VỀ TÁC GIẢ VÀ NIÊN ĐẠI CỦA SÁU LÁ THƯ
Như
đã nói ngay từ đầu, tung tích của những người mang tên Đạo Cao, Pháp
Minh và Lý Miễu ngày nay chúng ta không biết một tí gì hết. Kiểm soát
toàn bộ những tư liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc cũng
như tư liệu lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, chúng ta không tìm
thấy một thông tin nào về những người có các tên ấy. Kiểm soát Tấn thư,
Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Ngụy thư, Bắc sử và Tư trị thông giám
cũng như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, và
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chúng ta đã không gặp một “sứ
quân” nào với cái tên Lý Miễu. Kiểm soát Cao tăng truyện và Tục Cao tăng
truyện cũng như Thiền uyển tập anh, chúng ta cũng không tìm thấy một
pháp sư nào có tên Đạo Cao hay Pháp Minh.
VỀ ĐẠO CAO
Trong
Toàn Tấn văn 157 tờ 15a12-12, Nghiêm Khả Quân có liệt ra tên một Thích
Đạo Cao. Nhưng kiểm tra bản mục lục của Toàn Tấn văn 157 tờ 17a5 cũng
như xuất xứ của tên ấy, tức Cao tăng truyện 5 tờ 355b15-17, thì chúng ta
có Thích Đạo Tung chứ không phải Thích Đạo Cao. Cố nhiên, chữ ·C mà
cách phát âm tiêu chuẩn luôn luôn là tung đôi khi có thể đọc thành cao,
như trường hợp chữ cao trong cái tên Trần Cao của lịch sử nước ta chẳng
hạn. Như thế, chữ cao ·C ở quyển 157 tờ 15a12, dựa vào kiểm tra vừa
thấy, chắc chắn là một khắc lầm.
Ngoài
ra, Toàn Tống văn 63 tờ 11a3-13a1 có một đoạn nói về tung tích Thích
Đạo Cao, tác giả những lá thư của chúng ta. Nghiêm Khả Quân đã chú thích
là “Đạo Cao Giao Châu pháp sư”, trong khi Thích Đạo Tung mà người khắc
bản Toàn Tấn văn đã đổi thành Thích Đạo Cao, được Quân cũng như Cao tăng
truyện bảo là “ở chùa Ngõa Quan”. Điều này chứng tỏ, theo Quân, Thích
Đạo Tung của Toàn Tấn văn không thể là Thích Đạo Cao của Toàn Tống văn.
Cần
thêm rằng Cao tăng truyện 12 tờ 408b5-12 có ghi lại tiểu sử của một vị
sư tên Thích Đạo Tung khác. Vị sư này chắc chắn không thể là Thích Đạo
Tung, mà Toàn Tấn văn đã dẫn ra, cũng như Cao tăng truyện 5 tờ 355b
15-17 nói tới. Bởi vì Đạo Tung sau là người đồng thời với Thích Đạo An
(314-386) và Trúc Pháp Thải (320-388) và sống tại chùa Ngõa Quan, trong
khi Đạo Tung trước đã đến Kinh sư vào năm 473-476 và mất năm ông 49 tuổi
tại chùa Định Lâm núi Chung. Cái tên Đạo Cao của chúng ta do thế không
thể tìm thấy trong các sách sử hiện còn của Trung Quốc hay nước ta.
Việc
bản in Quảng Nhã thư cục của Toàn Tấn văn có tên Thích Đạo Cao, từ đó,
không thay đổi tình trạng sử liệu về vấn đề Đạo Cao. Chúng ta phải tìm
cách mở rộng giới hạn truy tầm tư liệu mới hy vọng giải quyết một phần
nào những bí ẩn vây quanh Sáu bức thư ấy.
Trong
khi điều tra những tư liệu Nhật Bản viết giữa những thế kỷ thứ VIII và
thứ X cho việc nghiên cứu Định pháp sư và Duy Giám pháp sư, chúng tôi
đọc kỹ lại Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục[33] do chính ngũ vị hành
Lục việt thủ kiêm Thượng dã quyền giới Đằng Nguyên Tá Thế soạn và đã tìm
thấy những dữ kiện rất lôi cuốn sau về một người mang tên Đạo Cao pháp
sư hay Thích Đạo Cao. Trước hết, dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học
gia, liệt ra ở tờ 34b4-5 một bộ sách nhan đề “Tá âm, một quyển, Thích
Đạo Cao soạn”- Tá âm nhất quyển, Thích Đạo Cao soạn - Rồi dưới mục Biệt
tập ở tờ 48a14 lại ghi: “Đạo Cao pháp sư tập, một quyển”- Đạo Cao pháp
sư tập, nhất quyển - Như vậy, theo Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục,
một tăng sĩ được biết dưới tên Thích Đạo Cao hay Đạo Cao pháp sư đã là
tác giả hai tác phẩm nhan đề Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập. Câu hỏi bây
giờ đương nhiên là Thích Đạo Cao đây có phải là pháp sư Đạo Cao của Sáu
lá thư chúng ta không?
Trả
lời câu hỏi này, chúng ta biết, Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục đã
được Vũ Điền thiên hoàng sắc cho Đằng Nguyên Tá Thế viết năm 889-890,
nhằm ghi lại hết những bộ sách Trung Quốc còn sót trong thư viện hoàng
gia sau vụ cháy năm 887[34]. Kể từ ngày Địch Cốc Dịch Trai lần đầu tiên
chú giải nó cho tới những nghiên cứu gần đây nhất của Tiểu Trường Cốc
Huệ Cát và Trỉ Đảo Huyền Lượng[35] thì giữa 1586 bộ 17.106 quyển sách
của nó quả thực nó là một bản thư tịch những tác phẩm do người Nhật mang
từ Trung Quốc về Nhật Bản. Chỉ trừ bảy bộ sách sau, mà Tiểu Trường Cốc
và Trỉ Đảo đã chứng minh là do người Nhật sáng tác và Đằng Nguyên ghi
lầm vào, đấy là: 1. Hoàng đế phạm 3 quyển, 2. Nhiếp dưỡng yếu quyết 22
quyển, 3. Tần tu nhạn kinh 3 quyển, 4. Luật phụ thích 10 quyển, 5. Đại
luật 6 quyển, 6. Tân luật 10 quyển và Tân lịnh 10 quyển và 7. Biên sắc
lập thành 1 quyển. Hai tác phẩm Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập do đó chắc
chắn không phải do người Nhật soạn thảo và phải được họ mang về Nhật Bản
từ Trung Quốc, sau khi đã in, thỉnh, sao hay mua được chúng tại Trung
Quốc. Thật vậy, một kiểm soát toàn thể tài liệu Phật giáo Nhật Bản,
không một tăng sĩ Nhật Bản nào đã có tên Đạo Cao[36]. Nếu vậy, thì Tá âm
và Đạo Cao pháp sư tập được mang về Nhật Bản lúc nào?
Một
kiểm soát toàn bộ những thư tịch Nhật Bản viết trước và sau Nhật Bản
quốc kiến tại thư mục lục không lâu đã không cho biết một tí gì cả, và
chúng gồm những bản sau:
Tên sách Tác giả Năm viết
1. Tối Trừng mục lục
a. Truyền giáo đại sư Tối Trừng 805
tương lai Thai châu lục (767-822)
ĐTK 2159
b. Truyền giáo đại sư
tương lai Việt châu lục
ĐTK 2160
2. Ngự thỉnh lai mục lục Không Hải 806
ĐTK 2161 (774-835)
3. a. Huệ Vận thiền sư Huệ Vận 847
tương lai giáo pháp mục lục (789-869)
ĐTK 2168a
b. Huệ Vận luật sư
thứ mục lục ĐTK 2168b
4. Nhật Bản quốc thừa hòa Viên Nhân 838
ngũ niên nhập Đường cầu (794-864)
pháp mục lục ĐTK 2165
5. Nhập Đường tân cầu kinh Viên Nhân 847
giáo mục lục ĐTK 2167
6. Từ Giác đại sư tại Đường Viên Nhân
Tống Tấn lục ĐTK 2166
7. Linh Nham tự Hòa thượng Viên Hành
thỉnh lai pháp môn đạo cụ (799-852)
đăng mục lục ĐTK 2164
8. Thường Hiểu Hòa thượng Thường Hiểu
thỉnh lai mục lục ĐTK 2173 (?-865)
9. a. Tân thơ tả thỉnh lai Tôn Duệ
pháp môn đẳng mục lục (809-884)
ĐTK 2174a
b. Thiền Lâm tự Tôn Duệ
tăng chính mục lục ĐTK 2174b
10. Trí Chứng đại sư thỉnh Viên Trân
lai mục lục ĐTK 2173[37] (814-891)
11. Phúc châu Ôn châu Viên Trân 891
Thai châu cầu đắc kinh luật
luận sớ ký ngoại thư đẳng
mục lục ĐTK 2170
12. Nhật Bản Tỷ kheo Viên Trân
Viên Trân nhập Đường
cầu pháp mục lục ĐTK 2172
13. Thanh Long tự cầu pháp Viên Trân
mục lục ĐTK 2171
14. Khai Nguyên tự cầu đắc Viên Trân
kinh sở ký đẳng mục lục
ĐTK 2169
15. Căn Bản đại Hòa thượng
chân tích sách tử đẳng mục lục
ĐTK 2162
16. Thông Hiển nhập đạo
tạng thư mục lục[38]
Trong
số 16 bản mục lục vừa liệt, chỉ trừ bản của Hòa thượng Căn Bản và một
số bản của Viên Trân, còn lại chúng đều được viết và xuất hiện trước
thời của Đằng Nguyên Tá Thế và Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục, như
người đọc có thể thấy và ghi lại những sách vở Trung Quốc do người Nhật
mang về Nhật Bản. Dẫu vậy, chúng đã không ghi một tác phẩm nào mang tên
Tá âm hay Đạo Cao pháp sư tập, cũng như không một tác giả nào mang tên
Thích Đạo Cao hay Đạo Cao pháp sư. Do thế, câu hỏi nêu trên, ta không
thể nào trả lời được. Nói cách khác, ta không biết Tá âm và Đạo Cao pháp
sư tập đã tới Nhật Bản hồi nào. Điều chắc chắn là, chúng phải tới trước
năm 889, để cho Đằng Nguyên ghi vào trong bản thư mục của ông.
