CHƯƠNG 11
Những Đại Thí Chủ trong hàng Vua Chúa
"Quả thật là vũng lầy đầy cạm bẫy hiểm nghèo
ẩn náu dưới
mặt nước phẳng lặng hiền từ.
Những lễ bái,
vật cúng dường và yến tiệc
của người thí
chủ giàu sang,
Cũng tựa hồ
như lưỡi gươm sắc bén
đâm sâu vào
thịt của người lầm đường lạc nẻo,
khó mà rút
ra."
--
Mahalatapilandhana Kassapa Thera Gatha (1053)
Vua
Bimbisara (Bình Sa Vương)
Vua Bimbisara
(Bình Sa Vương), trị vì Vương Quốc Magadha (Ma Kiệt Đà), đóng đô tại kinh thành
Rajagaha (Vương Xá), là vị thí chủ đầu tiên của Đức Phật trong hàng vua chúa.
Bimbisara (Bình Sa Vương) lên ngôi lúc mười lăm tuổi, làm vua được năm mươi hai
năm.
Khi Thái Tử
Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thoát ly cuộc sống trần tục, một hôm nhà vua trông thấy
Ngài, một đạo sĩ khiêm tốn, đi khất thực trên đường phố của kinh thành
Rajagaha. Trông thấy tướng mạo oai nghi và tư cách trang nghiêm sang trọng của
Ngài, vua lấy làm cảm kích, sai người đi dò thăm. Khi được biết rằng thường
bữa, sau khi độ ngọ thì vị đạo sĩ cao quý ấy ngụ tại Pandavapabbata, vua cùng
với tùy tùng đến viếng đạo sĩ, hỏi thăm người là ai, sanh trưởng ở xứ nào. Đạo
sĩ Gotama (Cồ Đàm) trả lời:
"Ngay phía
trước đây, Tâu Đại Vương, trên vùng Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn), trong châu thành
Kosala của những gia tộc cổ kính, một quốc gia truờng thạnh và phong phú, tôi
xuất thân từ triều đại Thái Dương, dòng Sakya (Thích Ca). Tôi không luyến ái,
chạy theo nhục dục ngũ trần. Nhận thức được hiểm họa của thú vui vật chất và
thấy an toàn trong đời sống xuất gia, tôi đi tìm cái gì cao quý nhất và tâm tôi
được an lạc. [1]"
Vua Bimbisara
(Bình Sa Vương) cung thỉnh đạo sĩ Gotama (Cồ Đàm), sau khi chứng ngộ Đạo Quả,
sẽ trở lại viếng thăm Vương Quốc Magadha (Ma Kiệt Đà).
Đức Phật Trở
Lại Gặp Vua Bimbisara (Bình Sa Vương)
Đúng theo như
lời hứa, sau khi thành đạt Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật cùng đi với
các đệ tử A La Hán từ Gaya đến Rajagaha. Nơi đây Ngài ngự tại diện Suppatittha,
trong một rừng kè.
Tin lành đến
tai Vua Bimbisara (Bình Sa Vương), và lúc bấy giờ danh tiếng của vị giáo chủ vô
song đã bay cùng khắp Vương Quốc. Đức Vua đem theo rất đông quần thần, đi đón
mừng Đức Phật. Vua đến gần, cung kính đảnh lễ Phật và ngồi lại một bên. Còn
những người khác, người thì đảnh lễ một cách cung kính, người thì chào hỏi lễ
phép như gặp bạn, người thì chắp tay xá, người thì tự xưng danh tánh và cũng có
người không nói gì hết, lặng lẽ ngồi xuống. Lúc ấy phần đông dân chúng tôn kính
Đức Phật và Đại Đức Kassapa (Ca Diếp) như nhau, không biết ai là thầy. Đức Phật
đọc được tư tưởng ấy nên hỏi Ngài Kassapa (Ca Diếp) tại sao không thờ Thần Lửa
nữa. Đại Đức Kassapa (Ca Diếp) hiểu ý Đức Phật, giải thích rằng Ngài từ bỏ,
không tôn thờ Thần Lửa nữa vì Ngài chọn con đường đưa tới trạng thái an vui
châu toàn, không ô nhiễm dục vọng, đối nghịch lại những lạc thú trần tục, không
bổ ích. Nói xong, Ngài Kassapa (Ca Diếp) khấu đầu đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn
và xác nhận: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, Ngài là Đạo Sư của con. Con là đệ tử.
