IV.- Phẩm Hoa.
(33).- Tích chuyện các vị Tỳ-kheo bàn về thế Đất.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị tỳ-kheo bàn về thế đất lồi-lõm hay bằng-phẳng.
Thuở ấy, có năm trăm vị tỳ-kheo theo sau chơn Đức Phật vào làng để khất-thực, rồi trở về Kỳ-viên-tự. Vào buổi chiều, họ tụ-tập nhau và bàn về chuyến đi khất-thực buổi sáng. Một số bình-phẩm về thế đất dọc đường, có chỗ lồi, chỗ lõm; các vị khác cho rằng khoảng nầy có cát, khoảng kia có đất sét trơn-trợt; một nhóm khác bảo vùng ấy có đồi nổng, vùng kia có hố đèo, v.v. Vào lúc ấy, Đức Phật đi ngang qua, biết được các tỳ-kheo đang bàn về thế đất, Ngài dừng lại và dạy rằng: "Này các tỳ-kheo, đất cát mà các vị đang bàn-cãi với nhau đó, đều ở ngoài tấm thân của quí vị. Tốt hơn, quí-vị nên quay lại nhìn trên bản-thân mình, và chuẩn-bị đầy-đủ để chuyên-tâm hành-thiền."
Bấy giờ, Đức Phật nói lên hai bài kệ sau đây:
Ai khéo vượt qua cõi đất liền,
Cõi Diêm-ma và cõi nhơn-thiên?
Ai thông-đạt chơn-truyền Chánh-pháp,
Khéo như người hái, kết tràng hoa?
(Kệ số 044.)
Bực hữu-học qua cõi đất liền,
Cõi Diêm-ma và cõi nhơn-thiên,
Lại thông-đạt chơn-truyền Chánh-pháp.
Khéo như người hái, kết tràng hoa.
(Kệ số 045.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Thế Đất: hình-thể của mặt đất có chỗ lồi, chỗ lõm, v.v...
- Nổng: gò đất cao.
- Cõi Diêm-ma: cõi âm, cõi chết, nơi vua Diêm-Vương ngự-trị.
- Cõi nhơn-thiên: Nhơn = người; Thiên = Trời.
- Thông-đạt: hiểu biết rõ-ràng, thấu đáo.
- Chơn-truyền: Chơn = chơn-chánh, đúng-đắn; truyền = dạy bảo, nói và giảng đúng, cho rõ nghĩa.
- Tràng hoa: các hoa kết lại thành vòng.
- Hữu-học: Hữu =có; học = học hỏi. Hữu-học, theo nghĩa chuyên-môn trong Phật-học, là người đã thông-đạt Chánh-pháp. Về phương-diện tu-hành, đó là những người còn đang học cách tu thế nào để diệt hết các phiền-não tham, sân, v.v. và các sự si-mê về sở-tri-chướng để cho tâm và huệ được giải-thoát. Cao hơn bực Hữu-học là bực Vô-học nghĩa là những bực tu-hành đã học xong rồi, đã dẹp hết phiền-não-chướng và sở-tri-chướng, hết còn gì để học thêm nữa, tâm và huệ đều giải-thoát. Đừng lầm bực Vô-học với kẻ thất-học, là hạng người chẳng biết học gì hết ráo. Bực Hữu-học: tiếng Pali là Sekha; Vô-học + Asekha.
B. Nghĩa Ý
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị, các vị tỳ-kheo tụ-tập nhau vào buổi chiều để tán gẫu. Đức Phật đi ngang qua, nghe thấy, nhắc các vị tuỳ-kheo nên siêng-năng quán thân bất-tịnh và chuyên-tâm hành thiền thì tốt hơn.
(2) Ý-nghĩa hai bài Kệ số 044 và 045:
Tuy chia ra hai bài, nhưng một bài đặt câu hỏi, bài sau trả lời. Hỏi: Ai vượt qua được mọi cõi trong cảnh Luân-hồi? Đáp: bực Hữu-học đang tu, dẹp hết các chướng-ngại, để tâm và huệ được giải-thoát.
Học-tập
1. Học thuộc lòng hai bài Kệ.
2. Ứng-dụng: Bớt tán gẫu, dành thời-giờ đọc Kinh, đi kinh-hành.
3. Nghe ai nói chuyện hàng xóm, chỉ nghe thôi, đừng tán thêm.
(34) - Tích chuyện vị Tỳ-kheo quán thân như ảo-ảnh.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề-cập đến một vị Tỳ-kheo quán thân như ảo-ảnh.
Thuở ấy, có một vị Tỳ-kheo, sau khi nhận được đề-tài quán-tưởng do Đức Phật chỉ-dạy, liền đi vào rừng sâu để thực-tập thiền-quán. Mặc dầu vị ấy nỗ-lực rất chuyên-cần, nhưng sau một thời-gian, chẳng thấy có kết-quả khả-quan. Vị ấy định quay về Kỳ-viên-tự để xin Đức Phật chỉ dạy thêm. Dọc đường, vị ấy đứng lưng-chừng một ngọn đồi thấp, thấy thấp-thoáng một ngọn tháp cao, xa xa, ẩn hiện trong lùm cây. Khi đến gần bờ sông, thì ra đó chỉ là ảo-ảnh của một tàn cây rọi xuống dòng nước, có ánh mặt trời chiếu lên. Ngay lúc ấy, vị ấy nghĩ đến tấm thân nầy cũng tựa như ảo-ảnh, chẳng có thực-thể gì.
Vị ấy liền ngồi xuống bên bờ sông, nhìn các bọt nước phập-phồng, chẳng
mấy chốc lại vỡ tan. Thân nầy rồi cũng thế, vô-thường chẳng bền-vững,
khác nào bọt nước trên sông.
Lúc bấy giờ, Đức Phật quán-thấy sự tiến-bộ của vị Tỳ-kheo, liền phóng hào-quang, đến bên
cạnh, và nói: "Nầy Tỳ-kheo, như ông vừa quán-thấy trong tâm, tấm thân
nầy là vô-thường, chẳng có thực-thể, có khác gì ảo-ảnh trên mặt nước
kia." Rồi Đức Phật đọc lên bài kệ sau đây; vị Tỳ-kheo chăm-chú nghe, ghi nhận kỹ và chứng được đạo-quả A-la-hán.
Nhìn thân, biết vô-thường bọt nước;
Trông ảo-ảnh, thông được thể không,
Nhổ mũi tên hoa Ma cám-dỗ,
Người nầy, Thần Chết hết chỗ tìm.
(Kệ số 046)
Tìm hiểu:
a. nghĩa chữ:
- Quán: nhìn kỹ và nhận-xét rõ trong tâm.
- Ảo-ảnh: ảo = giả, chẳng có thật; ảnh = hình. Ảo-ảnh là hình giả, mắt nom thấy nhưng chẳng có vật thật; tựa như bóng soi trên mặt nước.
- Khả-quan: Khả = có thể; quan = xem. Kết quả khả-quan là có kết-quả tốt, xem được lắm.
- Tàn cây: thân cây có nhàn h lá, có bóng mát.
- Thực-thể: thực = thật; thể = bản-thể. Chẳng có thực-thể, có nghĩa là, tuy có đó, nhưng do sự kết-hợp tạm thời của n hững chất khác; hễ các chất nầy rời nhau ra, thì thân tiêu mất, chẳng còn gì. Nếu có thực-thể thì thực-thể còn tồn-tại được một mình; chỗ tồn-tại độc-lập đó là bản-thể.
- Thể không: thể = bản-thể; vốn là; Không = rỗng-rang, chẳng chứa đựng gì. Thể không rất khó định-nghĩa; thường nghe dạy: muôn vật đều thể không, có nghĩa là muôn vật đều rỗng-rang, chẳng có thực-thể.
- Mủi tên hoa: tên hoa = trên mũi tên nhọn có vẽ bông hoa, tượng-trưng sự cám-dỗ. Bài Kệ gọi đó là sự cám-dỗ là Ma; còn gọi là Ma-quân.
- Thần Chết hết chỗ tìm: có nghĩa là người ấy chẳng còn tái-sanh nữa nên chẳng chết. Tu đến mức chứng được vô-sanh là chứng-đắc cảnh Niết-bàn an-vui và thường-còn mãi mãi. Vì thế Thần Chết bắt chẳng được.
B. Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị, được tóm gọn trong tựa-đề: một vị Tỳ-kheo biết quán thân như ảo-ảnh, nghĩa là xem thân nầy giả-tạm, chẳng thường-còn. Người quán được như thế, rời bỏ các thú-vui vật-chất cám-dỗ, tu chứng được cảnh vô-sanh của Niết-bàn.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 046:
Bài Kệ có bốn câu, mỗi câu chứa một ý-nghĩa quan-trọng trong giáo-lý nhà Phật. Xin phân-tách vắn-tắt:
1. Nhìn thân, biết vô-thường bọt nước: đây là phép quán thân vô-thường. Biết thân nầy giả-tạm, do tứ-đại ( = bốn chất: đất, nước, gió, lửa) kết-hợp tạm-thời mà có, chẳng bền-vững, như bong-bóng nước chẳng mấy chốc mà vỡ đi.
2. Trông ảo-ảnh, thông được thể KHÔNG: đây là phép quán các sự-vật hữu-vi đều có thể Không rỗng-rang. Sự-vật hữu-vi là những sự-vật do sự tạo-tác mà có, chịu ảnh-hưởng của sự đổi-thay (bị điều-kiện-hoá), bên trong chẳng có thực-chất, nên được gọi là chẳng có thực-thể, hay là, bản-thể là Không. Biết được thể Không của mọi vật ở thế-gian, mới đi tìm chỗ thường-còn, chơn-thật, bền-vững là cõi xuất-thế của Niết-bàn.
3. Nhổ mũi tên hao Ma cám-dỗ: mũi tên hoa tượng-trưng cho sự cám-dỗ của các thú-vui vật-chất (thú-vui vật-chất thường được gọi bằng danh-từ chuyên-môn trong Phật-học là các dục-lạc; dục = ham muốn; lạc = thú-vui) Gọi là mũi tên có tẩm thuốc độc vì khi bắn vào người sẽ gây ra chết-chóc; mũi tên có vẽ hoa, trông đẹp, nên có sức cám-dỗ. Người biết nhổ mũi tên hoa là người biết bỏ qua các thú-vui vật-chất, chẳng chạy theo sự cám-dỗ, chọn con đường tu-hành, tự khép mình trong kỷ-luật của ngũ giới ( = năm điều răn-cấm của người tu tại-gia) và thực-hành mười điều thiện (xin xem lại Thập Thiện ở trang 100).
4. Người nầy Thần Chết hết chỗ tìm: thi-hành đúng ba điều kể trên trong ba câu Kệ trước, thì đạt được kết-quả là chứng được cảnh vô-sanh. Vô-sanh có
nghĩa là chẳng tái-sanh nữa, mà chẳng tái-sanh thì chẳng chết, sống mãi
mãi trong cõi an-klạc, thường-hằng của cảnh-giới Niết-bàn. Câu chót nầy
nói đến kết-quả của sự tu-hành viên-mãn.
Tóm lại, bài Kệ nầy dạy ta phép quán thân như ảo-ảnh, như bọt nước, biết tránh sự cán-dỗ của dục-lạc, khép mình trong giới-luật tu-hành, sẽ tránh được vĩnh-viễn cảnh đau-khổ triền-miên của sanh-tử Luân-hồi và chứng được Niết-bàn an-lạc.