Về
khía cạnh Trung Quốc, như đã nói, không một tư liệu Phật giáo cũng như
không Phật giáo, dĩ nhiên trừ bộ Hoằng minh tập và những tài liệu lấy từ
nó ra như Toàn thượng cổ Tam đại Tần Hán Tam quốc lục triều văn của
Nghiêm Khả Quân, đã đề cập hay kể ra cái tên Thích Đạo Cao. Chúng tôi đã
kiểm soát lại bảng tên những Cao tăng trong Danh tăng truyện do Bảo
Xướng viết năm 515, mà bản mục lục mệnh danh Danh tăng truyện mục lục đã
được Tôn Tánh sao y nguyên lại vào năm 1235 trong Danh tăng truyện sao
TcT 134 tờ 5a1-6a2 của ông[39], nhưng đã thất vọng như trong những lần
kiểm soát Cao tăng truyện của Huệ Hạo (?-549) và những kinh lục khác.
Chúng tôi cũng đã kiểm soát lại những bản thư tịch liệt kê những tư liệu
tìm được tại Đôn Hoàng hiện tàng trữ ở các nước Anh, Pháp, Liên Xô,
Trung Quốc và Nhật Bản[40], và đã không tìm thấy một tư liệu nào mang
tên Đạo Cao cả. Dẫu việc điều tra tỉ mỉ ấy đã đưa tới cho ta những thất
vọng vừa thấy, hai tác phẩm Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập, tuy sẽ không
được xác định với một mức độ chính xác nào, cũng gợi lên nhiều bàn cãi
đáng chú ý.
Trước
hết, về Tá âm, Đằng Nguyên liệt nó vào loại Tiểu học gia. Nó như vậy,
căn cứ định nghĩa của Tùy thư kinh tịch chí 32 tờ 18b1-20b4, tất phải là
một tác phẩm về ngôn ngữ. Trong bản chú giải đầu tiên về Nhật Bản quốc
kiến tại thư mục lục nhan đề Nhật Bản kiến tại thư mục chứng chú cảo,
Địch Cốc Dịch Trai, dưới mục “Tá âm nhất quyển, Thích Đạo Cao soạn”, đã
ghi thêm: “Tùy chí Tá âm tự nhất quyển, bất trước tánh danh”- Kinh tịch
chí của Tùy thư có ghi Tá âm tự một quyển, nhưng không ghi họ tên người
viết[41]. Sau Địch Cốc, những nhà chú giải nghiên cứu khác của Nhật Bản
như Tiểu Trường Cốc và Trỉ Đảo cũng không thêm được một chú thích gì mới
lạ. Tiểu Trường Cốc thực sự đã không có một chú thích nào hết dưới mục
Tá âm của Thích Đạo Cao, còn Trỉ Đảo thì đem ngay cả cái ghi chú vừa dẫn
trên của Địch Cốc, để chú thích mục Tá âm ba quyển và hoàn toàn để
trống mục Tá âm một quyển của Thích Đạo Cao[42]. Về mặt những người chú
thích Trung Quốc, thì như ghi chú trên của Địch Cốc cho thấy, Kinh tịch
chí của Tùy thư 32 tờ 19a4 là quyển sách đầu tiên ghi lại một tác phẩm
nhan đề Tá âm tự nhất quyển, nhưng không cho biết tên họ người soạn.
Những bản thư tịch tiếp theo Tùy thư như Cựu Đường thư và Tân Đường thư
không còn nói đến tác phẩm ấy nữa[43] v.v... Nó cũng không được những
cuốn tự điển bách khoa kiểu Bắc Đường thư sao của Ngô Thế Nam (558-638),
Nghệ văn loại tụ của Âu Dương Tuân (557-641), Sơ học ký của Từ Kiên
(659-729), Thái bình ngự lãm của Lý Phưởng (925-996) v.v.. đề cập
tới[44]. Rồi, những cuốn tự điển nổi danh như Ngọc Thiên của Cố Dã Vương
(519-581), Nhất thiết kinh âm nghĩa do Huyền Ứng viết năm 664 v.v.. lại
không dẫn ra một tác phẩm nào mang tên Tá âm hay Tá âm tự hết[45]. Cho
nên, với một bộ sách gần tới 50 quyển chuyên khảo về những loại sách
được các bản thư tịch liệt vào loại Tiểu học gia mang tên Tiểu học khảo,
Tạ Khải Côn (1737-1802) chỉ biết viết ở quyển 29 tờ 8a5-7 về cuốn Tá âm
tự như sau: “Vô danh thị Tá âm tự, Tùy chí, nhất quyển, dật”- Không tên
họ Tá âm tự, Kinh tịch chí của Tùy thư ghi 1 quyển, (nay) đã mất[46].
Mãi đến Diêu Chấn Tôn (1842-1906), nó mới được bàn cãi rộng ra một chút.
Trong Tùy thư kinh tịch chí khảo chứng 2 tờ 5216b27-c4, lợi dụng được
những tư liệu Nhật Bản, đặc biệt là cuốn Nhật Bản quốc kiến tại thư mục
lục, Tôn đã viết như sau về Tá âm tự: “Tá âm tự, 1 quyển, không ghi tên
người soạn. Tiểu học khảo nói: không tên họ Tá âm tự, Tùy chí ghi 1
quyển, mất. Nay xét Nhật Bản thư mục nói Tá âm ba quyển, không ghi người
soạn; lại nói Tá âm một quyển, Thích Đạo Cao soạn. Một quyển (Tá âm tự)
đây hoặc tức cũng là sách của Đạo Cao. Nhưng Đạo Cao lại không biết
người thời nào”- Tá âm tự nhất quyển, bất trước soạn nhân. Tiểu học khảo
viết: Vô danh thị Tá âm tự, Tùy chí nhất quyển, dật. Án Nhật Bản thư
mục, Tá âm tam quyển, bất trước soạn nhân, hựu viết: Tá âm nhất quyển,
Thích Đạo Cao soạn. Thử nhất quyển hoặc tức Đạo Cao chi thơ; Đạo Cao
diệc bất tri hà thời nhân dã[47].
Căn
cứ chú thích này, Tôn như vậy muốn coi Tá âm tự do Tùy thư liệt ra là
một tác phẩm khác của Thích Đạo Cao do Nhật Bản quốc kiến tại thư mục
lục nói tới, dẫu ông thú nhận “Không biết Đạo Cao là người thời nào”.
Chúng ta ngày nay nhờ khám phá ra được Sáu lá thư, đã biết không những
một cách chắc chắn là, “Đạo Cao người thời đại nào”, mà còn biết thêm
một phần nào cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp của ông. Tuy nhiên, vì đang
thiếu những tư liệu cần thiết về Tá âm cũng như Tá âm tự, chúng ta
không thể biết gì hơn về những liên hệ có thể giữa chúng cũng như giữa
Tá âm tự và Thích Đạo Cao. Có lẽ chúng ta chỉ nên nói như Tôn: “Hoặc giả
Tá âm tự cũng là sách của Đạo Cao”. Mà thực vậy, nếu kiểm soát toàn bộ
những từ vựng Trung Quốc, ta tất không thể tìm thấy một danh từ nào mang
tên Tá âm hết. Một danh từ như thế không bao giờ được dùng[48]. Về tác
phẩm thì chỉ duy nhất Kinh tịch chí của Tùy Thư là có nói tới cuốn Tá Âm
tự như đã thấy. Danh từ Tá âm và tác phẩm mang tên Tá âm do thế có thể
nói hầu như không được dùng hay không được biết tới ở Trung Quốc.
Trong
khi đó, theo Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục tờ 34b4-5 thì trong số
sách do người Nhật Bản mang về từ Trung Quốc, tối thiểu có hai tác phẩm
nữa được mang tên Tá âm, ngoài cuốn Tá âm của Thích Đạo Cao, đó là Tá âm
ba quyển và Tân sao tá âm năm quyển. Điều này chứng tỏ ít nhất là,
trước năm 889 tại Trung Quốc đã có những cuốn sách nhan đề Tá âm hay Tân
sao tá âm, để cho người Nhật có thể mang về Nhật Bản và được ghi lại
trong Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục, chứ không phải là không có,
như sự im lặng về chúng trong các bản thư tịch Trung Quốc như đã điểm
chỉ. Và giả như nếu ta đồng ý với Trỉ Đảo, để ghi Tân sao tá âm năm
quyển là do “người Nhật tân sao”, thì nó càng tỏ ra rằng, thứ sách mệnh
danh Tá âm đâu chắc hẳn xuất hiện nhiều tại Trung Quốc, để cho người
Nhật mang về nước mình và sao thành những tới năm quyển. Dầu sao chăng
nữa, chúng ta hiện biết một cách chắc chắn là, ngoài cuốn Tá âm tự ra,
tại Trung Quốc trước năm 889 tối thiểu đã hiện diện những bộ sách Tá âm
sau, đó là Tá âm ba quyển, Tá âm một quyển và Tân sao tá âm năm quyển.
Thế thì, tại sao chúng lại không được kể đến trong Kinh tịch chí của Cựu
Đường thư, Nghệ văn chí của Tân Đường thư và các bản thư tịch khác của
Trung Quốc vào thời Đường và đầu thời Tống?
