PHẦN II SÁU LÁ THƯ LÝ MIỄU, ĐẠO CAO VÀ PHÁP MINH
Nền
Phật giáo do Mâu Tử và Khương Tăng Hội gầy dựng nên, đến thế kỷ thứ IV
sdl. vẫn đang còn có những ảnh hưởng mạnh mẽ. Chí Hàm viết Triệt tâm ký
mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu, đã nhắc đến Khương Tăng Hội với lòng
ngưỡng mộ đặc biệt. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ thứ V, một số phạm trù
cơ bản của nền Phật giáo Mâu Tử, Khương Tăng Hội đã biến thành đề tài
tranh cãi. Trong đó, vấn đề then chốt nhất đối với những người Phật giáo
là tại sao thực hành theo Phật giáo mà lại không thấy chân hình của đức
Phật ở đời. Đây là đề tài bàn cãi của Sáu lá thư trao đổi giữa hai pháp
sư tên Đạo Cao, Pháp Minh và một “sứ quân” tên Lý Miễu. Mấy lá thư này
là những áng văn xưa nhất của lịch sử văn học và Phật giáo nước ta, quan
trọng không những đối với tự thân lịch sử văn học và Phật giáo, mà còn
đối với lịch sử chính trị, tư tưởng và văn hóa Việt Nam một cách tổng
quát.
Sáu
lá thư bày tỏ cho thấy Phật giáo đã được dân tộc ta tiếp thu như thế
nào, những vấn đề gì mà họ quan tâm nhiều nhất, từ đó giúp ta xác định
được sinh hoạt trí thức và văn hóa chung của một thời đại. Thực sự mà
nói, chúng đã phơi trần một cuộc khủng hoảng có tính chất căn để đối với
toàn bộ tư tưởng và tín ngưỡng Phật giáo vào thời ấy, vì chúng chỉa mũi
dùi tra hỏi đến vấn đề người theo Phật giáo thực sự có thể thấy Phật
được không? Đặt vấn đề như thế là nhắm đến trọng tâm của toàn bộ sinh
hoạt Phật giáo, vì sinh hoạt Phật giáo đâu có ý nghĩa gì khác ngoài mục
đích làm cho những người thực hành nó giác ngộ, nghĩa là tìm lại bản
thân đức Phật của mình, tìm lại bản chất Phật của mình. Do vậy, hỏi sao
không thấy chân hình của Phật ở đời đối với người Phật giáo là nêu lên
những nghi vấn về chính cái mục đích mình đang theo đuổi, là tự hỏi về
sự hiện hữu của chính mục đích đó. Có thể nào ta thấy đức Phật chăng? Có
thể nào ta giác ngộ chăng?
Nghi
vấn và tự hỏi về mục đích như vậy bao gồm luôn một nghi vấn và tự hỏi
về giá trị của những phương pháp nhằm đạt đến mục đích. Một mặt, ta hỏi
mục đích có hiện hữu không. Mặt khác, giá như mục đích có hiện hữu, mà
ta không đạt đến được, phải chăng vì phương pháp của ta đã sai lầm? Sáu
lá thư này sẽ giúp cho thấy những câu hỏi như thế cần phải giải quyết ra
sao trong bối cảnh lịch sử tư tưởng và Phật giáo Việt Nam thời đó.
Chúng sẽ phơi bày không những nghi vấn về giá trị của những phương pháp
thực hành Phật giáo đang lưu hành vào giai đoạn ấy, mà còn biểu lộ cho
thấy cái quan niệm về Phật do nền Phật giáo Mâu Tử và Khương Tăng Hội
thiết định đang mang trong mình một số những mâu thuẫn cần giải quyết.
Sáu
lá thư ngày nay xuất hiện trong Hoằng minh tập 11 ĐTK 2145 tờ
70a26-72a19 bản in Đại Chính dưới nhan đề “Cao Minh nhị pháp sư đáp Lý
Giao Châu Miễu nạn Phật bất kiến hình sự”. Việc này có thể làm cho ta
nghĩ rằng, chúng đã được Hựu sưu tập sau năm 513, nếu không là sau năm
495-498[19], bởi vì Hựu đã cho trích lời tựa của Hoằng minh tập trong
Xuất tam tạng ký tập 12 ĐTK 2145 tờ 93b12-94a23 viết xong khoảng những
năm 495-498 và bảo là Hoằng minh tập chỉ có 10 quyển, chứ không phải có
11 quyển như bản in Đại Chính ngày nay điểm chỉ.
Tuy
nhiên, nếu ta đọc hết lời tựa cùng bảng liệt kê nội dung của nó, thì
Sáu lá thư ấy lại được xếp vào quyển thứ bảy cùng với những đối đáp giữa
Hà Thượng Chi và Tống Văn đế và một số những văn bản khác của Tiêu Tử
Lang v.v... Thế cũng có nghĩa Sáu lá thư tự nguyên ủy nằm trong bản
Hoằng minh tập 10 quyển do Tăng Hựu hoàn thành trước năm 495. Cũng trong
lời tựa ấy, Hựu cho ta biết tại sao và bằng cách nào cuốn Hoằng minh
tập ra đời. Ông viết ở tờ 93b26-c3: “Hựu dĩ mạt học, chí thâm hoằng hộ,
tĩnh ngôn phù tục, phẩn khái vu tâm, toại dĩ dược tật vi gian, sơn thê
dư hà, soạn cổ kim chi minh thiên, sao đạo tục chi nhã luận, kỳ hữu khắc
ý tiển tà vệ pháp, chế vô đại tiểu, mạc bất tất thám. Hựu tiền đại
thắng sĩ thơ ký văn thuật, hữu ích tam bảo giả, diệc giai biên lục, loại
tụ khu quân, liệt vi thập quyển. Phù đạo dĩ nhân hoằng, giáo dĩ văn
minh, hoằng đạo minh giáo, cố vị chi Hoằng minh tập”. Sáu lá thư do “Cao
Minh nhị pháp sư đáp Lý Giao Châu Miễu nạn Phật bất kiến hình sự” như
vậy chắc chắn phải thuộc loại “tiền đại thắng sĩ thơ ký văn thuật” và
chắc chắn là được sưu tập trước những năm 495-498 để đến năm 513, năm
Hựu hoàn thành bộ Xuất tam tạng ký tập, chúng được ghi tên vào trong bộ
Xuất tam tạng ký tập ấy.
