tâm năng quán dối trá không thực, thì điên đảo chấp ngã dựa vào quán tự
mất, nhân đó vô lậu phương tiện tự nhiên mà tỏ ra. Nên lấy hoàn làm
phương pháp”.
Hai
giải thích vừa dẫn làm rõ khá nhiều câu định nghĩa “hoàn” của Khương
Tăng Hội trong lời tựa nói trên: “Nhiếp tâm về niệm các ấm đều diệt, đó
gọi là hoàn”. Tuy trong phần chú giải, sau khi giải thích “hoàn là bỏ
kiết, nghĩa là bỏ bảy ác của thân”, Khương Tăng Hội có nói đến “hoàn năm
ấm” với ý nghĩa “con người tham ái năm ấm, bị đau khổ, liền không
(tham) muốn, đó là hoàn năm ấm” và đặt câu hỏi: “Liền thấy chỗ diệt hết
là gì? Là không có gì, đó là chỗ diệt (diệt xứ)”. Vấn đề vẫn không được
lý giải rõ ràng cho lắm. Đây chính là một trong những điểm, mà hơn một
trăm năm sau Đạo An đã nhận xét là “nghĩa có chỗ ẩn chưa rõ” về An ban
thủ ý kinh chú giải của Khương Tăng Hội, như ta đã thấy.
Một
khi đã “nhiếp tâm về niệm, các ấm đều diệt” thì người ta chứng “hoàn”.
Đạt được hoàn, hành giả thực hành “tịnh”. Trong lời tựa, Khương Tăng Hội
chỉ viết: “Uế dục vắng hết, tâm không có tưởng, đó gọi là tịnh”. Trong
phần chú giải, Hội nói rõ hơn một chút. Hội viết: “Tịnh là gì? Các điều
tham dục là bất tịnh, trừ khử tham dục, đó là tịnh”. Thế cũng có nghĩa:
“Tịnh là bỏ kiết, là bỏ ba ác của ý”. Ba ác của ý đây là tham dục, sân
nhuế và ngu si. Như vậy, khi đạt tịnh, người ta hoàn toàn trừ bỏ mọi
kiết sử, cụ thể là các kiết sử vi tế của ý là tham, sân, và si. Quan
điểm này ta sẽ thấy phát triển trong tư tưởng thiền của Trí Khải.
Pháp
giới thức đệ sơ môn quyển hạ của thượng ĐTK 1925 tờ 673b24-29 viết:
“Sáu là tịnh môn. Tâm không có chỗ dựa, sóng vọng không nổi, gọi là
tịnh. Hành giả lúc tu hoàn, tuy có thể phá các điên đảo của quán, nếu
chân minh chưa phát, mà trụ vô năng sở, thì liền nhận niệm, nên khiến
tâm trí uế trược. Hiểu biết điều đó rồi thì không trụ không bám, vắng
lặng thanh tịnh, nhân đó chân minh khai phát, liền cắt đứt kiết sử của
ba cõi, chứng đạo bát thừa. Cho nên nói: Thanh tịnh được nhất tâm thì
muôn tà đều diệt. Lấy tịnh làm pháp môn, ý là ở đó”.
Thích
thiền ba la mật thứ đệ pháp môn 7 ĐTK 1916 tờ 525a25-b5 nói chi tiết
hơn: “An tâm tịnh đạo cũng có hai. Một là tu tịnh. Hai là tương ưng với
tịnh. Một, tu tịnh là biết sắc tịnh, nên không dấy vọng tưởng phân biệt.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Dứt sáu vọng tưởng, dứt sáu
phân biệt, dứt sáu thủ ngã, đó gọi là tu tịnh. Nói tóm lại, tâm như bản
tịnh, gọi là tu tịnh, cũng không được năng sở tu và tịnh bất tịnh, đó
gọi là tu tịnh. Hai, tương ưng với tịnh khi thực hiện tu tịnh, bỗng chốc
tuệ tâm tương ưng, phương tiện vô ngại tự do, khai thác tam muội chính
thọ.Tâm không ỷ y. Chứng tịnh cũng có hai. Một là tương tự chứng, năm
phương tiện tương tự tuệ vô lậu phát. Hai là chân thật chứng, thể pháp
nhẫn cho đến vô ngại đạo thứ chín, đẳng tam thừa chân vô lậu tuệ phát.
