HUỆ LÂM VÀ LÝ DO RA ĐỜI CỦA SÁU LÁ THƯ
Về
câu hỏi sau, để trả lời, chúng ta cần nhớ đến nghệ thuật Tiên Sơn.
Chúng tôi gọi nghệ thuật Tiên Sơn những gì tìm thấy trên bệ đá chùa Vạn
Phúc, mà trước đây chúng tôi đã đặt tên là nền nghệ thuật Vạn Phúc, một
cách không chính đáng cho lắm. Đặc điểm của nền nghệ thuật này nằm ở
chỗ, đức Phật không bao giờ được tượng trưng bằng hình người, mà bằng
một cánh hoa sen đặt vào giữa lòng một trang trí theo dáng hình lá Bồ
đề. Quan niệm đức Phật của người nước ta vào thế kỷ thứ V như vậy biểu
lộ không ít qua nền nghệ thuật ấy. Và cố nhiên là có thể truy tối thiểu
về cái thuyết “Thánh nhân năng thụ nhân đạo, bất năng sử nhân lý nhi
hành chi giả” của Mâu Tử vào thế kỷ thứ II trong Mâu Tử Lý hoặc luận,
theo đó, giá trị của Phật giáo không nằm đâu xa hơn là chính lý thuyết
Phật giáo và sự thực hành nó.
Điểm
này giải thích cho ta khá nhiều những băn khoăn về chuyện không thấy
bản thân đức Phật của những Phật tử thời bấy giờ như Lý Miễu, tạo cơ hội
cho sự ra đời Sáu lá thư của chúng ta.
Đương
nhiên, sự mong ước nhìn thấy bản thân đức Phật ấy không chỉ giới hạn
vào, hay hậu quả của, quan niệm đức Phật phát biểu trong nền nghệ thuật
Tiên Sơn tại nước ta. Nó cũng xuất hiện ở Trung Quốc với trường phái
Tịnh độ của Huệ Viễn tại Lô Sơn, mà bằng chứng còn sót lại trong những
lá thư do ông và Cưu Ma La Thập viết, lưu truyền dưới tên Đại thừa nghĩa
chương. Những băn khoăn ấy do đó rất có thể đã nảy nở từ niềm tin nhiệt
thành của Phật tử Việt Nam và Trung Quốc thời bấy giờ, chứ chưa hẳn đã
là con đẻ của một quan niệm lý thuyết về bản chất đức Phật.
Dẫu
với trường hợp nào đi nữa, niềm băn khoăn này đã không những được họ
phát biểu một cách hùng hồn và kỳ diệu bằng nghệ thuật, mà còn bằng văn
tự và lý luận một cách minh nhiên và khúc chiết. Nghệ thuật là tiếng nói
của con tim và niềm tin, văn tự là tiếng nói của trí óc và hiểu biết.
Tuy thế, niềm băn khoăn ấy chưa hẳn là động cơ duy nhất cho sự xuất hiện
những lá thư trên. Nói là chưa hẳn, bởi vì trong những lá thư của Đạo
Cao và Pháp Minh ta thấy họ đề cập đến nhiều vấn đề, mà Lý Miễu không
bao giờ nêu ra hay nhắm tới.
Chẳng
hạn, ở lá thư thứ tư Đạo Cao nói về sự “hấp tấp trong việc đồng qui”;
hay ở lá thư thứ sáu, Pháp Minh khiển trách những kẻ “tuy thế trí biện
thông, sách vở đầy bụng, trăm nhà thấu suốt, chín phái rõ qua, biết sống
chết có mạng, giàu sang tại trời, quỉ thần không dễ cản ngăn, thánh
hiền không thể dự đoán, cũng không thoát khỏi sự sai lầm để che lấp tâm
tình hay sự nghi ngờ từa tựa để lo nghĩ mông lung, rồi phó thác cho đồng
bóng, đầu thành với phù chú, ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều phải,
giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ đôi
ngả”. Những vấn đề cũng như những khiển trách loại ấy chỉ có thể hiểu
được, nếu ta giả thiết, chúng không chỉ nhằm tới cá nhân Lý Miễu của
chúng ta, mà còn tới một số người khác. Thế thì, những người khác này là
ai?
Kiểm
soát văn cú và vấn đề trong Sáu lá thư trên, ta thấy chúng có những
tương tự đáng chú ý với Quân thiện luận của Thích Huệ Lâm do Thẩm Ước
(441-513) ghi lại trong Tống thư 97 tờ 14b7-19b8 và Nghiêm Khả Quân
trích trong Toàn Tống văn 63 tờ 5b6-8a3. Cho nên không phải là hoàn toàn
không lý do, khi ta có thêm đoạn “hậu bút” trích từ Minh Phật luận của
Tôn Bính sau lá thư của Pháp Minh.