Học-tập
1. Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ hai điều căn-bản trong giáo-lý: Vô-thường, thể Không.
2, Thực-tập về quán Vô-thường: xin đề-nghị vài việc nho-nhỏ để nhận-xét về lẽ Vô-thường của mọi vật hữu-vi:
- thay bó hoa tươi trên bàn Phật: mỗi khi thay hoa, nên lẩm-bẩm trong đầu, đời người rồi cũng chóng hết như hoa sớm nở tối tàn!
- khi uống trà hay cà-phê: nhìn vào bọt nước ở ly, tách, để nửa phút suy-gẫm về sự nhanh-chóng của bọt nước, chẳng mấy chốc rồi bể đi; đời người, các thú-vui vật-chất cũng chóng tàn như thế.
3. Nhổ mũi tên hoa: trong buổi tiếp-tân: nếu có thể, thay vì nhận một ly rượu, xin đổi lấy ly nước trái cây; và ngẫm-nghĩ: đây là ta đang tìm cách nhổ mũi tên hoa của Ma cám-dỗ, Ma đó là ... ma men!
(35) - Tích chuyện vua Tỳ-lưu-ly.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề-cập đến Vua Tỳ-lưu-ly tàn-sát dòng họ Thích-ca.
Thuở ấy, vua Ba-tư-nặc của nước Câu-tát-la, muốn cưới một công-chúa dòng Thích-ca làm hoàng-hậu, mới gởi sứ-giả đến thành Ca-tỳ-la-vệ để cầu-hôn. Vua Đại-dnh dòng Thích-ca mới chọn trong hàng con mình một nàng công-chúa rất đẹp, vốn do một người cung-nữ nô-lệ sanh ra. Vua Ba-tư-nặc phong làm Hoàng-hậu, sanh ra Thái-tử Tỳ-lưu-ly. Khi Thái-tử đúng mười sáu tuổi, về thăm quê mẹ ở Ca-tỳ-la-vệ, các vị hoàng-tử dòng Thích-ca đều bỏ đi săn, để khỏi đón tiếp một người vốn thuộc dòng ti-tiện. Nhưng Thái-tử Tỳ-lưu-ly vẫn được tiếp-đãi nồng-hậu nơi hoàng-cung. Sau cuộc viếng thăm, Thái-tử Tỳ-lưu-ly ra về; trong bọn tùy-tùng có người bỏ quên đồ-vật, trở lại lấy. Bấy giờ có người đầy-tớ gái trong cung đang chùi rửa cáci ghế Thái-tử đã ngồi, vừa chùi vừa lẩm-bẩm: "Ghế nầy ô-uế đi vì đứa cháu của kẻ nô-lệ đã ngồi lên." Người tùy-tùng lấy làm lạ, mới hỏi tại sao, người đầy-tớ thuật lại nguồn-gốc, dòng-dõi bên ngoại của Thái-tử Tỳ-lưu-ly. Bà ngoại của Thái-tử là một người nô-lệ, được vua Đại-danh thương, nên mới sanh ra công-chúa, mẹ của Thái-tử. Chuyện được dấu kín trong thời-gian Thái-tử viếng thăm. Nào ngờ, người tùy-tùng thuật lại hết cho Thái-tử nghe. Tỳ-lưu-ly nổi giận, nguyện sẽ báo mối thù nầy.
Tỳ-lưu-ly là kẻ bạo-ngược, đuổi vua cha phải chạy sang nước Ma-kiệt-đà, cướp ngôi, cầm quân sang đánh thành Ca-tỳ-la-vệ. Biết bao nhiêu người trong dòng họ Thích-ca bị giết chết. Ngài A-nan khóc-lóc xin nhờ Đức Phật cứu cho, nhưng Đức Phật bảo, đó là quả-báo của dòng họ Thích-ca phải gánh chịu, vì trong một tiền-kiếp, họ đã bỏ thuốc độc vào một hồ nước, giết hết loài cá trong hồ; nay cá ấy tái-sanh ở nước Câu-tát-la, đến báo oán.
Trên đường trở về nước, quân-đội của Vua Tỳ-lưu-ly đóng đại-dinh bên bờ sông, an giấc. Nửa đêm, nước lụt to lớn tràn ngập khắp nơi, cuốn tất cả mọi người trôi ra biển, chết hết.
Khi nghe kể lại việc nầy, Đức Phật đọc lên bài Kệ sau đây:
Người mải-mê hái hoa dục-lạc,
Bị Tử-thần đến bắt mang đi;
Như cơn lụt lớn, khác gì,
Cuốn phăng làng xóm ngủ khì, say mê.
(Kệ số 047.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Tỳ-lưu-ly: tên thật vua nầy bằng tiếng Pali là Vitatùbha.
- Ba-tư-nặc: tên thật vua nầy bằng tiếng Pali là Pasenadi, tiếng Phạn là Prasenajit. Vua Ba-tư-nặc là một Phật-tử thuần-thành, thường đến thưa hỏi Đức Phật về giáo-pháp.
- Câu-tát-la: tên thật nước nầy bằng tiếng Pali là Kosala.
- Ca-tỳ-la-vệ: tên thật thành nầy bằng tiếng Pali là Kapilavatthu.
- Thích-ca: tên thật của dòng-họ nầy bằng tiếng Pali là Sakya.
- Đại-danh: tên thật của vua nầy bằng tiếng Pali là Mahànàma.
- Ma-kiệt-đà: tên thật nước nầy bằng tiếng Pali là Magadha.
- Tàn-sát: tàn = tàn-bạo; sát = sát-hại, giết chết.
- Cầu hôn: xin cưới.
- Nô-lệ: nô = đầy-tớ; lệ = lệ-thuộc. Nô-lệ là người đầy-tớ, thân-thể thuộc về chủ, chủ có quyền sinh-sát được.
- Ô-uế: dơ-bẩn.
- Đại-dinh: đại = lớn; dinh = doanh trại, chỗ đóng quân.
- Hoa dục-lạc: hoa = bông hoa; dục = ham muốn; lạc = vui. Thú-vui vật-chất về thể-xác, trong Phật-học gọi là dục-lạc. Bảo đó là hoa, vì dục-lạc hay cám-dỗ, làm người vui-thích và mê-đắm.
- Tử-thần: thần Chết.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại việc báo-thù của vua Tỳ-lưu-ly đã tàn-sát dòng-họ Thích-ca. Ý-nghĩa quan-trọng là Luật Nhơn-Quả báo-ứng: dòng-họ Thích-ca trong tiền-kiếp đã giết chết hết loài cá trong hồ bằng thuốc độc, trong kiếp nầy phải chịu cảnh tàn-sát. Vua Tỳ-lưu-ly giết-hại người trong họ Thích-ca, phải chịu quả-báo hiện-tiền ( = ngay trước mắt) là bị nước lụt cuốn chết trôi ngoài biển, ngay trong đêm sau trận tàn-sát.
(2).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 047:
Trong bài Kệ, Đức Phật chỉ nhơn việc vua Tỳ-lưu-ly và quân lính đang ngủ mê, bị lũ-lụt cuốn trôi trong đêm, mà so-sánh với việc người ham chạy theo thú vui vật-chất, chẳng dè Thần Chết rình sẵn bắt đi, vào lúc mình chẳng ngờ. Ý-nghĩa quan-trọng của bài Kệ là đừng tham-đắm dục-lạc, phải lo tu-hành, vì mình chẳng biết được lúc nào mình sẽ chết. Nếu chẳng tu-hành để giải-thoát, sẽ phải trôi lăn mãi trong vòng khổ-đau của sanh-tử Luân-hồi.
Tại sao Đức Phật lại chẳng dùng thần-thông cứu-giúp dòng-họ mình tránh khỏi cuộc tàn-sát? Chẳng phải Đức Phật đã vô-tình với họ-hàng, đó là vì luật quả-báo khi báo-ứng chẳng vì-nể ai, chẳng tư-vị ai, hễ đã làm ác thì phải chịu điều khổ-sở. Chẳng có nơi nào trên thế-gian nầy mà ta trốn được quả-báo cả.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để tự khuyên-răn lấy mình mỗi khi thấy bị thú-vui cám-dỗ.
2.- Ghi nhớ Tích chuyện, để tự-trách mình mỗi khi có ý-định muốn làm hại ai, hay trả thù ai.
3.- Hãy xem lại các Tích chuyện số (1), (2), (3), (4), và các bài Kệ liên-hệ đến việc thù-oán. Nhớ rằng: ôm việc thù-oán trong lòng là tự hại mình trước, vì lòng mình chẳng được nhẹ-nhàng, thanh-thản.
4.-Về các thú-vui giải-trí, sau những giờ làm việc nhọc-mệt, xin đề-nghị thử xét lại để tránh các "dục-lạc" thông-thường sau đây:
- hút thuốc lá, nhai kẹo, tán gẫu với bè-bạn;
- chơi bài tứ-sắc, xoa mạt-chược;
- rủ nhau vào quán rượu nhâm-nhi, sau giờ làm việc.
(36).- Tích chuyện bà Khưu-ma-Ly.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bà Khưu-ma-Ly, một người tín-nữ được sanh lên cõi Trời.
Thuở ấy ở nước Xá-vệ có bà Khưu-ma-Ly, cố chồng từ năm mười sáu tuổi và sanh được bốn người con trai. Bà là một Phật-tử thuần-thành, hằng ngày thường dâng-cúng thực-phẩm cho các vị Tăng-ni đi khất-thực. Bà thường đến chùa nghe giảng pháp, quét dọn quanh chùa, gánh nước đổ đầy vào lu và làm các công-quả khác. Bà Khưu lại có được khả-năng nhớ được tiền-kiếp của bà, trước ở cung Trời Đao-Lợi, làm vợ của vị Thiên-nam tên là Tràng Hoa. Bà nhớ rõ, thuở ấy, bà và các người bạn đang cùng nhau hái hoa và vui-đùa trong vườn hoa, bỗng bà qua đời và tái-sanh xuống cõi nhơn-gian. Cho nên, ngày nay, mỗi khi cúng-dường chư Tăng-ni, bà thường cầu-nguyện được tái-sanh trở lại cõi Trời để gặp lại người chồng cũ và các bạn-bè ở đấy.
Một hôm, vào buổi sáng, bà Khưu bị bịnh nhẹ, đến buổi chiều thì chết. Đúng như lời nguyện, bà Khưu được tái-sanh lên cõi Trời Đao-lợi và gặp lại ngay vị Thiên-nam Tràng Hoa, bấy giờ còn đang ngoạn cảnh trong vườn hoa với các bạn gái của bà. Vì một trăm năm dưới cõi trần chỉ bằng một ngày trên Thiên-giới, nên các người bạn và vị Thiên-nam, mới hỏi bà Khưu, tự nẩy giờ, bà đi đâu vắng mặt chẳng thấy. Bà Khưu thuật lại thời-gian ở cõi người, có gia-đình con cái và được nghe Đức Phật giảng pháp như thế nào cho các thiên-nữ cùng chồng nghe.
Bấy giờ, ở thế-gian, các vị Tỳ-kheo rất đau buồn khi hay tin bà Khưu đã lià cõi trần, và đem chuyện bà Khưu trình với Phật. Đức Phật cho biết nơi tái-sanh của bà Khưu là cõi Trời Đao-lợi, đồng thời chỉ-dạy các vị tỳ-kheo rằng, đời người rất ngắn-ngủi, chưa kịp hưởng cho thoả-mãn các thú-vui vật-chất, đã phải chết đi. Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Người mải-mê hái hoa dục-lạc,
Chưa thỏa lòng thèm-khát ước-mong,
Đà trông thấy kià ông Thần Chết
Nắm cổ lôi đi, hết một đời.