Cáu ba cõi hết, gọi là chứng tịnh.”
Lục
diệu pháp môn ĐTK 1917 tờ 550b8-18 chép y đoạn vừa dẫn và không bình
luận gì thêm. Nhưng tờ 540c10-17 Trí Khải viết thêm: “Sáu, tịnh là diệu
môn. Hành giả nếu có thể bản thân biết hết thảy các pháp bản tính thanh
tịnh thì liền có được tự tính thiền”.Vì được thiền này, người nhị thừa
nhất định chứng niết bàn. Nếu là Bồ tát, họ nhập thiết luận vị đủ lòng
10 tin, tu hành không ngưng, liền sinh xuất được chín loại đại thiền.
Tức là tự tịnh thiền, nhất thiết thiền, nạn thiền, nhất thiết môn thiền,
thiện nhân thiền, nhất thiết hạnh thiền, trừ não thiền, thử thế tha thế
lạc thiền, thanh tịnh thiền. Bồ tát đưa vào thiền đó, nên được quả đại
bồ đề.
Trình
bày sáu “diệu môn” trên của Khương Tăng Hội, chúng tôi cho trích dẫn
thêm khá nhiều những giải thích của Trí Khải. Đó là nhắm, một mặt, giúp
ta hiểu thực phương pháp An ban là gì, đồng thời cho thấy khuynh hướng
tôn giáo thần bí hóa của Trí Khải ra sao, khi so sánh với quan điểm của
Khương Tăng Hội. Mặt khác, nó làm rõ quan hệ giữa sáu diệu môn này với
tư tưởng thiền của pháp Thiên Thai do Trí Khải dựa trên kinh Pháp hoa để
thành lập, nhất là khi bản kinh này lần đầu tiên lại được dịch ở nước
ta có sự tham gia của một dịch giả là nhà sư Việt Nam đầu tiên của lịch
sử văn học và Phật giáo Việt Nam là Đạo Hinh và được biết dưới tên Pháp
hoa tam muội kinh.
Pháp
hoa tam muội kinh theo Phí Trường Phòng trong Lịch đại tam bảo ký 5 ĐTK
2034 tờ 56c21-26, dịch vào tháng 7 năm Cam Lộ thứ nhất (256) do Cương
Lương Câu Tiếp và Đạo Hinh thực hiện. Việc dịch kinh này không cách thời
gian Khương Tăng Hội chống gậy đông du qua Kiến Nghiệp bao nhiêu. Và
Đạo Hinh có thể là đồng môn, nếu không là học trò của Hội. Điều này
chứng tỏ sau khi Hội viết An ban thủ ý kinh chú giải, đặc biệt sự có mặt
của ba “vị hiền” Hàn Lâm, Bì Nghiệp và Trần Tuệ đến nước ta vào khoảng
năm 225 trong dòng thác “dị nhân phương Bắc” đổ về Giao Chỉ lúc ấy, một
phong trào nghiên cứu phương pháp An ban có thể đã nổi lên. Và một số
nhà tư tưởng đã thấy ngay phương pháp ấy cần có một cơ sở lý luận sâu
hơn. Từ đó, Đạo Hinh đã tham gia vào việc dịch Pháp hoa tam muội kinh
với Cương Lương Lâu Tiếp.
Thực
tế, bản Pàli Ànàpànasàtisuttam cùng bản dịch tiếng Trung Quốc, cũng như
bản An ban thủ ý kinh chú giải ở đây, tất cả đều nói đến bốn sự thật và
ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nói cách khác, chúng muốn đặt phương pháp An
ban trên cơ sở những phạm trù căn bản của tư tưởng Phật giáo. Như Khương
Tăng Hội viết: “Hành tịnh là biết khổ, bỏ tập, biết diệt, hành đạo”.
Hay ở một đoạn sau, Hội đặt vấn đề: “Niệm kinh ba mươi bảy phẩm là gì?”.