Quân
thiện luận hay Quân thánh luận là một tác phẩm nhằm chứng minh thuyết
thần diệt, thuyết Phật giáo và Khổng giáo đều hay, giả dưới hình thức
một cuộc đối thoại giữa một Bạch học tiên sinh và một Hắc y đạo sĩ. Hắc y
đạo sĩ dĩ nhiên là một tên gọi khác chỉ những nhà tu hành Phật giáo.
Thí dụ, trong Đoạn tửu nhục văn ở Quảng Hoằng minh tập 26 ĐTK 2103 tờ
294b18-19, Lương Vũ đế nói: “Phù khuôn chính Phật pháp thị hắc y nhân
sự, nãi phi đệ tử bạch y sở cấp”.
Cuốn
luận đó kết thúc với sự thua lý của Hắc y đạo sĩ và lời đoán án thắng
trận sau đây của Bạch học tiên sinh: “U minh chi lý, cố bất cực ư nhân
sự, Chu Khổng nghi nhi bất biện, Thích Ca biện nhi bất thật, tương nghi
phế kỳ hiển hối chi tích, tồn kỳ sở yếu chi chỉ..., đản tri lục độ dự
ngũ giáo tịnh hành, tín thuận dự từ bi tề lập nhĩ, thù đồ đồng qui giả,
bất đắc thu kỳ phát luân chi triệt dã”.
Đoán
án này do một nhà sư Phật giáo viết ra tất phải tạo nên những phản ứng
trong hàng ngũ Phật giáo, nhất là câu “Thích Ca biện nhi bất thật”. Thẩm
Ước, sau khi cho chép toàn bộ cả Quân thiện luận, đã phải viết: “Luận
hành ư thế, cựu tăng vị kỳ biếm truất Thích thị, dục gia tẩn xích”.
Và
bằng cớ chúng ta không cần phải đợi lâu, bởi vì cách Ước không xa, Huệ
Hạo trong Cao tăng truyện 7 tờ 368a11-21 viết về Lâm thế này: “Sau lại
làm ra quyển Bạch hắc luận, trái với lý thuyết Phật giáo, thái thú Hoạnh
dương Hà Thừa Thiên cùng Lâm đọ giáp, giúp nhau kích dương, làm ra
quyển Đạt tính luận, cũng câu trệ về một phía, mà mắng chê Phật giáo...,
Lâm khi đã tự phá hủy pháp bị của mình, bị đuổi ra Giao Châu”.
Thế
là, như một nhà sư Phật giáo, Lâm đã phê bình Phật giáo một cách gay
gắt. Điều này tạo nên những phản ứng dữ dội trong hàng ngũ Phật giáo,
đến nỗi họ đã gọi một cách khinh thường Quân thiện luận thành Bạch hắc
luận, để cuối cùng bị đuổi ra nước ta. Dẫu thế, một số Phật tử đương
thời như Thẩm Ước và những nhà sư Phật giáo về sau như Đạo Tuyên
(596-667) đã tha thứ cho Lâm, điển hình qua dẫn chứng trên của Ước và
phần tóm tắt tiểu sử và tư tưởng đầy thiện cảm về Lâm trong Quảng Hoằng
minh tập 9 tờ 132b29-c4[65].
Trong
lời đoán án vừa nêu, Lâm đã nói tới chuyện “hiển hối chi tích” và “thù
đồ đồng qui”. Về “thù đồ đồng qui”, chúng ta đã nhận ra trong lời phê
bình của Đạo Cao về sự “hấp tấp trong việc đồng qui”. Còn chuyện “hiển
hối chi tích”, thì tuy Lâm đòi hãy bỏ nó đi, Đạo Cao đã mở đầu lá thư
đầu tiên của mình với chính những chữ ấy: “Phụng thùy vấn chí thánh hiển
hối chi tích “.
Những
lá thư của Đạo Cao do thế có thể nói không phải chỉ trả lời cho những
vấn nạn của Lý Miễu, mà còn là một trả lời cho cái kết luận trên của
Quân thiện luận của Huệ Lâm. Những lời khiển trách trong lá thư của Pháp
Minh về chuyện “thế trí biện thông, sách vở đầy bụng, trăm nhà thấu
suốt, chín phái rõ qua”, do thế phải kể là nhắm tới Huệ Lâm nhiều hơn là
Lý Miễu, mà sự non nớt đã được chính Minh vạch ra trong cái mâu thuẫn
về lý thuyết của Nho giáo.