(Kệ số 048.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Khưu-ma-Ly: tên thật bằng tiếng Pali rất dài, Patipùjika Kumàrì.
- Tín-nữ: tín = tin-tưởng; nữ = phụ-nữ, đàn-bà, cô gái. Chữ tín-nữ, trong Phật-học, chỉ vào người phụ-nữ tu tại-gia, giữ năm giới, thường vào chùa làm công-quả( = giúp việc thí-công trong chùa). Danh-từ chuyên-môn là ưu-bà-di (Upasikà), còn gọi là cận-sự-nữ. Về phiá đàn-ông, là ưu-bà-tắc (Upasakà), hay là cận-sự-nam.
- Thuần-thành: rất có nhiệt-tâm, tin tưởng vào ngôi Tam-Bảo, thi-hành đúng các bổn-phận của người tu tại-gia.
- Công-quả: công = công-đức; quả = kết-quả, trái (cây). Danh-từ nhà chùa, có nghĩa là vào chùa giúp việc lặt-vặt, bếp-núc; được tin-tưởng là nhờ đó mà được công-đức lành về sau.
- Thiên-nam: Thiên = Trời; nam = đàn-ông. Một vị Trời phái nam, còn phái nữ gọi là thiên-nữ.
- Tràng Hoa: tên thật bằng tiếng Pali là Màlabhàri.
- Nhơn-gian: nhơn = người; gian = khoảng, cõi, giới, xứ. Cõi nhơn-gian là cõi người.
- Cõi Trời Đao-lợi: tên cõi Trời nầy bằng tiếng Pali là Tàvatimsa.
- Ngoạn cảnh: xem cảnh, ngắm hoa trong vườn.
- Mải-mê: đang mê vào việc đó, chẳng để ý gì đến việc khác.
- Dục-lạc: dục = ham muốn; lạc = vui. Trong Phật-học, chữ dục-lạc trỏ vào các thú vui vật-chất, để thoả-mãn các giác-quan, nên thấp-kém so với các thú vui tinh-thần, hướng-thượng, cao hơn.
- Đà = đã; vừa thấy ngay đó liền.
B.- Nghĩa Ý:
(1).- Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc một vị thiên-nữ ở cung Trời Đao-lợi tái-sanh xuống cõi nhơn-gian, làm Phật-tử thuần-thành, có gia-đình và bốn con. Nhờ nhớ lại tiền-kiếp, bà Khưu đến chùa làm công-quả, cúng-dường chư Tăng-ni, nghe giảng-pháp. Bà cầu-nguyện được tái-sanh trở lên cung Trời, tái-hợp lại với chồng cũ là một vị Thiên-nam.
Ý-nghĩa quan-trọng trong Tích chuyện là cái chết đến bất-ngờ, như đang hái hoa vui đùa mà phải chết; vì thế cho nên trong lúc sống, đừng chạy theo dục-lạc, mà phải tinh-tấn tu-hành theo Chánh-pháp.
(2).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 048:
Cũng như bài Kệ số 047, bài kệ số 048 cảnh-cáo ta, nên biết cái chết sẽ đến bất-ngờ, đừng " mải-mê hái hoa dục-lạc", mà phải lo tu-tập để được giác-ngộ và giải-thoát.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ số 048: ý-nghĩa cũng giống như bài trước, nên dễ thuộc.
2.- Thời-gian rất tương-đối: Theo Tích chuyện, thời-gian ở dưới trần-gian một năm chỉ bằng một ngày trên cõi Trời. Theo kinh-kệ Phật-học, ở các cõi Trời khác, thời-gian còn lâu hơn nữa. Chúng ta chẳng thể nào kiểm-chứng lại được, vì
còn phải sống ở cõi trần-gian. Ngay tại trần-gian nầy, thời-gian cũng
chẳng giống nhau: ở Montreal 8 giờ sáng thì ở Sài-gòn là 8 giờ tối.
Vậy, ta chớ nên cho rằng Tích chuyện nói sai sự-thật về thời-gian: khi
mình chưa biết, chưa thấy, mình chẳng có quyền nói điều đó sai hay đúng; thái-độ đứng-đắn là chỉ nghe biết mà chẳng nên phê-bình đúng hay sai.
3.- "Chẳng mải-mê hái hoa dục-lạc" bằng cách nào? Tại sao ta lại chạy theo thú-vui vật-chất? Vì các thú-vui nầy làm thoả-mãn sự đòi-hỏi của các giác-quan ta, như mắt muốn xem tuồng cải-lương, như tai muốn nghe ca Vọng-cổ, v.v. Biết kềm-chế các giác-quan, là chẳng mải-mê chạy theo hái hoa dục-lạc đó.
(37).- Tích chuyện ông Cơ-sĩ-gia, kẻ giàu-có mà rít-róng.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề-cập đến ông Cơ-sĩ-gia là một kẻ giàu-có nhưng rất bỏn-xẻn (rít-róng).
Thuở ấy tại làng Sắc-kha-ra, gần Vương-xá-thành, có một người rất
giàu-có, nhưng tâm-tánh rất hà-tiện, chẳng hề chịu bố-thí, dầu là một
vật thật nhỏ-nhít trong số của-cải của ông ta. Một hôm, vợ chồng ông ta
muốn ăn bánh rế, bánh cay, mới đem chảo dầu lên từng thượng trên lầu để chiên bánh, chẳng muốn cho ai trong nhà trông thấy để xin chia phần.
Sáng sớm hôm ấy, Đức Phật, trong cơn thiền-định, quán thấy vợ chồng ông Cơ-sĩ-gia có được cơ-duyên sắp chứng-đắc đạo-quả Tu-đà-huờn. Đức Phật liền sai vị đại-đệ-tử là Ngài Đại-Mục-kiền-liên đi đến nhà của ông Cơ-sĩ-gia và đưa hai vợ chồng người nầy đến tịnh-xá Kỳ-viên, vào đúng lúc chư Tăng sắp thọ ngọ-trai.
Ngài Mục-kiền-liên dùng thần-thông bay đến làng Sắc-kha-ra, đứng lơ-lửng trên không, trước cửa sổ, nơi hai vợ chồng Cơ-sĩ-gia đang lén-lút chiên bánh. Ông Cơ-sĩ-gia nom thấy, mới bảo Ngài Mục-kiền-liên đi chỗ khác, nhưng vị đại-đệ-tử vẫn đứng yên,
im-lặng, chẳng nói lời nào. Một lúc sau, Cơ-sĩ-gia sốt ruột và tức tức
trong bụng, mới bảo vợ: "Thôi, Bà hãy lấy một chút-xíu bột, chiên một
cái bánh thật nhỏ, đem thí cho hắn đi đâu thì đi cho rảnh!"Bà
vợ nghe lời, vít chút bột bỏ vào chảo chiên, nhưng lạ thay, cái bánh
phồng to lên chiếm cả mặt chảo. Cơ-sĩ-gia nghĩ rằng vợ mình đã
lấy nhiều bột quá, nên chính tay vít một chút-tẻo bột bỏ vào chảo
chiên. Lạ thay, bánh cũng phồng to lên và chiếm cả mặt chảo như cái
bánh trước. Mấy lần chiên như thế, cũng chẳng có được cái bánh nhỏ nào cả, Cơ-sĩ-gia mới bảo vợ, lựa trong rổ xem có cái nào nhỏ nhứt, lấy đem cho. Người vợ nghe lời, bốc lấy một cái, nhưng lạ thay, tất cả các bánh chiên sẵn đều dính chặt vào nhau, chẳng cách nào gỡ ra lấy riêng một cái được. Hì-hục một chặp mà chẳng lấy được cái bánh nào, Cơ-sĩ-gia cảm thấy hết thèm ăn bánh nữa, mới bưng cả rổ bánh trao cho Ngài
Mục-kiền-liên. Lúc ấy, Ngài Mục-kiền-liên mới dùng lời hoà-nhã
khuyến-dạy hai vợ chồng Cơ-sĩ-gia về hạnh bố-thí và mời cả hai đến chùa Kỳ-viên, gặp Phật và chư Tăng còn đang đợi họ đến thọ-trai. Làng Sắc-kha-ra cách chùa Kỳ-viên hơn bốn mươi lăm do-tuần, nhưng với sức thần-thông của Ngài Mục-kiền-liên, cả hai vợ chồng Cơ-sĩ-gia, tay bưng rổ bánh, chẳng mấy chốc đến nơi, đem dưng rổ bánh cúng-dường Đức Phật và chư Tăng. Bấy giờ, Đức Phật, sau buổi ngọ-trai, mới giảng về hạnh bố-thí; Cơ-sĩ-gia và vợ nghe lời Phật dạy, thấu-hiểu được Chánh-pháp, mới chứng-đắc quả-vị Tu-đà-huờn.
Buổi chiều hôm ấy, khi các vị Tỳ-kheo khen ngợi Tôn-giả Mục-kiền-liên đã cảm-hoá được vợ chồng Cơ-sĩ-gia bỏ được thói rít-róng, Đức Phật mới bảo chư Tăng rằng: "Này các vị tỳ-kheo, các ông nên học theo tư-cách của Mục-kiền-liên, mỗi khi đi vào làng để khất-thực: nhận của bố-thí mà chẳng hề làm giảm mất sự tin-tưởng, sự rộng-luợng cùng tài-sản của người thí-giả."
Bấy giờ, Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Ong đến bên hoa, tìm hút nhụy,
Chẳng làm phai một tí sắc hương.
Y nhu thế, trên đường khất-thực,
Tỳ-kheo tỉnh-giác bước vào làng.
(Kệ số 049.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
Các tên được Việt-hoá cho dễ đọc:
- Cơ-sĩ-gia: tên thật người nầy bằng tiếng Pali là Kosiya.
- Sắc-kha-ra: tên thật làng nầy bằng tiếng Pali là Sakkàra.
- Đại Mục-kiền-liên: tên thật của Tôn-giả bằng tiếng Pali là Mahà Moggallàna.
- Rít-róng: cùng một nghĩa với các tiếng hà-tiện, bỏn-xẻn, kẹo, keo-kiệt.
- Bánh rế, bánh cay: loại bánh bằng bột, chiên dòn, thường được người Ấn-độ ưa dùng, trông giống như bánh còng, bánh cam của ta.
- Từng thượng: từng lầu cao nhứt trong nhà.
- Ngọ-trai: Ngọ = đúng trưa, mười hai giờ trưa; trai: ăn chay. Ngọ-trai là bữa ăn trưa; các tu-sĩ theo Phật-giáo nguyên-thủy mỗi ngày chỉ ăn một bữa vào buổi trưa mà thôi.
- Hoà-nhã: Hoà = hiền-hoà; nhã = nhã-nhặn. Lời nói hiền-từ và êm-dịu, dễ nghe.
- Hạnh bố-thí: Hạnh = hành, hành-động; bố-thí = đem của-cải, công-sức, lời nói ra hiến-tặng ai. Hạnh bố-thí tạo nên phước lành cho người bố-thí. Hạnh nầy đứng đầu trong sáu pháp Ba-la-mật của Bồ-tát-đạo. Hạnh nầy giúp người tu-hành dứt bỏ được mối độc to lớn là xẻn-tham, trong ba mối độc tham, sân, si.
- Thọ-trai: ăn chay.
- Do-tuần: phiên-âm chữ Phạn là yojana, ước chừng một cây-số.