Rồi ông tự trả lời: “Là sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh, là
sáu việc, đó là kinh Ba mươi bảy phẩm”. Và sau đó là một đoạn dài giải
thích vì sao “Hành sổ tức là hành kinh Ba mươi bảy phẩm”.
Khi
viết “hành sổ tức là hành kinh Ba mươi bảy phẩm”, Khương Tăng Hội rõ
ràng tiếp thu quan điểm quán niệm hơi thở của Ànàpànasàtisuttam
(M.III.118.82) trong việc kết hợp quán niệm hơi thở với bốn niệm xứ
(sathipatthàna), bốn chánh cần (sammappadhàna), bốn như ý túc
(iddhipàda), năm căn (indriya), năm lực (bala), bảy giác chi (bojjhanga)
và tám thánh đạo (ariyamagga). Tuy nhiên, không chỉ tiếp thu kinh này
hay một dạng của nó được truyền dạy tại nước ta, ông còn tiếp thu truyền
thống thiền của Lục độ tập kinh qua việc kết hợp quán niệm hơi thở với
bốn thiền, mà kinh Ànàpànasàtisuttam không nói tới. Lục độ tập kinh 7
ĐTK 152 tờ 39a13-40a3 khi bàn về “thiền độ vô cực”, tập trung trình bày
quan điểm thiền trong liên kết với bốn thiền. Đây là một đặc đểm của
thiền Phật giáo tại Việt Nam vào những thế kỷ đầu của thời kỳ du nhập.
Tất
nhiên, quan điểm thiền ấy không phải không có căn cứ kinh điển. Tăng
nhất a hàm kinh phẩm An ban đã có một kết nối như vậy. Cho nên, khi Lục
độ tập kinh thực hiện kết nối ấy, nó chắc chắn đã tiếp thu từ truyền
thống thiền A hàm của Phạn bản. Thực tế, trong số các kinh cấu tạo nên
Lục độ tập kinh, kinh Đỉnh sinh thắng vương ở quyển 4 ĐTK 152 tờ
21c7-22b15 cũng xuất hiện trong Tăng nhất a hàm. Sự tình này chứng tỏ
Phật giáo truyền vào nước ta từ phương Nam. Nhưng phương Nam đây là
phương nam của nền văn minh Phật giáo tiếng Phạn chứ không phải của Phật
giáo tiếng Pàli. Vì thế, một trình bày “thiền độ vô cực” dưới ánh sáng
của lối tu bốn thiền, mà không nói gì tới quán niệm hơi thở và các lối
thiền liên hệ. Do được giáo dục trong một truyền thống thiền như vậy, ta
không ngạc nhiên khi Khương Tăng Hội sẵn sàng nhấn mạnh đến vai trò bốn
thiền trong quan hệ với lối tu quán niệm hơi thở, lối tu An ban và sáu
diệu môn, và kết nối chúng lại với nhau trong một hệ thống.
Việc
kết nối phương pháp An ban thủ ý với các phạm trù cơ bản vừa nêu rõ
ràng biểu thị một nỗ lực đặt phương pháp này trên một cơ sở lý luận vững
chãi, xứng đáng là “Đại thừa của chư Phật, cứu giúp chúng sinh nổi
trôi”, như Khương Tăng Hội đã viết. Tuy nhiên, với trình độ hiểu biết tư
tưởng Phật giáo của người nước ta lúc bấy giờ, mà chủ đạo là tư tưởng
Phật giáo Đại thừa, các phạm trù trên không còn đáp ứng một cách thỏa
đáng. Hẳn đây là lý do tại sao kinh Pháp hoa tam muội đã được tiến hành
phiên dịch. Bản kinh này ngày nay đã mất, nên ta không thể bàn thêm về
quan hệ của phương pháp An ban với tam muội Pháp hoa, như Đạo Hinh và
Cương Lương Lâu Tiếp đã hiểu.