Tăng
Hựu sinh năm 445 và mất lúc ông 74 tuổi vào năm 519. Hai vị pháp sư Đạo
Cao và Pháp Minh cũng như người đệ tử của họ tên Lý Miễu, ngày nay
chúng ta không biết một tí gì hết. Những tư liệu lịch sử Trung Quốc và
Phật giáo Trung Quốc từ Cao tăng truyện cho đến Tống thư đã không có một
người nào với những tên ấy. Những tư liệu lịch sử nước ta và Phật giáo
nước ta cũng không có. Dẫu thế, vì Tăng Hựu sinh và mất giữa những năm
445-519, niên đại của những vị “tiền đại thắng sĩ” này phải rơi vào
khoảng thế kỷ thứ V. Điều này bản in đời Minh đã xác nhận với những tiêu
đề cho những lá thư ấy như “Đáp Lý Giao Châu thơ Tống Thích Đạo Cao”
hay “Dự Đạo Cao pháp sư thơ Lý Miễu” v.v..., định tự một cách rõ ràng,
những người liên hệ quả đã sống vào thời Lưu Tống, tức giữa những năm
420-478. Nghiêm Khả Quân (1762-1843), khi hoàn thành bộ Toàn thượng cổ
tam đại Tần Hán tam quốc lục triều văn cũng đã xếp hai vị pháp sư Đạo
Cao, Pháp Minh và vị sứ quân Lý Miễu vào trong tập Toàn Tống văn dành
cho văn chương nhà Lưu Tống[20]. Và những niên đại ấy có thể đẩy về một
vài chục năm sớm hơn, như chúng tôi sẽ có dịp chứng tỏ dưới đây, trong
đoạn thử truy tìm căn cước những pháp sư và người đệ tử của họ cùng hành
trạng có thể của những người này trong lịch sử nước ta.
Những
lá thư này viết bằng Hán văn và xuất hiện trong Hoằng minh tập ĐTK 2102
quyển 11 tờ 70a26-72a19 của bản in Đại Chính[21]. Những truyền bản của
Sáu lá thư ấy đã được những người đứng in bản in Đại Chính thực hiện
khảo dị. Vì thế, khi dịch những văn bản này ra tiếng Việt, chúng tôi sẽ
không thực hiện công tác khảo dị văn bản ở đây, vì nó sẽ tương đối khá
dài, mà lại không cần thiết. Chúng tôi do thế chỉ cho in bản dịch tiếng
Việt và xin người đọc tham khảo bản chữ Hán ở cuối sách. Chúng tôi cũng
không đề cập tới các bản in hậu kỳ của Tứ bộ bị yếu và Nghiêm Khả Quân,
vì chúng không có giá trị văn bản học cao. Một số điển cố trong Sáu lá
thư, chúng tôi xin để nguyên trong khi dịch và sẽ bàn tới trong những
chương tiếp theo.
Những
lá thư ấy, theo chúng tôi biết, thì chưa một cuốn văn học sử nào của
ta, ngay cả những cuốn mệnh danh viết về “Việt Nam cổ văn học sử” hay
“Lịch sử văn học Việt Nam thời Bắc thuộc”[22] kể tới. Vì vậy chúng nên
được công bố toàn vẹn ở đây để làm tư liệu cho việc viết một cuốn lịch
sử văn học Việt Nam hoàn chỉnh hơn và giúp sửa soạn việc nghiên cứu lịch
sử tư tưởng Việt Nam một cách đầy đủ hơn sau này.
NGUỒN GỐC VIỆT NAM VỀ MẶT ĐIỂN CỐ LỊCH SỬ
Sáu
lá thư là những gì còn lại của những trao đổi giữa Lý Miễu của Giao
Châu và hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh. Thực tế cuộc trao đổi này chỉ
bao gồm sáu lá thư mà thôi hay còn nhiều nữa, ta hiện nay không thể xác
định được. Có khả năng có thể Tăng Hựu đã sao lược bớt và chỉ giữ lại
cho ta sáu lá thư mà thôi. Điểm lôi cuốn là sau lá thư thứ sáu, có một
đoạn văn mà chúng tôi gọi là “Hậu bút”, và nó không gì hơn là một trích
dẫn từ Minh Phật luận của Tôn Bính (374-443) do Tăng Hựu sưu tập lại
trong Hoằng minh tập ĐTK 2102 tờ 12c12-18. Bính viết Minh Phật luận nhằm
trả lời những vấn đề do Quân thiện luận của Huệ Lâm nêu lên. Trong đoạn
trích trên, chủ ý của Bính là nhằm chứng minh rằng, Phật giáo đã được
biết tới và xuất hiện rất lâu trong lịch sử Trung Quốc ngay cả vào thời
Tam hoàng Ngũ đế. Bính chẳng hạn nhắc tới câu “Đông hải chi nội, bắc hải
chi ngung, hữu quốc viết Triều tiên Thiên độc, kỳ nhân thủy cư, ôi nhân
ái nhân” của Sơn hải kinh trong Sơn hải kinh tiển sớ 18 tờ 1a. Sơn hải
kinh thường được bảo là do Bá Ích, người con thứ hai của vua Thuấn, viết
có lẽ vào thế kỷ thứ XXII tdl. (!). Tuy nhiên, căn cứ vào những bằng cớ
nội tại, thì nó phải được viết vào khoảng thế kỷ thứ I tdl. hay sdl.,
mà Quách Phác (276-324 tdl) hơn ba trăm năm sau đã viết một chú thích.