- Cảm-hoá: Cảm = cảm-động; hoá = chuyển đổi. Cảm-hoá là khiến cho người nghe biết bỏ chỗ sai mà theo điều đúng.
- Khất-thực: Khất = đi xin; thực = ăn. Khất-thực là hạnh tu của Đức Phật đặt ra, buộc mọi tỳ-kheo phải đi xin ăn, chẳng được làm nghề nào khác để sanh-sống. Hạnh nầy có mục-đích diệt lòng kiêu-hảnh nơi người tu-sĩ, phải cúi mình nhận của bố-thí của kẻ khác mà sống; đây cũng là dịp để các tu-sĩ gặp-gỡ người thường để khuyên-dạy về sự tu-hành cho họ.
- Tỉnh-giác: Tỉnh = thức-tỉnh, chẳng mê, tỉnh-táo; giác = biết. Người tỉnh-giác luôn luôn giữ chánh-niệm trong tâm, nói gì, làm gì, nghĩ gì, cũng biết mình đang nói, đang làm, đang nghĩ điều chánh-đáng. Trái với sự tỉnh-giác là thói buông-lung, mê-mờ, phóng-dật, chẳng biết kềm-thúc các giác-quan, chẳng biết chấn-chỉnh các vọng-tưởng.
B.- Nghĩa Ý:
(1).- Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại việc hai vợ chồng ông Cơ-sĩ-gia giàu mà rít-róng, muốn ăn bánh mà chẳng muốn mời ai, nên trốn lên lầu cao chiên bánh. Tôn-giả Mục-kiền-liên với sự kiên-nhẫn và thái-độ hiền-hoà đã cảm-hoá được họ, đưa họ đến gặp Đức Phật nghe thuyết-pháp mà chứng được quả-vị thứ nhứt là Tu-đà-huờn. Tích chuyện đã khéo mô-tả sự rít-rít-róng của vợ chồng Cơ-sĩ-gia: rứt lấy một cái bánh nhỏ trong rổ chẳng được, bánh dính chặt nhau trong rỗ, cũng như tiền-bạc cất trong bóp chẳng chịu móc ra một ít để đem bố-thí vậy! Người ta thường nói: "Đồng tiền dính liền khúc ruột!" đâu đành lòng rứt ra để tặng ai!
Trong Tích chuyện có nói đến sự thần-thông của Tôn-giả Mục-kiền-liên, ngày nay ta chẳng chứng-kiến được, thấy để mà tin theo, nhưng điều đó chẳng quan-trọng mấy; chỗ quan-trọng cần hiểu rõ là sự kiên-nhẫn của Tôn-giả, đứng im chờ được bố-thí, kiên-nhẫn đến mức cảm-hoá được cả hai vợ-chồng giàu mà kẹo nầy. Đọc Kinh-Sách Phật, ta chớ nên chú-trọng quá đến các phép lạ, mà nên cố tìm hiểu nghĩa sâu-kín ẩn trong lời kinh. Ở đây, nghĩa sâu-kín đó chính là sự keo-kiệt cần phải dẹp bỏ, để mau được giác-ngộ và giải-thoát.
(2).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 049:
Bài Kệ nầy so-sánh thái-độ của vị tỳ-kheo đi khất-thực với cảnh con ong bay đến bên hoa, chỉ để hút nhụy mà chẳng làm phai một tí sắc hương của hoa. Thái-độ đó như thế nào? Đó là phải tỉnh-giác, nghĩa là chẳng bao giờ đánh mất chánh-niệm, luôn luôn tỉnh-táo, kiên-nhẫn, điềm-đạm chờ nhận sự bố-thí, mà chẳng làm giảm mất sự tín-tâm, sự rộng-rãi hay tài-sản của người thí-giả ( = người cho). Ong đến hút nhụy nơi hoa, cũng như vị tỳ-kheo đến với người thí-giả, giúp cho người nầy dẹp bỏ sự rít-róng, tạo được cho tâm mình sự vô-tham, chẳng luyến-tiếc của-cải, để có cơ-hội về sau được giải-thoát ra khỏi cảnh khổ của kiếp Luân-hồi.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ: tuy bài Kệ nói về việc các tỳ-kheo đi khất-thực, nhưng người tu tại-gia cũng có dịp ứng-dụng trong việc tu-hành của mình, khi tình-nguyện đi xin tiền giúp cho các cơ-quan từ-thiện. Trong công-tác nầy, cần phải nhẫn-nhục, mềm-mỏng.
2.- Trong các cuộc lạc-quyên, mình có bao nhiêu, tùy sức
mình mà giúp, chẳng nên vì danh mà cho thật nhiều, chẳng nên tủi thân
vì mình chẳng sẵn tiền bạc dư. Của ít, lòng nhiều, tâm thành mới quí.
(38).- Tích chuyện ẩn-sĩ Phả-vị-gia.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến ẩn-sĩ Phả-vị-gia được một tín-nữ bảo-trợ.
Thuở ấy, tại nước Xá-vệ có một người tín-nữ giàu-sang rất thành-tâm hộ-trợ một người ẩn-sĩ, chăm-sóc như con đẻ, giúp đỡ mọi nhu-cầu. Bấy giờ, bà ấy nghe nói đến có Đức Phật đang ngụ tại chùa Kỳ-viên, nên muốn thỉnh Phật cùng chư Tăng về nhà cúng-dường thực-phẩm. Bà liền đi đến nơi Đức Phật trú-ngụ, cung-thỉnh Phật và chư Tăng đến nhà thọ-trai. Đức Phật nhận lời. Trong khi Đức Phật ngỏ lời tán-thán công-đức cúng-dường của vị tín-nữ, thì vị ẩn-sĩ Phả-vị-gia đang ở trong căn phòng bên cạnh, nghe thấy, mới nổi giận, to tiếng nguyền-rủa bà thí-chủ đã tỏ lòng kính-trọng Đức Phật và chư Tăng hơn mình. Vị tín-nữ nghe ông ta đang nói xấu Đức Phật và chúng Tăng, nên cảm thấy hổ-thẹn trong lòng, chẳng còn theo dõi được những lời Phật đang giảng dạy. Đức Phật nom thấy mới bảo vị tín-nữ, chớ nên để-ý đến những lời bất-nhã của kẻ ẩn-sĩ kia, mà chỉ nên chú-tâm đến những hành-động tốt hoặc xấu của chính mình.
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Đừng nhìn thấy lỗi-lầm người khác,
Hoặc lỡ làm, hoặc sót chẳng làm.
Hãy nhìn thấy tâm mình trước đã:
Trót làm, lỡ sót, cả ngay gian.
(Kệ số 050.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Ẩn-sĩ: Ẩn = kín; sĩ = người; người tu-sĩ. Ẩn-sĩ là người tu-hành ở nơi xa-vắng.
- Phả-vị-gia: tên thật của vị ẩn-sĩ nầy bằng tiếng Pali là Pàveyya.
- Bảo-trợ, Hộ-trợ: Bảo = che-chở; Hộ = giúp-đỡ; trợ = cứu-giúp.
- Tín-nữ: Tín = tin-tưởng; Nữ = phụ-nữ, đàn-bà, cô gái. Tín-nữ là người phụ-nữ tin-tưởng vào Phật-pháp. Đàn-ông gọi là thiện-nam.
- Nhu-cầu: các sự cần-dùng.
- Cung-thỉnh: Cung = cung-kính, kính-trọng; thỉnh = mời.
- Tán-thán: khen ngợi.
- Bất-nhã: Bất = chẳng; nhã = nhã-nhặn. Lời bất-nhã là lời hỗn-láo, bất-lịch-sự, vô-phép.
- Chú-tâm: để-ý đến.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Ý-nghĩa của Tích chuyện rất rõ-ràng: chê hành-động khiếm-nhã của vị ẩn-sĩ, vì ganh-ghét mà có lời vô-lễ đối với vị tín-nữ và Đức Phật cùng chúng Tăng. Sự ganh-ghét nầy làm phát-sanh sự tức-giận, tức là sân, một món độc thứ hai trong ba mối độc lớn, đã khiến cho chúng-sanh trôi lăn mãi trong cảnh khổ của kiếp Luân-hồi.
Đức Phật dạy bà tín nữ: "Đừng nhìn thấy lỗi-lầm của kẻ khác" mà hãy chú-tâm đến những lỗi-lầm của chính mình." Nếu biết lỗi của mình mà sửa chữa lại, thì tâm trở nên thanh-tịnh, sớm giác-ngộ và giải-thoát. Khi mình vạch lỗi của người, chính mình cũng đã có lỗi trước rồi: lỗi đã kẽ-vạch lỗi-lầm kẻ khác để chê-bai.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 050:
Bài Kệ khuyên ta ba điều: (1) đừng vạch lỗi kẻ khác, (2) phải chơn-thành xét lấy lỗi-lầm của chính mình, (3) lỗi có hai thứ: (a) lỡ làm điều quấy; (b) quên làm điều lành. Đây là đường-lối thiết-thực để thanh-lọc tâm-ý cho thanh-tịnh. Tâm thanh-tịnh là tâm đã được giải-thoát.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ để ứng-dụng trong cuộc sống hằng ngày với kẻ khác, giữ tâm sao cho được thanh-tịnh.
2.- Đối với những người mà mình có trách-nhiệm hướng-dẫn, dìu-dắt, chỉ-dạy, việc chỉ rõ các lỗi-lầm của họ để sửa chữa lại, rất cần-thiết. Nhưng khi chỉ-dạy, phải dùng lời dịu-dàng, chớ trách-móc, đay-nghiến.
(39).- Tích chuyện cư-sĩ Chúc-pha-nhi.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị cư-sĩ Chúc-pha-nhi và hai vị vương-phi của vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la.
Thuở ấy, ở nước Xá-vệ có vị cư-sĩ tên là Chúc-pha-nhi, tu-hành đắc được quả-vị A-na-hàm. Lúc bấy giờ, cư-sĩ Chúc-pha-nhi đang chăm-chú ngồi nghe Đức Phật thuyết-pháp; bỗng có Vua Ba-tư-nặc vào yết-kiến Đức Phật. Cư-sĩ Chúc-pha-nhi chẳng đứng dậy chào đón Vua, vì sợ rằng làm như vậy thì thiếu lễ-độ đối với Đức Phật trong khi Ngài đang giảng pháp. Nhưng nhà vua lại cho rằng cư-sĩ cứ ngồi yên như thế là thiếu sự kính-trọng đối với mình, nên vua tỏ vẻ chẳng bằng lòng. Đức Phật nom thấy, đoán biết tâm-trạng của nhà vua, nên sau đó có lời khen ngợi cư-sĩ là người rất thông-hiểu Chánh-pháp và đã chứng đắc được quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-văn là quả vị Bất-Lai ( = A-na-hàm). Khi nghe lời tán-thán nầy của Đức Phật, vua Ba-tư-nặc liền thay đổi thái-độ và tỏ ra có cảm-tình với cư-sĩ Chúc-pha-nhi.