Bạch hóa Đức Thế Tôn, Ngài là Đạo Sư của con. Con là đệ tử."
Tất cả mọi
người đều hoan hỷ. Đức Phật nhân cơ hội, thuyết một thời pháp về Túc Sanh
Truyện Maha Narada Kassapa [2], dạy rằng trong một tiền kiếp Ngài là Narada,
lúc ấy còn dục vọng, cũng đã dìu dắt Đại Đức Kassapa (Ca Diếp) một cách tương
tợ.
Nghe Đức Phật
thuyết giảng, Ánh Sáng Chân Lý rọi đến mọi người. Đức Vua Bimbisara (Bình Sa
Vương) đắc Quả Tu Đà Hườn, xin quy y Tam Bảo và thỉnh Đức Phật cùng chư vị đệ
tử về cung điện thọ trai ngày hôm sau. Khi mọi người độ ngọ xong, đức vua tỏ ý
muốn biết nơi nào thích hợp để Đức Phật lưu ngụ. Đức Phật trả lời:
"Một nơi
hẻo lánh, không xa mà cũng không gần thành thị để những ai muốn viếng Ngài, có
thể đến dễ dàng. Một nơi mát mẻ, ban ngày không đông đảo ồn ào, ban đêm yên
tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp,"
Đức Vua nghĩ
rằng khu Trúc Lâm của mình có thể hội đủ những yếu tố cần thiết ấy nên bạch với
Đức Phật xin dâng lên Đức Phật và chư Tăng khu Rừng Tre lý tưởng này, cũng được
gọi là "nơi trú ẩn của loài sóc" . Khu rừng này không có nhà cửa lều
cốc cho chư tỳ khưu, nhưng có nhiều cây to bóng mát và những chỗ ẩn dật kín đáo
[3]. Dầu sao, đó là nơi được dâng cúng đầu tiên đến Đức Phật và chư tăng. Tại
ngôi Veluvanarama (Trúc Lâm Tự) yên tĩnh này Đức Phật nhập Hạ một lần ba năm
liên tiếp và ba lần khác, vào ba Hạ xa cách nhau.
Sau khi quy y,
Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) sống đời gương mẫu của một vì vua. Ngài đều đặn
nghiêm trì tám giới (bát quan) trong sáu ngày giới (Uposatha).
Công chúa
Kosala Devi, con vua Maha Kosala và em vua Pasenadi Kosala là chánh hậu của vua
Bimbisara (Bình Sa Vương). Ajatasattu (A Xà Thế) là con bà. Khema, một bà quý
phi khác, là một tín nữ rất tinh tấn nhờ sự khéo léo của đức vua. Về sau bà
Khema xuất gia tỳ khưu ni và trở thành đệ nhất đệ tử của Đức Phật về phái nữ.
Mặc dầu rất mực
minh quân và có tâm đạo nhiệt thành, Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) phải chịu
quả xấu của tiền nghiệp, chết một cách thê lương ảm đạm và vô cùng đau đớn.
Hoàng tử
Ajatasattu (A Xà Thế) bị Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) xúi giục, âm mưu sát hại vua
cha là Bimbisara (Bình Sa Vương) để chiếm ngôi. Nhưng công việc bại lộ,
Ajatasattu bị bắt quả tang, và người cha đầy lòng bi mẫn không đành xử phạt xứng
đáng như quần thần xin, mà còn nhường ngôi vàng cho hoàng tử, vì thấy con thèm
muốn làm vua.
Để trả ơn, vị
hoàng tử bất hiếu vừa lên ngôi liền hạ ngục cha và ra lệnh bỏ đói cho chết dần.
Chỉ một mình hoàng thái hậu được phép vào thăm. Mỗi khi đi, bà giấu đồ ăn trong
túi áo đem cho chồng. A Xà Thế hay được quở trách mẹ. Sau lại, bà giấu trong
đầu tóc. A Xà Thế cũng biết được. Cùng đường, bà tắm rửa sạch sẽ rồi thoa vào mình
một thứ đồ ăn làm bằng mật ong, đường và sữa. Vua gợt lấy món ăn này để nuôi
sống. Nhưng Ajatasattu (A Xà Thế) của bắt được, và cấm hẳn mẹ không cho vào
thăm vua cha nữa.
Lúc ấy
Bimbisara (Bình Sa Vương) cam chịu đói, nhưng lòng không oán trách con.
Ngài đã đắc Quả
Tu Đà Hườn nên thản nhiên, cố gắng đi lên đi xuống kinh thành, chứng nghiệm
hạnh phúc tinh thần.
