VI.- Phẩm Hiền-trí
60) Tích chuyện Trưởng-lão Giả-đa - Kệ số 076 61) Tích chuyện hai vị tỳ-kheo Át-sa và Phú-na - Kệ số 077 62) Tích chuyện Tỳ-kheo Xà-nặc - Kệ số 078 63) Tích chuyện Trưởng-lão Kha-phi-na - Kệ số 079 64) Tích chuyện Sa-di Phan-di-ta - Kệ số 080 65) Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia - Kệ số 081 66) Tích chuyện tín-nữ Kha-nhã - Kệ số 082 67) Tích chuyện về mùa an-cư ở Vệ-lan-già - Kệ số 083 68) Tích chuyện Trưởng-lão Đàm-mi-kha - Kệ số 084 69) Tích chuyện những người nghe giảng pháp - Kệ số 085 và 086 70) Tích chuyện các Tỳ-kheo sau mùa an-cư - Kệ số 087, 088, 089
VII.- Phẩm A-la-hán
71) Tích chuyện về y-sĩ Kỳ-bà hỏi Đức Phật - Kệ số 090 72) Tích chuyện Tôn-giả Đại Ca-diếp ở lại Tr?-l? - Kệ số 091 73) Tích chuyện Trưởng-lão Lã-tha-sĩ - Kệ số 092 74) Tích chuyện Trưởng lão A-na-luật - Kệ số 093 75) Tích chuyện Trưởng-lão Ca-chiên-diên - Kệ số 094 76) Tích chuyện Trưởng-lão Xá-lợi-phất bị vu-cáo - Kệ số 095 77) Tích chuyện vị Sa-di ở Cô-sâm-bi - Kệ số 096 78) Tích chuyện về một lời nói của Đại-Đức X?lợi-phất - Kệ số 097 79) Tích chuyện Trưởng-lão Lê-va-ta - Kệ số 098 80) Tích chuyện về một người đàn-bà quyến-rũ - Kệ số 099
VIII.- Phẩm Ngàn
81) Tích chuyện người đao-phủ Tam-b?đà - Kệ số 100 82) Tích chuyện về Bá-hi-gia - Kệ số 101 83) Tích chuyện Ni-cô Khuôn-đà-la - Kệ số 102 và 103 84) Tích chuyện thanh-niên Bà-la-môn Anh-tha-bút - Kệ số 104 và 105 85) Tích chuyện người cậu của Tôn-giả Xá-lợi-phất - Kệ số 106 86) Tích chuyện người cháu của Tôn-giả Xá-lợi-phất - Kệ số 107 87) Tích chuyện người bạn của Tôn-giả Xá-lợi-phất - Kệ số 108 88) Tích chuyện về cậu bé Trường-Thọ - Kệ số 109 89) Tích chuyện Sa-di Sầm-khí-ca - Kệ số 110 90) Tích chuyện Tôn-giả Khuôn-đà-na - Kệ số 111 91) Tích chuyện Trưởng-lão Xà-nô - Kệ số 112 92) Tích chuyện Nữ-Trưởng-lão Phả-tha-ca - Kệ số 113 93) Tích chuyện Nữ-Trưởng-lão Kỷ-sa-cơ - Kệ số 114 94) Tích chuyện Nữ-Trưởng-lão Bá-hư-phù - Kệ số 115
IX.- Phẩm Ác
95) Tích chuyện vợ chồng ông Cù-lê-kha - Kệ số 116 96) Tích chuyện Tỳ-kheo Sĩ-gia-sa - Kệ số 117 97) Tích chuyện Thiên-nữ Lã-giai - Kệ số 118 98) Tích chuyện Trưởng-giả Cấp-cô-độc - Kệ số 119 và 120 99) Tích chuyện một vị tỳ-kheo cẩu-thả - Kệ số 121 100) Tích chuyện ông nhà giàu Bình-lập - Kệ số 122 101) Tích chuyện thương-gia Đại-Đà-na - Kệ số 123 102) Tích chuyện vợ chồng người thợ săn Kh?-cư - Kệ số 124 103) Tích chuyện người thợ săn Cổ-kha - Kệ số 125 104) Tích chuyện viên hồng-ngọc - Kệ số 126 105) Tích chuyện về ba nhóm Tỳ-kheo - Kệ số 127 106) Tích chuyện vương-tử Thiện-giác trang - Kệ số 128
X.- Phẩm Hình-phạt
107) Tích chuyện hai nhóm Tỳ-kheo đ?h nhau - Kệ số 129 108) Tích chuyện một nhóm Tỳ-kheo hay doạ-nạt - Kệ số 130 109) Tích chuyện một lũ trẻ đập rắn - Kệ số 131 và 132 110) Tích chuyện Trưởng-lão Khuôn-đà-na - Kệ số 133 và 134 111) Tích chuyện các bà thọ Bát-quan-trai - Kệ số 135 112) Tích chuyện con trăn - Kệ số 136 113) Tích chuyện Tôn-giả Đại Mục-kiền-liên - Kệ số 137, 138, 139 và 140 114) Tích chuyện Tỳ-kheo Bá-hộ-thăng - Kệ số 141 115) Tích chuyện vị đại-thần San-tạ-tị - Kệ số 142 116) Tích chuyện Trưởng-lão Phí-lộ-thi - Kệ số 143 và 144 117) Tích chuyện vị Sa-di Sử-kha - Kệ số 145
XI.- Phẩm Già
118) Tích chuyện về các bạn đạo của bà Vi-sa-kha - Kệ số 146 119) Tích chuyện nàng Sĩ-mã - Kệ số 147 120) Tích chuyện Tỳ-kheo-ni Úc-ta-ra - Kệ số 148 121) Tích chuyện các tỳ-kheo tự-phụ - Kệ số 149 122) Tích chuyện công-chúa Gia-nhã-ba - Kệ số 150 123) Tích chuyện Hoàng-hậu Mạt-lợi - Kệ số 151 124) Tích chuyện Tỳ-kheo Lã-lưu - Kệ số 152 125) Tích chuyện Đức Phật thành Đạo - Kệ số 153 và 154 126) Tích chuyện con ông Đại-đà-na - Kệ số 155 và 156 |
-ooOoo-
VI.- Phẩm Hiền-Trí.
(60).- Tích chuyện Trưởng-lão Giả-đa.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Giả-đa, trước vốn là một người Bà-la-môn nghèo-khó.
Thuở ấy, có một người Bà-la-môn nghèo-khó tên là Giả-đa, đến sống ở một tu-viện, làm công-việc tạp-dịch trong chùa và được các tỳ-kheo nuôi cơm, cung-cấp cho những nhu-cầu cần-thiết trong đời sống hằng ngày. Giả-đa rất mong-muốn được gia-nhập Tăng-đoàn, nhưng chẳng được các vị Tỳ-kheo khuyến-khích.
Sáng sớm hôm ấy, Đức Phật trong cơn Thiền-định, quán-sát khắp pháp-giới, thấy Giả-đa có đủ cơ-duyên để chứng-đắc quả-vị A-la-hán. Ngài liền đi đến tu-viện, gặp Giả-đa, và được Giả-đa trình rằng lòng mình mong-muốn được xuất-gia thọ-giới Tỳ-kheo, nhưng các tu-sĩ trong chùa chẳng ai hoan-nghinh việc ấy cả. Đức Phật nhận thấy lòng thành của Giả-đa, mới cho tập-họp chư Tăng lại và hỏi rằng: ‘Này các vị tỳ-kheo, trong số các vị ở đây, có ai còn nhớ một hành-động thiện mà Giả-đa đã làm cho mình không?" Tôn-giả Xá-lợi-phất liên thưa rằng: ‘Con còn nhớ Giả-đa có lần đã nhường cho con một muỗng cơm." Đức Phật bảo: "Nếu quả thật như vậy, tại sao ông chẳng giúp-đỡ người thí-chủ của ông là Giả-đa được giải-thoát khỏi mọi khổ-đau của cuộc đời?" Tôn-giả hiểu ý Phật, mới thâu-nhận Giả-đa làm đệ-tử, chỉ dạy cho Chánh-pháp và đường-lối tu-hành để được thoát khổ. Chẳng bao lâu, Giả-đa tinh-tấn tu-hành, vâng theo lời giáo-huấn của Tôn-giả Xá-lợi-phất, và chứng-đắc được đạo-quả A-la-hán.
Vào một dịp khác, Đức Phật đến viếng tu-viện, các tỳ-kheo trình Phật sự-việc Giả-đa biết nghe theo lời hướng-dẫn của Tôn-giả Xá-lợi-phất mà chuyên-cần, tinh-tấn tu-hành. Đức Phật khuyên mọi người nên noi gương tốt của Giả-đa, biết nghe lời thầy dạy, khi bị quở-phạt chẳng nên oán-trách thầy.
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Gặp ai vạch lỗi mình, rồi chỉ-dạy,
Đó là người hiền-trí, phải noi theo,
Như theo kẻ dẫn đường tìm kho báu.
Được kết-hợp với người hiền như thế,
Lợi lớn cho mình, chẳng tệ chi đâu.
(Kệ số 076.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Giả-đa: tên thật của Trưởng-lão, tiếng Pali là Ràdha.
- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ trong xã-hội Ấn-độ. Có bốn giai-cấp: (1) Bà-la-môn, (2) Sát-đế-lợi (vua, quan), (3) Phệ-xá (buôn-bán), (4) Thủ-đà-la (nông-dân, thợ-thuyền).
- Công-việc tạp-dịch = công-việc lặt-vặt.
- Nhu-cầu = các điều cần-dùng.
- Pháp-giới: thế-giới, tất cả sự-vật trên hoàn-cầu. Tiếng thường là thế-giới; tiếng chuyên-môn Phật-học là pháp-giới. Pháp = tất cả sự-vật.
- Hoan-nghinh: Hoan =vui, hoan-hỉ; Nghinh = đón. Hoan-nghinh là vui lòng tiếp-nhận.
- Xá-lợi-phất: tên thật của Tôn-giả, tiếng Pali là Sariputta ( =con bà Sari). Tôn-giả là đại-đệ-tử của Đức Phật, nổi tiếng là đệ-nhứt Trí-huệ. Tôn-giả thường được Đức Phật mời lên ngồi chung, để thuyết-pháp. Hiện còn ngôi tháp thờ Tôn-giả, tại làng Na-lan-đà, Ấn-độ.
- Được giải-thoát mọi khổ-đau của cuộc đời: Ý Phật muốn bảo, chỉ cho cách tu-hành để được giải-thoát.
- Thí-chủ: Thí = hiến-tặng, cho; Chủ = người chủ; Thí-chủ, hay Thí-giả, là người đem của-cải ra bố-thí. Còn gọi là đàn-việt.
- Đệ-tử = học-trò.
- Chánh-pháp = đường-lối tu-hành đúng-đắn.
- Giáo-huấn = dạy-dỗ, huấn-luyện.
- Hiền-Trí: hiền-lành và có Trí-huệ. Còn gọi là Thiện-tri-thức.