Về
quyển Liệt tiên truyện của Lưu Hướng, Chí Ban cho biết trong Phật tổ
thống ký 35 ĐTK 2035 tờ 329a 17-21 viết năm 1269 là: “Hồng Hy năm thứ
hai (19 tdl.) Quang lục đại phu Lưu Hướng kiểm sách ở các Thiên bộc,
thỉnh thoảng có thấy kinh Phật. Hướng viết Liệt tiên truyện, nói rằng:
Tôi tìm xem trong thư viện, lục truy Liệt đồ do Thái sử soạn thì thấy,
từ Hoàng Đế trở xuống cho đến nay 700 người đã đắc đạo tiên. Xét sự thật
giả của số đấy thì còn lại được 148 người, trong đấy 74 người đã tìm
thấy trong kinh Phật”. Hồng Hy năm thứ hai nhà Tây Hán tức là năm 19
tdl.
Về
chuyện Thạch Hổ và người chú của Diêu Lược, thì tuy chuyện chú Diêu
Lược ngày nay ta không biết một tí gì rõ ràng, chuyện Thạch Hổ ta có thể
tìm thấy trong bản tiểu sử của Phật Đồ Trừng ở Cao tăng truyện 9 ĐTK
2060 tờ 38b13-387a29. Thạch Lặc và Thạch Hổ lập nên nhà Hậu Triệu và trị
vì giữa những năm 329-350, trong khi Phật Đồ Trừng mất vào năm 348 lúc
ông 117 tuổi.
Viện
dẫn những chứng cớ vừa nêu, Tôn Bính nhằm trả lời câu hỏi, nếu Phật
giáo có mặt ở Trung Quốc từ xưa thì tại sao lại không thấy nói đến ở
thời Tam đại, tức thời nhà Hạ, Thương và Chu? Bính bảo là ngay cả những
cuốn sử của Can Bảo và Tôn Thạnh, mà tiểu sử ta tìm thấy trong Tấn thư
quyển 82 tờ 8al-9a3 và 6b10-7b7 kiểu Tấn ký hay Ngụy thế xuân thu cũng
không nói gì hết đến chuyện “Phật diệu hóa thật chương hữu tiên nhi
thạnh ư Giang tả”, nghĩa là, những cuốn sử viết cách Bính và những người
thời ông không bao xa. Tôn Thạnh sinh năm 302 và mất vào năm 373, một
năm trước khi Tôn Bính ra đời. Vạch ra những điểm này, chúng tôi có ý
nhằm cho thấy những truyền thống lịch sử Phật giáo và văn hóa khác nhau
giữa những người viết Sáu lá thư và tác giả Minh Phật luận. Để rõ hơn,
chúng ta phải phân tích những chứng cớ, mà Pháp Minh đã dẫn ra trong lá
thư thứ sáu cho việc chứng minh sự cảm ứng linh biến của đức Phật “hoặc
qua sự chứng kiến rõ ràng của tai mắt, hoặc qua sự mơ thấy trong một
giấc mộng”, và chúng gồm 7 thứ sau:
Thứ
nhất là chuyện Hán Minh đế mộng thấy Người Vàng và Phật giáo đến Trung
Quốc. Từ ngày Tôkiwa vội vàng giả thiết Mâu Tử Lý hoặc luận là một ngụy
tạo của Huệ Thông và từ đó kết luận chuyện “Hán Minh đế mộng thấy Người
Vàng” cũng thế, hầu hết những người nghiên cứu, dù có bất đồng ý kiến và
chỉ trích Tôkiwa đi nữa, ít khi thử vạch ra sự sai lầm dữ kiện của
người này.
Theo
Cao tăng truyện 7 ĐTK 2059 tờ 374c28-375a6 thì Huệ Thông “đến dừng lại ở
chùa Trị Thành... Từ Trạm Chi từ Đông Hải, Viên Xán từ Trần quận kính
trọng, dùng lễ thầy bạn. Hoàng đế Kiến Vũ gia hậu sủng ái, sai làm bạn
với hai vương Hải Lăng và Tiểu Kiến Bình. Viên Xán viết Cừ nhan luận đem
đưa cho Thông coi... Thông viết nghĩa sớ cho những kinh Đại phẩm và
Thắng man, những luận Tạp tâm và Tỳ đàm, cùng Bác di hạ luận, Hiển chứng
luận v.v... đều có truyền ở đời, đến Tống Thăng Minh ông mất, thọ 63
tuổi”.
Thăng
Minh là niên hiệu của Tống Thuận đế kéo dài từ năm 477 đến 478. Nếu
Thông mất khoảng Thăng Minh, thế có nghĩa niên đại của Thông phải rơi
vào khoảng 415-478. Xác định kiểu này thì ngay cả khi Mâu Tử Lý hoặc
luận là một ngụy tạo của Thông, một luận đề hoàn toàn sai lầm, mà chúng
tôi có dịp chứng tỏ[23], ta cũng không thể khẳng định là, thuyết “Minh
đế mộng kim nhân” đã ra đời với Huệ Thông, bởi vì pháp sư Pháp Minh đã
nhắc tới nó và pháp sư này phải sống vào khoảng những năm 370-456.