Thấy cha vẫn
vui tươi, Ajatasattu (A Xà Thế) nhất định giết cho khuất mắt nên hạ lệnh cho
người thợ cạo vào khám, lấy dao bén gọt gót chân vua cha, xát dầu và muối vào
rồi hơ trên lửa nóng cho đến chết.
Khi người cha
bất hạnh thấy thợ cạo đến thì mừng thầm, ngỡ rằng con mình đã ăn năn hối cải,
cho người đến cạo râu tóc để rước về. Trái với sự ước mong của Ngài, anh thợ
cạo đến chỉ để thi hành lệnh dã man của Vua A Xà Thế một cách tàn nhẫn, đem lại
cho Ngài một cái chết vô cùng thê thảm.
Cùng ngày ấy,
vợ Ajatasattu (A Xà Thế) hạ sanh một hoàng nam. Tin lành đến cùng lúc với tin
vua cha Bimbisara (Bình Sa Vương) băng hà trong ngục thất.
Tin chánh hậu
hạ sanh hoàng nam được đọc trước. Nỗi vui mừng của A Xà Thế không sao kể xiết.
Cả người cảm nghe nhẹ nhàng vui sướng. Tình thương của một người cha lần đầu tiên
chớm nở trong lòng, mặn nồng sâu sắc, thấm vô từng khớp xương ống tủy. Đứa con
đầu lòng là một nguồn yêu thương, là cơ hội để cha mẹ thưởng thức một tình tôn giáo
mới mẻ đậm đà, vô cùng trong sạch. Cảm giác đầu tiên của người mới được đứa con
đầu lòng dường như đưa họ vào một cảnh giới kỳ lạ, khiến họ có cảm tưởng rằng
máu huyết mình đã nhỏ giọt ra để nối tiếp mình.
Tức khắc
Ajatasattu vội vã chạy đi tìm người mẹ yêu dấu và hỏi: "Thưa Mẫu Hậu, khi
con còn nhỏ, phụ hoàng có thương con không?"
-- Tại sao con
hỏi lạ vậy? Mẹ tưởng trên thế gian này không tìm đâu ra người cha lành như cha
con. Để mẹ thuật cho con nghe. Lúc mẹ còn mang con trong lòng, ngày nọ mẹ nghe
thèm lạ lùng một món kỳ lạ. Mẹ thèm nút vài giọt máu trong bàn tay mặt của cha
con. Mà nào mẹ dám nói ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh xao, và sau cùng phải thú
nhận với cha con. Khi nghe vậy cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho mẹ hút máu.
Lúc ấy các nhà tiên tri trong triều tiên tri rằng con sẽ là người thù của cha
con. Do đó, tên con là "Ajatasattu", có nghĩa "kẻ thù chưa
sanh". Mẹ có ý định giết con ngay trong lòng, nhưng cha con không cho. Khi
sanh con ra, mẹ nhớ đến lời tiên tri, nên một lần nữa muốn giết con. Một lần
nữa, cha con ngăn cản mẹ.
Một hôm, con có
cái nhọt trên đầu ngón tay, nhức nhối vô cùng, khóc suốt ngày đêm, không ai dỗ
được. Cha con đang cùng bá quan phân xử việc triều đình, nghe vậy cầm lòng
không đặng, bế con trong lòng, và không ngần ngại ngậm ngón tay của con trong
miệng, nhè nhẹ nút cho con đỡ đau. Gớm thay! Cái nhọt bể, máu mủ tuôn ra trong
miệng cha con và, sợ lấy tay ra con sẽ nghe đau, cha con nuốt luôn vào bụng cả
mủ lẫn máu! Phải, người cha hết lòng thương yêu con, vì tình phụ tử đậm đà, nhè
nhẹ nuốt hết vừa máu vừa mủ.
Nghe đến đó Vua
Ajatasattu bỗng đứng phắt dậy, kêu lên như điên: "Hãy chạy mau, thả ra lập
tức người cha yêu quý của trẫm."
Than ôi, người
cha yêu quý ấy đã ra người thiên cổ!
Tin thứ nhì
được trao đến tận tay Vua Ajatasattu. Vua xúc động rơi lệ dầm dề. Bấy giờ ông
mới nhận định rằng chỉ khi bắt đầu làm cha mới biết được tình cha thương con như
thế nào.