Dĩ
nhiên, không phải là các tác giả những bản thư tịch Trung Quốc không
biết đến chúng, bởi vì chúng đã hiện diện ở Trung Quốc trước năm 889
không phải chỉ một hai bộ mang tên Tá âm, mà tới những ba bộ hay nhiều
hơn nữa cùng tên với một vài thêm thắt, như Đằng Nguyên đã ghi lại. Và
cái tên Tá âm cũng không phải mới lạ gì, bởi vì nó đã xuất hiện trong
Tùy thư kinh tịch chí, như đã nói. Giả như có ai cãi rằng, Kinh tịch chí
của Cựu Đường thư và Nghệ văn chí của Tân Đường thư không liệt ra những
bộ sách Tá âm trên, với lý do là, những bộ sách ấy xuất hiện dù trước
năm 889, nhưng lại sau năm 742. Cho nên, vì xuất hiện sau năm ấy, chúng
tất không thể được ghi lại, do vì cả Cựu Đường thư lẫn Tân Đường thư đều
sao lại những bản thư tịch của mình từ những bản thư tịch viết dưới
thời Khai Nguyên, tức trong những năm 712-742. Kinh tịch chí của Cựu
Đường thư sao y lại bản Cổ kim thư lục của Vô Cảnh, còn Tân Đường thư
thì dựa vào Khai Nguyên thư mục để viết nên phần Nghệ văn chí.[49] Giả
như có ai lý luận như thế, thì họ chắc có thể dùng cùng một lý luận để
có kết luận rằng, trước năm 889 những bộ sách Tá âm trên chưa bao giờ
xuất hiện và được đem tới Nhật Bản, bởi vì những bản mục lục viết cho
tới lúc đó, đã không một bản nào ghi lại sự có mặt của chúng. Hơn nữa,
nó quả thật là một ngẫu nhiên kỳ lạ, nếu từ năm 742 đến năm 889 những ba
bộ sách Tá âm ra đời, trong khi đó từ năm 742 trở về trước cho tới tối
thiểu năm 622, lúc Đồ thư mục lục của Tùy Thương đế được quân đội của Lý
Uyên tịch thâu làm cơ sở cho việc viết nên Tùy thư kinh tịch chí sau
này và đã nói tới một cuốn sách Tá âm, lại không có một tác phẩm nào
liên quan đến Tá âm xuất hiện. Ngoài ra, nếu lý luận kiểu trên, người ta
phải giải thích ra sao sự vắng mặt của những bộ sách Tá âm trong các
bản thư tịch viết sau năm 890 tại Trung Quốc như Thái bình ngự lãm kinh
sử đồ thư cương mục do Lý Phưởng và những người khác thiết lập năm 977
hay Sùng văn tổng mục do Vương Nghiêu Thần (1001-1056) và đồng liêu viết
xong giữa những năm 1034-1038 v.v..[50] Không lẽ nào lại bảo chúng đã
tán thất, chỉ hơn tám chục hay một trăm bốn mươi năm sau khi chúng ra
đời và được sao đem về Nhật Bản?
Việc
chúng không được các bản thư tịch của Trung Quốc, ngoài Tùy thư kinh
tịch chí với cuốn Tá âm tự, nói tới, do thế phải đến từ một căn do khác.
Và căn do đó theo chỗ chúng tôi nghĩ, không gì hơn là những loại sách
Tá âm trên không phải nhằm đến ngôn ngữ Trung Quốc như chính nó, trái
lại, nhằm đến một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ Trung Quốc, nhưng có một
liên lạc nào đó với ngôn ngữ ấy, như việc dùng những ký hiệu ngôn ngữ
của nó chẳng hạn. Thực vậy, danh từ Tá âm chỉ xuất hiện một lần độc
nhất, trong các sách vở Trung Quốc, ấy là tại Tùy thư kinh tịch chí 32
tờ 19a4 trong liên hệ với bộ sách Tá âm tự như đã nói. Xét lý do, tại
sao nó xuất hiện ở các bản kinh tịch chí đó mà không xuất hiện ở các bản
kinh tịch chí khác, sẽ chứng thực một phần nào cái ý nghĩ vừa nêu của
chúng tôi.
Lấy
thí dụ Kinh tịch chí của Cựu Đường thư và Nghệ văn chí của Tân Đường
thư, cả hai bản thư tịch này, dưới mục Tiểu học của chúng đã không liệt
kê bất cứ một cuốn sách ngôn ngữ nào, mà không liên quan tới tiếng Trung
Quốc. Ngược lại, nếu đọc mục Tiểu học của Kinh tịch chí Tùy thư, ta
không những gặp nhan nhản những quyển sách về những ngôn ngữ khác với
tiếng Trung Quốc như tiếng Phạn, tiếng Tiên Ty v.v.. mà còn được cho
biết tại sao nó lại có những cuốn sách đó. Nó viết ở tờ 20a9-12: “Từ
thời Hậu Hán, Phật pháp lưu hành ở Trung Quốc, lại có được sách Hồ của
Tây Vức chỉ dùng mười bốn mẫu âm mà gồm hết tất cả mọi âm. Văn nó đã
gọn, mà nghĩa lại rộng, gọi là chữ Bà la môn. So với nghĩa của tám thể
sáu văn thì nó khác biệt. Nên nay xếp nó vào dưới mục Thể thế. Lại lúc
nhà Hậu Ngụy mới bình định Trung nguyên, việc quân hiệu lệnh đều dùng
tiếng mọi, sau nhiễm thói Tàu, đa số không thể hiểu được. Nên bèn chép
tiếng mình ra, dạy dỗ cho nhau, gọi là quốc ngữ, nay xếp nó vào cuối mục
Âm vận”.[51]
Đọc
lời giải thích ấy ta có thể thấy, vào những thế kỷ trước thời Tùy nhiều
tác phẩm về các ngôn ngữ khác ngôn ngữ Trung Quốc đã xuất hiện và Tùy
thư không chỉ bằng lòng ghi lại những cuốn sách thuần túy về tiếng Trung
Quốc, như sau này Cựu Đường thư và Tân Đường thư đã làm, mà còn ghi
thêm luôn cả những “sách Hồ của Tây vức” và những sách “dùng tiếng mọi”
của nhà Hậu Ngụy. Tá âm tự được Tùy thư liệt ra, do thế, chắc chắn phải
thuộc cùng một thứ với những loại “sách dùng tiếng mọi” và “chữ Bà la
môn” vừa nói. Nói cách khác, Tá âm tự không phải là một cuốn sách về
tiếng Trung Quốc, mà là về một ngôn ngữ dùng tiếng Trung Quốc như một
thứ Tá âm. Chỉ một kết luận như thế mới có thể giúp ta giải đáp câu hỏi,
tại sao Tá âm tự được Tùy thư chép ra và tại sao vào năm 889 Đằng
Nguyên còn ghi lại những hơn ba tác phẩm mang tên Tá âm lấy được từ
Trung Quốc về, trong khi đó Cựu Đường thư và Tân Đường thư hoàn toàn im
lặng.
Vậy,
nếu Tá âm tự là một tác phẩm về một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ Trung
Quốc, thì ngôn ngữ đó là gì? Như đã thấy, Nhật Bản quốc kiến tại thư mục
lục hiện ghi ba tác phẩm mang tên Tá âm, đấy là Tá âm ba quyển, Tá âm
một quyển, và Tân sao tá âm năm quyển, mà riêng về cuốn Tá âm một quyển
thì biết chắc chắc là Thích Đao Cao soạn. Bây giờ, ta đồng thời cũng
biết, trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản, Triều Tiên[52] cũng như Trung
Quốc không có một tăng sĩ nào mang tên Đạo Cao hết. Ngược lại, lịch sử
Phật giáo Việt Nam lại có một người có tên Đạo Cao sống giữa những năm
370-460 và đã viết hai lá thư trả lời cho những câu hỏi của người nạn
vấn Lý Miễu. Thế thì, với chừng ấy sự kiện, ta không có lý do gì mà
không đồng nhất vị pháp sư Đạo Cao của Sáu lá thư với Thích Đạo Cao soạn
giả của Tá âm một quyển trong Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục. Với
một đồng nhất như vậy, nó trở thành rõ ràng là, Tá âm một quyển chắc
phải là một cuốn sách về cách mượn âm Tàu để viết tiếng nước ta, còn Tá
âm tự là một cuốn sách về những chữ mượn âm Tàu để viết tiếng nước ta.
Nói thẳng ra, Tá âm là một cuốn ngữ học về tiếng quốc âm, và Tá âm tự là
một cuốn tự điển về thứ tiếng quốc âm đó. Cả hai đều do pháp sư Đạo Cao
soạn.
Vào
thời Đạo Cao, tiếng quốc âm tương đối đã có một lịch sử lâu dài và đã
có một tính phổ quát đáng muốn. Ngày nay, mỗi khi nói đến nguồn gốc và
lịch sử tiếng quốc âm, người ta không bao giờ đẩy nó qua thời Sĩ Nhiếp
(137-226). Và giả như có đẩy tới được thời Sĩ Nhiếp kiểu của Nguyễn Văn
San và Lê Dư, thì cũng bị cho là phỏng đoán vô bằng, không có chứng cớ
gì chính xác rõ ràng khách quan. Cho nên nhiều người chỉ coi tiếng quốc
âm như bắt đầu với danh hiệu “Bố Cái đại vương” của Phùng Hưng, hay gần
hơn, với bài thơ đuổi cá sấu của Hàn Thuyên. Họ đâu biết rằng, nguồn gốc
và lịch sử tiếng quốc âm có thể truy về một cách đích xác tới năm 17
tdl, khi Lưu Hướng soạn xong bộ Thuyết uyển, nếu không là sớm hơn tới
những thế kỷ thứ VI-V tdl, với bài thơ tiếng quốc âm nằm trong đó.[53]
Rồi đến thời Sĩ Nhiếp, ta biết Sĩ Nhiếp đã mượn tá âm chữ C của tiếng
Trung Quốc để ghi lại tên một món đồ giữa những cống vật Nhiếp gửi cho
Tôn Quyền những năm 210-226, mà sau này các nhà chú giải Trung Quốc đã
không ngần ngại đồng nhất với chữ “da” là “dừa”[54] với bộ mộc ¤ì bên
cạnh. Nhiếp như vậy có thể nói là người dùng tá âm đầu tiên được biết
một cách minh bạch không thể chối cãi trong lịch sử văn học quốc âm. Kết
luận này của chúng tôi không phải mới, khi ta nhớ rằng cách đây hơn 400
năm, Pháp Tính (1470-1550?) cũng đã ghi nhận như thế trong bài tựa viết
cho Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa và còn nói thêm Nhiếp viết Chỉ nam phẩm
vựng 2 quyển[55]. Cũng vào thời Nhiếp hay trước đó không lâu, một quật
liệu được tìm thấy tại Bắc Ninh đã có một dòng chữ gồm cả chữ Hán và
những chữ viết theo lối chữ Hán, nhưng người Tàu đọc không ra.[56] Từ
khi Sĩ Nhiếp mất cho tới khoảng lúc pháp sư Đạo Cao sắp mất, chúng tôi
hiện chưa tìm thấy những dấu tích chữ quốc âm điển hình nào. Nhưng với
sự ra đời Bản thảo tập chú của Đào Hoằng Cảnh (452-538), chúng ta lại có
những chữ tá âm mới của tiếng quốc âm.