Khi gặp lại cư-sĩ Chúc-pha-nhi, nhà vua nói: "Cư-sĩ là người rất thông-hiểu Chánh-pháp của Đức Phật, Trẫm xin mời cư-sĩ đến hoàng-cung để chỉ-dạy lại cho hai người vương-phi của Trẫm." Nhưng cư-sĩ từ-chối lời mời và khuyên vua nên trình với Đức
Phật cử một vị đại-đệ-tử đến giảng-dạy. Thể theo lời thỉnh-cầu của Vua,
Đức Phật chỉ-định Tôn-giả A-nan đến cung vua để giảng pháp cho hai vị
vương-phi là bà Mạt-lợi và bà Hoa-sa. Một thời-gian sau, Đức Phật hỏi Tôn-giả A-nan về sự tiến-bộ của hai vị vương-phi. Tôn-giả đáp: "Bà Mạt-lợi tu-hành rất tinh-tấn, còn bà Hoa-sa, mặc dầu nghe giảng nhưng chẳng chú-tâm đến." Đức Phật bảo rằng: "Chánh-pháp chỉ đem lại lợi-ích thiết-thực cho những ai chăm-chú nghe và biết tinh-tấn áp-dụng những điều học-hỏi vào nếp sống hằng ngày."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
Hoa đẹp sắc mà hương chẳng có,
Người cài lên chẳng toả mùi hương.
Lời cao-quí, miệng thường bàn-bạc,
Chẳng thực-hành, lợi-lạc chi đâu?
(Kệ số 051.)
Hoa đẹp sắc, hương thơm ngào-ngạt,
Người cài lên bát-ngát mùi hương.
Lời cao-quí, miệng thường bàn-bạc,
Thực-hành ngay, lợi-lạc đường tu.
(Kệ số 052.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Các tên được Việt-hoá cho dễ đọc:
- Chúc-pha-nhi: tên thật vị ẩn-sĩ nầy tiếng Pali là Chattapàni.
- Ba-tư-nặc: tên thật vị vua nầy tiếng Pali là Pasenadi.
- Câu-tát-la: tên thật nước nầy, tiếng Pali là Kosala.
- A-nan: tên thật của Tôn-giả, tiếng Pali là Ànanda.
- Mạt-lợi: tên thật vị vương-phi nầy, tiếng Pali là Mallikà.
- Hoa-sa: tên thật vị vương-phi, tiếng Pali là Vàsabhakhattiya.
- Cư-sĩ: Cư = ở, cư-ngụ; sĩ = người. Chữ cư-sĩ dùng để chỉ đến các Phật-tử tu-hành tại-gia, có đức-hạnh cao.
- Vương-phi: Vương =vua; Phi = vợ vua.
- A-na-hàm: quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-văn ( =các đệ-tử sống gần bên Phật, nghe giảng kinh, tu-tập và đắc quả.) Tiếng Phạn là Anagàmi, còn dịch là Bất-Lai, nghĩa là chẳng phải tái-sanh lại cõi người.
- Hoàng-cung: Hoàng = vua; cung = cung-điện.
- Tinh-tấn: chuyên-cần và cố-gắng tiến lên mãi.
- Thiết-thực: gần với sự thật, có ích-lợi rõ-ràng, trước mắt, ngay cho mình. Trái với thiết-thực là viễn-vông.
- Bàn-bạc: bàn-luận, nói về.
- Lợi-lạc: có ích-lợi cho bản thân và cho người khác.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện có hai ý-nghĩa: (1) Danh-lợi chẳng làm động-tâm được cư-sĩ Chúc-pha-nhi: (2) Nghe hiểu Chánh-pháp xong còn chửa đủ, cần đem giáo-pháp ra ứng-dụng vào đời sống tu-hành, liên-quan đến hai vị vương-phi của vua Ba-tư-nặc.
Cư-sĩ Chúc-pha-nhi chú-tâm nghe Phật giảng-pháp, chẳng đứng dậy chào Vua; đó là cư-sĩ trọng Phật hơn là kính-nễ quyền-thế của đấng quân-vương. Sau được vua mời vào cung giảng-pháp, cư-sĩ từ-chối danh-dự nầy, và đề-nghị với vua thỉnh một vị đại-đệ-tử của Phật. Đây là lòng khiêm-nhường đáng quí.
Bà Mạt-lợi nghe pháp do Tôn-giả A-nan chỉ dạy, tinh-tấn thi-hành theo, nên có tiến-bộ trong đường tu. Trái lại bà Hoa-sa, tuy có nghe pháp, nhưng lơ-là, chẳng chịu thực-hành, nên chẳng được lợi-ích chi cả.
Rút bài học về ý-nghĩa thứ hai của Tích-chuyện: Mỗi khi nghe
giảng-pháp ở chùa, chớ nên bàn-luận miên-man rằng pháp nầy cao, pháp
kia linh-nghiệm v.v. mà phải tìm cách ứng-dụng để tu-hành, sao cho tâm được thanh-tịnh. Đó mới là lợi-ích thiết-thực của việc đi chùa nghe pháp.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 051 và 052:
- Bài Kệ số 051 nói đến hoa có sắc mà chẳng có hương. Đây
là ám-chỉ đến người có sắc đẹp mà chẳng có đức-hạnh. So-sánh với người
thường bàn-luận về lời cao ý-đẹp mà chính mình chẳng chịu thực-hành,
thành ra chẳng có ích-lợi gì cả.
- Trái lại, bài kệ số 052 nói đến hoa vừa có sắc vừa có hương, để ám-chỉ vào người vừa có sắc đẹp lại có đức-hạnh cao-quí. Đó là nhờ nghe đến lời cao-quí trong Chánh-pháp và tinh-tấn thi-hành theo trong đường tu. Ích-lợi cho việc tu-hành rất là to lớn.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng hai bài kệ; để-ý: có sắc mà chẳng có hương.
2.- Tìm cách ứng-dụng bài học nầy vào việc đi chùa:(1) để nghe pháp; (2) tìm cách thi-hành trên bản thân mình;(3) chẳng bàn-luận suông.
(40).- Tích chuyện bà tín-nữ Vi-sa-kha.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Đông-viên (Pubbàràma), nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bà tín-nữ Vi-sa-kha, người đã cúng dường cho Tăng-đoàn ngôi tu-viện Đông-viên.
Bà Vi-sa-kha là cháu nội của ông Mẫn-đà-kha, một trong năm người hào-phú nhứt ở vương-quốc của vua Tần-bà-sa-la. Khi Đức Phật du-hành đến làng Bhaddiya, ông Mẫn dẫn bà Vi-sa-kha, lúc bấy giờ được bảy tuổi, cùng năm trăm quyến-thuộc tới nghe Phật giảng pháp, và chứng-đắc được đạo-quả Tu-đà-hườn.
Khi đến tuổi trưởng-thành, bà Vi-sa-kha kết-hôn với con trai ông Mỹ-nga-ra là một người rất giàu-có ở Xá-vệ. Một hôm, ông Mỹ đang ngồi ăn cơm, có một vị tỳ-kheo dừng lại trước cửa để khất-thực. Ông Mỹ lờ đi, chẳng chịu bố-thí. Bà Vi-sa-kha thấy thế mới thưa cùng vị tỳ-kheo: "Xin Ngài tha lỗi cho, cha chồng tôi đang bận ăn các thức ăn còn thừa, nên chẳng cúng-dường Thầy được." Nghe con dâu nói thế, ông Mỹ nổi giận lên và đuổi bà Vi-sa-kha ra khỏi nhà. Bà Vi-sa-ka chẳng chịu đi, bảo rằng mình chẳng có lỗi chi. Bà yêu-cầu mời tám vị trưởng-thượng trong làng đến, để xét xem bà có lỗi cùng không. Khi các vị trưởng-thượng đến nhà, ông Mỹ trình-bày rằng: "Tôi đang dùng các thức ăn tươi-tốt, cháo sữa đựng trong chén bằng vàng như thế nầy, mà con dâu tôi dám bảo là tôi đang ăn đồ thừa. Thật đáng đuổi nó đi! ‘’ Bà Vi-sa-kha phân-trần: "Thưa các Ngài, khi tôi thấy cha chồng tôi cứ ngồi yên ăn cháo, lờ đi việc vị tỳ-kheo đang đến khất-thực, tôi nghĩ rằng cha chồng tôi chẳng chịu tạo phước lành bố-thí cúng-dường trong đời nầy, mà chỉ đang thọ-hưởng phước dư-thừa của đời trước. Vì thế, tôi mới nói, cha chồng tôi đang bận ăn các thức ăn còn thừa lại. Xin quí Ngài xét xem tôi có lỗi trong lời nói hay không." Các vị trưởng-thượng cùng thảo-luận và đồng-ý rằng, khi nói lên
Sự-Thật như thế, bà Vi-sa-kha chẳng có lỗi gì. Bà Vi-sa-kha tiếp: "Con
là người vững tin nơi Phật-pháp, con chẳng muốn sống trong một nhà mà
người chủ lại chẳng chịu bố-thí cúng-dường chư Tăng. Con sẽ ra đi, nếu chẳng được phép cung-thỉnh Đức Phật và chư Tăng đến nhà để dưng-cúng thực-phẩm." Liền đó, lời thỉnh-cầu của bà được chấp-thuận.
Ngày hôm sau, Đức Phật và chư Tăng được mời đến nhà ông Mỹ để thọ-trai. Trong khi dưng thực-phẩm lên Đức Phật và Tăng-chúng, bà Vi-sa-kha cho mời ông Mỹ đến để chia-xẻ phước-đức cúng-dường, nhưng ông lại từ-chối. Đến khi việc thọ-thực đã xong, bà Vi-sa-kha cũng cho người mời ông Mỹ ra phòng khách để nghe Đức Phật giảng-pháp. Bấy giờ, ông Mỹ nghĩ rằng chẳng nên từ-chối nữa, nên mới ngồi trong phòng bên cạnh, cách sau một bức rèm, theo đúng lời căn-dặn của vị thầy ngoại-đạo Ni-kiền-tử của ông ta. Nhờ nghe được lời giảng-pháp của Đức Phật mà ông Mỹ chứng được quả-vị Tu-đà-hườn; ông rất hân-hoan, cảm ơn người con dâu và bảo rằng từ rầy về sau, bà Vi-sa-kha được coi như người mẹ tinh-thần của ông,
Bà Vi-sa-kha sanh được mười người con trai và mười người con gái. Bà có một chiếc áo choàng nạm kim-cương do cha bà cho khi bà về nhà chồng. Bà mặc áo ấy đi đến Kỳ-viên-tự để lễ Phật. Thấy áo nặng quá, bà cổi ra, trao cho đứa hầu gái giữ. Sau buổi giảng-pháp, đứa tớ gái quay về, lại bỏ quên chiếc áo ở tu-viện. Bấy giờ, Tôn-giả A-nan có nhiệm-vụ thu-nhặt các vật bỏ quên để hoàn lại. Bà Vi-sa-kha sai đứa ở trở lại và dặn nó rằng: "Nếu Tôn-giả A-nan đã cất chiếc áo, thì đừng xin lại, vì ta muốn cúng-dường cho Tôn-giả." Nhưng Tôn-giả A-nan từ-khước chẳng nhận. Bà Vi-sa-kha liền đem bán chiếc áo để lấy tiền mua thực-phẩm cúng-dường chư Tăng. Chẳng ai có đủ tiền để mua, nên bà Vi-sa-kha mới mua lại với giá chín đồng tiền vàng. Với số tiền to lớn nầy, bà xây ngôi tu-viện Đông-viên, ở về phía Đông chùa Kỳ-viên để dưng-cúng lên Đức Phật và chư Tăng-ni. Tên tu-viện đó bằng tiếng Pali là Pubbàràma.