Dù
vậy, chỉ cần đọc lại cách kết hợp tư tưởng Pháp hoa với phương pháp An
ban của Trí Khải trong Lục diệu pháp môn ĐTK 1918 tờ 555a15-29 cũng có
thể cho ta một ý niệm về quan hệ ấy: “Sao gọi là tương tự viên chứng sáu
diệu môn? Như kinh Pháp hoa nói: Trong nhãn căn thanh tịnh có thể một
lúc đếm số lượng pháp ngang với sắc và tâm của phàm và thánh của mười
phương, nên gọi là phổ môn. Tất cả sắc pháp tùy thuận ở nhãn căn, mắt
không trái với sắc pháp, cùng tùy thuận nhau nên gọi là tùy môn. Như thế
lúc thấy, nhãn căn rất vắng lặng bất động, nên gọi là chỉ môn. Không
dùng hai tướng mà thấy các nước Phật, thông đạt vô ngại, khéo léo phân
biệt, soi rõ pháp tướng, nên gọi là quán môn. Trở về trong cảnh giới của
nhãn căn, thấu suốt cảnh giới của các căn tai, mũi, lưỡi, thân, ý, hết
thảy hiểu rõ vô ngại tướng không một không khác, nên gọi là hoàn môn.
Lại khi đã thấy cảnh giới nhãn căn, trở về xuất hiện trong nhãn giới của
phàm thánh mười phương. Đó cũng gọi là hoàn môn. Tuy rõ rệt thấy thấu
suốt việc như thế, mà không dấy lên vọng tưởng phân biệt, biết bản tính
thường tịnh là pháp không thể bị nhiễm, không trụ không bám, không khởi
pháp ái, nên gọi là tịnh môn. Đấy là nói tóm tắt về việc chứng tương tự
tướng sáu diệu môn trong nhãn căn thanh tịnh. Năm căn còn lại cũng như
vậy, nói rộng như kinh Pháp hoa đã rõ”.
Còn
về quan hệ của sáu diệu môn với tam muội Pháp hoa thế nào, ta đọc tiếp
Lục diệu pháp môn ĐTK 1918 tờ 555a29-b19: “Sao gọi chân thật viên chứng
sáu diệu môn? Có hai thứ. Một là biệt đối. Hai là thông đối. Biệt đối là
mười trụ là sổ môn, mười hạnh là tùy môn, mười hồi hướng là chỉ môn,
mười địa là quán môn, đẳng giác là hoàn môn, diệu giác là tịnh môn. Hai,
thông đối có ba thứ. Một là sơ chứng. Hai là trung chứng. Ba là cứu
cánh chứng. Sơ chứng là có Bồ tát nhập A tự môn, cũng gọi sở phát tâm
trụ, chứng được tuệ chân vô sinh pháp nhẫn, lúc ấy có thể ở trong một
tâm niệm đếm các tâm hạnh và đếm vô lượng pháp môn của chư Phật, Bồ tát,
thanh văn, duyên giác của các thế giới như hạt bụi nhỏ không thể nói
hết nên gọi là sổ môn. Có thể trong một tâm niệm tùy thuận sự nghiệp của
pháp giới, nên gọi là tùy môn. Có thể trong một tâm niệm hiểu rõ hết
thảy pháp tướng, đầy đủ mọi thứ quán trí tuệ, nên gọi là quán môn. Có
thể trong một tâm niệm thấu suốt các pháp rõ ràng phân minh, thần thông
chuyển biến, điều phục chúng sinh, quay về nguồn gốc, nên gọi là hoàn
môn. Có thể trong một tâm niệm thành tựu thấu suốt các pháp rõ ràng phân
minh, thần thông chuyển biến, điều phục chúng sinh, quay về nguồn gốc,
nên gọi là hoàn môn. Có thể trong một tâm niệm thành tựu các việc như
trên đã nói, mà tâm không nhiễm trước vì không bị các pháp làm ô nhiễm,
có thể làm sạch nước Phật, khiến chúng sinh đi vào đường sạch của ba
thừa, nên gọi là tịnh môn”.
“Sơ
tâm Bồ tát vào pháp môn ấy, như kinh dạy, cũng gọi là Phật, đã được
chính tuệ bát nhã, nghe Như Lai tạng, rõ chân pháp thân, đầy đủ (định)
Thủ lăng nghiêm, thấy rõ tính Phật, ở đại niết bàn, vào cảnh giới không
thể nghĩ bàn của tam muội Pháp hoa”.