Giữa
những năm 901-922, lúc đang còn giữ chức đại thần bác sĩ, Thân Căn Phụ
Nhân đã viết khoảng năm 918 một bộ sách thường được biết như Bản thảo
hòa danh hay Phụ Nhân bản thảo[57], trong đó ở quyển thượng tờ 381a9-12
dưới mục về Ý dĩ tử, Phụ Nhân đã viết: “Ý dĩ tử, một tên là giải lãi...
một tên là ốc thảm... một tên là cống. Nhân nói: âm là cống, một tên là
cống châu. Tên người Giao Chỉ gọi nó, căn cứ bản chú Đào Hoằng Cảnh, một
tên là yếu châu, một tên can châu cứ Khiêm danh uyển, một tên là cảm
châu căn cứ Thiên kim phương”. Nay xét Chính hòa kinh sử chứng loại bị
dụng bản thảo[58] 6 tờ 42a2-43a7 do Tào Hiếu Trung thực hiện năm 1116,
Trường Tồn Huệ trùng tu năm 1249, dưới mục Ý dĩ nhân, ta đọc: “Đào ẩn cư
nói rằng: Huyện Chân định thuộc quận Thường Sơn, đường gần quận, chỗ
chỗ đều có chúng, phần nhiều sinh tại vườn nhà người ta. Trái của thứ
cây Giao Chỉ là lớn nhất. Xứ đó gọi là Cán Châu, Mã Viện lấy nhiều đem
về, người ta nói dèm nó là chân châu. Hột nó nặng, để lâu ngày càng tốt,
dùng thì nhắm trúng người. Nay trẻ con có bệnh sán, lấy gốc nó nấu với
nước cơm, rồi ăn thì rất thơm, mà lại trừ được bệnh sán rất hiệu
nghiệm”.
Ý
dĩ tử hay ý dĩ nhân dĩ nhiên là một thứ cây, mà ngày nay ta thường gọi
là cây bo bo (?) Coix agrestis. Nếu theo lời dẫn trên của Phụ Nhân bản
thảo và Trùng tu Chính hòa kinh sử chứng loại bị dụng bản thảo, ta biết
vào thời Đào Hoằng Cảnh, tức nửa sau thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, nó
còn được người nước ta gọi là cán châu. Cán châu, chỉ cần nhìn mặt chữ,
chúng ta cũng có thể thấy đây là một phiên âm của chữ cơn châu - ở miền
Trung nước ta thay vì gọi cây mít, cây xoài, người ta gọi cơn mít, cơn
xoài. Và phiên âm cán châu đây rõ ràng là một tá âm, một mượn âm hai chữ
Trung Quốc để ghi lại một danh từ Việt Nam. Danh từ ấy, do đó phải đến
tay Đào Hoằng Cảnh qua trung gian những cuốn sách kiểu Tá âm hay Tá âm
tự. Mà thực vậy, chỉ khi nào một ngôn ngữ phải ở vào một cái thế tá âm
đối với một ngôn ngữ khác như ngôn ngữ nước ta với ngôn ngữ Trung Quốc,
bấy giờ những cuốn sách tá âm mới trở thành một cần thiết. Điều này một
lần nữa sẽ giải thích thêm cho rõ hơn cái sự tình, tại sao các bản thư
tịch Trung Quốc không chú trọng gì hết tới những cuốn sách tá âm, trong
khi đó Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục lại liệt ra đến những ba cuốn
khác nhau, như đã thấy. Cũng nên nhớ, vào thời Đằng Nguyên Tá Thế, phong
trào tá âm của Nhật Bản đối với Trung Quốc đang phát triển mạnh, mà
điển hình nhất không gì hơn là bộ Vạn diệp tập viết trước đó không lâu,
hay bộ Bản thảo hòa danh của Thân Căn Phụ Nhân dẫn trên.
Cuốn
Tá âm của Thích Đạo Cao do vậy có thể coi như một tác phẩm viết về cách
thế mượn âm, còn Tá âm tự là một cuốn tự điển những chữ có mượn âm. Nói
cách khác, Tá âm là một cuốn văn phạm, trong khi cuốn Tá âm tự là một
cuốn tự điển. Việc Diêu Chấn Tôn giả thiết Thích Đạo Cao cũng là tác giả
của Tá âm tự, do thế không phải là hoàn toàn bất khả chứng. Ngày nay
tại Nhật Bản cũng như các nơi khác không một di liệu mang tên Tá âm hay
Tá âm tự đã được tìm thấy. Song giữa những thủ bản Đôn Hoàng trong Sưu
tập Stein tàng trữ tại Bảo tàng viện Anh có một thủ bản mang ký hiệu S.
5731 nhan đề Thời yếu tự dạng, mà Giles đã mô tả như: “Một bản những
chữ, trong đó nhiều chữ khá lạ, được xếp ít nhiều theo vận hay âm của
chúng. Mỗi một chữ lại có một hay nhiều chữ đi theo sau nhằm giải thích
sơ ý nghĩa của nó; trong nhiều trường hợp, những giải thích đó lại có
những con số (thay đổi từ số 1 đến số 6, với một trường hợp số 8) với
những ý nghĩa mơ hồ đi theo sau. Nó bị rách nát rất nhiều, hầu hết phần
dưới của nó bị xé đi. Thủ bản tầm thường. Mặt trái: Có ngày (ngày 10
tháng 12 năm Càn Phù thứ sáu, tức ngày 25 tháng 1 năm 880) và một vài
ghi chú đoạn phiến khác. Giấy vàng xám, dài ba bộ”.[59] Căn cứ mô tả
này, Thời yếu tự dạng với “nhiều chữ khá lạ, được xếp ít nhiều theo vận
hay âm của chúng, mỗi một chữ lại có một hay nhiều chữ đi theo sau nhằm
giải thích sơ ý nghĩa của nó”, phải chăng là một tác phẩm chữ nôm hiện
còn? Phải chăng nó là một tên gọi khác của Tá âm hay tá âm tự của Thích
Đạo Cao? Chúng tôi hiện chưa có trong tay thủ bản Stein số S. 5731, nên
chưa thể trả lời được về những câu hỏi vừa nêu. Chúng tôi chỉ xin nêu
lên, để khơi sự chú ý của những người nghiên cứu khác.
Về
những cuốn Tá âm còn lại trong Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục, đấy
là Tá âm ba quyển và Tân sao tá âm năm quyển, chúng ta hiện chưa có
những bàn cãi rõ ràng gì về chúng cả. Trí Đảo trước đây đã muốn kết nối
Tá âm ba quyển với cuốn Tá âm tự của Tùy thư kinh tịch chí trong Nhật
Bản quốc kiến tại thư mục lục của ông, như đã thấy, nhưng ông đã không
có những ghi nhận gì đáng chú ý, nên ta cũng không cần phải dài dòng bàn
cãi. Dĩ nhiên, nếu Tá âm và Tá âm tự là những tác phẩm của Đạo Cao, thì
đương nhiên Tá âm tự ba quyển và Tân sao tá âm năm quyển tất phải có
một liên lạc nào đó với Đạo Cao, nếu không phải do chính Đạo Cao soạn,
bởi vì cho đến lúc này ta biết Đạo Cao cùng cuốn Tá âm một quyển là
người đầu tiên đã thực sự viết và nghĩ về Tá âm. Nói trắng ra, Tá âm ba
quyển và Tân sao tá âm năm quyển chắc chắn phải được soạn ra trong
truyền thống và tinh thần ngữ học Tá âm của Đạo Cao, nếu chúng đã không
phải do Cao soạn.
Tác
phẩm Tá âm của Thích Đạo Cao là như thế. Bây giờ về Đạo Cao pháp sư
tập, nó tất nhiên là một tác phẩm của pháp sư Thích Đạo Cao, như chính
tên gọi cho thấy. Và chúng ta hẳn phải đồng nhất pháp sư Đạo Cao này với
Thích Đạo Cao của Tá âm cũng như pháp sư Đạo Cao của Sáu lá thư. Đạo
Cao pháp sư tập được Đằng Nguyên xếp vào loại Biệt tập. Theo Kinh tịch
chí của Tùy thư quyển 35 tờ 111b6-9 thì “cái tên Biệt tập, ấy bởi do
thời Hán Đông kinh tạo ra. Từ Linh Quân trở xuống, người viết văn nhiều,
nhưng chí thượng họ không giống, phong độ họ khác biệt. Những quân tử
về sau, vì muốn xem cái thể thế để thấy tâm linh họ, nên riêng nhóm lại
văn họ, đặt tên là tập. Nhà văn rất ưa lối đấy, tự họ chép lấy để thành
bộ sách. Năm tháng đổi dời, chúng cũng đã tán thất đi nhiều, song loại
cao xướng tuyệt tục, nói tắt, thì đều đang đủ cả”.
Linh
Quân là một biệt hiệu của Khuất Nguyên (340-377 tdl). Biệt tập ra đời
là bởi từ thời Hậu Hán, nhiều nhà văn xuất hiện, nên muốn biết mỗi nhà
văn nghĩ và viết gì, người ta sưu tập lại hết những gì họ viết và đặt nó
vào loại biệt tập. Rồi sau đó, mỗi nhà văn chính tự mình tạo nên biệt
tập của mình. Đạo Cao pháp sư tập là một biệt tập, như đã thấy. Cho đến
lúc này, Biệt tập ấy hiện đang tán thất. Do thế, ta không thể bàn cãi
nói năng về nó được. Dẫu vậy, với hai lá thư Đạo Cao viết cho Lý Miễu,
chúng ta có thể cảm thấy một phần nào an ủi, để biết sơ cái “chí thượng”
cũng như “phong độ” của Cao, để thấy cái “tâm linh” của Cao qua việc
xem thể thế do những lá thư ấy phát biểu. Như cuốn Quan âm linh nghiệm
ký của Phó Lượng (374-426), mà từ lâu người ta nghĩ là đã hoàn toàn tán
thất nhưng đã được Tsukamoto tìm thấy và xuất bản[60], chúng ta hy vọng
một ngày kia Đạo Cao pháp sư tập cũng như Tá âm sẽ có cùng một số phận
may mắn. Cần nói thêm là, sau mọi tra cứu những bản thư tịch Trung Quốc,
Nhật Bản cũng như Triều Tiên và nước ta, không có một bản nào kê ra một
tác phẩm mang tên Đạo Cao pháp sư tập hết, dĩ nhiên trừ Nhật Bản quốc
kiến tại thư mục lục.