Vua Bimbisara
(Bình Sa Vương) băng hà và tức khắc tái sanh vào cảnh Trời Catummaharajika (Tứ
Đại Thiên Vương) tên là Janavassabha.
Về sau Vua
Ajatasattu (A Xà Thế) được gặp Đức Phật, trở nên một thiện tín lỗi lạc và tạo
nhiều công đức trong cuộc Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên.
Vua Pasenadi
Kosala (Ba Tư Nặc)
Một đạ i thí
chủ khác của Đức Phật trong hàng vua chúa là Vua Pasenadi Kosala, con Vua Maha
Kosala, trị vì vương quốc Kosala, đóng đô tại thành Savatthi. Ông cùng trang
tuổi với Đức Phật, và nhờ tài đức lỗi lạc, may mắn được nối ngôi vàng lúc vua
cha còn sanh tiền [4].
Ông quy y trong
những năm đầu tiên sau khi Đức Phật bắt đầu hoằng dương Giáo Pháp. Kinh
Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm) ghi rằng một ngày nọ vua Pasenadi Kosala đến yết
kiến Đức Phật và hỏi về Đạo Quả của Ngài, lúc ấy còn trẻ tuổi.
Đức Phật trả
lời:
"Tâu Đại
Vương, có bốn chuyện không nên gạt bỏ hay khinh thường. Đó là một hoàng tử hiếu
chiến (khattiya), một con rắn, lửa và một tỳ khưu. [5]"
Và Đức Phật
thuyết một thời Pháp có ý nghĩa về đề tài này. Khi Đức Phật giảng xong, Vua
Pasenadi lấy làm hoan hỷ, xin thọ lễ quy y Tam Bảo. Kể từ ngày ấy vua trở nên
một đệ tử trung kiên của Đức Phật. Sách ghi rằng có lần nhà Vua khấu đầu đảnh
lễ Đức Phật xong, ôm hôn chân Ngài. Lòng nhiệt thành tôn kính Đức Phật của ông
phần lớn cũng do sự khôn ngoan của bà Chánh Hậu Mallika, rất sùng đạo, thông
minh sáng suốt, và học rành Giáo Lý. Trong nhiều trường hợp, bà dẫn dắt chồng
trên đường đạo đức như một người bạn chân thành.
Ngày kia vua
nằm mộng liên tiếp mười sáu lần và lấy làm bàng hoàng lo ngại [6]. Vị quân sư
theo đạo Bà La Môn bàn mộng, đoán rằng sắp có chuyện chẳng lành xảy đến đức vua
và bày cho vua nên giết trâu bò tế lễ thần linh để tránh họa. Nghe lời, vua
truyền sắm sửa mọi việc để tế thần, một nghi thức vô nhân đạo có thể làm mất
mạng sống hàng ngàn chúng sanh. Hoàng Hậu Mallika nghe tin lật đật can gián và
thuyết phục vua nên đến hầu Đức Phật, xin được giải thích. Vua nghe theo lời,
đem các điềm chiêm bao kể lại với Đức Phật và xin Đức Phật giải thích ý nghĩa.
Đức Phật giảng giải rành rẽ.
Không giống như
trường hợp của vua Bimbisara (Bình Sa Vương), vua Kosala tốt phước, được nghe
Đức Phật giảng rất nhiều bài Pháp. Trong bộ Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm) có trọn
một phần gọi là Kosala Samyutta [7] ghi lại những lời Đức Phật dạy Vua Kosala.
Ngày nọ, khi
vua đang ngồi hầu Đức Phật, có vài đạo sĩ đi ngang qua, mình mẩy đầy lông, râu
tóc xồm xoàm, móng tay dài thườn thượt. Vua liền đứng dậy cung kính đảnh lễ và tự
giới thiệu: "Kính bạch chư đạo sĩ, Trẫm là Vua Kosala Pasenadi." Khi
các đạo sĩ đi qua, vua trở lại hầu Phật và bạch Đức Phật các vị ấy có phải
chăng là những vị A La Hán. Đức Phật giải thích rằng một người phàm, còn thích
thú trong những khoái lạc vật chất, khó mà nhận thức được ai đã đắc Quả A La
Hán và ai chưa. Đức Phật dạy:
"Nhờ sự
thân cận (Samvasena) mới biết được giới hạnh (Sila) của một người và, dầu thân
cận đi nữa, cũng phải mất nhiều thì giờ, phải thận trọng quan sát và phải sáng
suốt thông minh. Người lơ đễnh, không sáng suốt thông minh, không đủ thì giờ
quan sát, dầu có thân cận cũng không thể xét đoán đúng. Xuyên qua những cuộc
đàm thoại (samvoharena) ta có thể nhận thức trạng thái trong sạch (soceyyam)
của người khác. Trong tình trạng bất an, rối ren, nghịch cảnh, mới thấy biểu lộ
nghị lực, và trong cuộc thảo luận, mới hiểu được trí tuệ của người khác. Dầu
vậy đi nữa, cũng phải mất nhiều thì giờ, thận trọng quan sát và phải sáng suốt
thông minh."