Sau buổi lễ khánh-thành tu-viện Đông-viên, bà Vi-sa-kha bảo với con cháu rằng, mọi ước-nguyện của bà nay đã hoàn-toàn thoả-mãn. Bà hân-hoan và thành-tâm đọc kinh cầu nguyện, đi nhiễu nhiều vòng chung quanh tu-viện. Chư Tăng thấy thế, cho rằng bà Vi-sa-kha đang ca-hát và đến thưa trình với Phật rằng bà Vi-sa-kha tỏ ra rất khác thường, có lẽ bà đang mất trí. Đức Phật bảo: "Tín-nữ Vi-sa-kha, trong nhiều đời, tâm rất rộng-rãi, bố-thí cúng-dường rất nhiều. Bà ta là người làm cho Phật-pháp được hưng-thịnh. Hôm nay, bao nhiêu sự ước-mong cúng-dường Phật-pháp đã hoàn-mãn, nên bà rất hân-hoan, chẳng phải là người mất trí đâu. Đó cũng như người thợ kết tràng hoa khéo-léo, đã khéo chọn số hoa tươi trong đống hoa ngổn-ngang, kết thành một tràng hoa thật đẹp."
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Lấy hoa trong đống ngổn-ngang,
Khéo tay, thợ kết nhiều tràng hoa xinh.
Cùng thế ấy, tử-sanh tuy lận-đận.
Khéo biết làm lành, việc thiện cũng tăng.
(Kệ số 053.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
-Các tên được Việt-hoá cho dễ đọc:
- Vi-sa-kha: tên thật vị tín-nữ nầy tiếng Pali là Visàkhà.
- Mẫn-đà-kha: tên thật vị hào-phú nầy tiếng Pali là Mendaka.
- Tần-bà-sa-la: tên thật vị vua nầy là Bimbisàra.
- Mỹ-nga-ra: tên thật người giàu-có nầy tiếng Pali là Migàra.
- Tín-nữ: Tín =tin-tưởng; nữ = phụ-nữ, đàn-bà, cô gái. Tín-nữ là người phụ-nữ tin-tưởng vào Phật-pháp, tu-hành tại nhà.
- Tu-viện: Tu = tu-hành; Viện = ngôi chùa, đền-đài.
- Hào-phú: người rất giàu-có.
- Du-hành; đi dạo đến.
- Quyến-thuộc: Quyến = gia-quyến, người trong nhà. Quyến-thuộc là những người sống trong nhà, trong gia-quyến. Còn gọi là thân-bằng quyến-thuộc.
- Trưởng-thành: Trưởng = lớn. Đến tuổi trưởng-thành là đã đến tuổi để lập gia-đình, vào độ hai mươi tuổi.
- Kết-hôn: lấy vợ, lấy chồng.
- Lờ đi: giả bộ chẳng thấy, chẳng nghe đến.
- Trưởng-thượng: Trưởng = lớn; Thượng = trên. Bực trưởng-thượng là những người lớn tuổi, đáng kính-trọng.
- Đồ thừa: thức ăn còn dư, chẳng được tươi-tốt.
- Phân-trần: nói rõ ra để kẻ khác hiểu được bụng thật của mình.
- Thỉnh-cầu: lời yêu-cầu, lời cầu-xin.
- Thọ-trai: Thọ = nhận; trai = ăn chay.
- Thọ-thực: Thọ = nhận; thực = ăn. Thọ-trai, thọ-thực là tiếng ở chùa chỉ đến việc ăn cơm chay.
- Bức rèm: tấm màn mỏng ngăn chia hai phòng trong nhà.
- Ngoại-đạo: Ngoại = ngoài; đạo = đạo tu-hành. Danh-từ ngoại-đạo dùng để chỉ các đạo khác với Đạo Phật. Vào thời Đức Phật có sáu ngoại-đạo; trong đó có phái chủ-trương loã-thể ( = chẳng mặc quần-áo) gọi là Ni-kiền-tử ( = phiên-âm chữ Nigantha.)
- Người mẹ tinh-thần: Ở đây có nghĩa là bà Vi-sa-kha hiểu biết Phật-pháp nhiều hơn ông Mỹ, nên được ông ta kính-trọng, chẳng xem như con dâu, mà xem như một bực tu-hành đạo-đức cao hơn mình.
- Khánh-thành: buổi lễ mừng việc xây cất đã thành công.
- Đi nhiễu: đi chầm-chậm xung-quanh ngôi chùa, tháp, để tỏ lòng kính-trọng. Thường các đệ-tử hay đi nhiễu ba vòng chung quanh chỗ Phật ngồi để tỏ lòng kính-trọng Phật.
- Hưng-thịnh: khởi-phát lên mạnh-mẽ.
- Tử-sanh lận-đận: Tử-sanh là sống chết; lận-đận là khổ-sở. Vì phải tái-sanh, sống đi chết lại nhiều đời-kiếp để chịu khổ-sở, nên bài Kệ mới nói Tử-sanh lận-đận. Tu-hành đến mức được giải-thoát, khỏi phải chịu cảnh Luân-hồi nữa, thì thoát được vòng tử-sanh lận-đận, chứng được cảnh Niết-bàn vô-sanh.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang hai ý-nghĩa: (1) bà Vi-sa-kha chê thái-độ cứ ngồi ăn, lờ đi việc cúng-dường của ông Mỹ là đang ăn đồ thừa; (2) công-đức cúng-dường tu-viện Đông-viên của bà Vi-sa-kha.
Bà Vi-sa-kha rất có lý khi bảo ông Mỹ đang ăn đồ thừa, mặc dầu ông ta đang ăn cháo sữa trong chén vàng. Vì chẳng chịu tạo thêm phước mới trong đời nầy, nên chỉ hưởng-dụng phước cũ của đời trước. Phước cũ đó tức là đồ ăn dư-thừa của đời trước. Hưởng hết phước cũ rồi mà chẳng chịu tạo phước mới, bằng cách bố-thí, cúng-dường, thì chẳng còn được sung-sướng về các đời sau.
Bà Vi-sa-kha là người tín-nữ rất nổi tiếng vào thời Đức Phật còn tại thế. Sau khi ông Cấp-cô-độc mua ngôi vườn của Thái-tử Kỳ-đà bằng cách lót vàng lên khu đất, để xây tu-viện Kỳ-viên cúng-dường Phật và chư Tăng, thì bà Vi-sa-kha đã xây cất ngôi tu-viện Đông-viên, cũng rộng lớn cúng-dường Phật và chư Tăng-ni. Hai công-đức cúng-dường nầy rất to-tát, kinh-sách thường nhắc đến.
(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 053:
Bài Kệ có liên-quan đến ý-nghĩa thuú hai của Tích chuyện: công-đức cúng-dường tu-viện cho Tăng-ni.
Hai câu đầu: So-sánh với người thợ kết tràng hoa. Giữa đống hoa ngổn-ngang, người thợ khéo tay, biết chọn hoa đẹp kết thành tràng. Cũng như người đang sống trong cảnh khổ, biết tìm cách tạo phước-đức trong đời nầy, khiến cho cuộc sống có ý-nghĩa đẹp như một tràng hoa.
Hai câu sau: Tuy còn đang trôi lăn trong cảnh sanh-tử khổ-sở của Luân-hồi, người biết tạo phước lành, khéo tìm cơ-hội làm cho việc thiện của mình tăng lên thêm, do đó sẽ có ngày gặp đủ cơ-duyên để được giác-ngộ và giải-thoát.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ; nhớ đến công-đức bà Vi-sa-kha, để mỗi khi được mời hùn công-đức tu-bổ chùa chiền mà hăng-hái tham-gia vào.
2.- Thực-tập việc cúng-dường, bố-thí:
- Mỗi khi gặp người nghèo khổ, nên đưa tiền, ít nhiều chẳng kể, cho con cháu đi theo mình, để chính tay nó trao cho người ăn xin, tập cho nó có thói quen bố-thí.
- Mỗi tuần vào chùa lễ Phật, nên bảo con cháu đi theo, cầm theo hoa-quả, cung-kính đặt lên bàn Phật, dạy nó xá ba xá trước tượng Phật, để tỏ lòng cung-kính. Chớ nên bảo nó, con lạy Phật để Ngài phò-hộ con học giỏi, thi đậu, v.v. vì như thế làm mất ý-nghĩa cúng-dường đi.
(41).- Tích chuyện về câu hỏi của Tôn-giả A-nan.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một câu hỏi của Tôn-giả A-nan.
Thuở ấy, vào buổi chiều, Tôn-giả A-nan đang ngồi một mình, ngẫm-nghĩ trong đầu về một việc: "Hương thơm của thân-cây, của bông-hoa, của rễ-cây, các loại hương thơm nầy đều bay theo chiều gió mà lan rộng ra. Chẳng biết có mùi hương nào vừa bay theo chiều gió, lại vừa ngược với chiều gió chăng? Chẳng biết có hương thơm nào toả rộng bát-ngát khắp nơi chăng?" Tôn-giả chẳng tự mình tìm lấy câu trả lời, mà lại đến gần bên Đức Phật, thưa thỉnh Ngài giải-đáp cho.
Đức Phật nói: "Nầy A-nan, thí-dụ như có người quy-y Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, hành-trì đầy đủ năm giới tại-gia, tỏ ra rộng-rãi trong việc bố-thí, cúng-dường, chẳng hề rít-róng, người ấy thật có đức-hạnh và đáng khen-ngợi. Danh-tiếng người nầy sẽ lan rộng ra khắp chốn, và các tỳ-kheo, các bà-la-môn, cả những người thường-nhơn, ai ai cũng đều khen ngợi người ấy, dầu người ấy cư-trú ở bất cứ nơi nào."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
Hương chiên-đàn, mạt-lỵ, già-la,
Chẳng hương nào ngược gió bay xa.
Chỉ có hương thơm nhà đạo-đức
Ngược gió mà phảng-phất mười phương.
(Kệ số 054.)
Hương chiên-đàn cùng hương mạt-lỵ,
Hương già-la với hương vũ-quí,
Giữa những thứ hương nầy,
Giới-hương là vô-nhị.
(Kệ số 055.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Hương: mùi thơm.
- Quy-y Tam-Bảo: Quy = trở về; Y = nương-tựa; Tam = ba; Bảo = quí-báu. Quy-y Tam-Bảo là trở vể nương-tực nơi ba ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng.
- Hành-trì năm giới tại gia: Hành = làm; Trì = giữ; Năm giới: (1)chẳng sát-sanh, (2) chẳng trộm-cắp, (3) chẳng tà-dâm, (4) chẳng nói dối, (5) chẳng uống rượu. Đây là năm giới cấm mà người tu tại-gia phải giữ đúng.
- Bà-la-môn: tiếng Pali là Brahmana, giới tu-sĩ Ấn-độ. Theo sự phân-chia giai-cấp ở Ấn-độ, có bốn giai-cấp: Bà-la-môn (tu-sĩ), Sát-đế-lợi (vua, quan), Vệ-xá (buôn-bán) và Thủ-đà-la (nông-dân). Dân cùng-khổ nhứt là hạng Chiên-đà-la, làm các nghề hạ-tiện.
- Chiên-đàn: loại gỗ thơm, có mùi như trầm-hương. Tiếng Pali là Gandha.
- Mạt-lỵ: loại hoa giống như hoa lài của ta. Tiếng Pali là Mallika.
- Già-la: một loại gỗ thơm. Tiếng Pali là Tagara.
- Hoa vũ-quí: một loại hoa thơm tựa mùi hoa lài, tiếng Pali là Vassiki.
- Mười phương: bốn phương chánh: Đông, Tây, Nam, Bắc; bốn phương bàng: Đông-Nam, Đông-Bắc, Tây-Nam, Tây-Bắc; và hai bên Trên và Dưới, cộng lại là mười phương.