- Kết-hợp = làm bạn, sống gần bên.
- Tệ = xấu, ác.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc Trưởng-lão Giả-đa, một người Bà-la-môn giúp việc trong chùa, nhờ sự can-thiệp của Đức Phật mà được Tôn-giả Xá-lợi-phất thâu-nhận làm đệ-tử, rồi nghe theo lời dạy của thầy, tinh-tấn tu-hành, đắc được quả-vị A-la-hán.
Ý-nghĩa quan-trọng của Tích chuiyện là nếu gặp được bực hiền-trí chỉ-dạy cho mình, thì nên cố-gắng tuân theo, chẳng nên bất-mãn khi bị quở-trách vì lỗi-lầm.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 076:
Thử phân-tách bài Kệ:
- Gặp ai vạch lỗi mình, rồi chỉ-dạy: khi bị ai chỉ-trích mình, chớ nên nóng-giận vì tự-ái; trái lại hãy bình-tỉnh nghe lời người chỉ-dạy, để sửa đổi lại theo con đường phải.
- Đó là người hiền-trí, phải noi theo: người
vạch lỗi mình rồi chỉ-dạy cho mình là muốn cho mình trở nên người tốt,
vì thế mình nên nghe theo lời người ấy chỉ-dạy. Người như thế là bực hiền-trí: hiền, vì muốn cho mình được tốt hơn lên; trí, vì người nhận thấy rõ lỗi của mình và chỉ cho mình cách sửa lại.
- Như theo kẻ dẫn đường tìm kho-báu: Kho-báu ở đây có nghĩa là điều quí-báu, tức là con đường chơn-thiện, đưa ta tới nơi giác-ngộ và giải-thoát, như trường-hợp của Trưởng-lão Giả-đa, theo lời dạy của Tôn-giả Xá-lợi-phất, để tu-tập chứng được quả-vị cao-quí là quả A-la-hán, vĩnh-viễn thoát mọi khổ-đau của cuộc đời.
- Được kết-hợp với người hiền như thế, Lợi lớn cho mình, chẳng tệ hơn: đây là lợi-lạc to lớn được sống gần bên người hiền-trí, nhờ đó mà ta trở nên người chơn-thiện, chẳng có tệ-hại chút nào cả.
HỌC TẬP:
- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ: chẳng nên tự-ái sằng, mỗi khi nghe ai chỉ-trích và chỉ-dạy cho mình. Người ấy là người ơn của mình.
(61).- Tích chuyện hai vị tỳ-kheo Ất-sa và Phú-na.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến hai vị tỳ-kheo tên là Ất-sa và Phú-na vi-phạm giới-luật.
Thuở ấy, ở làng Kỳ-tà, nước Xá-vệ, tại một tu-viện nọ, có hai vị tỳ-kheo tên là Ất-sa và Phú-na, cùng với năm trăm đồ-đệ, sống về nghề trồng-trọt rau-cải và cây ăn trái. Vì chẳng theo hạnh khất-sĩ nên các vị tu-sĩ nầy đã vi-phạm giới-luật. Bấy giờ, Đức Phật nghe tin đó, mới sai hai vị đại-đệ-tử là Tôn-giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên đi đến làng Kỳ-tà, và ra lịnh cho các tỳ-kheo chẳng được sanh-sống về nghề trồng-trọt nữa. Đức Phật căn-dặn: "Nếu họ chẳng vâng lời, các ông đừng ngần-ngại chi mà đuổi họ ra khỏi chùa, vì hành-động vi-phạm giới-luật của họ gây tai-hại lớn, làm giảm mất lòng tin-tưởng của dân-chúng vào đạo-pháp."
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Hãy nghe ông ấy rầy la,
Giúp mình, chỉ dạy, tránh xa đường tà.
Người hiền quí-mến ông ta,
Chỉ có kẻ dữ mới là ghét ông.
(Kệ số 077.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Ất-sa: tên thật vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Assaji
- Phú-na: tên thật vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Punabhasuka.
- Kỳ-tà: tên thật làng nầy, tiếng Pali là Kìtàgiri.
- Vi-phạm giới-luật: làm trái với điều răn-cấm.
- Hạnh khất-sĩ: Hạnh = hanh-kiểm, lối sống; Khất =đi xin ăn; Sĩ = người; tu-sĩ. Đức Phật đặt ra hạnh khất-sĩ để
buộc chư tăng-ni chẳng được có nghề sanh lợi, phải cúi mình xuống đi
xin ăn, để diệt lòng kiêu-mạn, và có dịp gặp-gỡ dân-chúng cúng-dường để
chỉ-dạy Đạo cho họ.
- Giới-luật: các điều răn-cấm trong Đạo, cốt để ngăn-ngừa tội-ác.
- Đường tà: Tà = cong-queo, xiêng-xéo; Đường tà là đường tội-lỗi
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện nêu lên sự vi-phạm giới-luật của hai vị tỳ-kheo: có nghề sanh lợi và chẳng theo hạnh khất-sĩ. Tại sao lại cấm tu-sĩ có nghề sanh lợi? Vì khi sanh lợi, ta thường mong muốn có nhiều lợi, đó là lòng tham, cần phải diệt bỏ. Tại sao phải theo hạnh khất-sĩ? Hạnh nầy diệt lòng kiêu-mạn, vì phải dẹp lòng tự-ái xuống để đi xin ăn mà sống. Hạnh nầy tạo nên cơ-hội gặp-gỡ giữa người tu-sĩ và dân-chúng, để có thể chỉ-dạy đường tu cho họ.
Ý-nghĩa quan-trọng của Tích chuyện: người tu-hành mà vi-phạm giới-luật sẽ làm giảm lòng tin của dân-chúng vào Đạo-pháp.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 077:
Bài Kệ nói về sự chỉ-dạy nghiêm-khắc, rầy la, của bực hiền-trí. Bực hiền-trí thấy lỗi-lầm của con-em, cần phải quở-trách để chúng đừng tái-phạm, lại nên chỉ cho chúng con đường phải mà theo.
Trước lời thẳng-thắn quở-trách, người biết điều thì sẽ thầm cám ơn bực đã chỉ-dạy mình; còn kẻ hung-dữ, trái lại thì oán-ghét, xem như gặp kẻ thù. Đó là lẽ thường-tình ở đời, người tu-hành chớ nên bắt-chước làm theo kẻ dữ.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ nầy, cùng với bài Kệ trước, để ghi nhớ, chớ có tự-ái sằng, mỗi khi bị quở, nên tỏ lòng biết ơn người chỉ-dạy mình
2.- Biết rằng, lời phải thường trái tai, khó nghe, nhưng đối với những người mình có trách-nhiệm dìu-dắt, chớ nên sợ mếch lòng mà chẳng quở-trách. Một lỗi nhỏ bỏ qua, sẽ khiến con-em xem thường mà phạm lỗi nặng hơn.
(62).- Tích chuyện Tỳ-kheo Xà-nặc.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Tỳ-kheo tên Xà-nặc, vốn là người giữ ngựa cho Thái-tử Tất-đạt-ta.
Xà-nặc là người giữ ngựa, theo hầu Thái-tử Tất-đạt-ta khi Thái-tử lià bỏ cung vàng điện ngọc, vượt qua cửa Đông thành Ca-tỳ-la-vệ, cởi ngựa vào rừng, trên đường đi tìm Chơn-lý và Đạo-pháp. Đến khi Thái-tử thành Đạo, chứng ngôi Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thì Xà-nặc trở thành một vị tỳ-kheo. Tỳ-kheo Xà-nặc thường tự-hào rằng mình là người duy-nhứt thân-cận bên Phật ngay tự buổi đầu, nên ganh-tị với điạ-vị ngày nay của các Tôn-giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên, trong Tăng-đoàn. Ông ta thường ba-hoa với mọi người: "Khi Thái-tử vượt thành vào rừng đi tu, ta là người luôn luôn ở bên cạnh; bấy giờ nào đã có Xá-lợi-phất, hay Mục-kiền-liên đâu; cớ sao nay họ lại vênh-vang xưng với chư Tăng, họ là đại-đệ-tử của Đức Phật?" Đức Phật nghe thấy, nhiều lần gọi Xà-nặc đến bên cạnh, khuyên răn: "Ông nên thay đổi thái-độ ngay, chớ có lời vô-lễ với hai vị tỳ-kheo đức-hạnh đó. Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên là những người bạn tốt của chư Tăng, ông nên thân-cận và cung-kính họ." Xà-nặc lẵng-lặng nghe lời Phật nói, nhưng lòng vẫn chẳng chịu tuân theo.
Bấy giờ, Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Chớ kết bạn đường với phường ngu-ác,
Chẳng giao-du thân-mật các bọn tà.
Ráng chọn bạn hiền-lương mà giao-thiệp;
Cùng người cao-đức kết-hiệp tình thân.
(Kệ số 078.)
Mặc dầu nhiều lần được Đức Phật khuyên-can, chỉ-dạy, Xà-nặc vẫn giữ thái-độ ngoan-cố, thường có lời hỗn-hào đối với hai vị đại-đệ-tử. Đức Phật biết Xà-nặc là người khó-trị, nên lúc Ngài sắp nhập Niết-bàn, gọi Tôn-giả A-nan đến bên cạnh, trối rằng: "Đối với Xà-nặc ngoan-cố, nên áp-dụng hình-phạt nặng-nề nhứt là cô-lập hắn, đừng cho tỳ-kheo nào giao-du với hắn nữa." Nhưng đến khi Đức Phật nhập-diệt, Xà-nặc đau-buồn thái-quá, nhiều lần ngất-xỉu, hối-hận chẳng biết vâng lời Đức Phật lúc Ngài còn tại thế-gian. Xà-nặc mới đến xin sám-hối tội-lỗi với hai vị Tôn-giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên. Từ đó, Xà-nặc tinh-tấn tu-hành, chẳng bao lâu đắc quả-vị A-la-hán.
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Xà-nặc: tên thật người giữ ngựa nầy, tiếng Pali là Channa.
- Thái-tử Tất-đạt-ta: Thái-tử = con trai lớn của Vua, sẽ được nối ngôi; Tất-đạt-ta: tên thật của Thái-tử, tiếng Pali là Siddhattha, con vua Tịnh-phạn (Suddhodana). Theo Kinh sách, Thái-tử sau khi đi viếng bốn cửa thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu), thấy cảnh bịnh, già, chết và gặp một vị tu-sĩ, mới quyết-định bỏ cung vàng điện ngọc đi tu. Sau sáu năm khổ-hạnh, chọn con đường Trung-đạo, tu-sĩ Tất-đạt-ta ngồi thiền bốn mươi chín ngày đêm dưới cội Bồ-đề, chứng-đắc chánh-quả mà thành Phật, hiệu là Thích-ca mâu-ni (Sakya Muni).
- Ngôi Chánh-đẳng Chánh-giác: quả-vị Phật, tức là thành Phật.
- Thân-cận: Thân = thân-thích; Cận = gần. Thân-cận là ở gần bên cạnh luôn.
- Ganh-tị = cà-nanh, ghen-ghét.