Nói
thế, chúng ta dĩ nhiên chưa kể đến chú thích của Lục Trừng về Mâu Tử Lý
hoặc luận trong cuốn Pháp luận của ông, mà Tăng Hựu đã cho thu thập lại
trong Xuất tam tạng ký tập 12 ĐTK 2145 tờ 82c29-83al, theo đấy “Mâu Tử
bất nhập giáo môn, nhi nhập duyên tự, dĩ đặc tải Hán Minh chi tượng pháp
sơ truyền cổ giả”. (Mâu Tử không xếp vào loại sách dạy, mà vào loại
sách nhập đề, bởi vì nó đã đặc biệt ghi lại lúc tượng pháp mới truyền
vào thời Hán Minh đế). Những dòng này, Trừng phải viết trước năm 470,
bởi vì khi Tống Minh đế ra lệnh soạn cuốn Pháp luận ấy thì ông đang còn ở
tại chức Trung thư thị lang, như Tăng Hựu đã ghi, trong khi vào năm 470
ông đã bị đổi qua chức Ngự sử trung thừa vì mắc tội.
Và
đó cũng chưa kể đến thuyết của Viên Hoằng (328-376) trong Hậu Hán ký.
Dẫu sao đi nữa, với những củ soát vừa thấy, ta có ít nhất là hai truyền
thuyết khác về giấc mộng Người Vàng của Hán Minh đế, ngoài truyền thuyết
của Huệ Thông, vào thế kỷ thứ V. Những truyền thuyết này, tất cả chúng
đều phải rút ra từ Mâu Tử Lý hoặc luận. Giữa những truyền thuyết ấy, thì
thuyết của Pháp Minh có lẽ là xưa nhất, một điều không có gì đáng ngạc
nhiên cho lắm nhưng rất lôi cuốn bởi Lý hoặc luận đã viết tại nước ta và
là một sản phẩm văn hiến đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Ý nghĩa của
nó sẽ trở nên rõ ràng hơn với những bàn cãi về những chứng cớ tiếp
theo.
Chứng
cớ thứ hai Pháp Minh dùng là chuyện Tôn Quyền tin Phật vì những viên
ngọc Xálỵ. Như Zurcher đã nhận thấy[24], lá thư của Pháp Minh là văn
kiện đầu tiên kể đến chuyện thần dị này, mà sau đó ta thấy xuất hiện
trong hầu hết những bản tiểu sử của Khương Tăng Hội, bắt đầu với Xuất
tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a17 của Tăng Hựu và Cao tăng
truyện 1 ĐTK 2060 tờ 325a13-326b13 của Huệ Hạo.
Khương
Tăng Hội từ thời Đàm Thiên (542-607) và Thông Biện (?-1134) trở đi
thường được coi như một người truyền đạo đầu tiên ở nước ta cùng với Mâu
Bác, Chi Cương Lương và Ma Ha Kỳ Vực. Quan niệm lịch sử này về vai trò
của Hội ngày nay đã chứng tỏ là không chính đáng, nếu không nói là hoàn
toàn sai, như chúng tôi đã vạch ra ở chương trước.
Trong
An ban thủ ý kinh tự mà Tăng Hựu sưu tập lại trong Xuất tam tạng ký tập
tờ 43b24-c1 và Thang Dụng Đồng[25] coi như viết vào khoảng năm 229, Hội
đã cho ta biết về tình trạng Phật giáo nước ta qua lời tự bạch sau:
“Tôi sinh muộn màng, nên tuổi mới vào thời vác củi thì hai thân đều mất,
ba thầy đã táng, ngước trông mây trời, buồn rầu không biết hỏi ai,
nghẹn lời nhìn quanh, lệ tuôn lã chã. Song phúc xưa chưa hết, nên gặp
được bạn Hàn Lâm từ Nam Dương”...
Rồi,
trong Pháp kính kinh tựï ở Xuất tam tạng ký tập tờ 46c2-11, Hội cũng đã
lặp lại những cảm hoài đầy nước mắt ấy về những vị thầy của ông tại
nước ta: “Kỵ đô úy An Huyền và Nghiêm Phù Điều từ Lâm An, hai vị hiền
đây... đã đem hết trí óc mình, dịch lấy cuốn kinh này... Lời nó đã đúng
theo văn xưa, mà ý lại vi diệu... nhưng nghĩa nó đã bị chận đứng không
thông, nên tôi mạo muội đem hết chỗ ngu của mình làm lấy chú nghĩa này.
Tang thầy đã nhiều năm, nên không do đâu mà hỏi lại được. Lòng buồn rười
rượi, miệng tấm tức, dừng bút xót thương những ai theo dõi dấu xưa,
quyến luyến thánh giáo, nước mắt bỗng tự nhiên chảy ròng. Nay xin ghi
lại những điều mình biết, giúp giải quyết những chỗ nghi ngờ, đợi chờ
những bậc cao minh về sau. Giả như có sự xướng thành, ấy là nhằm làm rõ
Tam bảo vậy”.
Chứng
cớ thứ ba của Pháp Minh là tượng thờ ở chùa Ngô quận Bắc. Một lần nữa,
Pháp Minh là người đầu tiên ghi lại sự thần dị của tượng Phật này cũng
như sự thành công của Chu Trương trong việc vớt nó lên, trong khi những
bọn đồng cốt thầy pháp đều thất bại, và sau đó Huệ Hạo đã ghi lại trong
Cao tăng truyện 13 ĐTK 2060 tờ 409b6-410a7 tại bản tiểu sử của Thích Huệ
Đạt, tuy đã đổi tên Chu Trương thành Chu Ứng.