Mà
quả thực, những lá thư của Lý Miễu đã chứa đựng một phần nào ngôn từ và
quan điểm của không những Quân thiện luận, mà còn của những lá thư trao
đổi giữa Hà Thừa Thiên và Tôn Bính. Chẳng hạn trong lá thư thứ ba, Lý
Miễu nói tới việc “đấng đại thánh ban cái trí vô ngại, duỗi lòng thương
không cầu, thì sao lại tiếc cái ánh sáng rực rỡ của mình...”. Trong lá
thư viết trả lời Tôn Bính ở Hoằng minh tập 2 ĐTK 2102 tờ 19b27-28, Hà
Thừa Thiên viết: “Há Thích Ca chỉ không tiếc những giảng dạy dài dòng
vào mươi trăm vạn lời, mà lại đi tiếc một chút ánh thần trong giây
lát...”
Vậy thì Huệ Lâm bị đuổi ra nước ta vào lúc nào và ở đâu?
Trả
lời câu hỏi ấy, ngày nay chúng ta không có một thông tin nào chắc chắn
hết. Ngay cả việc Lâm bị đuổi ra nước ta cũng đã không được ba trong số
năm bản tiểu sử về Lâm nói tới, đấy là Tống thư của Thẩm Ước Quảng Hoằng
minh tập của Đạo Tuyên và Nam sử 78 tờ 17a9-18a1 của Lý Diên Thọ. Cao
tăng truyện ghi lại nó, nhưng không cho biết nó xảy ra vào năm nào.
Thích môn tự cảnh lục quyển thượng ĐTK 2083 tờ 809b29-c8 cũng thế, dẫu
có thêm là, Lâm bị mù mắt vài năm rồi buồn chết.
Chúng
ta do đó phải dựa vào một số những bằng cớ sau cho việc phỏng đoán thời
điểm Lâm đến nước ta. Thứ nhất, Huệ Lâm đã viết lụy văn cho hai người
chết vào năm 435, đấy là Trúc Đạo Sinh và Thích Pháp Cương, mà nguyên
bản Đạo Tuyên sưu tập lại trong Quảng Hoằng minh tập 23 tờ 265b3-c12 và
Nghiêm Khả Quân trích trong Toàn Tống văn 63 tờ 8a4-10a10. Lâm như vậy
cho đến năm 435 đang còn ở Trung Quốc và đang có những liên lạc mật
thiết với hàng ngũ Phật giáo.
Nói
thế, chúng tôi không kể đến lụy văn do một người mang tên Thích Huệ
Lâm, mà các ấn bản Trung Quốc khắc thành hoặc như hoặc như viết cho
Thích Huyền Vận mất vào năm 498 và xuất hiện trong Quảng Hoằng minh tập
23 tờ 268a25-c11, bởi vì nó không quan trọng cho lắm đối với vấn đề của
chúng ta ở đây. Nghiêm Khả Quân trong khi cho trích nó ở Toàn Tề văn 26
tờ 24a4-25a12, đã chú thích Huệ Lâm ấy như “vị tướng”. Đạo Tuyên đã xác
định Lâm ấy là Lâm của thời Nam Tề, ngoài chuyện viết nó thành, căn cứ
theo ấn bản Đại tạng kinh ngày nay. Chúng tôi nghĩ, chúng ta có thể giả
thiết sự có mặt của hai người cùng tên Thích Huệ Lâm.
Thứ
hai, Lâm phải viết cuốn Quân thiện luận của mình vào trước năm 434, bởi
vì nó là chủ đề bàn cãi của Minh Phật luận hay cũng gọi là Thần bất
diệt luận, do Tôn Bính viết. Bính mất năm 443 lúc ông 69 tuổi. Việc này,
Hà Thượng Chi nói rõ trong lá thư ông viết cho Tống Văn đế vào năm 435,
mà Tăng Hựu sưu tập dưới nhan đề Hà lệnh Thượng Chi đáp Tống Văn hoàng
đế tán dương Phật sự ở Xuất tam tạng ký tập 11 ĐTK 2102 tờ 69a13-14,
như: “Lúc bấy giờ có Sa-môn Huệ Lâm giả mặc áo thầy tu, mà hủy báng giáo
pháp của mình, làm ra quyển Bạch hắc luận. Thái thú Hoạnh dương Hà Thừa
Thiên cùng Lâm đọ giáp, giúp nhau kích dương, làm quyển Đạt tính luận,
cũng câu nệ một phía mà mắng chê Phật giáo. Thái thú Vĩnh gia Nhan Diên
Chi và thái tử Trung xá nhân Tôn Bính đều là những người tin tưởng giáo
pháp, kiểm soát và bác bỏ hai cuốn luận ấy, mỗi một người hơn một vạn
lời. Lâm ... ban đầu cũng có thư từ qua lại, nhưng sau vì hết lý, bèn
thôi, Bính nhân đó làm quyển Minh Phật luận, để mở rộng tôn chỉ của
mình. Vua khen hay”.