- Tăng-đoàn = đoàn-thể các vị Tỳ-kheo.
- Ba-hoa = nói lời phách-lối, om lên chẳng dứt.
- Vênh-vang = thái-độ phách-lối, kiêu-căng trong lời nói và cử-chỉ.
- Đại-đệ-tử = học-trò lớn, đồ-đệ cao-cấp, giỏi.
- Bạn đường = người cùng đi chung một đường với mình. Ở đây là những người đồng-tu với nhau.
- Phường ngu-ác = bọn người dốt-nát, dữ-dằn.
- Giao-du, Giao-thiệp: chơi-bời với nhau, thân-thích với nhau.
- Bọn tà = bọn ác-tà, bọn xấu dữ, làm điều quấy.
- Cao-đức = có đức-hạnh cao-quí; người hiền-lành và có trí-huệ.
- Ngoan-cố = cứng đầu, chẳng chịu nghe theo lời phải.
- Nhập Niết-bàn: rời bỏ xác thân, vào cảnh tịch-diệt. Nghĩa thông-thường là chết đi. Còn gọi là nhập-diệt. (Nhập = vào; diệt = chết mất.)
- Tôn-giả A-nan = tên thật của tôn-giả, tiếng Pali là Ànanda, tôn-giả là người thị-giả ( =hầu-cận) của Đức Phật Thích-ca.
- Hình-phạt nặng-nề nhứt: địch chữ Brahmadanda, tiếng Pali. Danda có nghĩa là hình-phạt. Brahma, ở đây,nghĩa là cao nhứt, nặng nhứt.
- Cô-lập: Cô = cô-độc, một mình, trơ-trọi; Lập = đứng. Cô-lập một người là chẳng cho ai gần với người ấy cả. Tiếng bình-dân gọi là tẩy chay.
- Sám-hối = ăn-năn, xin thú-tội và hứa từ nay sẽ chẳng tái-phạm.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại sự-việc Xà-nặc ỷ mình là người theo Phật từ buổi đầu mà tỏ ra phách-lối với mọi người và vô-lễ với hai vị đại-đệ-tử của Đức Phật. Xà-nặc
lại còn ngoan-cố, chẳng biết theo lời khuyên của Phật. Chỉ sau khi Phật
nhập-diệt rồi, Xà-nặc mới hối-hận, sám-hối tội-lỗi với hai vị Tôn-giả
và chuyên-cần tu-hành mới chứng được quả-vị A-la-hán.
Ý-nghĩa quan-trọng của Tích chuyện là phải biết nghe theo lời của người có đức-hạnh, thân-cận bên họ, mới có lợi cho đường tu.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 078:
Ý-nghĩa của bài Kệ rất rõ-ràng: nên chọn bạn mà kết-thân, xa người ngu-ác, gần người hiền-lương, có đức-hạnh.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ để đọc lên cho con-em nghe, mỗi khi muốn khuyên chúng nên xa-lánh bạn-bè chẳng tốt.
2.- Tập bỏ tánh ỷ-lại: ỷ-lại là dựa thế của người khác mà tự coi mình cao hơn; đó là lòng kiêu-căng sái chỗ, cần dẹp bỏ. Xin đề-nghị:
- đừng tự-hào về giai-cấp, địa-vị, tiền-của của mình: giá-trị con người chính ở nơi đức-hạnh, chớ đâu phải ở nhà cao, xe đẹp, có con "làm lớn"! Càng tỏ ra nhũn-nhặn, mới càng quí.
- lạy sám-hối trước tượng Phật: lạy là một hình-thức dẹp bỏ lòng kiêu-căng bên trong của mình, khi mình cúi đầu sát đất.
(63).- Tích chuyện Trưởng-lão Kha-phi-na.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lạo Kha-phi-na, vốn là vị Vua ở Cúc-khư, xúất-gia cùng với các vị đại-thần của mình.
Thuở ấy, vua Kha-phi-na cùng với các vị đại-thần, đi du-ngoạn trong vườn thượng-uyển. Ngài gặp được một nhóm thương-gia từ nước Xá-vệ đến, thuật chuyện có Đức Phật cùng Tăng-đoàn đang tu-hành ở chùa Kỳ-viên. Vua Kha-phi-na liền cùng với các vị đại-thần lên đường đến gặp Đức Phật.
Bấy giờ, sau cơn Thiền định buổi sáng, Đức Phật quán-thấy đã
đến cơ-duyên độ cho vua Kha-phi-na và các vị đại-thần được thành
chánh-quả, mới rời chùa Kỳ-viên, đi đến nửa đường để gặp Vua. Đức Phật
cùng chư Tăng đi đến ngồi chờ, dưới cội cây Bồ-đề bên đường, gần bờ
sông Càn-đà. Khi Vua Kha-phi-na và quần-thần đi đến, từ xa đã trông-thấy hào-quang rực-rỡ của Đức Phật rạng-chiếu lên. Họ đến đảnh-lễ dưới chơn Phật và được Đức Phật giảng pháp cho nghe. Sau thời pháp, tất cả đều chứng được sơ-quả Tu-đà-huờn. Vua và các quan đồng qùi xuống, thỉnh-cầu Đức Phật cho xuất-gia và thọ-giới tỳ-kheo. Đức Phật vui-vẻ liền nói: "Thiện Lai! Tỳ-kheo!", chấp-nhận tất cả vào Tăng-đoàn. Vua cùng quần-thần liền theo chơn Đức Phật trở về tịnh-xá Kỳ-viên.
Lúc bấy giờ, Hoàng-hậu An-nỡ-gia hay tin Vua đã rời kinh-thành đi đến Xá-vệ, bà liền mời các phu-nhơn các vị đại-thần, tập-hợp nhau, lên đường đi tìm Vua. Khi họ đến chùa Kỳ-viên, Đức Phật đang giảng-pháp cho Vua và các quan nghe, nhưng với sức thần-thông của Đức Phật, Hoàng-hậu và các vị phu-nhơn chẳng trông thấy Vua và các quan đang ngồi đó. Hoàng-hậu qùi tâu với Đức Phật ý-định đi tìm chồng. Đức Phật bảo hãy chờ một chút, sau thời kinh, sẽ gặp. Khi Phật chấm dứt bài giảng, các vị phu-nhơn nhìn lên, trông thấy các ông chồng của họ đang trong lớp áo tỳ-kheo, họ liền qùi xin Đức Phật cho họ được gia-nhập hàng-ngũ tu-hành. Đức Phật chấp-thuận cho họ được vào nữ-tu-viện của các Tỳ-kheo-ni ở Xá-vệ.
Trong thời gian cư-trú tại chùa Kỳ-viên, tỳ-kheo Kha-phi-na ngày đêm thường thốt lên lời nói nầy: ‘Ôi! Hạnh-phước biết bao!" Chư Tăng nghe thấy như thế, mới đến thưa trình cùng Đức Phật. Phật bảo: ‘Tỳ-kheo
Kha-phi-na đang thấm-nhuần trong Chánh-pháp, cảm thấy một nguồn sung-sướng vô-biên nơi tâm-khảm, cho nên mới thốt lên lời tán-thán cõi an-lạc Niết-bàn tịch-diệt."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người thấm-nhuần Chánh-pháp,
Sống trong niềm hoan-lạc,
Tâm thanh-tịnh an-nhiên.
Người hiền-trí lòng luôn thoả-thích
Trong Chánh-pháp do bực Thánh truyền.
(Kệ số 079.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Kha-phi-na: tên thật của vị Vua nầy, tiếng Pali là Mahàkappina.
- Cúc-khư: tên nước nầy, tiếng Pali là Kukkutavatì.
- An-nỡ-gia: tên thật của Hoàng-hậu, tiếng Pali là Anojà.
- Càn-đà: tên con sông nầy, tiếng Pali là Candabhaga.
- Du-ngoạn: Du = đi chơi đó đây: Ngoạn = ngắm xem. Đi đạo.
- Thượng-uyển = vườn hoa của Vua.
- Thương-gia = người sống về nghề buôn-bán.
- Độ = cứu-độ = giúp-đỡ. Tiếng Hán-Việt Độ có nghĩa là đưa qua sông; ở đây, chữ độ có nghĩa là giúp-đỡ, chỉ-dạy giáo-pháp cho người khác, để họ tu-hành, vượt qua được các sự mê-lầm, thoát khổ.
- Chánh-quả: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Quả = kết-quả, quả-vị. Chánh-quả là đạt được kết-quả chánh-đáng, tốt, của sự tu-hành.
- Hào-quang: ánh-sáng rực-rỡ toả ra từ các bực tu-hành đắc quả.
- Đảnh-lễ: cúi đầu làm lễ tỏ lòng tôn-kính.
- Sơ-quả: Sơ = sơ-đẳng, bước đầu, thứ-nhứt; Quả = quả-vị. Sơ-quả là quả-vị đầu-tiên, thấp nhứt trong bốn quả-vị của hàng Thanh-văn.
Bốn quả-vị nầy chia ra: bực Hiền có Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm; bực Thánh là A-la-hán. Đến quả A-la-hán, chứng được cảnh Vô-sanh của cõi Niết-bàn. (Vô-sanh = chẳng còn bị tái-sanh trong cảnh Luân-hồi nữa).
- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Xuất-gia là rời nhà, lià-bỏ đời sống thế-tục, vào chùa tu-hành. Trái với xuất-gia là tại-gia, còn ở nhà, sống đời người thường mà tu-hành theo đạo Phật.
- Thọ giới Tỳ-kheo: làm lễ xin theo đúng 250 điều răn-cấm của vị Tỳ-kheo. Còn gọi là thọ Cụ-túc-giới. Về phiá Tỳ-kheo-ni, có 348 giới.
- Thiện Lai! Tỳ-kheo!: dịch tiếng Pali là "Ehi Bhikkhù!"; Thiện = lành; Lai = đến. Đây là lời Đức Phật nói khi hoan-nghinh người mới gia-nhập Tăng-đoàn.
- Phu-nhơn = người vợ của các bực giàu-sang, quyền-thế.
- Đại-thần: Đại = lớn; Thần = ở đây là quan. Đại-thần là Quan lớn.
- Sức thần-thông: quyền-năng đặc-biệt có hiệu-lực khác thường; như có thể bay bổng, đi trên mặt nước, v.v.
- Tỳ-kheo-ni: phụ-nữ thọ giới Cụ-túc (348 điều), tu-hành sống trong nữ-tu-viện ( = chuà dành riêng cho các sư-nữ.)
- Thấm-nhuần: Thấm = thấm vào; Nhuần = nhuần-nhã. Thấm-nhuần Chánh-pháp là hiểu rõ rành-rẽ lời dạy của Đức Phật ghi trong Kinh-kệ.
- Vô-biên: Vô =chẳng có; Biên = bờ bến; biên-giới. Vô-biên là to lớn, rộng-rãi đến chẳng có bờ bến nào cả.
- Tâm-khảm = sâu trong lòng.
- Tán-thán = khen-ngợi.
- An-lạc = yên-vui.