Đó
là quan hệ giữa tư tưởng Pháp hoa và tam muội Pháp hoa với phương pháp
An ban. Ngày nay kinh Pháp hoa tam muội do Cương Lương Lâu Tiếp và Đạo
Hinh dịch đã mất. Tuy nhiên, những lý giải vừa trích của Trí Khải, người
thành lập phái Pháp hoa Trung Quốc, cũng có thể cho ta một số ý niệm về
nỗ lực kết hợp phương pháp An ban và tư tưởng Pháp hoa mà Đạo Hinh có
khả năng đã thực hiện. Thực tế, phương pháp này đưa tới những thành quả
do Khương Tăng Hội mô tả trong lời tựa như “Tâm họ liền sáng, đem sáng
đi xem, không tối gì không thấy, hiện tại các cõi, trong đó có đức Như
Lai giảng pháp, đệ tử tụng tập, không xa gì không nghe thấy, không tiếng
gì là không nghe, nhanh chóng phảng phất, còn mất tự do”.
Những
thành quả đó hiển nhiên là quá giới hạn so với những thành tựu cũng do
phương pháp ấy đem lại trên cơ sở tư tưởng Pháp hoa. Dẫu vậy, gần hai
trăm năm sau, người ta bắt đầu đặt vấn đề về những thành quả hứa hẹn ấy.
Lý Miễu đã hỏi thẳng Đạo Cao là tại sao “Không thấy chân hình (Phật) ở
đời?”. Chúng tôi đã phân tích cho thấy nền thiền học Việt Nam thời du
nhập như phản ảnh trong Lục độ tập kinh đến giữa thế kỷ thứ V đang đối
đầu với một cuộc khủng hoảng lý luận và thực tiễn. Nó đòi hỏi phải có
một cơ sở lý luận khác, mà ta phải đợi hơn một trăm năm sau khi một nhà
nước độc lập hùng cứ đế vương Việt Nam vững mạnh ra đời dưới sự lãnh đạo
của Lý Nam Đế, mới tìm thấy với dòng thiền Pháp Vân của Pháp Hiền [13].
Dẫu
thế, An ban thủ ý kinh chú giải như một tác phẩm đầu tay hiện còn của
một thanh niên Khương Tăng Hội vẫn đáng cho ta trân trọng, đặc biệt
trong công tác nghiên cứu lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt
Nam. Chẳng hạn, trong bản chú giải, Khương Tăng Hội đã đặt vấn đề: “Nê
hoàn có không?”. Câu trả lời tỏ ra thật lôi cuốn: “Nê hoàn không có, chỉ
là khổ diệt, một tên là ý hết”. Nói câu trả lời lôi cuốn, vì qua nó ta
thấy Phật giáo nước ta vào những năm 220-230 đã có những quan niệm khá
chính xác về các phạm trù cơ bản của tư tưởng Phật giáo. Và đó là một
điểm chỉ cụ thể Phật giáo Mâu Tử, Khương Tăng Hội và Đạo Hinh, là một
nền Phật giáo đã trưởng thành, đủ bản lĩnh và tư cách để trả lời những
câu hỏi khó khăn của Phật giáo, mà ngoài niết bàn ra, còn có nhiều vấn
đề khác.
Cuối
cùng cần nói đôi điều về lối chú giải chữ Phạn của Khương Tăng Hội.
Trong toàn bộ An ban thủ ý kinh chú giải, hiện có bốn chú giải về chữ
Phạn, nếu kể luôn chú giải về chữ An ban ở trang 165a5-6. Ở đây an (àna)
được giải thích là hơi thở vào (nhập tức) và ban (pàna) là hơi thở ra
(xuất tức), chứ không phải lối chú giải An ban ở các trang 164c17-165a10
theo kiểu giải thích ý. Ba chú giải kia thì một về cụm từ “Tứ y đề
bát”. Hội viết: “Tứ là số. Y đề là chỉ. Bát là thần túc”. Chú giải này
rõ ràng không chính xác cho lắm, vì bảo y đề là chỉ và bát là thần túc,
là không đúng. Y đề, Phạn: rddhi; Pàli: iddhi, thực có nghĩa thần, và
bát (pada) là túc. Sai lầm này phải chăng do Khương Tăng Hội hay do
truyền bản? Đây là câu hỏi khó trả lời nhất.