Pháp
sư Đạo Cao, như vậy ngoài hai lá thư viết cho người đệ tử là Lý Miễu,
còn là tác giả hai tác phẩm khác, mà ngày nay ta biết được tên, đó là Tá
âm và Đạo Cao pháp sư tập. Thế thì, Cao viết chúng vào lúc nào? Câu hỏi
này dĩ nhiên không phải là dễ giải quyết, nhất là khi những tác phẩm ấy
hiện đã tán thất chưa tìm thấy. Tuy nhiên, vì Tá âm là một tác phẩm
ngôn ngữ học, nó hẳn phải được viết lúc Cao đang còn trẻ, khoảng trên
dưới ba mươi tuổi. Nếu ta coi Tá âm tự cũng là một tác phẩm của Cao, như
Diêu Chấn Tôn đã giả thiết, thì nó chắc cũng được soạn vào khoảng đó.
Còn về Đạo Cao pháp sư tập với danh nghĩa một biệt tập tất phải nói lên
cái “chí thượng”, cái “phong độ” của người viết nó. Hơn nữa, là một biệt
tập, nó dĩ nhiên bao gồm phần lớn những gì do Đạo Cao viết nhằm cho
người xem “nhìn cái thể thế để thấy cái tâm linh của Cao”. Nó do đó có
thể coi như một quyển tập những tác phẩm của pháp sư Đạo Cao, nếu không
là một toàn tập. Với tư cách một tuyển tập hay một toàn tập, nó thường
thường phải xuất hiện vào cuối đời của tác giả. Đạo Cao pháp sư tập do
đấy tất phải ra đời vào khoảng những năm cuối cùng của cuộc đời Đạo Cao,
nghĩa là khoảng những năm 450-460, và có thể gồm cả hai lá thư viết cho
Lý Miễu.
VỀ PHÁP MINH
Về cái tên Pháp Minh, một kiểm soát Cao tăng truyện và Tục Cao tăng truyện đã cung cấp hai thông tin sau:
Cao
tăng truyện 12 tờ 408b13-24, sau khi đã kể xong tiểu sử của Thích Siêu
Biện, viết tiếp: “Thời hữu Linh Căn Thích Pháp Minh, Kỳ Hoàn Thích Tăng
Chí. Ích Châu Thích Pháp Định, tịnh tụng kinh thập dư vạn ngôn, hoang
khổ hữu chí đức”. Thế cũng có nghĩa, Pháp Minh, Tăng Chí v.v.. là những
người trẻ tuổi đồng thời của Siêu Biện. Biện mất lúc ông 73 tuổi vào năm
492. Đây là thông tin thứ nhất.
Thông
tin thứ hai nằm trong Tục Cao tăng truyện 1 ĐTK 2060 tờ 431a7-432a8 ở
bản tiểu sử của Thích Pháp Thái. Sau khi cho biết Thái mất vào năm 567
thọ 51 tuổi, nó nói: “Bấy giờ có sa môn Trí Phu chùa Bình Đẳng Tuần
Châu, tuổi nhỏ đến chùa Diên Tộ học Thành thật luận với hai thầy Đạo và
Duyên, rồi lạy tạ, mà đến Bắc thổ học Kim Cang, Bát nhã luận với sa môn
Pháp Minh, lại đến hai thầy Hy và Kiên nghe giảng luận Tì bà sa và Trung
luận v.v …”. Trí Phu theo đó thì mất vào năm 601, không biết thọ bao
nhiêu tuổi. Giả như ông ta sống tới 80 năm, thì năm sinh của ông phải là
521. Sa môn Pháp Minh mà ông đến học luận Kim Cang bát nhã, tất phải
sống vào khoảng 530-550. Như vậy, Minh có thể sinh vào khoảng năm 500,
nếu không là sớm hơn, khoảng năm 480-490.
Dù
với năm sinh nào đi nữa, ông đã ra đời quá muộn, để có thể viết lá thư
thứ sáu kể trên cho Tăng Hựu sưu tập vào Hoằng minh tập, mà ta biết Hựu
phải khởi thảo khoảng năm 494 trở đi, nếu không là sớm hơn, và để có thể
được Tăng Hựu coi như “tiền đại thắng sĩ”. Xin nhắc lại, Hựu sinh năm
445 và bắt đầu thảo Xuất tam tạng ký tập giữa những năm 494-498. Chúng
ta do thế không cần phải đi sâu vào việc bàn cãi về tung tích của vị sa
môn từ Bắc thổ tên Pháp Minh này.
Về
sa môn Pháp Minh trong bản tiểu sử của Siêu Biện nói trên, một khối
những mập mờ đang vây phủ ông. Trước hết, ta biết ông ở tại Linh Căn.
Linh Căn dĩ nhiên là tên một ngôi chùa nổi tiếng ở Dương Đô, Trung Quốc.
Thứ hai, ông nổi tiếng vì “đã tụng hơn mười vạn lời kinh”. Cuối cùng,
ông là một người đồng đại trẻ tuổi của Siêu Biện. Chúng tôi nói “đồng
đại trẻ tuổi”, bởi vì những người được Cao tăng truyện cũng như Tục Cao
tăng truyện giới thiệu bằng hai chữ “thời hữu” trong bản tiểu sử của một
người khác thì những người ấy thường sống sau kẻ được nói tới trong bản
tiểu sử. Trường hợp Pháp Thái và Trí Phu là một thí dụ điển hình của
Tục Cao tăng truyện. Trường hợp Vu Pháp Lan và Vu Pháp Đạo là một thí dụ
điển hình của Cao tăng truyện. Siêu Biện mất năm 493 và thọ 73 tuổi như
đã nói. Năm sinh của ông như thế rơi vào khoảng 420. Pháp Minh, Tăng
Chí v.v.. do vậy phải ra đời sau năm đó, có lẽ khoảng những năm 425-450.
Một
lần nữa, nếu chấp nhập năm 450 như năm sinh Pháp Minh đây, thì ông ta
khó có thể được coi như đồng nhất với Pháp Minh của lá thư thứ sáu, vì
Pháp Minh của lá thư ấy đã thú nhận là ông đã bạc đầu, khi viết nó, và
để bạc đầu, ông ít nhất cũng phải là trên dưới 60 tuổi, tức khoảng năm
510, một năm quá gần Tăng Hựu, để có thể cho phép Hựu gọi là “tiền đại
thắng sĩ”. Ngược lại, nếu chấp nhận năm 534, thì hai Pháp Minh ấy có thể
đồng nhất, nhưng ta lại gặp phải vấn đề gần gũi thời gian của Pháp Minh
và Siêu Biện, hai người chỉ cách xa nhau khoảng 5 năm, một điều thường
không thấy trong những trường hợp bắt đầu với chữ “thời hữu”.
Dù
bằng khả hữu nào đi nữa, sự đồng nhất ấy cũng không đem lại một kết quả
nào đáng chú ý, bởi vì ta sẽ không biết rõ ông sinh năm nào, đến từ
đâu, làm những gì và mất năm nào. Ngay cả việc ông ở chùa Linh Căn tại
Dương Đô cũng không nhất thiết làm ông phải là người Trung Quốc. Vì Huệ
Thắng chẳng hạn, tuy là người nước ta, đã được Tục Cao tăng truyện kê ra
như “Chung sơn Duyên hiền tự Thích Huệ Thắng”. Nó tương tự việc Cao
tăng truyện 11 tờ 399c19-400a4, khi đã mô tả xong tiểu sử của Thích Tăng
Phú và cho biết Phú mất năm 487 thọ 75 tuổi, nói tiếp theo, “thời hữu
Tăng Khiêm, Diêu Chí, Pháp Đạt, Huệ Thắng, tịnh nghiệp thiền, diệc các
hữu dị tích”, theo đấy Huệ Thắng chắc phải là Huệ Thắng của chùa Tiên
(Châu) Sơn.
Không
những thế, nếu Huệ Hạo và Đạo Tuyên đã liệt ra hai vị pháp sư khác nhau
có cùng tên Pháp Minh, thì ta không có lý do gì mà không giả thiết sự
hiện diện của một người thứ ba cũng có tên Pháp Minh, nhất là khi sự
trùng tên loại này đã xảy ra một cách khá thường xuyên. Riêng chỉ Cao
tăng truyện thôi, chúng ta đã có những trường họp cùng tên khác người
như Thích Pháp Độ ở quyển 1 tờ 320c16-28 và quyển 8 tờ 380b15-22, Thích
Huệ Thông quyển 7 tờ 374c28-375a6 và quyển 10 tờ 393c21-394a14 chứ khoan
nói chi tới chuyện kiểm điểm thêm Tục Cao tăng truyện mà kết quả cũng
sẽ tương tự, như trường hợp một người tên Pháp Độ ở quyển 5 ĐTK 2060 tờ
461a10-11 chẳng hạn.
Thực
vậy, bản danh sách các danh tăng trong Danh tăng truyện của Bảo Xướng
do Tôn Tánh sao vào trong Danh tăng truyện sao cũng có một nhà sư tên
Pháp Minh ở chùa Linh Căn tại Dương Đô. Nhưng chúng ta vẫn không thể
quyết chắc gì được hết về nhà sư Pháp Minh ấy.
Còn
những thủ bản được tìm thấy tại Đôn Hoàng, chỉ trong Sưu tập Stein thôi
cũng đã có tới ba người tên Pháp Minh.[61] Tập ký hiệu S. 523 đã ghi
Pháp Minh tham dự vào việc dịch kinh Kim quang minh tối thắng vương của
Nghĩa Tịnh vào năm 703. Tập ký hiệu S. 2278 lại ghi Pháp Minh tham dự
vào việc dịch Phật thuyết bảo vũ kinh của Đạt Ma Lưu Chi vào năm 695.
Tập ký hiệu S. 890 là bản chép một chương của luận Đại thừa khởi tín và
cuối chương có ghi tên Tỳ kheo Pháp Minh. Trong ba Pháp Minh này, thì
hai Pháp Minh đầu có lẽ chỉ một người vì cùng ở Trường An tham dự vào
việc dịch kinh và có niên đại suýt soát nhau, với những năm 695 và 703.
Còn Tỳ kheo Pháp Minh thì hiện không rõ niên đại tung tích.
Ngoài
sưu tập Stein, sưu tập của Thư viện Leningrad cũng có một thủ bản mang
tên Pháp Minh tham dự vào việc dịch kinh của Nghĩa Tịnh,[62] Chúng tôi
đoán Pháp Minh này cũng là Pháp Minh năm 703. Còn những sưu tập khác như
sưu tập Pelliot của Thư viện quốc gia Pháp, sưu tập của Trung ương đồ
thư quán Trung Hoa và sưu tập Nhật Bản không có những đóng góp gì đáng
chú ý.