- Niết-bàn = cõi an-vui, thường còn, chẳng còn tái-sanh nữa, sống mãi trong cảnh tịch-diệt ( = yên-lặng, vắng-vẻ). Tiếng Pali là Nirvana, có
nghĩa là ra khỏi rừng u-tối của các phiền-não. Niết-bàn chẳng phải là
nơi chốn nào trong không-gian, chính là tâm-trạng yên-vui của người
khỏi bị tái-sanh nữa.
- Hoan-lạc = vui-sướng.
- An-nhiên = yên-ổn, tự-do, tự-tại, chẳng bị ràng-buộc.
- Thoả-thích = vui thích, thích-chí.
- Bực Thánh truyền: do bực Thánh chỉ dạy, trao-truyền lại.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang ý-nghĩa quan-trọng sau đây: hạnh xả-ly, lià-bỏ chốn giàu-sang để chọn con đường tu-hành giác-ngộ và giải-thoát.
Noi theo gương của Thái-tử Tất-đạt-ta, vua Kha-phi-na, Hoàng-hậu A-nở-gia, các quan đại-thần cùng các vị phu-nhơn đã từ-khước sự sung-sướng vật-chất của cuộc đời quyền-quí, xuất-gia tu-hành, nhằm vào mục-tiêu chứng-đắc Niết-bàn an-lạc và tịch-diệt vì đó mới là hạnh-phước chơn-thật và bền-vững.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 079:
Bài Kệ nói lên sự sung-sướng về tinh-thần của người thấm-nhuần Chánh-pháp: tâm thanh-tịnh, an-nhiên, lòng luôn hoan-lạc. Người như thế được gọi là người hiền-trí, biết thoả-thích trong sự thông-hiểu Chánh-pháp và ứng-dụng Chánh-pháp vào cuộc đời tu-hành của mình.
HỌC TẬP:
Học thuộc lòng bài Kệ, nên thường đọc lên, mỗi khi cảm thấy thiếu hăng-hái trong việc tụng-kinh, niệm Phật hằng ngày.
(64).- Tích chuyện Sa-di Phan-di-ta.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến vị Sa-di tên là Phan-di-ta.
Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một cậu bé bảy tuổi, tên là Phan-di-ta, con của một người rất giàu-có, được thâu-nhận làm Sa-di và theo học với Tôn-giả Xá-lợi-phất. Một buổi sáng, cậu Phan mang bình bát, theo chơn Thầy đi khất-thực. Dọc đường, cậu thấy các nông-phu đang đào mương dẫn nước vào tưới ruộng. Cậu liền bạch với Tôn-giả: "Bạch Thầy, nước kia chẳng có ý-thức, có thể nào ta khiến cho nước phải chảy đúng theo chiều-hướng mình muốn không?" Tôn-giả đáp: ‘Ừ, được chớ!" Cả hai lại tiếp-tục lên đường. Một lát, cậu bé nhìn vào khu xóm, thấy các thợ làm cung tên, đang hơ lửa khúc tre để uốn thẳng làm các mũi tên. Đi được một đỗi đường nữa, Phan-di-ta nhìn thấy một người thợ mộc bào, đẽo một tấm ván để làm bánh xe. Phan-di-ta mới ngẫm-nghĩ trong lòng: "Nếu nước kia là vật vô-tri mà có thể chảy xuôi theo chiều-hướng mình muốn, nếu cành tre vô-tri cong kia có thể uốn lại cho thẳng, nếu tấm ván vô-tri có thể đem đẽo thành bánh xe, tại sao ta đây có tâm tri-giác, lại chẳng thể điều-phục được tâm mình mà thực-hành Thiền Minh-sát?"
Nghĩ đến đấy, Phan-di-ta liền xin phép Thầy cho quay về tịnh-xá, rồi vào phòng riêng, ngồi xuống trong tư-thế toạ-thiền. Phan tập-trung tư-tưởng, quán-chiếu thân bất-tịnh, lòng rất nhiệt-thành, chẳng hề xao-lãng. Bấy giờ, Vua Trời Đế-thích và chư Thiên thấy nỗ-lực phi-thường của Phan, nên đến giữ-gìn chung quanh tịnh-xá thật yên-tịnh. Trước giờ ngọ-trai, Sa-di Phan-di-ta chứng đắc được đạo-quả thứ ba là A-na-hàm.
Lúc ấy, Tôn-giả Xá-lợi-phất vừa đi khất-thực về đến tịnh-xá, định đem cơm vào cho Phan-di-ta. Tại chùa Kỳ-viên, Đức Phật dùng thiên-nhãn thấy Sa-di Phan-di-ta sắp chứng được quả-vị thứ tư là A-la-hán, Ngài liền đi đến tịnh-xá, hỏi chuyện Tôn-giả, mục-đích là ngăn Tôn-giả, đừng vào phòng ngay, để cho Phan-di-ta tiếp-tục hành-thiền. Trong khi Tôn-giả Xá-lợi-phất đang bận hầu chuyện với Đức Phật, Sa-di Phan-di-ta chứng-đắc được ngôi-vị A-la-hán, chỉ có tám ngày sau khi được thâu-nhận vào tu trong chùa.
Thuật lại chuyện Sa-di Phan-di-ta đắc quả-vị, Đức Phật bảo chư Tỳ-kheo rằng: "Khi một tu-sĩ nhiệt-tâm hành-thiền đúng theo Chánh-pháp, thì ngay cả Vua Trời Đế-Thích cũng đến ủng-hộ."
Rồi Đức Phật nói lên bài kệ sau đây:
Người làm ruộng đào mương dẫn nước,
Kẻ làm tên chuốt vót mũi tên,
Bác thợ mộc uốn ngay tấm ván,
Bực hiền-trí điều-phục tâm mình.
(Kệ số 080.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Phan-di-ta: tên thật của vị Sa-di nầy tiếng Pali là Pandita
- Sa-di: người trẻ tuổi vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ-giới Tỳ-kheo. Tiếng Pali là Sàmanera.
- Đào mương: đào đất thành một rảnh nhỏ cho nước chảy vào.
- Có ý-thức: Ý = ý-tưởng; Thức = biết. Có ý-thức là đang làm gì, nói gì, nghĩ gì, trong lòng biết rõ việc mình làm, nói hay nghĩ. Trái lại với có ý-thức là sự vô-ý, chẳng để-ý đến. Ở đây, nói nước chẳng có ý-thức là muốn nói nước là vật vô-tri, chẳng biết gì. Trong Phật-học, các sự-vật vô-tri được gọi là vật vô-tình, chẳng có tình-cảm; trái với vật hữu-tình, có tình-cảm, biết đau-đớn, biết nghĩ-suy như con người hay loài thú.
- Vô-tri: Vô = chẳng có; Tri = biết.
- Tri-giác = Tri = biết; Giác = hiểu rõ.
- Thiền Minh-sát: Thiền = phép tu về Trí-huệ, giữ tâm trong sự yên-tịnh; thường dịch là tĩnh-lự (tĩnh =yên-tịnh; lự =suy-nghĩ); Minh = sáng; Sát = quan-sát, xem xét kỹ, nhìn vào trong tâm mình. Phép Thiền Minh-sát, tiếng Pali là Vipassana, theo dõi từng biến-chuyển một của tâm.
- Điều-phục: Điều = điều-khiển; Phục = chế-phục. Điều-phục tâm là nắm quyền chủ-động, chẳng để tâm chạy buông-lung theo cảnh bên ngoài, cũng chẳng cho các vọng-tưởng nổi lên trì-kéo tâm bên trong.
- Toạ-thiền: Toạ = ngồi. Toạ-thiền là ngồi thiền trong tư-thế kiết-già hay bán-già. Ngồi kiết-già, hai bàn chơn tréo lên hai đùi; bán-già thì một bàn chơn gát lên đùi, bàn chơn kia để dưới đùi.
- Tập-trung tư-tưởng = giữ cho tư-tưởng chú-ý vào một đề-tài duy-nhứt, chẳng được nghĩ-ngợi lang-bang nữa.
- Quán-chiếu thân bất-tịnh: Quán-chiếu = suy-nghĩ sâu-xa trong cơn Thiền; Thân bất-tịnh: Thân =thân-thể; Bất-tịnh = chẳng sạch. Quán thân bất-tịnh là đề-tài thứ nhứt của Pháp Tứ-niệm-xứ, theo đó người thiền-giả nhìn xem bên trong thân có 32 chỗ dơ-dáy, do đó sanh ra nhàm-chán thân-thể, chẳng tríu-mến nữa.
- Ngọ-trai: Ngọ = 12 giờ trưa; Trai = ăn chay. Ngọ-trai là bữa ăn trưa của các nhà tu-hành.
- A-na-hàm: quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-văn ( = các đệ-tử sống gần Phật, nghe Kinh mà tu-tập), tiếng Pali là Anàgàmi, còn dịch là Bất-Lai, nghĩa là chẳng sanh trở lại cõi người nữa, được sanh lên Trời.
- Thiên-nhãn: Thiên = trời; Nhãn = mắt. Có thiên-nhãn chẳng phải có thêm một cặp mắt nào khác, đó là khả-năng của người tu-hành cao, có định-lực mạnh, nhìn xuyên qua được các vật bị ngăn che, và vật ở xa.
- Ủng-hộ = giúp đỡ.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại sự thành-công tốt-đẹp của một vị Sa-di trẻ tuổi, tinh-tấn hành Thiền Minh-sát, chứng đắc được quả-vị A-la-hán.
Nhờ đâu Sa-di Phan-di-ta thành-công? Trước nhờ sự quan-sát sự-việc bên ngoài: đào mương dẫn nước, uốn thẳng cành tre, đẽo ván thành bánh xe, rồi hướng vào bên trong tâm mình, tìm cách điều-phục tâm. Sau nhờ nỗ-lực hành Thiền, chẳng để tâm xao-lãng, mới chứng được quả-vị. Tại sao nhiều người tu Thiền mà chẳng có kết-quả? Sự thất-bại phần lớn do tâm xao-lãng, chẳng chuyên-chú vào đề-tài quán-chiếu. Tại sao tâm hay xao-lãng? Vì ngày thường thiếu sự giữ-gìn giới luật cho nghiêm. Khi giữ giới thật thanh-tịnh, định-lực sẽ sanh ra, nhờ đó mà phát-triển được trí-huệ: Giới đưa đến Định, Định đưa đến Huệ, đúng như theo ba môn học vô-lậu (vô-lậu = chẳng còn bị lậu-hoặc hay phiền-não khuấy rối) là Giới, Định và Huệ.
(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 080:
Bài Kệ nhắc lại đoạn đường Sa-di Phan-di-ta trrải qua thật ngắn để chứng-đắc quả-vị A-la-hán: quán-sát sự-vật bên ngoài, quán-chiếu Tâm bên trong, nỗ-lực hành Thiền, chẳng hề xao-lãng.
Chẳng phải ai ai cũng đắc được quả-vị như Phan-di-ta, nhưng tấm gương của Phan-di-ta nhắc-nhở ta trong việc ngồi Thiền hằng ngày, để phát-triển Trí-huệ.