- Vô-nhị: Vô = chẳng có; Nhị = hai. Cùng nghĩa với chữ độc-nhứt, nghĩa là chỉ có một, chẳng thể có hai; chẳng có gì sánh bằng được.
B.- Nghĩa Ý:
(1)Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị: các mùi hương đều bay theo chiều gió, chỉ có giới-hương mới có thể ngược gió mà phảng-phất khắp mười phương. Đức Phật nêu rõ thế nào là giới-hương: đức-hạnh
của người tu-hành, quy-y Tam-Bảo, giữ đúng ngũ-giới, siêng-năng bố-thí,
nhờ đó mà danh-thơm, tiếng tốt được mọi người xa gần đều quí-mến.
(2) Ý-nghĩa hai bài Kệ số 054 và 055:
Hai bài kệ so-sánh các thứ hương thơm, như hương chiên-đàn, mạt-lỵ, già-la, vũ-quí, chẳng thể ngược gió bay xa như hương thơm nhà đạo-đức, tức là giới-hương. Người có đức-hạnh, tu-hành tinh-tấn, sẽ được mọi người gần xa kính mến, nhờ biết quy-y Tam-Bảo và giữ đúng giới-hạnh.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ; ghi nhớ: giới-hương cao-quí hơn tất cả mọi mùi hương.
2.- Tập giữ giới cho thật thanh-tịnh: Phật-tử tu tại-gia chỉ có năm giới phải tuân theo, nhưng giữ cho trọn-vẹn chẳng phải là việc dễ. Cần phải thường thường xét lòng mình, đừng dễ-dãi với mình mà vi-phạm.
(42).- Tích chuyện Tôn-giả Đại Ca-diếp.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc Tôn-giả Đại Ca-diếp, vừa xuất diệt-tận-định.
Thuở ấy, Tôn-giả Đại Ca-diếp vừa xuất cơn diệt-tận-định liền ôm bình bát đi vào một khu nghèo-khổ nhứt trong thành Vương-xá để khất-thực. Mục-đích của Tôn-giả là khiến cho một người nghèo-khổ nào đó có được cơ-duyên tạo nên phước-đức thật to-lớn vì cúng-dường cho một bực vừa chứng-nhập diệt-tận-định. Lúc bấy giờ, Vua Đế-Thích Sắc-ca trên cõi Trời, nom thấy, muốn tạo nên phước-báu đó, mới cùng với vợ là bà Sử-gia-ta, hoá hình làm hai vợ-chồng già-cả cùng-khổ, làm nghề dệt vải ở thành Vương-xá. Tôn-giả Đại Ca-diếp dừng lại trước cửa nhà, người chồng liền bưng lấy bình bát của Tôn-giả, sớt vào cơm trắng với cà-ri đầy bát, mùi thơm của thức ăn bốc lên bát-ngát cả thành-phố. Bấy giờ, Tôn-giả đoán biết người thí-giả nầy chẳng phải là người thường, liền mở mắt thiên-nhãn ra nhìn, thấy đó chính là Vua Trời Đế-Thích Sắc-ca hoá hình ra. Vua Đế-Thích mới nói thiệt rằng, trước kia ông rất nghèo khổ vì chẳng có cơ-hội tạo phước cúng-dường trong thời Đức Phật. Nói xong, Vua Đế-Thích và phu-nhơn liền kính-cẩn chào Tôn-giả để từ-biệt trở về cung Trời.
Nơi tịnh-xá Trúc-lâm, Đức Phật dùng thiên-nhãn, nhìn thấy cảnh-tượng nói trên, mới nói cho các vị tỳ-kheo biết việc cúng-dường của vua trời Đế-Thích. Các vị tỳ-kheo thắc-mắc tại sao vua Đế-Thích lại biết được Tôn-giả Đại Ca-diếp vừa xuất cơn diệt-tận-định, để giáng trần mà cúng-dường. Đức Phật giải-đáp rằng: "Nầy chư tỳ-kheo! Danh-tiếng của một người có đức-hạnh cao-quí như Đại Ca-diếp vang dội xa gần, thấu đến tận cung Trời, khiến cho Vua Đế-Thích biết được mà đến cúng-dường."
Bấy giờ Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Hương chiên-đàn, hương già-la còn nhạt,
Chỉ có giới-hương toả ngát cung Trời.
(Kệ số 056.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Tôn-giả Đại Ca-diếp: Tôn-giả = bực đáng kính-trọng; Đại Ca-diếp = tên thật của Tôn-giả bằng tiếng Pali là Mahàkassapa. Tôn-giả Đại Ca-diếp là vị đại-đệ-tử của Phật, tu theo hạnh đầu-đà vào bực nhứt. Ngài kế-tiếp Đức Phật lãnh-đạo Tăng-đoàn và là vị Tổ-sư thứ nhứt của Thiền-tông Ấn-độ.
- Diệt-tận-định: Diệt = tiêu-diệt; tận = hết cả, chẳng còn gì; định = tâm-trạng của người tu-thiền, đạt đến mức rỗng-không, chẳng còn bị ngoại-cảnh chi-phối, chẳng còn bị ý-tưởng bên trong trì-níu. Diệt-tận-định là tình-trạng nhập-định cao nhứt, vượt qua bốn cõi Thiền và bốn cõi đại-định, chấm-dứt tạm thời được thọ-uẩn và thức-uẩn, mà chứng-nhập Niết-bàn.
- Tịnh-xá Trúc-lâm: tên thật tịnh-xá nầy bằng tiếng Pali là Veluvana, ở ngoài thành Vương-xá, trong rừng tre, nơi Đức Phật thường cư-trú và giảng-pháp. Tînh-xá nầy do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) dâng-cúng Đức Phật.
- Vương-xá thành: tên thật thủ-đô cũ của nước Ma-kiệt-đà (Magadha), bằng tiếng Pali là Ràjagaha. Gần thành Vương-xá, có ngọn núi Linh-thứu, còn gọi là ngọn Kỳ-xà-quật hay Kê-túc-sơn, tiếng Phạn là Gridhrakùta, hình-thể giống như con chim ó xoè cánh ra. Chính nơi đây, có hương-phòng của Đức Phật, và Kinh Diệu-pháp Liên-Hoa được Đức Phật giảng tại đây.
- Sắc-ca: tên của Vua Trời Đế-Thích, tiếng Pali là Sakka.
- Sử-gia-ta: tên thật bằng tiếng Pali là Sujàta.
- Thiên-nhãn: Thiên = Trời; nhãn = con mắt. Thiên-nhãn chẳng phải là một cặp mắt nào khác, mà chỉ vào khả-năng nhìn được xa, thấy được rõ của bực tu-hành đắc đạo có đức-hạnh cao. Thiên-nhãn có thể thấy xuyên qua các vật ngăn cách.
- Giáng-trần: Giáng = đi xuống; trần = ở đây, chỉ cảnh trần-gian của cõi người.
- Nhạt = lợt-lạt, chẳng đượm nồng.
- Giới-hương: Giới = các điều răn-cấm trong giáo-lý; hương = mùi thơm. Chữ giới-hương có nghĩa là danh-tiếng của người tu-hành giữ giới luật thật đầy-đủ, đức-hạnh thật cao.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc Vua Đế-Thích từ cung Trời hiện xuống để cúng-dường Tôn-giả Đại Ca-diếp, một bực tu-hành đã chứng đắc được diệt-tận-định. Ý-nghĩa của Tích chuyện là giới-hương toả rộng khắp nơi, xa đến tận cung Trời; nói cách khác, danh-tiếng người tu-hành có đức-hạnh cao, tự-nhiên vang-dội đi xa, chẳng cần phải phô-trương chi cả.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 056:
Ý-nghĩa cũng giống với hai bài Kệ trước, số 054 và 055.
HỌC TẬP:
- Học thuộc lòng bài Kệ, và nhớ lại hai bài Kệ trước về giới-hương.
(43).- Tích chuyện Trưởng-lão Cơ-thi-ca.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Tînh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Cơ-thi-ca, người chứng-đắc được quả-vị A-la-hán, trước khi nhập-diệt.
Thuở ấy ở nước Ma-kiệt-đà, có Trưởng-lão Cơ-thi-ca tu-hành rất tinh-tấn, thường ngồi Thiền trên một phiến đá ở núi Isigili. Nhưng rủi thay, mỗi khi vào cơn đại-định, Trưởng-lão
lại bị bịnh-hoạn hoành-hành, khiến cho việc tu-tập bị trở-ngại. Với chí
cương-quyết, Trưởng-lão nỗ-lực hành-trì, nhưng mỗi lần đều bị gián-đoạn vì cơn đau, khiến cho sự tiến-bộ bị ngưng-trệ. Đến lần thứ bảy, Trưởng-lão quyết-tâm, thà chết chớ chẳng chịu ngả lòng. Trưởng-lão toan dùng dao cạo cắt lấy yết-hầu để tự-sát, thì chứng đắc được quả-vị A-la-hán. Sau đó, Ngài nhập-diệt.
Lúc bấy giờ, Ma-vương hay biết Trưởng-lão đã từ-trần, mới tìm cách xem Trưởng-lão thác-sanh về đâu. Ma-vương tìm hoài chẳng thấy, mới hoá hình ra một chàng thanh-niên đến yết-kiến Đức Phật để thưa hỏi, chẳng biết Trưởng-lão Cơ-thi-ca, nay đi về đâu. Đức Phật bảo Ma-vương: "Nầy Ma-vương, ông đừng cố tìm biết nơi thác-sanh của Cơ-thi-ca chi cho vô-ích vì Trưởng-lão Cơ-thi-ca đã chứng-đắc được quả-vị A-la-hán, sau khi gột sạch tất cả lậu-hoặc và nhập Niết-bàn. Với tất cả quyền-lực của một vị Ma-vương, ông chẳng thể nào tìm được nơi thác-sanh của những bực đã chứng quả vô-sanh như Cơ-thi-ca."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người hằng sống trong lòng tỉnh-thức;
Giới-hạnh cao, đạo-đức vẹn-toàn,
Bằng Chánh-trí, giải-thoát xong lậu-hoặc;
Ác-ma muốn bắt, biết đâu mà tìm.
(Kệ số 057.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Trưởng-lão: Trưởng = lớn, lớn tuổi; lão = già. Chữ Trưởng-lão, trong Phật-học chỉ vào các bực tu-hành lâu năm, đức-hạnh vẹn-toàn.
- Cơ-thi-ca: tên thât của vị Trưởng-lão bằng tiếng Pali là Godhika.
- Quả-vị A-la-hán: đây là quả-vị thư tư, cao nhứt trong hàng
Thanh-văn. Người chứng được quả-vị nầy chẳng còn phải tái-sanh trong
cõi Luân-hồi nữa, nên gọi là quả vô-sanh, hằng sống an-vui trong cảnh tịch-diệt của Niết-bàn.
- Isigili: tên một ngọn núi thuộc nước Ma-kiệt-đà (Magadha).
- Đại-định: tâm-trạng của người ngồi Thiền đạt đến cảnh-giới vắng-lặng, rỗng-không.
- Hoành-hành: Hoành = tung-hoành, tàn-phá; hành = làm. Bị hoành-hành là bị hành-hạ khổ-sở.
- Ngưng-trệ: bị dừng lại, chẳng tiến lên thêm được.
- Yết-hầu: cổ họng.
- Tự-sát: mình giết mình, tự-tử.
- Nhập-diệt: chết.
- Từ-trần: chết.