Bằng
những dữ kiện và lý luận vừa nêu, chúng ta có lẽ tốt hơn là đồng ý ở
giai đoạn này với cái chú thích nghèo nàn trong Toàn Tống văn 63 tờ 13a3
của Nghiêm Khả Quân về vị pháp sư của lá thư thứ sáu trên như “Pháp
Minh, Giao Châu pháp sư”- Pháp Minh, pháp sư của Giao Châu.
VỀ LÝ MIỄU
Cuối
cùng, về nhân vật sứ quân Lý Miễu, như đã nói, ngày nay chúng ta không
tìm thấy một người nào mang tên ấy được ghi lại trong các sách sử Trung
Quốc và nước ta.
Chữ
“Sứ quân” có hai nghĩa. Nó chỉ sứ giả do thiên tử gửi ra bốn phương,
như sự xuất hiện của nó trong cuộc đối thoại giữa Khấu Tuân và sứ giả
của Hoài Dương Vương nhà Tây Hán trong Hậu Hán thư 46 tờ 24a6-8: “Tuần
lặc binh, nhập kiến sứ giả, tựu thỉnh chi, sứ giả bất dự. Viết, Thiên
vương sứ giả, công tào dục hiếp chi gia? Tuân viết, phi cảm hiếp, sứ
quân, thiết thương kế chí bất tương giã”. Nó cũng chỉ những quan lại
đứng đầu các châu quận, đặc biệt là chức thứ sử, như cái thí dụ chúng
tôi đã dẫn ở trên về Phòng Pháp Thừa hay trong truyện Viên Áng ở Tiền
Hán thư 49 tờ 3b8-4a7 “Áng... tỉ vi Ngô tướng... Áng tháo qui, đạo phùng
thừa tướng Thân Đồ Gia... nhân quì viết, nguyện thỉnh nhàn; thừa tướng
viết, sứ quân sở ngôn công sự chi tào dự trường sứ nghị chi”.
Chữ
“sứ quân” trong lá thư của chúng ta có thể nói là chứa đựng cả hai
nghĩa vừa kê, bởi vì trong giai đoạn giữa những năm 43-939 những thứ sử
thường là kẻ đại diện chính quyền Trung Quốc đến đứng đầu nước ta, dù
rằng phần lớn cái việc đứng đầu này chỉ có danh hơn là thực và đôi khi
kẻ đứng đầu ấy là người Việt. Thế thì, ở thời kỳ ra đời của Sáu lá thư,
ai là những sứ quân? Như những phân tích chứng cớ và thư tịch điển cố
trên cho thấy, những lá thư ấy phải viết sau năm 420, nếu không là năm
443, lúc Huệ Nghiêm mất. Giai đoạn giữa năm 420 cho đến khi Phục Đăng
Chi thay thế Phòng Pháp Thừa vào năm 488, căn cứ vào những báo cáo của
Tống thư cũng như Nam Tề thư và Nam sử tham khảo thêm các sử ta như Đại
Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký, Việt sử tiêu án
và Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì có cả thảy 26 người làm
thứ sử như sau:
Năm Thứ sử Bị chú
411-423 Đỗ Huệ Độ Cuộc khởi nghĩa
năm 412 của Lý Dịch, Độ chết, Văn thay.
423 Đỗ Hoàng Văn
428 Vương Huy Chi
432 Nguyễn Di Chi
433 Lý Tú Chi
435 Lý Đam Chi
436 Cẩu Đạo Phúc
438 Từ Sâm Chi
444 Đàn Hoa Chi
446 Tiêu Cảnh Hiến
456 Viên Hoằng Tháng 5 Hoằng
thay Hiến, tháng 12 Hiến thay
456 Tiêu Cảnh Hiến
457 Phi Yêm
458 Viên Hoằng
462 Đàn Dực Chi
464 Trương Mục Khoảng tháng 2 Mục
chết, Lý Trường Nhân giết bộ khúc Trung Quốc của Mục và xưng thứ sử. Tháng 3 Bá được cử, nhưng nghe Nhân cự, không dám qua.
468 Tôn Phụng Bá
468 Lưu Bột
469 Trần Bá Thiệu
477 Trần Cảnh Đức
478 Triệu Siêu Dân
478 Trần Hoán
479 Lý Thúc Hiến
485 Lưu Giai
488 Phòng Pháp thừa Thừa thấy Chi
chuyên
quyền, bắt bỏ tù Chi. Chi hối lộ người em rể của Thừa, được thả ra. Chi
liền bắt Thừa bỏ tù, rồi gửi thư xin chức thứ sử với nhà Tề. Mãi đến
tháng 12 năm Vĩnh Minh thứ 8 (492) Chi mới được trao chức thứ sử. Theo
Nam Tề thư, quyền hành từ năm 488 trở đi đã thuộc về Chi.
488 Phục Đăng Chi
Với
bảng liệt kê trên, chúng ta thấy không có một sứ quân nào tên Lý Miễu
hết. Trong khoảng thời gian gần một thế kỷ giữa những năm 420-520, ta có
thể nói hơn nửa thế kỷ, nước ta là một nước độc lập và có những triều
đại xưng đế xưng vương, như trường hợp hoàng đế Lý Miễu của chúng ta, dù
các chính sử của nước ta và Trung Quốc đã không ghi lại một thông tin
nào. Đặc biệt trường hợp giết “bắc lai bộ khúc” của Mục do Lý Trường
Nhân thực hiện năm 468. Để có thể làm thế, trước năm 468 này thanh thế
và quyền hành của Nhân chắc đã mở rộng rất nhiều, nếu không là mở rộng
toàn diện.
Việc
vua chúa nhà Tống tiếp tục cử những quan lại qua làm thứ sử Giao Châu
từ năm 468 cho đến năm 479, nghĩa là trong giai đoạn nước ta hoàn toàn
độc lập, đưa ra khá nhiều tiền lệ về giá trị thực sự của những bổ cử
trước năm 468 đó. Chúng chắc hẳn chỉ có danh, mà không có thực. Tình
trạng này không có gì khó hiểu hết. Tùy thư 24 tờ 3b3-10 về Thực hóa chí
cho biết: “Nhà Tấn từ khi Trung Nguyên tán loạn, Nguyên đế dời xuống
Giang tả... Những bọn mọi rợ núi động đã thấm nhuần vương hóa, thì mỗi
một chúng tự tùy nặng nhẹ, thu lấy vật thuế, để giúp bổ quốc dụng. Thêm
vào đó, các cừ soái ngoài Ngũ lĩnh, nhân vì sự phong phú của nhân khẩu,
phỉ thúy, minh châu, voi tê, thì kẻ nào hùng giữa những hương khúc,
triều đình phần nhiều nhân đấy mà giao chức cho họ, nhằm thu lấy một
phần lợi. Những đời Tống, Tề, Lương và Trần đều nhân theo mà không đổi.
Quân đội và nhà nước cần tạp vật, thì tùy thổ sản của từng nơi, đến lúc
chia khóa ra mà lấy, nên không có định lệnh pháp thường. Các châu, quận
và huyện nhất loạt tự định lấy mức sản xuất những nhiệm thổ của mình, để
làm chuyện đóng thuế”.
Nguyên
đế đời nhà Tấn xuống miền Nam Trung Quốc năm 317 và biến nó thành nhà
Đông Tấn. Nhà Trần bị Tùy Văn đế diệt năm 590. Như vậy, dựa vào báo cáo
vừa dẫn của Tùy thư, thì trong khoảng hai thế kỷ từ năm 317 đến tối
thiểu năm 590, nếu không là năm 602, khi Lưu Phương dụ hàng Lý Sư Lợi,
quan chức ở các châu, quận và huyện nước ta đều là “hùng cư hương khúc
giả, triều đình đa nhân nhi tự chi”, và mục đích là để chia xẻ một phần
nào những thổ sản và lợi lộc của chúng. Nói cách khác, ngay cả trước lúc
Lý Bôn xưng đế, nước ta đã là một nước tự trị tới một mức độ nào đó.
Tình
hình ấy, Tiểu Tử Hiển (489-537) có thể chứng thực cho ta trong Nam Tề
thư. Như đã thấy, năm 468 Lý Trường Nhân giết “bắc lai bộ khúc” của Mục,
rồi tự xưng làm thứ sử. Nhà Tống tiếp tục cử thứ sử của mình, nhưng
không một tên nào dám qua. Vào khoảng trước hay sau năm 470, Nhân mất,
tùng tử Lý Thúc Hiến lên thay, Hiến gửi thư xin chức thứ sử. Nhà Tống
chỉ lằng lòng phong cho Hiến làm thái thú hai quận Vũ Bình và Tân Xương
và chức Ninh viên Tư mã tướng quân, đồng thời cử Trần Hoán làm thứ sử.
Hiến nhận được chỉ của Tống, liền cự Hoán, Hoán sợ không dám tới.
Năm
479, Tiêu Đạo Thành diệt nhà Tống, lập nên nhà Tề. Thành đòi đánh Hiến.
Lưu Thiện Minh can Thành. Trong số 11 lý do Minh nêu ra, lý do cuối
cùng theo Nam Tề thư 28 tờ 12b2-6 là như thế này: “Vì Giao Châu hiểm trở
xa xôi ở ngoài miền hoang yếu, cuối đời Tống chính trị hà khắc, bèn nổi
giận làm phản, nay đại nghiệp đã mở ra thì nên lấy ân đức mà làm cho nó
mong nhớ, chưa nên xa nhọc tướng sĩ, làm giao động biên dân; hơn nữa,
thổ sản của xứ ấy chỉ có châu báu, thật không phải là những thứ cần dùng
khẩn cấp của triều đình; việc thảo phạt do đó đáng nên đình chỉ”. Thế
cũng có nghĩa, lý do việc thảo phạt dưới thời Tề phần lớn là nhằm chiếm
đất để thu thổ sản, đặc biệt là những miền đất không chịu cống hiến như
nước ta dưới thời Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến.