HỌC TẬP:
- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ rằng, các vật vô-tri còn uốn-nắn được, huống chi Tâm tri-giác, sao chẳng điều-phục được.
(65).- Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến vị Trưởng-lão Phát-di-gia.
Thuở ấy, có Trưởng-lão Phát-di-gia tu-hành rất tinh-tấn, chứng được quả-vị A-la-hán. Trưởng-lão người thấp-lùn, thường bị các tỳ-kheo trẻ tuổi gán cho biệt-hiệu là Lakundaka, có
nghĩa là người lùn-tịt. Tâm-tánh Trưởng-lão rất hiền-hoà; mỗi khi bị
trêu-chọc, Trưởng-lão chẳng hề tức-giận, ngay cả khi các người trẻ tuổi
theo véo tai, bóp mũi hay vò đầu. Trưởng-lão chẳng hề cau-có, mà vẫn giữ vẻ mặt bình-thản, khi có kẻ trêu-chọc hay có lời thiếu lễ-độ với mình.
Khi Đức Phật nghe nói đến sự nhẫn-nhục, hiền-hoà của Trưởng-lão Phát-di-gia, Ngài bảo rằng chư Tăng rằng:
"Đối với một bực A-la-hán, chẳng bao giờ mất sự bình-tỉnh trong lòng,
chẳng hề có ý-định nói nặng lời, chẳng hề có ác-ý với ai cả. Vị ấy cũng
như tảng đá kiên-cố, đâu bị bão-tố lay-động được. Vị ấy lúc nào cũng
điềm-nhiên khi bị mắng-mỏ, bị trêu-chọc, cũng như khi được khen-tặng."
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Như tảng đá thật kiên-cố,
Chẳng lay-động trước bão-tố,
Người hiền-trí vẫn điềm-nhiên
Khi được khen, hay bị mắng-mỏ.
(Kệ số 081.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Phát-di-gia: tên thật của Trưởng-lão, tiếng Pali là Bhaddiya.
- Lakundaka: tiếng Pali, đọc là La-cun-đa-ca, có nghĩa là lùn-tịt.
- Biệt-hiệu: Biệt = riêng-biệt; Hiệu = tên. Biệt-hiệu là tên riêng do người khác gán cho mình, hay mình tự-đặt lấy.
- Bình-thản = thản-nhiên, dửng-dưng chẳng giận, tâm yên.
- Nhẫn-nhục = nhịn-nhục, chẳng oán-giận, chịu nhịn.
- Ác-ý: trong bụng nghĩ việc ác xãy ra cho kẻ khác.
- Kiên-cố = thật vững-chắc.
- Bão-tố = cơn gió mạnh làm đổ gãy cây cối, sập nhà cửa.
- Điềm-nhiên = bình-tỉnh, tâm chẳng xao-động, vẻ mặt yên-ổn.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất gian-dị, thuật lại tánh-tình hiền-hoà của một vị tỳ-kheo tu-hành đắc quả-vị A-la-hán. Mặc dầu bị trêu-chọc về thân-thể thấp-lùn của mình, vị tỳ-kheo chẳng hề nóng-giận, có ác-ý hay có lời lẽ nặng-nề đối với ai. Đức Phật khen ngợi đức-tánh trầm-tỉnh nầy và so-sánh Tâm của Trưởng-lão với tảng đá kiên-cố trước cơn bão-tố.
(2) Ý-Nghĩa của Bài Kệ số 081:
Hai câu đầu của bài Kệ so-sánh tâm của bực hiền-trí luôn-luôn điềm-nhiên chẳng bị xao-động, với một tảng đá thật kiên-cố, dầu bão to gió lớn cũng chẳng làm lung-lay được.
Hai câu chót nói đến tâm điềm-nhiên, bình-thản của bực hiền-trí, khi được khen-ngợi, cũng như khi bị mắng-mỏ. Được khen, thì khó giữ được sự vui-mừng, làm cho tâm xao-động. Bị chê càng khó giữ được sự điềm-nhiên, vì tự-ái bị xúc-phạm, dễ nổi nóng, hay buông lời nói nặng.
Ý-nghĩa quan-trọng của bài Kệ là khuyên ta phải giữ tâm bình-thản.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ để cố-gắng tập sao cho tâm mình được quân-bình, chẳng quá vui khi được khen, chẳng quá giận khi bị chê.
2.- Thử tập giữ tâm bình-thản trước tám hoàn-cảnh nầy: khi được khen, khi bị chê, khi bị nói xấu, khi được nịnh-bợ, khi gặp vui, khi gặp khổ, khi có lợi, khi bị thiệt-hại. Tám hoàn-cảnh đó, trong Kinh-sách gọi là tám ngọn gió, thổi mạnh đến khiến cho lòng người bị chao-động.
3.- Đề-nghị: khi được khen nồng-nhiệt, chỉ nên cúi đầu cảm-ơn người khen, và trong bụng đừng tỏ ra quá thích-chí mà sanh kiêu-căng.
(66).- Tích chuyện tín-nữ Kha-nhã.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến một người tín-nữ tên là Kha-nhã.
Cô Kha-nhã là con gái của một vị nữ-cư-sĩ rất mộ đạo Phật, được mẹ gả chồng sang làng bên. Thỉnh-thoảng, cô Kha-nhã trở về quê thăm mẹ, cùng với mẹ sửa-soạn thực-phẩm dưng-cúng chư Tăng đi khất-thực hằng ngày. Chồng cô Kha-nhã sai người đến nhà vợ, nhắn tin bảo cô Kha-nhã phải trở lại nhà chồng. Mẹ cô bảo cô ở nán lại một hôm để giúp bà làm mứt ngọt cúng-dường các vị tỳ-kheo. Hai mẹ con làm nhiều kẹo mứt ngon-ngọt, định để dành một mớ cho Kha-nã đem về cho chồng; nhưng sáng sớm hôm đó, hai mẹ con thấy có đông-đảo tỳ-kheo đến trước cửa nhà, nên đem ra hiến hết cả. Bà mẹ bảo cô Kha-nhã, thôi con hãy ở nán thêm một ngày nữa, đem về chút ít kẹo cho chồng con. Nhưng ngày hôm sau, nghe nói ở nhà bà Kha có nhiều bánh mứt ngon-ngọt, số tỳ-kheo đến khất-thực lại gia-tăng lên, khiến cho bao nhiêu kẹo mứt đều được đem ra hiến-tặng cả. Bà mẹ lại lưu cô Kha-nhã ở thêm một ngày nữa. Bấy giờ, người chồng sai người đến thúc-dục cô Kha-nhã phải trở về nhà chồng ngay. Đó là một bức tối-hậu-thơ, nếu mai chẳng về, thì chồng cô sẽ cưới vợ khác. Bà mẹ tưởng đó là lời doạ suông của một người chồng nhớ vợ quá, nên mới giữ con gái lại thêm một ngày nữa, làm bánh mứt dâng cúng chư Tăng. Nào dè, người chồng cô Kha-nhã làm thiệt, cưới một người vợ mới. Khi cô Kha-nhã hay tin đó, mới buồn rầu, ở lại luôn nhà mẹ, trong lòng lại sanh ra oán-ghét chư Tăng, nói lời vô-lễ, cho rằng vì chư Tăng đến khất-thực, mà cô bị chồng bỏ. Tiếng đồn vang xa, chư Tăng chẳng đến nhà mẹ cô Kha-nhã khất-thực nữa.
Đức Phật hay biết câu chuyện đó, mới cùng một số tỳ-kheo đi đến
trước cửa nhà mẹ của cô Kha-nhã. Bà cụ cung-thỉnh Đức Phật vào nhà,
dâng-cúng thực-phẩm. Sau khi thọ-thực xong, Đức Phật cho mời cô Kha-nhã
ra và hỏi: "Này tín-nữ, chẳng hay khi đến đây khất-thực, các tỳ-kheo chỉ nhận những gì hiến-tặng cho họ, hay họ đã lấy những gì chẳng được hiến-tặng cho họ?"Cô Kha-nhã bạch Phật rằng: "Bạch Thế-tôn! Chư Tăng chẳng có ai nhận quá phần dưng-cúng cho mình cả. Trước đây, vì bị chồng con bỏ con, con đau-buồn có lời thất-lễ với chư Tăng, nay con thành-tâm thú-tội, kính mong Thế-tôn tha lỗi cho con." Đức Phật vui-vẻ chấp-nhận lời sám-hối của cô Kha-nhã, và giảng một bài pháp về hạnh bố-thí. Cô Kha-nhã nghe xong, liền chứng được quả-vị Tu-đà-huờn.
Trên đường trở về tịnh-xá Kỳ-viên, Đức Phật gặp vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la. Nghe Đức Phật thuật lại thái-độ thiếu-lễ-độ trước đây của cô Kha-nhã đối với chư Tăng, nhà Vua hỏi Phật có giảng-giải Chánh-pháp cho cô ta nghe chăng. Đức Phật đáp: "Như-Lai đã giảng pháp cho Kha-nhã nghe và khiến cho cô ta sẽ được giàu-sang vào kiếp tới." Vua Ba-tư-nặc lại nói: "Bạch Thế-tôn, con có cách làm cho Kha-nhã được giàu-có ngay trong hiện đời." Rồi đó nhà vua sai sứ-giả mời cô Kha-nhã đến hoàng-cung, nhận làm con nuôi. Giữa triều-đình, nhà vua nói: ‘Này chư Khanh, có ai đủ khả-năng làm cho con gái nuôi ta là Kha-nhã đây được đầy-đủ tiện-nghi, sung-sướng, thì được phép đưa về nhà." Một vị đại-thần liền đứng ra xin nhận. Cô Kha-nhã được cha nuôi ban cho nhiều tiền-của và bảo cứ tuỳ-nghi mà bố-thí. Mỗi ngày, cô Kha-nhã mở hội bố-thí ở bốn cửa thành, phát chẩn cho dân nghèo.
Khi nghe dân-chúng nói đến tấm lòng bố-thí rộng-rãi của cô Kha-nhã, Đức Phật bảo các tỳ-kheo rằng: "Trước kia, tâm-trí của Kha-nhã bị mê-mờ và vẩn-đục, sau khi nghe được Chánh-pháp, đã trở nên trong-sáng và an-tịnh."
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Như hồ sâu đầy nước
Phẳng-lặng và trong-suốt,
Vừa nghe giảng Pháp xong,
Tâm người trí thanh-tịnh.
(Kệ số 082.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Kha-nhã: tên thật của người tín-nữ nầy, tiếng Pali là Kàna.
- Tín-nữ: Tín =tin-tưởng; Nữ = phụ-nữ. Tín-nữ là người phụ-nữ tin-tưởng vào đạo Phật, thường dâng-cúng lễ-vật cho chư Tăng.
- Nữ-cư-sĩ = người đàn-bà theo đạo Phật, tu-hành tại nhà.
- Mộ đạo = rất tôn-sùng Đạo.
- Ở nán = ở thêm một vài ngày nữa, khoan đi về.