Hạo
kể lại chứng cớ này một cách chi tiết như sau: “Đạt... lại đông du tới
Ngô huyện bái thạch tượng, vì bức tượng ấy vào năm Quí Dần niên hiệu
Kiến Hưng thứ nhất (313) thời cuối nhà Tây Tấn nổi lên tại cửa Hồ Thục
của sông Ngô Tùng. Những người đánh cá cho đó là vị thần biển, tìm đến
để nghênh thì sóng gió nổi lớn; họ khiếp sợ trở về. Lúc ấy có những kẻ
thờ phụng Hoàng Lão cho đó là hiển thần của vị Thiên sư của họ, lại cùng
nhau đến nghênh, sóng gió vẫn như xưa. Sau đấy có một cư sĩ thờ Phật là
dân Ngô huyện tên Chu Ứng nghe, bèn than rằng: 'Ấy nếu không phải là
đấng Đại Giác thì ai mà ứng hiện ra đó?' Rồi trai giới cùng với Bạch Ni
chùa Đồng Vân và vài tín giả đến cửa Hồ Thục, cúi đầu chí thành, ca tụng
lời nguyện rất khẩn, thì sóng gió đều dứt, xa thấy hai người nổi trên
sông mà đi. Ấy là những tượng đá, sau lưng một có tên Ca Diếp, một có
tên Duy Vệ. Họ liền nghênh về an trí ở chùa Huyền Thê”.
Trước
khi kể câu chuyện này, Hạo cũng cho biết thêm là, Đạt đã xuống miền Nam
Trung Quốc, đặc biệt là Hợp Phố, để chiêm bái một tượng Phật bằng châu
do một người tìm châu ở Hợp Phố tìm thấy và trao lại cho thứ sử Giao
Châu lúc bấy giờ là Đào Khản vào năm 318. Cuối đời Đạt, Hạo bảo là ông
không biết Đạt đi đâu và mất vào năm nào hay thọ bao nhiêu tuổi, dù vào
khoảng niên hiệu Ninh Khương, nghĩa là khoảng giữa năm 373-375, Đạt đã
tới Kiến Nghiệp trên đường xuống chiêm bái ở Hợp Phố và Ngô quận. Huệ
Đạt do thế rất có thể đã đến nước ta, nhất là vào khoảng thế kỷ thứ IV
và V, Giao Chỉ đã là một nơi nổi tiếng với những danh địa của nó, như ta
sẽ có dịp thấy khi bàn tới Quách Văn Cử.
Chứng
cớ thứ tư là chuyện Quách Văn Cử thò tay vào họng cọp mà không sợ. Văn
Cử là tự của một dật dân tên Quách Văn mà tiểu sử đã được ghi lại trong
Tấn thư 94 tờ 9a5-10a8, do Đường Thái Tông (597-649) ra lệnh viết. Căn
cứ vào tiểu sử ấy, thì Văn là một người tu tiên, làm nhà trong núi và
không dính líu gì đến Phật giáo hết, tuy Cao tăng truyện 7 ĐTK 2059 tờ
369c26 có dẫn tên ông. Về chuyện thò tay vào họng cọp, thì truyện thuật
rằng, một hôm Văn đang ở trong rừng, gặp một con cọp há miệng ra, ông
liền thò tay vào và lấy một thanh xương đang chận họng ra cho cọp. Cọp
biết ơn nên thường bắt nai đem đến trả ơn. Người ta hỏi, ông không sợ
cọp sao, ông đáp: “Nếu mình không có lòng sát hại nó thì nó không làm gì
mình”. Khi ông mất, có lẽ vào khoảng năm 320-330, Cát Hồng (284-363) và
Dữu Xiển đã viết tiểu sử lưu lại, ca ngợi sự đẹp đẽ của cuộc đời ông.
Hoạt
động của Văn Cử như vậy hầu như hoàn toàn giới hạn ở rừng núi Trung
Quốc. Việc tiếng ông vang đến cả nước ta chắc chắn phải qua trung gian
của Cát Hồng. Tiểu sử của Hồng nằm ở Tấn thư 72 tờ 7b11-9a9, theo đó thì
Hồng khi về già muốn luyện đơn để cầu sống lâu, đã xin Tấn Thành đế,
vào khoảng những năm 326-336, ra làm quan lệnh tại huyện Cú Lậu của quận
Giao Chỉ nước ta. Thành đế không cho, vì nghĩ rằng Hồng là một bậc đại
thần của triều đình thì sao lại nhận một chức nhỏ bé như quan lệnh. Hồng
trả lời là vì ông nghe Giao Chỉ sản xuất linh đơn, nên muốn ra đó mà
luyện đơn. Vua bằng lòng. Nhưng khi tới Quảng Châu, viên thứ sử ở đó tên
Đặng Nhạc không cho phép ông đi, nên ông phải dừng lại và luyện đơn tại
núi La Phù.
Một
lần nữa, bản tiểu sử của Hồng ở Tấn thư không nói gì về những liên lạc
của ông đối với Phật giáo. Tuy nhiên, căn cứ vào Phật tổ thống ký 36 ĐTK
2035 tờ 339c5-8, thì Cát Hồng đã viết một tấm biển cho chùa Linh Ấn do
một nhà sư Ấn Độ dựng ở núi Vũ Lâm tại tiền đường vào năm 326. Và cái
chú thích ở quyển 37 tờ 348a7-15 cũng ghi lại chuyện Hồng muốn làm quan
lệnh tại huyện Cú Lậu ở nước ta để luyện đơn. Hồng viết để lại nhiều
sách và mất vào lúc tuổi 81, khoảng năm 363.