Và
ngay khi đánh được, việc cai trị chưa chắc đã thực hiện được, như
trường hợp Phòng Pháp Thừa và Phục Đăng Chi. Năm 485, Tề Vũ đế lấy cớ
Hiến không những không chịu cống hiến, mà còn ăn gian của công do những
nước miền Nam đến cống cho Trung Quốc như Phù Nam, Chân Lạp v.v.. bèn cử
Lưu Giai ra đánh Hiến. Giai ở chưa tới ba năm thì Phòng Pháp Thừa ra
thay. Khi Thừa đến, Phục Đăng Chi đã tự chuyên quyền, nhưng Thừa không
biết. Khoảng tháng sau, có người mách với Thừa, Thừa nổi giận, bắt tù
Chi. Chi hối lộ, nên được thả ra, lại bắt tù Thừa. Nhà Tề cho Chi làm
thứ sử.
Quả
thật, nước ta vào những năm ấy thực không khác gì với nhận xét của
Dương Hùng, mà Nam Tề thư cho dẫn ở quyển 14 tờ 24b1-3 “Giao Châu hoang
độ, thủy dự thiên tế, ngoại tiếp man di, bảo hóa sở xuất, sơn hải trân
quái, mạc dự vi tỷ, thị hiển viễn, sở hảo phản loạn”, một tiếng vang xa
xôi của cái báo cáo năm 280 của Đào Hoàng: “Thử châu chi nhân, thức
nghĩa gia quả, yếm kỳ an lạc, hảo vi họa loạn”.
Những
phân tích ấy như thế cho thấy, các chức thứ sử tại nước ta vào thế kỷ
thứ V-VI thực sự có danh nhưng không có thực, và chúng ta đã không thể
tìm thấy một người nào mang tên Lý Miễu. Phải chăng đã có một sự viết
lầm nào đó? Chẳng hạn chữ Miễu Ùç rất có thể là một viết lầm của chữ
Sâm ´Ë hay chữ Tú ¨q Trường hợp chữ Sâm là rất có thể, nhưng ta lại
phải giả thiết thêm sự viết lầm chữ Tú ¨q thành chữ Lý §õ , để có thể
cho phép ta đồng nhất Lý Miễu §õ Ùç với Từ Sâm Chi ®} ´Ë ¤§ ,
vị thứ sử năm 438 cho đến năm 444. Đồng nhất này dĩ nhiên đòi hỏi quá
nhiều giả thiết và quá nhiều viết lộn, do đó khó có thể đứng vững được.
Trường hợp chữ Tú ¨q trong cái tên Lý Tú Chi §õ ¨q ¤§ của vị
thứ sử năm 433, mặc dù nó yêu cầu ít giả thiết và viết lầm hơn, cũng
không thể chấp nhận được một cách dễ dàng, bởi vì chữ Tú ¨q khó viết
lầm thành chữ Miễu Ùç , và ta chưa giải quyết được sự thiếu mặt của chữ
Chi ¤§ trong tên của Lý Miễu.
Dù
với trường hợp nào đi nữa, chúng ta tốt hơn hết nên nhận lấy dữ kiện,
như sử liệu ngày nay cung hiến, và khẳng định là, không một Lý Miễu nào
đã xuất hiện giữa bản danh sách những thứ sử do vua chúa Trung Quốc cử
nhiệm. Từ khẳng định này, ta có thể hỏi thêm, thế thì phải chăng Lý Miễu
là một trong những trường sứ hay quận sứ hay thái thú, nằm đằng sau cái
chính quyền thứ sử và giật dây nó, như Lương Thạc đã làm vào năm 317 và
Lý Trường Nhân kế tập gần 150 năm sau?
Trả
lời câu hỏi này, chúng ta ngày nay không có đủ tư liệu một cách đáng
muốn. Từ năm 420 cho đến khoảng năm 468, chúng ta chỉ biết được một số
những anh em bà con của Đỗ Huệ Độ làm thái thú, cộng thêm với Lý Đam Chi
thái thú Giao Chỉ trước năm 435 cùng tên Khương Trọng Cơ của vị thái
thú Ái Châu và Phó Ủy Tổ của vị thái thú Cửu Chân kể ra trong cuộc hành
quân năm 446 của Đàn Hòa Chi, thế thôi. Ngay cả cái tên Lý Trường Nhân
cũng không bao giờ xuất hiện cho tới năm 468. Trước những im lặng và
thiếu sót ấy, việc thiết lập nên một bảng danh sách thái thú hay trường
sử do thế không thể thực hiện được, và chúng ta không bao giờ có thể trả
lời một cách dứt khoát câu hỏi vừa nêu.
Tuy
nhiên, còn có thể giả thiết, Lý Miễu rất có thể là một tên khác của Lý
Trường Nhân. Thí dụ Miễu là tên húy, còn Trường Nhân là tên tự, như
trường hợp Văn Cử là tên tự của Quách Văn mà những sử liệu như Cao tăng
truyện 7 tờ 369c26 hay Bảo phác tử dẫn trong Thái bình ngự lãm[63] 666
tờ 2a5-6 đều gọi là Quách Văn Cử, chứ không gọi Quách Văn. Lý do cho một
suy nghĩ như thế trước hết nằm ở sự có thể của một đồng nhất kiểu đó,
như đã vạch ra trong trường hợp Quách Văn. Hơn nữa, trong quan hệ lịch
sử giữa Việt Nam và Trung Quốc về sau, thì các hoàng đế Việt Nam thường
dùng một tên khác với tên chính của mình để thư từ với các hoàng đế
Trung Quốc. Thí dụ, vua Trần Thái Tông, tên trong sử ta là Trần Cảnh,
nhưng một số văn kiện Trung Quốc thì ghi tên Trần Quang Bính, như An Nam
chí lược tờ 1b3 đã chép.
Vậy,
dựa trên những cơ sở dữ liệu hiện có về phía Trung Quốc, ta không có
bất cứ sứ quân nào tên Lý Miễu. Điều này dẫn ta đến hai nhận xét. Thứ
nhất, sứ quân chắc chắn là một cải biên do Tăng Hựu và những đồng sự của
ông thực hiện khi đưa sáu lá thư vào trong bộ Hoằng minh tập. Ta đã
biết việc cải biên đã xảy ra đối với các văn kiện có trong bộ Hoằng minh
tập này. Vì thế, không có lý do gì, mà một cải biên đã không xảy ra đối
với trường hợp Sáu lá thư. Đặc biệt khi Sáu lá thư đã có một số văn cú
và nội dung xúc phạm đến uy tín chính trị của những vị hoàng đế lãnh đạo
Trung Quốc. Tàn dư của những xúc phạm này, dù sau khi đã cải biên, vẫn
còn tồn tại. Cụ thể là hai chi tiết sau.
Hai
chi tiết này sẽ đưa ta đến nhận xét thứ hai liên quan đến tư cách và
nhân thân của vị gọi là sứ quân tên Lý Miễu trên. Trước hết cần xác định
ngay Lý Miễu về tư cách và nhân thân không phải là một vị sứ quân. Thực
vậy, hai chi tiết cho phép ta khẳng định như thế. Chi tiết thứ nhất là
Đạo Cao trong lá thư thứ hai của mình, khi đề cập đến lối suy nghĩ sâu
xa của Lý Miễu, Đạo Cao đã dùng cụm từ Thánh tư uyên viễn động giám tam
thế, mà ta đã có dịp nói tới ở trên. Thánh tư rõ ràng là để nói về suy
nghĩ của một bậc hoàng đế, giống như trong các cụm từ thánh học, thánh
đăng, thánh cung v.v … Khi dùng cụm từ thánh tư như vậy chắc chắn Đạo
Cao đã coi Lý Miễu như một hoàng đế chứ không phải một sứ quân. Sứ quân
do thế là một cải biên của nhóm biên soạn Hoằng minh tập của Tăng Hựu.
Ngoài
cụm từ thánh tư của lá thư thứ hai này, trong lá thư thứ tư Đạo Cao lại
dùng đến cụm từ Cư đại bảo chi địa, mà ta đã nhắc tới ở trước. Chữ “đại
bảo” thường có hai nghĩa chính, đấy là chỉ địa vị hoàng đế thiên tử hay
chỉ một vật gì rất quí trọng. Nghĩa thứ hai ở đây dĩ nhiên không thích
hợp với ý của câu “cư đại bảo chi địa” của Lý Miễu, do thế có thể loại
ra. Còn lại như vậy là nghĩa thứ nhất.
Nghĩa
này xuất phát từ câu “Thiên địa chi đại đức, viết sinh; thánh nhân chi
đại bảo, viết vị; hà dĩ thử vị, viết nhân; hà dĩ tụ nhân, viết tài; hiện
tài, chính từ, lân dân vô phụ, viết nghĩa” của Hệ từ hạ trong Chu dịch.
Thế thì, “cư đại bảo chi địa” phải có nghĩa là “ở vào địa vị của thiên
tử”. Đây cũng là cách cắt nghĩa của ông Thái Điền Thế Tạng trong bản
dịch tiếng Nhật nói trên.
Thêm
vào đó, trong lá thư thứ hai, Đạo Cao khi nhắc đến học thức của Lý Miễu
thì dùng 4 chữ “thánh tư uyên viễn”. Chữ “thánh tư” này tất nhiên không
có nghĩa thông thường là suy nghĩ của bậc thánh, mà phải hiểu là suy
nghĩ của một vị hoàng đế. Do thế, ta có đủ chứng cứ để khẳng định Lý
Miễu là một vị hoàng đế của Việt Nam.
Song,
nếu Lý Miễu “ở vào địa vị thiên tử”, thì tại sao những lá thư của Đạo
Cao và Pháp Minh lại gọi Miễu bằng “sứ quân”, chứ không bằng một xưng
hiệu thích hợp với thiên tử? Chữ “sứ quân” như chúng tôi đã có dịp phân
tích, thường để chỉ sứ giả của thiên tử hay những quan lại đứng đầu các
châu quận. Để giải quyết rắc rối này, chúng ta có nhiều cách.
Cách
thứ nhất, ta có thể cắt nghĩa câu “cư đại bảo chi địa” thành “ở vào đất
đai của thiên tử”, nghĩa là ở tại cung vua. Nhưng làm thế, chúng ta tất
không thể giải thích được cái đề danh “Lý Giao Châu” của Miễu, và nhất
là hai chữ “sứ quân” vừa nói. Bởi vì, nếu ở tại cung vua thì sao lại gọi
là “sứ quân”, và giả như Miễu đã đi sứ rồi trở về, thì sao lại có cái
đề danh “Lý từ Giao Châu” trong bản sao của Tăng Hựu. Nếu cắt nghĩa đất
đai của thiên tử có nghĩa là vương đế, đất đai của nhà vua, thì chúng ta
lại không thể giải thích được những câu “lưu lãng nghĩa uyển, thiệp sậu
thơ viên” tiếp theo cũng như nguyên lai của Đạo Cao. Bởi vì nếu mọi chỗ
“mạc phi vương thổ” thì hà tất đất vua đâu đâu cũng có vườn sách và Đạo
Cao ở đâu ngoài “vương thổ”, để bảo Miễu ở vào “đại bảo chi địa”. Cách
thứ nhất như thế là không xong.