- Lưu = lưu giữ thêm, chưa cho về.
- Thúc-dục = hối-thúc.
- Bức tối-hậu-thơ: bức thơ chót; tối-hậu = sau cùng, chót hết. Hai nước chống đối nhau, một nước gởi tối-hậu-thơ cho nước kia, ra điều-kiện, nếu chẳng theo thì sẽ có chiến-tranh, đánh nhau ngay.
- Doạ suông = hăm-doạ bằng lời mà chẳng làm.
- Cung-thỉnh: Cung = cung-kính; Thỉnh = mời.
- Thọ-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Thọ-thực là tiếng nhà chùa, có nghĩa là ăn cơm.
- Sám-hối = tỏ lòng hối-tiếc vì lỡ làm quấy, nay xin ăn-năn và hứa chẳng tái-phạm nữa.
- Hạnh bố-thí: Hạnh = hành-động, việc làm; Bố = cùng khắp; Thí = cho, tặng. Hạnh bố-thí là công-tác đem tiền-của, công-sức, hay lời nói ra giúp-đỡ người khác. Bố-thí đứng đầu trong sáu hạnh Ba-la-mật của Bồ-tát-đạo (bố-thí, trì giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-định và bát-nhã).
- Tu-đà-huờn = quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-Lưu ( = bước vào dòng Thánh) hay Thất-Lai ( = chỉ còn tái-sanh bảy lần nữa thôi, rồi chứng Niết-bàn). Tiếng Pali là Sotàpatti.
- Ba-tư-nặc = vị vua rất tôn-sùng đạo Phật, tiếng Pali là Pasenadi.
- Câu-tát-la: tên nước nầy, tiếng Pali là Kosala.
- Sứ-giả = người mang tin đến cho ai.
- Hiện-đời = ngay trong đời hiện-tại nầy.
- Hoàng-cung = cung-điện của nhà Vua.
- Triều-đình = nơi Vua và các quan hội-họp.
- Chư Khanh: Chư = nhiều, số đông; Khanh = các vị quan lớn, đây là tiếng vua gọi các quan (còn vua tự-xưng là Trẫm)
- Đại-thần = quan lớn.
- Tuỳ-nghi: tuỳ theo sự tiện-lợi của mình, tùy ý thích.
- Phát chẩn = phân-phát tiền bạc, áo quần, thực-phẩm cho người nghèo khổ.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang các ý-nghĩa sau đây:
1) Cô Kha-nhã, vì bị chồng bỏ, sanh ra oán-ghét chư Tăng; đây là một lỗi-lầm lớn của cô, thiếu suy-nghĩ cho rằng vì bận lo cúng-dường chư Tăng mà bị chồng bỏ. Đức Phật gọi sự thiếu suy-nghĩ chín-chắn nầy là sự mê-mờ và vẩn-đục của tâm-trí ( = bị dơ, có nhiều cặn).
2) Bố-thí ngày nay đem lại phước-đức về sau sẽ được giàu-sang, đúng theo Luật Nhơn-quả: hễ làm điều lành thì được việc tốt. Đó là lời của Đức Phật khi Ngài nói, khi giảng hạnh bố-thí cho cô Kha-nhã nghe: " ... khiến cho cô ta sẽ được giàu-sang vào kiếp tới." Nhưng Vua Ba-tư-nặc lại còn có khả-năng làm cho cô được giàu-sang ngay trong đời nầy bằng cách nhận cô làm con nuôi. Như thế, vì bận cúng-dường, chẳng kịp về nhà mà bị chồng bỏ, cô Kha-nhã lại được hưởng phước-báu của hạnh bố-thí ngay trong đời nầy: được làm công-chúa!
3) Ý-nghĩa quan-trọng của Tích chuyện là lời nói sau cùng của Đức Phật: nhờ nghe giảng pháp về hạnh bố-thí mà tâm-trí của cô Kha-nhã hết mê-mờ, vẩn-đục (vì trước đã oán-ghét chư Tăng), mà trở nên trong-sáng và an-tịnh (hăng-hái thi-hành hạnh bố-thí, phát chẩn.)
(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 082:
Bài Kệ ví tâm-trạng của người hiền-trí như mặt nước hồ trong suốt và phẳng-lặng, nhờ nghe Phật-pháp mà trở nên thanh-tịnh.
Trong công-việc tu-hành để được giác-ngộ và giải-thoát, việc quan-trọng là biết giữ-gìn tâm-ý sao cho được trong-sáng. Muốn được như thế, phải năng nghe giảng Pháp, theo đó mà tu-tập. Tu là tu tâm.
HỌC TẬP:
- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ để thường đến chùa nghe giảng pháp. Đi chùa chẳng phải chỉ được phước về đời sau, mà ngay trong đời nầy, sau khi nghe giảng-pháp, lòng mình được thanh-thản, nhẹ-nhàng, đó cũng là một phước-báu lớn, rất thiết-thực cho cuộc sống hằng ngày.
(67).- Tích chuyện về mùa an-cư ở Vệ-lan-già.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến mùa an-cư ở Vệ-lan-già.
Thuở ấy, có một người Bà-la-môn ở làng Vệ-lan-già thỉnh Đức Phật và chư Tăng đến làng ông ta, để qua mùa an-cư kiết-hạ. Khi Đức Phật và chư Tăng đến làng, thì vị Bà-la-môn chẳng thể cung-ứng nhu-cầu thực-phẩm cho Tăng-đoàn nổi, vì lúc ấy làng Vệ-lan-già đang bị nạn đói-kém. Bấy giờ, Đức Phật cùng các tỳ-kheo hằng ngày phải dùng lúa mã-mạch, do các người buôn ngựa cúng-dường. Mặc dầu vậy, chư Tăng chẳng thấy buồn lòng, vẫn tinh-tấn tu-tập. Đến cuối mùa mưa, Đức Phật từ-giả vị Bà-la-môn, để cùng chư Tăng trở về tịnh-xá Kỳ-viên. Nơi đây dân-chúng rất vui mừng tiếp-đón Đức Phật và dâng-cúng thực-phẩm thượng hảo-hạng.
Có một nhóm người nghèo-khó ở làng Vệ-lan-già, đến sống nhờ bên chư Tăng trong thời-gian bị nạn đói, đến khi chư Tăng về chùa Kỳ-viên, họ cũng đi theo. Nơi đây, họ được ăn uống đầy-đủ, nên cả ngày, ăn no xong, họ lại lăn ra ngủ, tỉnh-dậy ca hát, nhảy múa tưng-bừng. Vào một buổi chiều, Đức Phật đến viếng chư Tăng, các tỳ-kheo trình Phật việc ồn-ào do nhóm người ấy gây ra. Đức Phật bảo: "Các người ấy, trong thời-gian ở Vệ-lan-già, đã tỏ ra đàng-hoàng, cam chịu cực-khổ với các tỳ-kheo, nay họ được ăn uống sung-sướng nên lộ vẻ vui-mừng thái-quá. Tuy nhiên, đối với tỳ-kheo dầu nay được thoả-mãn mọi nhu-cầu, cũng nên giữ thái-độ bình-thản
như lúc còn sống khổ-cực ở Vệ-lan-già vậy. Người hiền-trí, khác với kẻ
còn ngu-mê, dầu trong hoàn-cảnh nào, cũng giữ tâm thản-nhiên, chẳng
buồn thái-quá, cũng chẳng vui ồn-ào".
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người hiền dứt hết điều tham-luyến;
Ái-dục, thánh-nhơn chẳng luận-bàn.
Điềm-nhìên, người trí tâm an,
Chẳng vui bồng-bột, chẳng than khi sầu.
(Kệ số 083.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- An-cư kiết-hạ: Theo giới-luật nhà Phật, vào muà mưa chư Tăng quay về Tînh-xá, chẳng ra ngoài khất-thực, vì sợ đạp chết côn-trùng. Ở yên trong tịnh-xá, gọi là an-cư, qua hết mùa hè, gọi là kiết-hạ. Trong thời-gian nầy, nhờ các thiện-nam, tín-nữ đem vật-thực đến tịnh-xá cúng-dường, chư Tăng-ni chuyên lo tu-hành cho tinh-tấn.
- Vệ-lan-già: tên thật làng nầy, tiếng Pali là Veranjà.
- Cung-ứng = cung-cấp đầy-đủ.
- Nhu-cầu thực-phẩm: Nhu-cầu = sự cần-dùng; Thực-phẩm = đồ ăn
- Lúa mã-mạch = một loại lúa dùng để cho ngựa ăn.( mã = ngựa)
- Thượng hảo-hạng: Thượng = cao, trên; Hảo = tốt; Hạng = thứ. Thượng-hảo-hạng là tốt vào bực nhứt.
-Thái-quá = quá mức.
- Bình-thản, Điềm-nhiên, Thản-nhiên: trong lòng an-ổn, chẳng quá vui mà cũng chẳng quá buồn, trầm-tĩnh, an-nhiên.
- Tham-luyến: ham-mê quá độ, chẳng dứt bỏ ra được.
- Ái-dục: Ái = thương; Dục = muốn. Ái-dục là tình-cảm xấu, chẳng giống với tình thương thông-thường, vì ái-dục khiến ta tham-đắm, mê-say, chẳng dứt bỏ được. Chính ái-dục (tiếng Pali là tanha) đẩy con người trôi lăn mãi trong cảnh khổ sanh-tử của Luân-hồi. Đó là nguyên-nhơn gây ra đau-khổ, Chơn-lý thứ hai, Tập-đế, trong Tứ-Diệu-đế được Đức Phật chỉ dạy trong Kinh Chuyển Pháp-Luân.
- Thánh-nhơn: Thánh = bực đã giác-ngộ và giải-thoát, chẳng còn tái-sanh trong vòng Luân-hồi nữa. Trái nghĩa với chữ phàm-phu.
- Sầu = buồn-rầu.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Xin Lưu-ý: Trong quyển Phật-Học Từ-Điển của Đoàn-Trung-Còn, nơi chữ Mã-mạch, có thuật lại chuyện Đức Phật phải ăn luá-ngựa trong muà an-cư kiết-hạ, cũng giống như Tích chuyện được nói ở đây. Theo quyển Từ-điển, vua A-kỳ-đạt thỉnh Phật vào thành trong ba tháng hè, nhưng vì mải-mê theo các thú-vui, nhà Vua lại quên mất việc cúng-dường Tăng-đoàn, khiến cho Đức Phật và các tỳ-kheo phải chịu cực-khổ.
Trong Tích chuyện ở đây, chỉ vì dân làng Vệ-lan-già bi nạn đói-kém mà vị Bà-la-môn đã chẳng cung-ứng nổi thực-phẩm cho Tăng-đoàn
trong mùa an-cư. Ý-nghĩa của Tích chuyện muốn nói lên là sự vui lòng
cam chịu khổ-sở và tinh-tấn tu-hành của chư vị Tỳ-kheo trong mùa an-cư.