Chứng
cớ thứ năm là chuyện Lan công phủi tuyết buốt cho thú dữ. Lan công đây
dĩ nhiên là Vu Pháp Lan, vị sư đã đến nước ta khoảng những năm 320 trên
đường đi tham bái Phật tích ở Ấn Độ, nhưng không may đã mắc bệnh và mất
tại vùng Nghệ Tĩnh ngày nay. Việc phủi tuyết buốt cho thú dữ, Cao tăng
truyện 4 tờ 349c29-350a3 viết: “Tính Lan ưa núi sông hang động. Thường
vào những mùa đông tuyết lạnh buốt xương, có cọp vào phòng mình. Thần
sắc Lan không đe dọa, nên cọp cũng rất thuần, đến sáng hôm sau tuyết hết
rơi, cọp ra đi”. Nói như vậy không rõ Lan trực tiếp phủi tuyết cho cọp.
Dẫu vậy, vào cuối thế kỷ thứ IV, người ta đang còn truyền tụng về khả
năng “lành nhiếp cọp dữ” của Lan, từ đó giả thiết Lan đã có những giao
tiếp như thế nào đó với cọp. Chi Tuần (314-366) đã vẽ tượng Lan để thờ,
viết bài tán ca ngợi cuộc đời Lan thế này:
“Họ Vu vượt đời
Nắm cả huyền chỉ
Ưa lánh rừng đồi
Lành nhiếp cọp dữ.”
Việc Lan phủi tuyết cho cọp do thế đang còn phổ biến nhiều trong nhân gian.
Chứng
cớ thứ sáu là chuyện Trúc Pháp Hộ làm cho suối khô trở thành có nước.
Theo Cao tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 326c2-327a12 và Xuất tam tạng ký tập
13 ĐTK 2146 tờ 97c19-98b2 thì câu chuyện này được mô tả như sau:
“Đến
cuối đời Tấn Vũ đế, Hộ vào ở ẩn rừng sâu, rừng có một suối nước trong,
mà ông thường đến tắm giặt. Sau có một người hái củi tới phóng uế bên
bờ, nó bỗng nhiên khô cạn đi. Hộ bèn ngồi than: 'Người chi mà thất đức,
đến nỗi khiến cho giòng nước hết chảy, nước nếu khô mãi, thì mình thực
không tự cung cấp được, chính là lúc nên dời đi'. Than xong thì suối
bỗng trở thành một dòng nước chảy mạnh. Ấy chính là lòng thành của Hộ đã
làm cho có sự cảm như vậy”. Cho nên, khi Chi Tuần làm tượng ông, đã ca
ngợi rằng:
“Hộ công trong vắng
Đạo đức đẹp sâu
Hang cùng nhẹ vãn
Tuôn nước suối khô
Cao thay ông Hộ
Tư chất tuyệt cao
Chân ruổi cát dồn
Học lấy huyền đạo.”
Hộ,
tuy có chữ Trúc như họ của ông, thực sự là người sinh ở Đôn Hoàng, và
cha mẹ gốc người Nguyệt Chi. Như đã nói ở trên, ông mất lúc 78 tuổi
khoảng năm 308 và đã quen thân với Vu Đạo Thúy. Thúy cũng là người Đôn
Hoàng giống Hộ. Vì vậy, mặc dù Hộ không bao giờ xuống miền Nam Trung
Quốc và nước ta, tiếng tăm và sự nghiệp dịch thuật vĩ đại của ông chắc
chắn đã được người nước ta biết một cách khá tường tận qua những trung
gian đắc lực như Đạo Thúy.
Hơn
thế nữa, như Huệ Hạo đã ghi ở trên, thì Biệt truyện về Vu Pháp Lan cũng
đã kể câu chuyện “cảm cô tuyền nhi hồng lưu” của Lan, dẫu có lẽ không
chính đáng cho mấy, bởi vì không những lời ngợi ca Lan của Chi Tuần chỉ
nói đến chuyện phủi tuyết cho cọp mà không nói gì tới chuyện “cảm cô
tuyền”, trong khi lời tán Hộ lại nói đến sự cảm ấy, mà còn vì Pháp Minh
đã xác định một cách rõ ràng là, “Hộ công cảm cô tuyền nhi hồng lưu”.
Như vậy theo tài liệu xưa nhất của Chi Tuần và Pháp Minh thì chuyện “cảm
suối khô” phải là của Hộ, và nó được người nước ta biết đến chắc chắn
phải qua trung gian Vu Đạo Thúy, mà họ đã đặt nhiều tin tưởng, khi Thúy
đến nước ta.
Chứng
cớ thứ bảy là chuyện nằm mộng thấy một nhà sư của Tống Vũ đế và Vũ đế
hỏi Huệ Nghiêm. Chuyện này ghi lại trong bản tiểu sử của Huệ Nghiêm ở
Cao tăng truyện 7 ĐTK 2059 tờ 367b18-368b7. Huệ Nghiêm mất vào năm
Nguyên Gia thứ 20, tức năm 443, lúc ông 81 tuổi. Niên đại của ông do thế
rơi vào khoảng 362-443. Năm 420, Lưu Dụ lật đổ vị vua cuối cùng của nhà
Đông Tấn và lên ngôi lấy hiệu là Tống Vũ đế. Dù có sự huyền khải của
nhà sư về việc bố thí một bát cơm cho Phật Di Vệ nên mới có được ngôi
thiên tử, Tống Vũ đế trị vì không quá hai năm. Đến năm 423 thì Vinh
Dương vương lên thay để rồi năm sau bị Tống Văn đế lật đổ.