Thứ
ba, căn cứ vào lời dẫn của Hà Thượng Chi, thì Huệ Lâm đã bị coi là “giả
phục tăng thứ nhi hủy kỳ pháp”, ngay trong lúc Tống Văn đế đang còn
sống, nghĩa là bị coi giả mặc áo thầy tu ngay trước năm 454, năm Văn đế
chết. Đây là một điểm đáng chú ý, bởi vì, theo Tống thư của Thẩm Ước thì
chính trong thời Tống Văn đế này, mà cuốn Quân thiện luận của Lâm “ban
hành ở đời, các cựu tăng cho nó là chê bỏ Thích thị, muốn đòi tẩn xuất
đuổi đi; Thái tổ thấy cuốn luận, bèn khen; trong khoảng Nguyên Gia, Lâm
tham gia chính quyền, mọi việc lớn ở triều đình đều cùng nghị bàn, khách
khứa lui tới đông đúc, xe cộ trước cửa thường có vài chục cặp, bốn
phương nối nhau gửi tặng của cải, thế khuynh một thời”[66].
Nguyên
Gia, mà bản in Bách Nạp viết thành Nguyên Trực, là niên hiệu suốt giai
đoạn ngự trị từ năm 424 đến năm 454 của Thái Tổ, và Thái Tổ là niên hiệu
của Tống Văn đế. Trong khoảng những năm 424-454, Lâm như vậy đã đóng
một vai trò quan trọng giữa triều đình của Tống Văn đế. Nhưng đồng thời
cũng tại khoảng đó Hà Thượng Chi đã viết những dòng trên. Việc “Thái tổ
thấy cuốn luận bèn khen” đây chắc hẳn phải xảy ra trước khi Nhan Diên
Chi và Tôn Bính bác bỏ vào khoảng trước năm 435 không lâu. Một khi đã
thế, Huệ Lâm có bị đuổi ra Giao Châu chăng nữa thì cũng phải xảy ra sau
khi Văn đế chết, tức sau năm 454. Căn cứ vào ba bằng cớ trường hợp vừa
dẫn, chúng ta có thể giả thiết Huệ Lâm đã đến nước ta vào khoảng sau năm
454.
Từ
đó, năm sinh của ông có lẽ rơi vào khoảng 380. Đặt vào khoảng ấy, bởi
vì Lâm viết lụy văn cho Pháp Cương vào năm 435 với tư cách một người
bạn, mà Pháp Cương vào năm 388 đã là một pháp sư nổi tiếng tại giảng
trường của Vương Tuân. Cương do thế phải sinh khoảng 360. Tuổi Lâm vì
vậy cũng phải không cách Cương quá xa, nghĩa là, Lâm sinh khoảng năm
380. Ngoài ra, vào năm 423 Lâm đã tham dự vào những tranh luận đương
thời với Pháp Cương và Tạ Linh Vận, mà thư từ qua lại giữa họ đã được
Đạo Tuyên sưu tập trong Quảng Hoằng minh tập 8 tờ 226b6-227a25, đặc biệt
là khi Vận gọi Lâm bằng Lâm công. Thêm vào đó, Lâm là đệ tử của Đạo
Uyên, cứ vào tiểu sử của Uyên ở Cao tăng truyện 7 tờ 368a1-11, thì ông
mất lúc 78 tuổi, dưới thời Tống Văn đế. Giả như Uyên mất vào khoảng năm
430, thì ông sinh khoảng những năm 350-360. Năm sinh 380 của Lâm như vậy
không đến nỗi xa vời cho lắm. Bằng vào những phân tích ấy, niên đại
370-470 có thể được rút ra cho Huệ Lâm, mặc dù có câu “sổ tuế phẫn kết
nhi tốt” của Hoài Tố nói trên.
Lâm có lẽ là một người dễ tạo hiểu lầm và bàn cãi, do thế ngày nay ta có ít nhất hai hình ảnh khá trái ngược về ông.
Huệ
Hạo, trong Cao tăng truyện đã cho biết: “Đệ tử của Uyên là Huệ Lâm, vốn
họ Lưu, người Tần quận, giỏi biết các kinh và Trang Lão, bày chuyện
khôi hài, ưa nói cười, sở trường về viết lách. Cho nên có tập làm 10
quyển, nhưng tính ngông ngạo, lại tự hay khoe khoang. Uyên thường đến
Phó Lượng, Lâm ban đầu đang ngồi; tới khi Uyên đến, Lâm không chịu trí
lễ. Uyên nổi giận, đỏ cả mặt. Lượng bèn phạt Lâm hai mươi trượng. Tống
Thế tổ nhã trọng Lâm, khi tới thăm, thì thường một mình lên trên giường.