Còn một ý-nghĩa quan-trọng nữa là lời dạy của Đức Phật:
"Phải giữ tâm luôn luôn an-tịnh, bình-thản, trước mọi hoàn-cảnh; khi
gặp thuận-duyên, chớ quá vui-mừng; khi gặp nghịch-cảnh, chớ quá
ưu-sầu." Thực-hành đúng lời Phật dạy, người tu-hành biết gìn-giữ tâm-ý, chẳng để ngoại-cảnh chi-phối lòng mình; nhờ đó mà dễ có được định-tâm khi hành Thiền, để phát-triển Trí-huệ.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 083:
Bài Kệ dạy ta hai điều:
- dứt bỏ sự tham-luyến, ái-dục . Tại sao phải dứt bỏ? Vì chính sự tham-ái, hay ái-dục là nguyên-nhơn gây khổ-đau cho cuộc đời.
- giữ tâm điềm-nhiên: Giữ như thế nào? Khi vui, chẳng bồng-bột; khi buồn, chẳng quá ưu-sầu. Giữ cách nào? Tập kềm-chế lòng mình, bỏ tánh vọng-động, tập tánh ít nói.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ để giữ-gìn tâm-ý thanh-tịnh.
2.- Thử đề-nghị vài thái-độ khi gặp việc buồn:
- Việc buồn đã xãy ra cho mình rồi, bây giờ có buồn thêm nữa cũng chẳng làm cho việc ấy chẳng xãy ra được. Tưởng nên ngồi yên lại, xét xem có thể làm điều gì để sửa đổi được hoàn-cảnh chăng; nếu không, thì nên vui lòng chấp-nhận, xem đó như là hậu-quả chẳng may do nghiệp cũ của mình trước đây gây ra, vậy thôi.
- Muốn mau quên nỗi buồn, cần kiếm việc khác làm cho khuây lãng; đừng nhắc đi nhắc lại trong lòng việc chẳng may đã xãy ra. Nên nhắc nhở trong lòng hai câu chót của bài Kệ số 083:
Điềm-nhiên, người trí tâm an,
Chẳng vui bồng-bột, chẳng than khi sầu!
(68).- Tích chuyện Trưởng-lão Đàm-mi-kha.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến Trưởng-lão Đàm-mi-kha.
Thuở ấy, vợ chồng ông Đàm-mi-kha sống tại nước Xá-vệ. Một hôm, ông bảo vợ rằng ông muốn xuất-gia đi tu. Vợ ông đang có thai, xin ông hãy chờ cho bà sanh con xong rồi hãy đi. Sau khi vợ sanh xong, ông Đàm nhắc lại ý-định muốn trở thành một vị tỳ-kheo. Người vợ lại năn-nỉ, con hãy còn quá nhỏ, xin ráng đợi thêm một thời-gian chờ cho con biết đi rồi hãy vào chùa. Bấy giờ, ông Đàm nghĩ rằng: "Ta đâu cần được vợ cho phép rồi mới đi tu. Ta hãy cứ tự lo lấy việc giải-thoát cho chính mình." Rồi với quyết-tâm vững-chắc rời bỏ cuộc sống thế-tục, ông Đàm xin gia-nhập Tăng-đoàn. Sau đó, tỳ-kheo Đàm-mi-kha đến xin Đức Phật chỉ-dạy cho một đề-tài thiền-quán, rồi với nhiệt-tâm, ông Đàm hành thiền ngày đêm, chẳng bao lâu, chứng được quả-vị A-la-hán.
Mười mấy năm sau, Trưởng-lão Đàm-mi-kha trở lại nhà cũ với mục-đích là chỉ dạy Chánh-pháp cho vợ con. Người con nghe hiểu được, mới cùng cha vào chùa xin làm tỳ-kheo. Chẳng bao lâu, người con tinh-tấn tu-hành, cũng chứng được quả A-la-hán. Người vợ ở nhà một mình, thường nghĩ: "Chồng ta, con ta nay đã đi tu hết rồi, ta còn ở lại nhà làm chi, sao ta chẳng đi tu luôn?" Nghĩ xong, bà đến nữ-tu-viện, xin xuất-gia làm tỳ-kheo-ni. Rồi theo với thời-gian, bà cũng chứng-đắc quả A-la-hán.
Trong một kỳ hội-họp chư Tăng, có vị tỳ-kheo trình Đức Phật việc Trưởng-lão Đàm-mi-kha cùng vợ con đồng đi tu, chứng được quả-vị, Đức Phật mới nói rằng: "Nầy các tỳ-kheo! Một người hiền-trí chẳng vì sự giàu-sang, danh-vọng cho mình hay cho kẻ khác mà làm quấy. Người hiền-trí biết chọn con đường giác-ngộ và giải-thoát cho chính mình, để ra khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi, bằng cách tu-tập chuyên-cần theo Chánh-pháp."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Chẳng vì mình, chẳng vì người khác
Mà có những hành-động lầm-lạc.
Chẳng cầu được con-cái, giàu-sang,
Chẳng vì thích ngai vàng trong nước,
Mà có những hành-vi bạo-ngược.
Chẳng mong tìm thành-công cho được
Mà phải dùng phương-tiện chẳng ngay.
Đó mới thật là người hiền-trí,
Giới-đức cao, sống theo Chánh-pháp.
(Kệ số 084.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Đàm-mi-kha: tên thật của vị Trưởng-lão tiếng Pali là Dhammika.
- Thế-tục: đời sống trong xã-hội, có gia-đình con cái.
- Đề-tài thiền-quán: một đầu-đề dùng để suy-nghĩ trong khi ngồi Thiền; thí-dụ như quán tấm thân bất-tịnh, suy-nghĩ về các chỗ dơ-bẩn trong thân mà sanh ra nhàm-chán thân, chẳng chạy theo các thú-vui vật-chất nữa.
- Quả-vị A-la-hán: đây là quả-vị Thánh, thứ tư, cao nhứt.
Người chứng A-la-hán chẳng còn phải tái-sanh trong cõi Luân-hồi, sống
trong cảnh an-vui của Niết-bàn. Tiếng Pali, quả A-la-hán là Arahat.
- Hiền-trí: bực hiền-lành và có trí-huệ, thông-hiểu Chánh-pháp.
- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo giáo-lý nhà Phật, chúng-sanh sau khi chết đi, phải tái-sanh lại, rồi lại chết đi nữa, cứ như thế mãi mà phải chịu cảnh khổ trong cuộc sống. Tiếng Pali là Samsàra.
- Thích ngai vàng trong nước: Ngai vàng là ngôi vua. Chẳng thích làm vua.
- Hành-vi bạo-ngược: việc làm tàn-ác, đánh giết người để giành lấy chỗ giàu-sang, quyền-thế.
- Phương-tiện chẳng ngay: những cách bất-chánh để đoạt điều mình muốn, như gian-tham, lừa-đảo, giết-hại, v.v.
- Giới-đức cao = tánh-tình, hạnh-kiểm tốt, biết theo giới-luật.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị, kể lại việc một người quyết-tâm lià bỏ đời sống ràng-buộc của thế-tục, đi tu chứng quả A-la-hán; sau đó trở về chỉ dạy Chánh-pháp cho vợ con, khiến cho cả gia-đình đều được giải-thoát.
Trong Tích chuyện, có câu: "Ta đâu cần được vợ cho phép rồi mới đi tu.", có thể gây sự hiểu-lầm trong những người còn sống đời sống thế-tục. Thông-thường có người vì làm ăn thất-bại, chán đời, bỏ gia-đình đi tu tìm nguồn an-ủi. Đó chẳng phải là trường-hợp của Trưởng Đàm-mi-kha; vị nầy dứt-khoát cắt bỏ mọi sự luyến-ái về gia-đình, đi tu tìm sự giải-thoát cho đời mình, sau đó trở về chỉ-dạy lại cho vợ con. Còn những người trốn nợ đời đi tu thì khác, bỏ phế gia-đình cho vợ con. Ta nên thu-xếp việc nhà cho xong, trước khi vào chùa học Đạo. Theo giới-luật của Phật, con cái muốn đi tu, phải được sự ưng-thuận của mẹ cha; chẳng thấy có điều luật nào trong giáo-lý buộc chồng hay vợ phải được sự ưng-thuận trước của người hôn-phối ( = vợ hay chồng), rồi mới đi tu.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 084:
Bài Kệ hơi dài, xin phân-tách ra hai phần: (1) bảy câu đầu nói về những việc sai-lầm mà người hiền-trí biết tránh được; (2) hai câu chót nói về đức-tánh của bực hiền-trí.
- Chẳng vì mình hay vì kẻ khác mà làm quấy: đây muốn nói đến các sự tranh-giành trong cuộc sống, để lấy lợi cho mình và gia-đình mình
- Chẳng thích được con khôn, giàu-sang, quyền-thế: đây muốn nói đến hạnh khước-từ: lià bỏ hạnh-phúc gia-đình, lià bỏ danh-lợi.
- Chẳng mong thành-công bằng phương-tiện bất-chánh: đây muốn nói về Chánh-mạng, mưu-sanh bằng phương-tiện chơn-chánh.
- Đức-tánh quan-trọng nhứt của bực hiền-trí: giữ giới thật nghiêm.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ; ghi nhớ các điều cần tránh để giữ giới.
2.- Mỗi khi sắp đến chùa, nên thu-xếp việc nhà cho xong trước đó vài hôm, để khỏi bận-tâm. Đừng hẹn để làm xong việc nầy, việc kia, rồi mới đi chùa. Công-việc nhà bề-bộn, bao giờ làm cho xong hết được!
(69).- Tích chuyện những người nghe giảng-pháp.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến nhóm người thức khuya nghe giảng-pháp.
Thuở ấy, tại một làng trong nước Xá-vệ, có một nhóm dân-chúng thỉnh chư Tăng đến cúng-dường thực-phẩm, xong họ thỉnh-cầu chư Tăng tổ-chức một buổi thuyết-pháp về đêm. Đêm ấy, dân làng đến tham-dự rất đông. Vào nửa đêm, một số người mỏi-mệt, bỏ ra về. Một số khác ngồi nán lại, nhưng càng về khuya, họ ngủ gục tại chỗ, chẳng theo dõi được bài giảng. Chỉ một số rất ít người chăm-chú nghe đến hết thời pháp.
Sáng sớm hôm ấy, khi chư Tăng đến đảnh-lễ Đức Phật, có vị tỳ-kheo trình Phật quang-cảnh dân-chúng nghe pháp đêm qua, Đức Phật nói: "Đa-số thường-dân còn bị ràng-buộc vào cuộc sống ở thế-gian, chỉ có một số rất ít người vượt đến bờ giác của cảnh-giới Niết-bàn."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
Một ít người, trong đám đông nhơn-loại,
Vượt qua dòng đến bờ giác bên kia.
Số còn lại đang quay-quần đông-đảo,
Ngược xuôi tất-tả ở cả bờ nầy.
(Kệ số 085.)
Nhưng những người thực-hành theo Chánh-pháp,
Đã được khéo tuyên-giảng thật rõ-ràng,
Sẽ đến bên bờ giác-ngộ Niết-bàn,
Thoát khỏi cõi tử-sanh rất khó vượt.