Chứng
cớ cuối cùng này, về phương diện lịch sử Phật giáo Việt Nam, không có
gì đáng lôi cuốn sự chú ý của chúng ta hết. Tuy nhiên, trên khía cạnh
xác định niên đại có thể của những bức thư cùng các tác giả của chúng ở
đây, nó tỏ ra có một giá trị vô cùng quí báu bởi vì ít nhất là tính thời
sự của nó cho biết những lá thư ấy phải được viết sau khoảng Lưu Dụ lên
ngôi, nghĩa là sau năm 420, nếu không là sau khi Huệ Nghiêm chết vào
năm 433. Niên đại sớm nhất của chúng do đó phải là khoảng những năm
420-443. Về niên đại muộn nhất, chúng tôi sẽ có dịp bàn tới dưới đây,
khi nói về hai lai lịch của những bức thư cũng như niên đại có thể của
những tác giả chúng.
Trên
đây là bảy chứng cớ do Pháp Minh dẫn trong lá thư trả lời Lý Miễu.
Chúng tôi đã dài dòng truy nhận căn cứ và bàn cãi giá trị của từng chứng
cớ một với mục đích trước hết là trả lời câu hỏi, phải chăng đoạn văn,
mà chúng tôi gọi là Hậu bút, là một thêm thắt của những người sau, đặc
biệt là của người Trung Quốc, và tiếp đến nhằm cho thấy, những chứng cớ
ấy thuộc về một truyền thống lịch sử và văn hóa khác với những chứng cớ
của Hậu bút.
Về
mục đích đầu, câu trả lời là một khẳng định. Hậu bút là một thêm thắt
của những người sau, cụ thể là Tăng Hựu. Nói là khẳng định, bởi vì, như
đã vạch ra, những chứng cớ của Tôn Bính là nhằm chứng minh Phật giáo đã
được người Trung Quốc biết từ thời Tam đại, tức thời những nhà Hạ,
Thương và Chu, với quyển Sơn hải kinh của Bá Ích, người con thứ hai của
vua Thuấn. Những chứng cớ về Phật Đồ Trừng và ông chú của Diêu Hưng do
Bính dẫn ra là để chứng minh rằng, thậm chí những người này sống vào
thời Tấn, cách Can Bảo và Tôn Thạnh không bao nhiêu năm, mà cũng không
bao giờ được họ nói tới trong những cuốn sách họ viết như Tấn kỷ của Can
Bảo hay Ngụy thế xuân thu của Tôn Thạnh. Do thế, tuy Bá Ích đã biết đến
nước “Thân độc ở đó đạo Phù đồ đang nổi lên”, nhưng Phật giáo đã không
được nói tới qua những đời nhà Hạ, Thương và Chu, ấy là lỗi “nhỏ nhen
thiếu sót của các học giả” sử gia, chứ đâu phải “Phật giáo chỉ bắt đầu
với Hán Minh đế”.
Chứng
minh như thế, những bằng cớ của Tôn Bính đi ngược lại ngay cả một chứng
cớ của Pháp Minh ấy là chuyện Phật giáo đến Trung Quốc với giấc mộng
Người Vàng của Hán Minh đế. Từ đó tạo nên một mâu thuẫn nội tại trong
chính ngay bức thư, một điều không thể xảy ra được, nếu căn cứ vào tính
sáng sủa mạch lạc của sự hành văn cũng như cách lý luận diễn đạt chặt
chẽ của Pháp Minh. Thế thì, trên phương diện chủ đích cũng như trên
phương diện lý luận, chúng ta phải loại đoạn Hậu bút ra và coi nó không
gì hơn là một thêm thắt của những người sau.
Những
người sau này là ai? Chúng tôi nghĩ, họ là người Trung Quốc, nếu không
phải là Tăng Hựu, tại vì, nếu ta so sánh những bằng cớ của đoạn Hậu bút
với bảy chứng cớ của Pháp Minh, thì điểm nổi bật nhất sau đây đã lộ ra.
Đấy là, trong số bảy chứng cớ ấy, trừ chứng cớ cuối cùng có tính chất
thời sự về Tống Vũ đế, sáu chứng cớ kia, dưới một dạng hình này hay một
dạng hình khác, đều liên lạc với lịch sử và Phật giáo nước ta. Từ thuyết
“mộng kim nhân” của Mâu Tử cho đến chuyện “cảm cô tuyền” của Trúc Pháp
Hộ qua Chu Trương, Quách Văn Cử, Vu Pháp Lan, Vu Đạo Thúy và Khương Tăng
Hội, mỗi một chúng đã có những dấu tích đặc biệt liên hệ với người Phật
tử Việt Nam. Trái với đặc tính này, những bằng cớ của Tôn Bính như Phật
Đồ Trừng và người chú của Diêu Hưng hầu như không có một liên lạc nào
hết. Do thế, khi người Trung Quốc đọc thấy những lá thư trao đổi trên
chắc phải thấy điểm nổi bật vừa nói và phải ngạc nhiên là chúng không
nói gì hết đến những thần dị ngoài những thần dị liên lạc với Giao Châu.
Lúc đã nhận thấy điều đó, họ chắc không ngần ngại cho trích một số văn
cú từ Minh Phật luận của Tôn Bính và làm thành đoạn Hậu bút nói trước.