Nhan Diên Chi, mỗi lúc đem điều này ra chê trách, vua liền không vui.
Sau Lâm viết Bạch hắc luận, trái với lý thuyết Phật giáo. Thái thú Hoạnh
dương Hà Thừa Thiên cùng Lâm đọ giáp cùng nhau kích dương, làm Đạt tính
luận, cũng câu nệ một phía, chê mắng Thích giáo. Nhan Diên Chi và Tôn
Bính kiểm bác hai cuốn luận ấy, mỗi một người hơn một vạn lời. Lâm, khi
đã hủy báng pháp bị của mình, liền bị đuổi ra Giao Châu. Đời nói: Uyên
công thấy ma tinh, tức là người này vậy”.
Cái
câu nhận xét cuối cùng nói lên không ít thái độ đầy tức giận của Huệ
Hạo và hàng ngũ Phật giáo thời ông và trước ông. Về phía khác, Tống thư
và Nam sử không ghi lại một điểm gì làm cho ta nghĩ Lâm là một người “ưa
khoe khoang ngông ngạo đùa bỡn”. Hơn nữa, chúng cũng chép lại hoàn toàn
nguyên văn của Quân thiện luận, nhờ thế, ngày nay ta mới biết một phần
nào tư tưởng của Lâm, và cho những thầy tu muốn tẩn xuất Lâm vì cuốn
sách đó là những “cựu tăng”. Chúng viết: “Huệ Lâm, người huyện Tần, quận
Tần, nguyên họ Lưu, thuở nhỏ xuất gia ở chùa Trị Thành, có tài chương,
học gồm cả trong ngoài, là chỗ sở tri chân nghĩa của Lô Lăng vương. Ông
từng viết Quân thiện luận, lời nó thế này (...) Luận ban hành ra ở đời,
cựu tăng cho là chê trách Thích thị, muốn tẩn xuất Lâm. Thái tổ thấy
cuốn luận, bèn khen. Trong khoảng Nguyên Gia, Lâm tham dự vào quyền yếu,
triều đình đại sự đều dự vào mà bàn cãi, khách khứa lui tới đông đúc,
xe cộ trước cửa thường có vài chục cặp, bốn phương nối nhau gửi tặng của
cải, thế khuynh một thời. Ông chú thích Hiếu kinh và thiên Tiêu diêu
của Trang Tử, văn luận còn truyền ở đời”.
Với
hai bản tiểu sử này, ta có thể thấy, những người đồng đại trẻ tuổi của
Lâm đã nhìn Lâm như thế nào. Điểm lôi cuốn nằm ở chỗ, họ để Lâm lộ ra
như một người trung thực và có can đảm nói ra sự trung thực của mình. Là
một người trung thực, bởi vì ông dám bảo “Thích Ca biện nhi bất thật”,
dù ông là một nhà sư Phật giáo và thừa nhận giá trị đạo đức của Phật
giáo về khía cạnh “lục độ dự ngũ giáo tịnh hành, tín thuận dự từ bi tề
lập”, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của thuyết “thù đồ đồng qui”. Là can
đảm, bởi vì ông dám viết ra nó một cách công nhiên. Đây cũng là lối đánh
giá của Hà Thừa Thiên. Trong lá thư gửi cho Tôn Bính ở Hoằng minh tập 3
tờ 20a14-16, Thiên viết: “Lâm Tỳ kheo tuy mặt mũi là thầy tu, nhưng
tính tình ngay thẳng, hình như sâu biết sự chân giả khác nhau, nên không
kiêng kinh, giúp thầy, để mà tô vẽ cho một học thuyết sai. Tôi vì thế
kính trọng ông”.
Với
những đánh giá như thế, việc Lâm nêu lên thuyết “thù đồ đồng qui” không
những nhằm địa phương hóa lý thuyết Phật giáo cho những người Phật tử
thuộc văn minh viễn đông, mà còn tượng trưng một nỗ lực đầu tiên trong
việc xã hội hóa Phật giáo, biến nó thành một thứ Phật giáo dấn thân với
một lý thuyết xã hội dấn thân. Và điểm này phải kể là một đóng góp đặc
sắc của Lâm.
Nhưng
trong khi làm thế, nhất là khi ông ra mặt thẳng thắn phê bình Phật giáo
thời ông, Lâm đồng thời tạo nên những phản ứng quá khích từ hàng ngũ
Phật giáo Trung Quốc, mà bằng chứng ta đã có dịp thấy qua những nhận xét
trên của Hà Thượng Chi và Huệ Hạo. Phản ứng ấy cũng như quan niệm Phật
giáo của Lâm chắc hẳn đã được biết đối với hàng ngũ Phật giáo nước ta,
căn cứ vào sự giao thương điển tịch và tin tức mà chúng tôi phân tích ở
trước.