Nếu
do Khương Tăng Hội, thì khả năng Phạn ngữ của Hội không cao. Từ đó, các
bản dịch kinh của Hội từ Lục độ tập kinh cho đến Cựu tạp thí dụ kinh,
Ngô phẩm v.v..không thể dịch trực tiếp từ Phạn bản, mà phải từ một
nguyên bản tiếng Việt, như những dấu hiệu khác đã cho thấy. Và đây là
một điểm chỉ khác về khẳng định vừa nêu. Ngược lại, nếu do truyền bản,
ta sẽ không thể lý giải do đâu mà y đề được giải thích là chỉ. Không có
tự dạng tương tự cho phép chữ chỉ xuất hiện được.
Hai
chú giải còn lại là thuật xà và sa la đọa đãi. Thuật xà dĩ nhiên là một
phiên âm chữ Phạn Vidỳa, mà Khương Tăng Hội dịch là trí, và sau người
ta đã đổi lại là minh. Đây là nói đến ba minh do đức Phật chứng được
dưới gốc bồ đề. Về sa la đọa đãi, mà Khương Tăng Hội dịch là lục thông
trí, nó chắc chắn là một phiên âm của Sadabhijnã. Những chú giải này
chứng tỏ Hội biết chữ Phạn, chứ không phải không biết. Nền giáo dục nước
ta thời Hội, đặc biệt nền giáo dục Phật giáo, hẳn đã có môn tiếng Phạn
trong chương trình học, nhất là khi cha Hội đã từng ở Ấn Độ và có “mấy
chục người Hồ” đi sát xe đốt hương, nhân một buổi lễ hành thành của Sĩ
Nhiếp. Tuy có học, nhưng trình độ chữ Phạn của Hội chưa cao lắm, nên đã
có một chú thích chữ y đề như trên.
V. Vấn đề hiệu bản và dịch
Bản
thân bản chú giải ngày nay chỉ được biết dưới một truyền bản tên Phật
thuyết đại An ban thủ ý kinh gồm 2 quyển thượng và hạ. Và như đã nói,
ngay trước thế kỷ thứ X, người ta đã biết kinh văn đã bị chú văn chép
xen lẫn vào, trong đó có “nhiều chỗ không thể tách ra được”. Thực tế,
chỉ cần đọc sơ qua đoạn văn đầu của bản kinh hiện nay cũng có thể thấy
ngay. Vấn đề tách kinh văn ra khỏi chú văn do thế không phải dễ dàng gì,
dù không phải là không làm được. Chúng tôi sẽ dành công tác ấy cho một
nghiên cứu khác, vì nếu tiến hành ở đây lúc này sẽ rất dài dòng và chưa
cần thiết cho lắm.
Về
lời tựa Khương Tăng Hội viết cho bản chú giải, ta hiện nay có hai
truyền bản khác nhau. Truyền bản thứ nhất do Tăng Hựu “sao soạn” lại
trong Xuất tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145 tờ 43a1-c3 và viết dưới tên An ban
thủ ý kinh tự. Truyền bản thứ hai là bài tựa in vào đầu truyền bản Phật
thuyết đại An ban thủ ý kinh quyển thượng ĐTK 602 tờ 163a3c8 và đề là
Khương Tăng Hội tự. Hai truyền bản này có một số xuất nhập văn cú. Cho
nên, chúng tôi cho thiết lập bảng đối chiếu dưới đây để tiện cho những
người nghiên cứu sau.
Còn
những xuất nhập khác giữa bản in Cao Ly, Tống, Nguyên và Minh của Phật
thuyết đại An ban thủ ý kinh và Xuất tam tạng ký tập, thì những người
đứng in bản in Đại Chính Đại tạng kinh đã cho ghi lại, nên chúng tôi
không bàn cãi gì thêm.