Chúng tôi vì vậy đề nghị loại bỏ đoạn Hậu bút và chỉ giữ lại sáu lá thư
mà thôi.
Dĩ
nhiên, kết luận này không có gì mới mẻ cho lắm, bởi vì trước đây Nghiêm
Khả Quân khi cho trích Sáu lá thư trong Toàn Tống văn đã loại bỏ phần
mà chúng tôi gọi là Hậu bút trên. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cho dịch và
bàn cãi, vì đoạn “Hậu bút” ấy, một mặt chứng thực nguồn gốc Việt Nam của
Sáu lá thư. Mặt khác, vì “Hậu bút” là một trích dẫn từ Minh Phật luận
do Tôn Bính viết để trả lời lại Quân thiện luận, nó giúp ta kết nối sự
ra đời của Sáu lá thư với những vấn đề do Quân thiện luận đề ra. Do thế,
dù loại bỏ, chúng tôi vẫn cho dịch kèm theo với Sáu lá thư.
Về
mục đích thứ hai, qua những phân tích sáu chứng cớ của Pháp Minh ta
thấy chúng vẽ nên không ít một bức tranh khá linh động về lịch sử Phật
giáo Việt Nam trước thế kỷ thứ năm. Chúng ta có Mâu Tử vào thế kỷ thứ
II, Khương Tăng Hội thế kỷ thứ III và Vu Pháp Lan, Vu Đạo Thúy, Quách
Văn Cử, Chu Trương và Cát Hồng của thế kỷ thứ IV. Bức tranh ấy càng linh
động hơn khi chúng ta phân tích hết toàn bộ Sáu lá thư với những dẫn
chứng và điển cố của chúng.
Ngay
lúc này, ta chỉ cần nhận xét là, nếu đem những chứng cớ của Pháp Minh
so sánh với những chứng cớ của Tôn Bính trong Minh Phật luận cũng như
của Tôn Xước trong Dụ hiền luận, thì chúng ta phải giả thiết sự hiện
diện của những truyền thống văn hóa và lịch sử khác nhau giữa Pháp Minh
và hai người ấy. Chính vì sự khác nhau đó, mà khi những lá thư được
chuyển lên Trung Quốc, có lẽ qua những trung gian như Huệ Thắng và Đạo
Thiền vào cuối thế kỷ thứ V, những người Trung Quốc đã phải thêm vào
đoạn Hậu bút, để tô điểm một sắc màu Trung Quốc cho cái bối cảnh Việt
Nam của chúng.
Sự
khác biệt truyền thống này không chỉ giới hạn vào lãnh vực tôn giáo. Nó
còn lan ra nhiều lãnh vực khác, mà quan trọng nhất là lãnh vực chính
trị và độc lập chính trị. Chẳng hạn, trong đoạn kết luận của lá thư thứ
tư, Đạo Cao đã không ngần ngại bảo người đệ tử Lý Miễu của mình là “đang
ở vào địa vị thiên tử” (cư đại bảo chi địa). Dĩ nhiên, người ta có thể
hỏi, nếu Lý Miễu “cư đại bảo chi địa” thì sao Đạo Cao lại cứ xưng Miễu
bằng “sứ quân”, chứ không bằng những mỹ hiệu như “bệ hạ” v.v...? Chữ “sứ
quân” dùng để gọi những người ở vào địa vị thứ sử hay chư hầu, kiểu hai
câu nói sau đây do Tiêu Tử Hiến ghi lại trong Nam Tề thư 58 tờ
16a-9-b2, khi thứ sử Giao Châu Phòng Pháp Thừa xin sách xem từ trường sứ
Phục Đăng Chi: “Sứ quân ký bị tật, bất nghi lao” và “sứ quân tỉnh xứ,
do khủng động tật, khỉ khả khán thư?” mà Đại việt sử lược 1 tờ 8b3 đổi
thành “sứ quân an cư, do khủng động tật, khỉ khả khán thư”.
Vấn
đề “sứ quân” và “cư đại bảo chi địa” này, chúng tôi sẽ có dịp bàn rõ
hơn dưới đây. Và không chỉ vấn đề “cư đại bảo chi địa” của lá thư thứ
tư, mà trong lá thư thứ hai, Đạo Cao đã nói tới sứ quân Lý Miễu với
những từ “thánh tư uyên viễn động giám tam thế”. Rõ ràng, từ thánh tư
dứt khoát không thể dùng để mô tả cho một vị sứ quân được. Thánh tư là
suy nghĩ của bậc thánh, và từ này thường được dùng để chỉ cho các vị
hoàng đế giống như khi gọi cái học của hoàng đế là thánh học. Việc dùng
thánh tư và cư đại bảo như thế bộc lộ cho ta thấy những lá thư Đạo Cao
viết là để dâng lên cho một vị hoàng đế Việt Nam tên Lý Miễu, chứ không
phải viết cho một vị sứ quân. Ai cũng biết khi sao tập những tác phẩm
của người xưa vào Hoằng minh tập, Tăng Hựu đã không thực hiện việc sao
tập này một cách trung thành, mà đã có thêm bớt, lược bỏ và thậm chí cải
biên. Chúng ta đã có trường hợp Lý hoặc luận của Mâu Tử đã bị Tăng Hựu
sao lược như thế nào[26].
Ở
đây ta chỉ cần vạch sơ ra như thế, để cho thấy rằng sự khác biệt truyền
thống giữa những lá thư và các tác giả Trung Quốc là một sự thực và là
một điểm nổi bật cần chú ý. Nó sẽ hướng dẫn ta khá nhiều trong việc
nghiên cứu những lá thư ấy.