Để tóm tắt, Đức
Phật đọc bài kệ:
"Không phải
do lớp trang sức bề ngoài mà con người được biết rõ.
Trong cái nhìn
thoáng qua không thể tin chắc ở sự xét đoán.
Kẻ dể duôi, không
giới đức, trong thế gian mênh mông rộng lớn
Có thể sống dưới
lớp y đoan trang thanh nhã của người có phẩm hạnh.
Như cái quai nồi
bằng đất sét làm giả,
Hay đồng tiền chì,
ngoài bọc vàng,
Người đi xa, ẩn
nấp dưới lớp hóa trang,
Bên ngoài đẹp đẽ
đoan trang.
Còn bên trong thì
ô trược. [8]"
Là một quốc
vương trị vì một quốc gia rộng lớn, Vua Kosala không thể tránh chiến tranh, đặc
biệt là với các lân bang. Một lần kia ông phải gây chiến với người cháu, Vua
Ajatasattu (A Xà Thế) và thất bại. Nghe vậy Đức Phật dạy:
"Chiến thắng
nuôi dưỡng hận thù.
Kẻ thất bại sống
trong khốn khổ.
Nhưng ai từ bỏ
chiến thắng và chiến bại
Sống thanh bình an
lạc [9]"
Một lần khác,
Vua Kosala chiến thắng và thâu đoạt toàn thể quân đội của Vua Ajatasattu (A Xà
Thế), ngoại trừ nhà vua. Khi nghe được tin ấy, Đức Phật đọc lên những câu kệ
sau đây, vẫn có thể áp dụng trọn vẹn trong thế gian hiện tại, luôn luôn phải lo
sợ một cuộc chiến tàn khốc có thể bùng nổ bất cứ lúc nào:
"Một người
có thể cướp bóc người khác,
Cũng như có thể
phục vụ người kia.
Nhưng khi bị cướp,
Người kia chiếm
đoạt trở lại.
Và cướp bóc, chiếm
đoạt, trở đi trở lại không ngừng.
Ngày nào quả xấu
chưa đủ duyên để trổ
Người cuồng si cò
tưởng tượng:
'Thì giờ đã đến,
đây là một dịp may!'
Nhưng khi quả trổ,
phải chịu khốn khổ.
Người sát nhân gặp
kẻ sát nhân.
Người xâm lăng bị
chinh phục.
Kẻ hỗn hào bị chửi
mắng,
Người ưa quấy rầy
bị phiền nhiễu.
Vậy, theo tiến
trình diễn biến của hành vi
Kẻ cướp ắt bị
cướp. [10]"
Những lời Đức
Phật dạy Vua Kosala về cách xử sự với hàng phụ nữ cũng có nhiều ý nghĩa bổ ích.
Một hôm Vua Kosala đang hầu chuyện với Đức Phật thì có người đưa tin đến rằng Chánh
Hậu Mallika vừa hạ sanh công chúa. Vua không vui. Ở Ấn độ, thời xưa cũng như
ngày nay vẫn còn ở nhiều nơi, sanh con gái không được xem là một tin lành, vì
một vài lý do ích kỷ như vấn đề của hồi môn chẳng hạn. Trái hẳn với trào lưu tư
tưởng thời bấy giờ, Đức Phật bày tỏ lòng tôn trọng và ca ngợi đức tánh của
người đàn bà qua bốn đặc điểm sau đây:
"Một em bé
gái, Tâu ĐạiVương, có thể
Còn quý hơn đứa
con trai.
Lúc trưởng thành
Em có thể là người
trí tuệ và phẩm hạnh vẹn toàn,
Biết kính nể, tôn
trọng mẹ chồng, một người vợ hiền.
Đứa con mà sau này
em sẽ mang vào lòng
Có thể làm nên đại
sự
Và trị vì một
vương quốc vĩ đại.