Một
khi đã thế, chúng ta không có gì phải ngạc nhiên về việc Đạo Cao cảnh
cáo Lý Miễu đừng có “hấp tấp trong việc đồng qui”, mặc dù ông vẫn cứ
nhắc lại cái chuyện “tiên nho vãng triết đều có nói sơ điều ấy từ lâu,
đường không khác lối, họ chỉ thuật lại mà không làm ra”. Khẳng định như
vậy, Nho giáo không gì hơn là một nối dài của Phật giáo.
Và
chúng ta cũng không có gì phải ngạc nhiên, khi Pháp Minh đã khiển trách
một cách bóng gió những kẻ “tuy thế trí biện thông, sách vở đầy bụng,
trăm nhà thấu suốt, chín phái rõ qua... mà cũng chưa thoát khỏi sự sai
lầm để che lấp tâm tình hay sự nghi ngờ từa tựa để lo nghĩ mông lung,
rồi phó thác cho đồng bóng, đầu thành với phù chú, ôm lấy chuyện bậy để
hy vọng điều phải, giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai
lòng, trù trừ đôi ngả...”.
Những
phê bình và khiển trách như vừa kể, hẳn một phần nào nhắm tới Huệ Lâm.
Khẳng định như vậy, có người sẽ hỏi, thế thì ta có thể biết gì về những
liên lạc giữa Lâm và Lý Miễu cùng những lãnh tụ chính trị khác của nước
ta thời bấy giờ, nhất là khi ta không biết một cách chắc chắn Lý Miễu là
ai.
Trước
câu hỏi này, chúng tôi tất không thể bàn luận gì thêm, bởi vì ngoài
chuyện không biết một cách chắc chắn về Lý Miễu, chúng ta không có một
dữ kiện nào, thành văn hay bất thành văn về họ. Tuy thế, nếu Lâm, trong
khi còn ở Trung Quốc, đã giữ vai trò trọng yếu tại triều đình, thì ta có
thể hy vọng là, lúc bị đuổi ra nước ta, người nước ta, đặc biệt là
những người có trách nhiệm khởi nghĩa, đón nhận ông như một đóng góp mới
cho thành phần trí thức và lãnh đạo Việt Nam.
Việc
những lãnh tụ của nước ta vào thế kỷ thứ V là những người Phật giáo và
cần đến sự giúp đỡ của những thành phần tu sĩ Phật giáo Việt Nam chống
Trung Quốc, có thể thấy qua mẩu chuyện sau đây về sự liên lạc giữa Lý
Thúc Hiến và một nhà sư tên Huệ Đào.
Như
đã thấy, Lý Thúc Hiến là tùng tử và là người kế tục sự nghiệp khởi
nghĩa của Lý Trường Nhân. Trong Pháp uyển châu lâm 36 ĐTK 2122 tờ
572a20-b3 viết vào năm 666, Đạo Thế cho trích từ Lương kinh tự ký câu
chuyện sau: “Chùa Nam Minh Chân đời Lương tại huyện Mạt Lăng làng Trung
Hưng vào năm Phổ Thông thứ năm (525), sa môn Huệ Đào khởi tạo. Đào lúc
sinh vốn họ Từ, đầu đời Tề, bèn theo cậu mình ra ở Lô Lăng, giữa đường
lượm được một cái xiêm, bên trong cái xiêm có một cái khăn năm màu, bên
trong cái khăn có chỉ ngũ sắc, mỗi một chúng làm thành một gói. Bèn bắt
đầu mở chúng ra, tới bốn vòng thì đều không thấy chúng đâu cả. Cuối cùng
ông mở cái vòng chỉ dưới hết, thì thấy bóng sáng chớp, chiếu sáng cả
một nhà. Nhân thế ông đồng thời cảm thấy cái điều tốt của thần, vào nước
không chết, vào lửa không cháy. Người nhà cho ông là phát cuồng, bắt
đầu làm lồng cũi, đóng khóa rất chặt. Nhưng bỗng chốc ông lại lọt ra. Họ
liền biết ông có thần lực, nhơn đó họ thiết ghế trống, xin ông làm
phước, thì trên không có tiếng nói rằng: 'Ta là Bồ-tát Trường Sinh, ứng
ra để làm lợi ích đất nước, các người nên qui y Phật pháp, mà thanh tịnh
cúng dường'. Từ đó, họ giành nhau đem hoa hương dâng cúng, mỗi mỗi đều
có linh nghiệm. Người miền Nam là Lý Thúc Hiến kết nguyện xin mời về
châu mình, sau Hiến quả nhiên được làm thứ sử Giao Châu, bèn liền tạo
bức thần ảnh bằng trầm hương. Người đời cho thần là quí bông đẹp, nhân
thế họ gọi là thần Hoa Nương. Trăm họ gửi đồ đến cúng đầy nức, sau khi
trai hội có dư, Huệ Đào dạy cho tất đều đem làm chùa”.