Cách
thứ hai, ta có thể cắt nghĩa chữ đại bảo bằng một trong những nghĩa phụ
của nó, mà đáng chú ý nhất dĩ nhiên là nghĩa “Bồ-tát”. Trong Diệu pháp
Liên hoa kinh quyển 2 tờ 11b26-27 cũng như chính Pháp hoa kinh quyển 6
tờ 100c23-24 và Thiện phẩm diệu pháp Liên hoa kinh quyển 2 tờ 144b14-15,
chúng ta có những câu như “kỳ quốc trung dĩ Bồ tát vi đại bảo giáo hóa
chúng sinh” hay “tư tộc tánh tử tư tộc tánh nữ tắc vi đại bảo đáng vi
tác lễ” v.v... Chữ đại bảo trong những câu này đồng nhất với chữ Bồ tát.
“Lấy Bồ tát làm đại bảo” đương nhiên có thể cắt nghĩa như “lấy Bồ tát
làm những người cai trị”. Như vậy, nghĩa “Bồ tát” của chữ đại bảo chưa
hẳn đã thoát ra ngoài cái nghĩa “thiên tử” nói trên.
Cách
cuối cùng có lẽ tương đối thỏa mãn nhất, đấy là giả thiết sự thêm thắt
của Tăng Hựu hay một người có ý thức chính trị Trung Quốc nào đó, và nó
có thể xảy ra như sau. Từ nguyên ủy những lá thư của Đạo Cao và Pháp
Minh rất có thể chỉ xưng Lý Miễu như “quân” hay “quân vương”. Đến khi
chúng lọt vào tay những người Trung Quốc, họ liền thêm vào chữ “sứ”
trước chữ “quân” và bỏ chữ “vương” đi, đưa đến sự xuất hiện cái danh
hiệu “sứ quân”, trong khi lá thư vẫn tiếp tục nói đến chuyện “cư đại bảo
chi địa” và “thổ ác dư hà” của Lý Miễu[64].
Nói
cách thứ ba này là tương đối thỏa mãn nhất, bởi vì nó không cho phép
hiểu câu “cư đại bảo chi địa” và tình hình chính trị nước ta ở thế kỷ V
một cách dễ dàng, mà còn để lộ ra một phần nào thái độ chính trị và cảm
thức chính trị của dân ta trong thế kỷ ấy. Đó là tiếp tục gọi lãnh tụ
của mình là thiên tử, dù ông chỉ là thứ sử hay thái thú trong các sử
sách Trung Quốc, và từ đó để lộ thêm nguồn gốc Việt Nam của những lá
thư. Tiếp đến, tình hình chính trị nước ta vào thế kỷ V cho phép tồn tại
một hoàng đế như vậy. Căn cứ những mô tả trên của chúng tôi, sự hiện
diện của những vị hoàng đế Việt Nam là một thực tế, chứ không phải là
một sứ quân như đã bị cải biên.
Cố
nhiên, ta có thể hỏi, nếu Lý Miễu đối với Đạo Cao và Pháp Minh là ở vào
địa vị thiên tử, thì sao hai vị ấy chỉ gọi Miễu là “quân”? Trả lời câu
hỏi này, chúng ta không cần phải đi tìm đâu cho xa. Vào thế kỷ thứ V, tổ
chức Phật giáo Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Huệ Viễn đã xướng lên
thuyết bất kỉnh vương. Thuyết đó nói rằng, Tăng Ni Phật giáo không cần
phải làm lễ hay xưng mình là thần hay khanh trước vua chúa. Sự tình này
cuối cùng dẫn đến việc ra đời Bất kỉnh vương luận của Huệ Viễn và cuộc
bàn cãi sôi nổi về nó, mà Tăng Hựu cho sưu tập lại trong Hoằng minh
tập.
Chúng
tôi nghĩ, cách cắt nghĩa thứ ba đây đáng nên chấp nhận, và chúng ta có
lẽ nên đổi chữ “sứ quân” trong những lá thư thành chữ “quân”. Trong liên
hệ này, cần thêm là, bản tiếng Nhật của ông Thái Điền Thế Tạng đã dịch
một cách bí hiểm hai chữ “sứ quân” thành một chữ, đó là chữ “quân”. Bí
hiểm, bởi vì ông không nói lý do tại sao.
Như
vậy, cái chi tiết về chuyện Lý Miễu “cư đại bảo chi địa” này giả thiết
ông là kẻ đứng đầu chính quyền nước ta, dù chính quyền đó là một chính
quyền nhị nguyên với sự hiện diện đồng thời và song song của những thứ
sử Trung Quốc hữu danh vô thực vào thời những lá thư được viết. Như đã
nói trên, chúng tôi nghĩ, Lý Miễu rất có thể là Lý Trường Nhân, tuy rằng
không một dữ kiện xác đáng nào có thể tìm thấy cho một suy nghĩ như
vậy, ngoài những lý do ngẫu nhiên và ngoại tại vừa kể.
Dĩ
nhiên, Lý Miễu cũng rất có thể là một người khác Lý Trường Nhân, như
Miễu là cha hay chú hay gì đó của Nhân chẳng hạn. Trong tình trạng khiếm
khuyết tư liệu và thiếu thốn dữ kiện hiện tại, mọi giả thiết đều là có
thể và không có thể.
Lý
Trường Nhân xuất hiện trong sử sách Trung Quốc qua việc ông giết những
bộ hạ Trung Quốc của Mục, sau khi Mục chết, vào khoảng tháng 2 năm 468.
Sau biến cố này, Tống thư không nói gì hết về những biến cố tiếp theo và
chỉ bằng lòng ghi lại những bổ nhiệm hữu danh vô thực của những thứ sử
Giao Châu, như đã liệt kê ở trên. Chúng ta phải đợi đến Nam Tề thư mới
thấy nói tới chuyện Lý Thúc Hiến cầu phong với nhà Tống và chuyện Hiến
chống lại tên thứ sử do Tống bổ nhiệm làm cho tên này sợ không dám đến,
cũng như chuyện Lý Trường Nhân đau mất khoảng vài năm sau khi giết bộ
khúc của Mục.
Ngày
nay chúng ta không biết Nhân chết lúc nào và thọ bao nhiêu tuổi. Căn cứ
vào chữ “sổ niên” của Tiêu Tử Hiển, thì Nhân có lẽ mất khoảng năm 470
hay sau đó không lâu. Ngay cả khi Nhân thọ không hơn 50 tuổi, chúng ta
có thể đặt năm sinh của ông vào khoảng năm 420. Ông như vậy rất có thể
là một bà con gì đấy với Lý Tốn cũng như Lý Dịch, hai người lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa năm 380 và 412. Nếu chấp nhận năm 420 là năm sinh của
ông, sự tham dự chính trị có lẽ đã xảy ra khoảng từ năm 440 trở đi.
Những
lá thư của chúng ta dựa trên chính những bằng cớ nội tại của chúng,
phải được viết ra khoảng sau năm 435, nếu không là 453 như đã thấy, và
chắc hẳn phải trước năm 455. Chúng tôi nghĩ trước năm 455, bởi vì nếu
sau đó, thì Pháp Minh phải kể việc thiêu thân của Đàm Hoằng tại chùa
Tiên Sơn, mà sự thần dị vang lừng, đến nỗi hơn nửa thế kỷ sau Huệ Hạo
còn ghi lại trong Cao tăng truyện của ông. Đặc biệt là khi cả Tăng lẫn
tục tại chùa Tiên Sơn đều chứng kiến nó và khi Pháp Minh đã dùng đến
những thần dị của những người đã có một kết nối đậm đà với nền Phật giáo
nước ta như Vu Pháp Lan.
Việc
Đàm Hoằng tự thiêu vào năm 455, rất có thể là vì những bàn cãi kiểu bàn
cãi trong sáu lá thư trên, những bàn cãi về sự không thấy bản thân đức
Phật và sự không có cảm ứng. Nó nhằm chứng minh sự chân thật của điều
khẳng định, mà Đạo Cao và Pháp Minh lặp đi lặp lại mấy lần, đó là: “Vong
thân đầu thành thì tất có cảm, có cảm thì tất đều thấy, không cảm thì
tất không thấy”. Hoằng quả đã vong thân đầu thành, nên đã thấy được đức
Phật và hiện về cho mọi người cùng thấy. Hành động của Hoằng không những
cung hiến sự minh chứng, mà còn cho thấy một phần nào sự gần gũi đậm đà
của Phật tử nước ta đối với Hoằng.
Vậy,
nếu chấp nhận năm 455 ấy như thời điểm muộn nhất của những lá thư, thì
sự đồng nhất Lý Miễu với Lý Trường Nhân có lẽ không xa vời cho lắm, khi
coi Nhân sinh vào khoảng năm 420, như đã vạch ra. Không xa vời, bởi vì
những lá thư của Miễu tuy khá rõ ràng mạch lạc, đã tỏ ra không già giặn.
Chẳng hạn lá thư thứ ba, Miễu nói tới chuyện “Đế vương Cơ Khổng huấn
chỉ đương thế”, trong khi lá thư thứ năm ông nói ngược lại, và Pháp Minh
đã không quên vạch ra sự mâu thuẫn ấy. Chúng do thế có lẽ do một người
trên dưới ba mươi tuổi viết, khi khí hăng đang còn mạnh và sẵn sàng thay
đổi ý kiến.
Dù
Lý Miễu và Lý Trường Nhân là một hay hai người, điều chắc chắn vẫn là,
những lá thư trên phải được viết sau năm 435 và có lẽ trước năm 455, và
tác giả Lý Miễu phải đang còn thanh niên khi viết những lá thư này. Tất
nhiên, chúng ta không thể loại hẳn cái khả năng Lý Miễu có thể là người
đứng tuổi hay một người già khi viết chúng.
Niên
đại 435-455 của giả thiết này cho những lá thư có thể làm vững thêm,
khi ta trả lời câu hỏi sau: “Tại sao chúng đã ra đời và lại bàn về chủ
đề không thấy bản thân đức Phật”?