Đúng vậy, đứa con
của người vợ cao thượng
Sẽ trở thành người
hướng đạo chân chính
Cho cả một quốc
gia."
Trong hàng phụ
nữ có người còn tốt hơn đàn ông. "Itthi hi pi ekacciya seyya" là
nguyên văn câu Phật ngôn. Giữa xã hội Ấn độ thới bấy giờ, trong lúc mà người
phụ nữ không bao giờ được sự kính nể xứng đáng, lời nói cao quý và đầy quả cảm
ấy thật là một khích lệ lớn lao cho nữ giới.
Khi hoàng thái
hậu, nội tổ của Vua Kosala băng hà vào năm 120 tuổi, đức vua lấy làm sầu muộn,
đến bạch với Đức Phật rằng ông có thể đổi bất cứ vật gì của ông để tìm lại sự
sống của người mà ông quý trọng và trìu mến như mẹ. Đức Phật an ủi như sau:
"Tất cả
mọi chúng sanh đều phải chết. Đời sống phải kết cuộc bằng sự chết. Cái chết
luôn luôn ở ngay trước mặt. Cũng như món đồ gốm, dầu hầm chín hay không, đều có
thể bể và phải bể một ngày nào. Đặc tính 'bể' luôn luôn dính liền với món đồ gốm.
[11]"
Vua Kosala rất
thích nghe Pháp. Dầu công việc quốc gia đại sự đa đoan thế nào ông cũng cố gắng
tìm cơ hội đến viếng Đức Phật và ắng nghe thuyết giảng. Hai bộ kinh
Dhammacetiya [12] và Kannakatthala [13] Sutta được giảng trong những trường hợp
ấy.
Chánh Hậu của
Vua Kosala, chết trước ông, là con gái của một người làm tràng hoa. Chị của Vua
Bimbisara (Bình Sa Vương) là một bà khác. Em gái của ông là chánh hậu của Vua
Bimbisara (Bình Sa Vương), mẹ A Xà Thế.
Vua Kosala có
một hoàng tử tên Vidudabha, về sau nổi loạn chống lại ông. Mẹ của vị hoàng tử
ấy là con gái của Mahanama dòng Sakya (Thích Ca) và bà ngoại của hoàng tử là
một nô tỳ. Khi cưới bà mẹ của Vidudabha, Vua Kosala không biết rằng bà là con
của một nô tỳ. Đến lúc Vidudabha lớn lên, nghe người trong thân tộc Sakya
(Thích Ca) nói vậy thì lấy làm tức giận, quyết định tàn sát hết dòng Sakya
(Thích Ca) để trả thù. Vì Vidudabha, về sau Vua Kosala phải chết một cách thê
thảm trong một cái đền ngoài thành phố. Lúc ấy chỉ có một người tùy tùng đi theo
hộ giá.
Vua Kosala băng
hà trước ngày Đức Phật nhập diệt.
Chú thích:
[1] Sutta
Nipata, Pabbajja Sutta.
[2] Xem Chương
7, và Túc Sanh Truyện số 544.
[3] Phạn ngữ
Arama chỉ có nghĩa là một khu vườn, một khuôn viên. Lúc Đức Phật thọ lãnh vườn
này, trên đó không có xây cất nhà cửa. Ngày nay danh từ Arama được dùng trong ý
nghĩa là một tu viện trong đó có chỗ ở cho các tỳ khưu.
[4] Samyutta
Nikaya, phần i, trang 64. Kindred Sayings, I, trang 94.
[5] Hoàng tử
hiếu chiến, dầu trẻ tuổi, có thể là một đại họa. Con rắn dầu nhỏ bé, có thể rất
độc. Một đóm lửa nhỏ có thể gây hỏa tai khốc liệt. Một vị tỳ khưu trẻ tuổi có
thể đắc Quả Thánh hoặc có pháp học cao siêu, thông suốt Giáo Pháp.
[6] Xem Maha
Supina Jataka, Jataka Translation, quyển I, trang 188-192, số 77.
[7] Samyutta
Nikaya, I, 68. Kindred Sayings, I, trang 94.
[8] Kindred
Sayings, phần I, trang 104-106
[9] Kindred
Sayings, phần I, trang 109-110. Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 201.
[10] Kindred
Sayings, phần I, trang 110.
[11] Xem
Kindred Sayings, phần I, trang 122.
[12] Majjhima
Nikaya, Trung A Hàm, số 89.
[13] Majjhima
Nikaya, Trung A Hàm, số 90.