Đây
có lẽ là một mẩu chuyện duy nhất trước thời Đinh Tiên Hoàng nói tới
những liên lạc cụ thể giữa những lãnh tụ chính trị nước ta và hàng ngũ
Phật giáo một cách công nhiên. Nó được Đạo Thế bảo là trích từ Lương
kinh tự ký. Ngày nay chúng ta không biết cuốn Lương kinh tự ký này do ai
viết và viết lúc nào. Điều chắc chắn là, nó phải ra đời khoảng giữa
những năm 525 và 666, bởi vì Thế viết xong quyển Pháp uyển châu lâm
trước năm 666, còn nó lại nói đến năm Phổ Thông thứ 5 của Lương Vũ đế,
tức năm 525[67].
Căn
cứ vào mẩu chuyện này, thì Lý Thúc Hiến đã mời Huệ Đào, mà trong những
cơn “phát cuồng” được biết như Bồ tát Trường Sinh, đến nước ta và sau đó
được chức thứ sử Giao Châu. Và Huệ Đào vào khoảng “Tề sơ” mới bắt đầu
phát cuồng.
Đây
là một điểm đáng chú ý, bởi vì Tiêu Đạo Thành lên ngôi vào tháng 4, thì
tháng 6 ông đã ra chiếu cho Hiến làm thứ sử Giao Châu: “Giao Chỉ và Tỷ
Cảnh riêng cách thơ sóc, ấy là vì vận của triều trước mới suy, nên chúng
ỷ thế biển, mà không vào chầu, nhân mê muội, chúng đi quá, không còn
qui khoản. Nay đáng tha thứ cho Giao Châu, trong xứ ấy chỉ có một người
Lý Thúc Hiến tức có thể yên phủ Nam thổ, văn vũ rõ tài tuyển dụng, cùng
sai đại sứ nêu rõ lại ân đức của triều đình, nên lấy Thí thủ Vũ bình
thái thú hành Giao Châu phủ sự Lý Thúc Hiến làm thứ sử Giao Châu.”
Nếu
vào khoảng Tề sơ Huệ Đào mới có thần lực, thì phải chăng chỉ trong
khoảng 2 tháng, mà tiếng vang đã đến tai Lý Thúc Hiến, để Hiến xin về
châu mình? Huyện Mạt Lăng ở tại phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam và huyện Lô
Lăng ở tại phủ Cát An tỉnh Giang Tây, cả hai khá xa xôi với người nước
ta. Dẫu sao đi nữa, Lý Thúc Hiến là một Phật tử và đã có liên lạc với
hàng ngũ Phật giáo thời ông. Thái độ tôn giáo của Hiến biểu lộ không ít
trong việc tạo ra một thần ảnh của Bồ tát Trường Sinh bằng trầm hương.
Trầm hương dĩ nhiên là một thổ sản nổi tiếng của nước ta, mà Nam châu dị
vật chí do Vạn Chấn viết vào khoảng năm 290 và Đạo Thế dẫn trong Pháp
uyển châu lâm 36 tờ 573c24-574a3 cho biết thế này: “Mộc hương sản xuất ở
Nhật Nam, muốn lấy nó thì nên trước phải chặt cây cho nó nằm trên đất
khá lâu, vỏ bên ngoài hủ xám đi, cái lòng bên trong của nó cứng, để vào
nước liền chìm, nên gọi là trầm hương, cái khúc giữa cái lòng và vỏ thì
không cứng thuần cho lắm, để vào nước thì không nổi không chìm, cùng
ngang với nước, nên gọi là chiêm hương, còn cái vỏ rất thô vụn thì gọi
là tạm hương”.
Câu
chuyện vừa dẫn không những cho thấy một phần nào khía cạnh tôn giáo của
những lãnh tụ khởi nghĩa nước ta vào thế kỷ thứ V, nghĩa là, cho biết
họ là những Phật tử, mà còn bày tỏ khá nhiều sự cần đến nhân tài trong
những cuộc vận động độc lập chống Trung Quốc của họ. Và những nhân tài
ấy đôi khi gồm cả người Trung Quốc như trường hợp Huệ Đào vừa kể trên.