(Kệ số 086.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Thời pháp = thời-gian đang nói chuyện về giáo-lý.
- Đảnh-lễ = cúi đầu làm lễ lạy chào.
- Vượt đến bờ giác: Bờ giác = sự giác-ngộ, tức là hiểu rõ lẽ sống chết ở đời, biết tu-tập theo đường ngay nẻo phải. Trong kinh sách, thường ví những người chẳng biết Chánh-pháp, chẳng chịu tu-hành, là những người còn đứng ở bờ bên nầy, chưa giác-ngộ, còn bị dòng sông mê-lầm ngăn-cách; còn những người thông-hiểu Chánh-pháp, biết thực-hành theo là, người giác-ngộ, vượt đến bờ giác-ngộ bên kia. Trong kinh sách Hán-Việt, gọi bờ bên nầy là thử ngạn (thử = nầy; ngạn =bờ), còn bờ bên kia là bỉ-ngạn; vượt đến bờ giác là đáo bỉ ngạn (đáo = đến; bỉ = kia).
- Cảnh-giới Niết-bàn: xin nhắc lại, cảnh-giới Niết-bàn chẳng phải là một chỗ trong không-gian, đó là tâm-trạng của người dứt hết phiền-não, sống an-nhiên, tự-tại. Tiếng Pali là Nirvana = ra khỏi rừng u-tối.
- Nhơn-loại = loài người.
- Tất-tả = lăng-xăng lo-lắng, khổ-sở.
- Tuyên-giảng = giảng thật rõ-ràng, dễ hiểu cho mọi người nghe.
- Cõi Tử-sanh: Tử = chết; sanh = sanh ra đời. Cõi tử-sanh là cõi sanh ra để rồi lại chết đi rồi tái-sanh nữa, sống ở đời sướng ít khổ nhiều nầy.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa Tích chuyện:
Tích chuyện chỉ nhắc lại trong trường-hợp nào Đức Phật nói lên hai bài Kệ số 085 và 086.
(2) Ý-nghã các bài Kệ số 085 và 086:
Hai bài kệ cùng nhận-xét về hoàn-cảnh của nhơn-loại, còn đang chìm-đắm trong sự mê-lầm, nên bị trôi-lăn mãi trong vòng tử-sanh, sanh-tử của Luân-Hồi. Chỉ một số ít thông-hiểu Chánh-pháp mới vượt đến bờ giác, thoát khỏi vòng tử-sanh lận-đận.
Câu chót của bài Kệ thứ nhì nói, thoát khỏi cõi tử-sanh rất khó vượt. Tại sao rất khó vượt qua? Vì phải có đủ Phước và Huệ mới vượt qua được. Tu Phước, làm việc thiện để tiêu-trừ các tội-ác cũ đã lỡ làm; Tu Huệ để có Trí biết lià-bỏ các sự phiền-não, ràng-buộc của Luân-hồi.
HỌC TẬP:
- Học thuộc lòng hai bài Kệ, và cố gắng tập sống đúng Chánh-Pháp, theo đường-lối Phước-Huệ song tu, mới mong sớm đến bờ giác.
(70).- Tích chuyện các Tỳ-kheo sau mùa an-cư.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị tỳ-kheo sau mùa an-cư đến đảnh-lễ Đức Phật.
Thuở ấy có năm trăm vị tỳ-kheo sau mùa an-cư kiết-hạ ở nước Câu-tát-la, đi đến tịnh-xá Kỳ-viên, đảnh-lễ Đức Phật. Trong dịp nầy, Đức Phật có nói lên ba bài Kệ sau đây:
Người hiền-trí lià nhà khát-ái,
Chọn mục-tiêu là cõi Niết-bàn.
Bỏ ác-pháp là đàng tăm-tối,
Theo nẻo lành thiện-đạo sáng soi.
(Kệ số 087.)
Tìm thoả-thích trong hạnh khước-từ
Rất khó cho phàm-phu thọ-hưởng;
Dứt dục-lạc, chẳng gì tríu-mến,
Bỏ nhiễm-ô, thanh-lọc thân-tâm.
(Kệ số 088.)
Người đã thấm-nhuần Thất-giác-chi,
Đã cắt đứt những gì tham-ái,
Là người đang thọ-hưởng hạnh viễn-ly.
Bực người ấy nhiễm-ô đà rửa sạch,
Tâm-trí sáng ngời đạo-quả Vô-sanh,
Hiện-đời đang chứng Hữu-dư Niết-bàn.
(Kệ số 089.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Muà an-cư kiết-hạ: xin nhắc lại, theo giáo-lý của nhà Phật, vào mùa mưa, các vị tỳ-kheo chẳng ra ngoài để khất-thực, vì sợ đạp chết côn-trùng, ở lại tịnh-xá tu-tập.An-cư = ở yên; kiết-hạ = qua mùa hè.
- Câu-tát-la: tên nước nầy tiếng Pali là Kosala.
- Nhà khát-ái: ý muốn nói đến sự thèm-khát, ham-muốn.
- Ác-pháp = việc làm ác, tội-lỗi.
- Thiện-đạo: Thiện = lành; đạo = đường.
- Hạnh khước-từ: Hạnh = hành-động; Khước-từ = từ-bỏ, chẳng luyến-tiếc; thí-dụ như đang giàu-có, bỏ tài-sản lại đi tu để giải-thoát.
- Thọ-hưởng: Thọ = nhận. Tại sao lại Rất khó cho phàm-phu biết thọ-hưởng sự thoả-thích trong hạnh khước-từ. Vì phàm-phu thích thọ-hưởng về vật-chất, chẳng muốn khước-từ sự sung-sướng nhứt-thời để tìm nguồn vui lâu-dài là được giải-thoát.
- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui. Chữ nầy chỉ vào các thú-vui vật-chất, thấp-kém của cuộc đời, so với nguồn vui cao-thượng được giải-thoát vĩnh-viễn khỏi cõi Luân-hồi.
- Nhiễm-ô: Nhiễm = lây, dính dơ; Ô = đen-tối, dơ-dáy, bẩn-thỉu.
- Thanh-lọc = làm cho trong sạch, tinh-khiết hơn.
- Thất-giác-chi: Thất = bảy; Giác = biết rõ; Chi = nhánh, cành. Thất-giác-chi (Pali: Bojjhangà) là bảy yếu-tố của sự giác-ngộ: (1)niệm (Sati), (2) trạch-pháp (lựa chọn pháp-tu, Pali: Dhamma-vicaya), (3) tinh-tấn (Viriya), (4) hỷ (vui, Pali: Piti), (5) khinh-an (nhẹ-nhàng, than-thản, Pali: Passadi), (6)định (samàdhi), (7) xả (buông-bỏ, Pali: Upekkha).
- Viễn-ly: Viễn = xa; ly = lià-bỏ. Hạnh viễn-ly là hạnh khước-từ, lià bỏ, chẳng quyến-luyến, chẳng tham-ái.
- Đạo-quả Vô-sanh: Đạo = con đường tu-tập (Pali =Magga); Quả = kết-quả chứng được (Pali = Phala); Vô-sanh = chẳng bị tái-sanh nữa trong cõi Luân-hồi; Chứng được Đạo-quả Vô-sanh là chứng được Niết-bàn.
- Hữu-dư Niết-bàn: Hữu = có; Dư = dư-y, tức là tấm thân hiện có., còn chịu quả-báo. Chứng Hữu-dư Niết-bàn là hiện còn sống nhưng đã diệt-tận hết tất cả các phiền-não và lậu-hoặc. Khi lià thân-xác nầy, sẽ chứng Vô-dư Niết-bàn, chẳng còn tái-sanh nữa, như ngọn đèn hết dầu.
B.- Nghĩa Ý:
(1)Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyên chỉ kể lại trong trường-hợp nào (sau muà an-cư), Đức Phật đã nói lên ba bài Kệ số 087, 088 và 089 để chỉ-dạy chư Tăng.
(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 087, 088 và 089:
- Nơi bài Kệ số 087 Đức Phật dạy ta phải lià nhà khát-ái, tức là lià-bỏ các thú-vui về thể-xác, mà chọn mục-tiêu là chứng-đắc Niết-bàn. Nói cách khác, ta đừng tríu-mến sự sung-sướng tạm-bợ về vật-chất, tránh các lỗi-lầm của ác-pháp, theo con đường thiện-đạo làm lành, để sớm dứt sạch các phiền-não, lậu-hoặc, chứng được tâm thanh-tịnh, sống an-vui.
- Nơi bài Kệ số 088, Đức Phật dạy ta về hạnh khước-từ, nghĩa là từ bỏ danh-lợi vật-chất, chẳng quyến-luyến vào của-cải, gia-đình, điạ-vị, v.v. để chuyên-tâm tu-hành. Đức Phật nói, phàm-phu rất khó biết hưởng các lợi-lạc của hạnh khước-từ. Tại sao vậy? Vì phàm-phu ham các thú-vui vật-chất, bảo bỏ đi mà tu-hành, thì chẳng chịu. Có biết đâu rằng, càng chạy theo thú-vui vật-chất, càng bị thêm phiền-não. Hễ mình bớt tham, bớt giận, bớt si-mê, thì lòng mình được nhẹ-nhàng thanh-thản, đó là nguồn vui cao-cả, mà ít người biết hưởng.
- Nơi bài Kệ số 089, Đức Phật dạy về Thất-giác-chi, là bảy yếu-tố của sự giác-ngộ. Nhờ có chánh-niệm (niệm), giữ-gìn tâm-ý mà sáng-suốt biết chọn đúng con đường (trạch-pháp) phù-hợp với mình mà tu-tập. Trong khi tu-tập chuyên-cần (tinh-tấn), ta sẽ được nguồn vui thấy tâm mình trở nên vui-vẻ, nhẹ-nhàng (hỷ và khinh-an), nhờ đó mà sớm đắc được định-tâm (đînh), dẫn đến Trí-huệ sáng-suốt. Dầu đã được định và huệ rồi, vẫn tiếp-tục tu-hành, chẳng sanh ra kiêu-căng vì được đạo-quả, đó là hạnh xả, còn gọi là hạnh viễn-ly, giữ tâm bình-thản, chẳng quá vui, cũng chẳng quá buồn. Đó là ngưỡng-cửa của Niết-bàn tại thế-gian.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng cả ba bài Kệ, đó là đường-lối tu-hành để chứng-đắc Niết-bàn, ngay trong hiện-đời.
2.- Ba bài kệ nầy rất cao, Đức Phật chỉ dạy cho các tỳ-kheo; nhưng người Phật-tử tại-gia, dầu chẳng thi-hành được hết, cũng có thể nhớ các điểm nầy: (1) phải dẹp lòng khát-ái, biết từ-khước các thú-vui vật-chất nhỏ-mọn; (2) áp-dụng hai điều quan-trọng của Thất-giác-chi: chọn đúng con đường tu (trạch-pháp) và chuyên-cần (tinh-tấn)tu theo con đường ấy.
-ooOoo-