Dòng
Bản ĐTK 602 tờ 163
Dòng
Bản ĐTK 2145 tờ 43
a11
Thích
a8
Thánh
13
Thâm phân
9-10
Tư giới
23
Cảnh
20
Chiêu
26s
Phu
23
Đại
b3
Tại
28
Tồn
12
Minh
b7
Nhãn
18
Vu
14
Thiên
21
Danh
17
Giả
23
Tập
18
Tấn
27
Thị minh thính thông
22
Thị thính minh
62
Tiềm
26
San
4
Tùng chi
28
Chi tùng
6
Sở
c1
Bất
Ngoài
ra Huệ Hạo trong truyện An Thế Cao của Cao tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ
324a27-b1, khi bàn về tung tích và niên đại của An Hầu, có dẫn từ Chú An
ban thủ ý kinh tự thế này: “Thử kinh Thế Cao sở xuất, cửu nhi trầm ế.
Hội hữu Nam Dương Hàn Lâm, Dĩnh Xuyên Văn Nghiệp, Cối Kê Trần Tuệ, thử
tam hiền giả, tín đạo đốc mật. Hội cộng thỉnh thọ, mãi Trần Tuệ chú
nghĩa, dư trợ châm chước”. Đoạn trích văn này, chắc chắn Huệ Hạo có lược
bớt và có chỗ đã thêm vào, như câu “Cửu nhi trầm ế”. Nhưng chúng tôi
vẫn trích ra đây để làm tài liệu tham khảo, đặc biệt về tên Văn Nghiệp
và Bì Nghiệp.
Về
vấn đề phiên dịch, vì An ban thủ ý kinh chú giải là một bản văn thuộc
thời cổ dịch, số từ nó dùng sau đó đã lỗi thời và ít được biết đến, nên
chúng tôi có lúc đã cho thay vào những từ phổ thông hơn. Chẳng hạn,
Khương Tăng Hội dùng chữ “nê hoàn”, chúng tôi khi dịch, đã thế bằng từ
“niết bàn”. Một số thuật ngữ như ấm, thống dạng, tư tưởng, sinh tử, mà
sau đến thời cựu dịch của La Thập và tân dịch của Huyền Tráng đã thống
nhất đổi thành uẩn, thọ, tưởng, hành. Chúng tôi, khi dịch, có lúc giữ
nguyên, có lúc thế bằng thuật ngữ phổ thông thời tân dịch, vì chúng phổ
biến hiện nay đối với học giả. Những thuật ngữ khác cũng thế.
Với
tư cách là một bản chú giải, mà kinh văn và chú văn bị chép lẫn lộn
nhau, những nơi nào rõ ràng là kinh văn được chú, chúng tôi cho in xiên.
Lý do cho việc làm này, chúng tôi sẽ trình bày riêng trong một nghiên
cứu khác. Ở đây chỉ cần nói là phương pháp viết chú giải của Khương Tăng
Hội có một nét đặc biệt là có khi Hội trích ra cả nguyên một đoạn kinh
rồi chú giải một số câu hay từ khó hiểu của nó. Chẳng hạn, khi trích
đoạn 18 quấy rối An ban, Khương Tăng Hội chỉ chú giải 5 của 18 quấy rầy
này thôi, đó là không nhận hành tướng, nhận tha nhân tướng, tha niệm,
không niệm đầy và cưỡng chế ý.
Nhưng
có lúc Hội không cho trích nguyên cả đoạn văn, mà chỉ chú giải những
câu, hay cụm từ cần thiết trong đoạn văn đó. Và việc chú giải những câu
hay cụm từ này xảy ra khá phổ biến trong An ban thủ ý kinh chú giải. Do
thế, việc phục hồi lại chính văn của An ban thủ ý kinh không phải dễ
dàng gì, một sự tình mà cách đây hơn ngàn năm người ta đã nhận thấy.
Những câu hay cụm từ rời rạc ấy, chúng tôi cũng cho in xiên, để cho
người đọc dễ nhận