Sự
tình này giải thích không ít, tại sao Huệ Lâm có thể tham dự vào phong
trào vận động độc lập tự trị kiểu của Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến.
Nếu Lý Miễu là Lý Trường Nhân và Huệ Lâm, sau khi bị đuổi ra nước ta vào
khoảng năm 454, đã làm việc với Miễu, thì chuyện Nhân giết “bắc lại bộ
khúc” của Trương Mục vào năm 468 không có gì lạ hết. Lâm đã bị tập thể
tăng lữ cũng như chính trị xứ mình khai trừ và đuổi đi, tất có đủ mọi lý
do để hợp tác với những phong trào chống lại tập thể tăng lữ và nhất là
tập thể chính trị đó.
Về
phía nước ta, Lâm quả là một nhân vật đáng chú ý. Ông không những là
một nhà sư nổi tiếng, một học giả với một kiến thức sâu rộng, biểu hiện
qua việc ông viết chú thích cho Hiếu kinh và thiên Tiêu diêu của Trang
Tử, mà còn là một người tham dự vào chính trị tại triều đình Trung Quốc,
để người đương thời như Khổng Khải đã gọi là một “hắc y tể tướng”- vị
tể tướng thầy tu - và thụ hưởng sự sủng ái kính trọng của kẻ đứng đầu
triều đình ấy, tức Tống Văn đế. Yếu tố sau đối với những lãnh tụ cuộc
khởi nghĩa năm 468 chắc hẳn là một yếu tố quan trọng, bởi vì nó giúp họ
thấy một phần nào cái cơ chế và diễn trình quyết định chính trị của
chính quyền Trung Quốc đối với nước ta, từ đó họ có thể đề ra những biện
pháp đối phó thích hợp.
Việc
Lý Trường Nhân thành công trong công tác giết “bắc lại bộ khúc” của
Mục, mà không tạo nên một phản ứng đáng kể nào từ chính quyền của Tống
Minh đế, không phải là không có lý do của nó. Và việc Nhân đợi cho Mục
chết, để làm chuyện ấy, cũng không phải là hoàn toàn vô cớ. Mục là người
Trung Quốc và là một Phật tử thuần thành, bởi vì người con gái của ông
đã đi tu trở thành một ni cô. Dưới sự lãnh đạo của Thích Pháp Độ, cô đã
tạo khá nhiều tiếng tăm bàn tán, mà dấu tích ta còn tìm thấy trong một
bài do Tăng Hựu sưu tập lại ở Xuất tam tạng ký tập 5 tờ 40c19-42c1[68],
và trong bản tiểu sử của Pháp Độ ở Cao tăng truyện 1 tờ 329c16-28.
Căn
cứ vào hai tài liệu ấy, Pháp Độ đã phê bình chế độ sống của tập thể
tăng lữ Phật giáo Trung Quốc thời bấy giờ, nhất là chế độ ăn, mặc và trì
giới, và cổ vũ việc trở về với đời sống tăng già Ấn Độ của Phật giáo,
đó là quấn y và xin ăn. Những Phật tử đương thời chỉ trích lại cách sống
quấn y và xin ăn ấy, đặc biệt là cảnh các ni cô quấn y xin ăn và trật
bả vai trong khi bố tát. Trong liên hệ đó, họ kể đến những người đi theo
cách sống quấn y xin ăn man rợ này của Pháp Độ và than vãn là, chúng
gồm cả những con nhà quyền quí như ni cô Phổ Minh ở chùa Hoằng Quang,
người con gái của thứ sử Giao Châu Trương Mục.
Việc
Huệ Thắng chỉ sống nhờ thức ăn khất thực và Đạo Thiền thì “hoang thực
tệ y”, mà ta gặp sau này, như vậy không phải là những thí dụ ngoại lệ.
Chế độ quấn y xin ăn do đó rất có thể là khá phổ biến ở nước ta vào thế
kỷ thứ V.
Trương
Mục đến nhậm chức thứ sử ở nước ta vào năm 464. Bốn năm sau Lý Trường
Nhân nổi lên. Bối cảnh Phật giáo của Mục từ đấy chắc hẳn đã đóng góp
không ít cho sự thành công của Nhân và một lần nữa cái chức thứ sử của
ông chỉ có danh nhưng chắc không có thực, như phần lớn những người trước
và sau ông. Tóm lại, nếu Nhân đã thành công mở đầu cho một giai đoạn
độc lập khá dài đầu tiên, thì ông hẳn đã được những người như Huệ Lâm,
Đạo Cao hay Pháp Minh giúp sức như Huệ Đào đã giúp người kế nghiệp Lý
Thúc Hiến, dù ngày nay ta không có một tư liệu thành văn nào công khai
khẳng định như thế.