- Thác-sanh: sanh trở lại nữa.
- Yết-kiến: đến gặp người cao-quí.
- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy; hoặc = điều sai-lầm. Chữ lậu-hoặc là danh-từ chuyên-môn Phật-học, trỏ vào các thói xấu của con người chẳng có tu-hành. Lậu-hoặc được ví với các chất bẩn-thỉu rỉ chảy từ bên trong ra. Đó là các món độc như tham, sân, si, mạn( =kiêu-căng), nghi, tà-kiến.
- Vô-sanh: Vô = chẳng có; sanh = sanh trở lại nữa, theo vòng Luân-hồi. Chứng được quả vô-sanh thì chẳng phải chịu cảnh chết đi sống lại và sự khổ-sở của Luân-hồi. Đừng tưởng-lầm vô-sanh là chẳng sanh nữa, tiêu-diệt luôn; trái lại, người chứng quả vô-sanh hằng sống mãi trong cảnh tịch-diệt an-vui của Niết-bàn.
- Chánh-trí: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Trí = trí-huệ. Đồng một nghĩa với chữ Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, cái trí của bực tu-hành đã đến được bờ bên kia, nghĩa là được giác-ngộ và giải-thoát.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện đề-cao ý-chí cương-quyết của một vị Trưởng-lão tinh-tấn hành Thiền, khuất-phục được cơn đau, để chứng được quả-vị A-la-hán.
Tích chuyện còn nêu lên việc Ma-vương muốn tìm bắt Trưởng-lão Cơ-thi-ca khi Ngài từ-trần, nhưng chẳng được. Đó là một cách nói trong Kinh-sách, để giải-thích sự vô-sanh: vì chẳng còn phải tái-sanh nữa, sống an-vui trong cảnh Niết-bàn, nên sự cám-dỗ của Ma-vương chẳng có cách nào phá-hại được nữa.
(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 057:
Bài Kệ ghi lại con đường tu-tập để tiến lên mục-tiêu đắc được đạo-quả vô-sanh, nghĩa là thoát khỏi được vòng sanh-tử Luân-hồi, chứng-nhập cảnh-giới Niết-bàn an-vui.
Thử phân-tách bài Kệ:
- Người hằng sống trong lòng tỉnh-thức: đây là đường-lối tu-tâm, luôn luôn giữ chánh-niệm, tỉnh-giác, khiến cho vọng-niệm chẳng thể khởi lên lôi kéo tâm theo còn đường quấy;
- Giới-hạnh cao, đạo-đức vẹn-toàn: trì giữ giới-hạnh thật thanh-tịnh, tránh điều dữ, siêng làm việc lành, vừa tạo thêm phước, vừa chuyển-đổi được nghiệp-quả xấu của các đời trước;
- Bằng Chánh-trí, giải-thoát xong lậu-hoặc: về mặt tích-cực, phát-triển Trí-huệ Bát-nhã (Chánh-trí) bằng cách siêng tu Thiền-định; về mặt tiêu-cực, tận-diệt các lậu-hoặc, nhứt là ba món độc tham, sân, si.
- Ác-ma muốn bắt, biết đâu mà tìm: chứng được quả vô-sanh, chẳng còn bị sự tham-ái lôi kéo vào con đường sanh-tử nữa.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để tự nhắc nhở lấy con đường tu-tập.
2.- Tập ngồi Thiền: buổi đầu nên tập ngồi tĩnh-tâm, yên lặng theo dõi từng hơi thở ra vào, hơi đi tới đâu, tâm theo dõi đến đấy. Thử tập trong mười hơi thở, nghỉ một lát, tập tiếp. Nhớ đừng nghĩ gì cả, khi thở.
(44).- Tích chuyện hai người bạn khác đạo.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến hai người bạn khác đạo nhau và phép mầu hoa sen.
Thuở ấy, ở nước Xá-vệ có hai người bạn thân nhau, một người tên là Sĩ-di-cúc, một người tên là Hạ-đinh-nha. Sĩ-di-cúc là một Phật-tử tại-gia rất thuần-thành, còn Hạ-đinh-nha thì theo ngoại-đạo là nhóm loã-thể Ni-kiền-tử. Nhóm ngoại-đạo nầy chống-đối với Đức Phật. Đã nhiều lần, anh Hạ nghe theo lời bọn Ni-kiền-tử, thường khuyên bạn mình nên bỏ đạo Phật mà đi theo nhóm loã-thể. Anh Hạ nói: "Nầy bạn, bạn nên theo học đạo với chúng tôi. Các vị thầy của tôi có được quyền-năng mạnh-mẽ, biết được cả việc quá-khứ, việc hiện-tại và việc tương-lai. Các Ngài còn đọc được tư-tưởng của các người khác nữa!" Anh Sĩ nghe nói thế, muốn biết được sự-thật, nên mới thỉnh nhóm Ni-kiền-tử đến nhà mình để dâng cơm cúng-dường.
Anh Sĩ cho đào một hố sâu trước sân, che rạp lại; bên dưới hố để đầy phân và các chất bẩn-thỉu, bên trên lót ván mỏng, kê ghế ngồi. Anh sắp nhiều chậu, chất lá chuối ở dưới, còn bên trên thì để cơm và cà-ri. Khi các người Ni-kiền-tử đến, anh Sĩ mời họ xếp hàng đi vào từng người một, theo thứ-tự đứng trước ghế của mình,
rồi cùng ngồi xuống một lượt. Vừa ngồi xuống, thì ghế bật ngả, cả bọn
Ni-kiền-tử lọt vào hố phân, la chí-choé. Anh Sĩ to tiếng nói: "Các ông
thường khoe là biết cả việc quá-khứ, hiện-tại và vị-lai, đoán rõ được tư-tưởng của người khác, sao lại chẳng biết mình sẽ rơi vào hầm phẩn?" Cả bọn Ni-kiền-tử giận-dữ, vừa nguyền-rủa, vừa bẽn-lẽn, bò lên, bỏ ra về.
Thấy những người đồng-đạo của mình bị nhục như thế, anh Hạ rất căm-phẫn; trong hai tuần, chẳng thèm nói chuyện với anh Sĩ. Sau nghĩ được mưu-kế trả thù, anh giả bộ làm lành, đến nhờ anh Sĩ tới cung-thỉnh Đức Phật và chư Tăng đến nhà anh, để anh dâng cơm cúng-dường. Anh Sĩ đến trình Phật việc anh gạt bọn Ni-kiền-tử khi trước, và thưa-thỉnh Ngài nên xét xem có nên nhận lời đến nhà anh Hạ chăng? Đức Phật quán-thấy đã
đến cơ-duyên khiến cho đôi bạn Hạ và Sĩ cùng chứng-đắc được đạo-quả
Tu-đà-huờn, nên nhận lời, hôm sau đến thọ-thực ở nhà anh Hạ.
Để báo thù, anh Hạ cũng đào hố sâu, bên dưới để than hồng, bên trên
lót ván, trải thảm và kê ghế ngồi. Các chậu đựng thức ăn cũng chứa đầy
lá chuối bên dưới, có chút ít cơm và cà-ri phủ bên trên. Khi Đức Phật
và Tăng-đoàn đến nhà, bước lên tấm thảm, thì lạ thay, than hồng dưới hố
đều biến mất, và năm trăm cành hoa sen thơm ngát đang vươn lên cao, nở rộng ra, làm toà ngồi cho Đức Phật và các đệ-tử. Trông thấy phép mầu đó, anh Hạ hoảng-hốt đến bên anh Sĩ, nói nhỏ: "Nầy bạn ơi! Làm sao bây giờ? Tôi đã lỡ nhét lá chuối bên dưới các chậu đựng thức ăn, làm sao mà có thực-phẩm để dưng-cúng Phật?" Anh Sĩ bảo bạn, nên xem lại, thì lại lạ-lùng thay, mỗi chậu đựng đầy các thức ăn thơm ngon cả.
Sau buổi ngọ-trai, Đức Phật giảng-pháp, nói về hạnh bố-thí; cả hai người bạn thấu hiểu được Chánh-pháp, nên đắc được đạo-quả Tu-đà-huờn. Đức Phật bảo họ: "Các phàm-phu tục-tử chẳng biết các đức-hạnh cao-quí của ngôi Tam-Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Họ cũng như những người mù, chỉ có bực hiền-trí, đầy đủ Trí-huệ, như người sáng mắt."
Rồi Đức Phật thốt lên hai bài Kệ sau đây:
Giữa hố rác dơ bên đại-lộ,
Hoa sen thơm nở, đẹp lòng người.
Cùng thế ấy, giữa chợ đời phàm-tục,
Kẻ mê-mù còn nhung-nhúc nơi nơi.
Nhô lên cao, với trí-huệ sáng ngời,
Người đệ-tử chơn-thành của Đức Phật.
(Kệ số 058 và 059.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Phép mầu: phép lạ, các quyền-năng siêu-phàm của người đắc-đạo mà người thường chẳng có được.
- Sĩ-di-cúc: tên thật người Phật-tử nầy bằng tiếng Pali là Sirigutta.
- Hạ-đinh-nha: tên thật người nầy bằng tiếng Pali là Garahadinna.
- Thuần-thành: rất tin-tưởng và trung-thành với Đạo.
- Loã-thể: Loã = loã-lồ, chẳng mặc quần-áo; Thể = thân-thể. Phái loã-thể chủ-trương chẳng mặc quần-áo, mính trần, đóng khố che phiá dưới. Nhóm nầy được gọi là Ni-kiền-tử, phiên-âm tiếng Pali là Nigantha.
- Quyền-năng = sức-lực, tài-phép.
- Siêu-nhiên: Siêu = vượt lên trên; Nhiên = tự-nhiên. Quyền-năng siêu-nhiên là có sức làm những việc khác thường, như bay bổng, đi trên mặt nước, v.v.
- Quá-khứ: Quá = đã qua; Khứ = đi; Quá-khứ hay dĩ-vãng là việc đã qua rồi; việc xưa.
- Tương-lai: Tương = gần, sắp; Lai = đến; Tương-lai hay vị-lai là việc sắp xãy đến.
- Rạp: cái mái lợp che phiá trước nhà, để đón khách.
- Căm-phẫn: căm giận lắm.
- Cơ-duyên: Cơ =cơ-hội, dịp; Duyên = duyên-cớ. Chữ Cơ-duyên trong Phật-học có nghĩa là dịp tốt, giúp ta thành-tựu được việc gì.
- Thọ-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn.
-Toà ngồi: ghế ngồi. Chỗ Phật ngồi gọi là toà ngồi.
- Ngọ-trai: Ngọ = đúng trưa, mười hai giờ trưa; Trai = ăn chay.
-Phàm-phu tục-tử: người thường, ít học.
- Đại-lộ: Đại = lớn; Lộ = đường đi. Đại-lộ là đường cái, rộng lớn.
- Nhung-nhúc = đông-nghẹt.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang hai ý-nghĩa: (1) chê nhóm loã-thể Ni-kiền-tử khoác-lác khoe biết được việc quá-khứ, vị-lai; (2) khen-ngợi người tu-hành có trí-huệ sáng-suốt, biết tin-tưởng ngôi Tam-Bảo.
Vấn-đề có thể gây thắc-mắc cho người đọc Kinh là quyền-năng siêu-nhiên của Đức Phật, biến than hồng thành hoa sen để
làm toà ngồi. Chẳng có chi đáng trách trong việc nghi-ngờ về phép lạ
cả, vì ngày nay, ta chẳng chứng-kiến được việc đó để tin theo. Nhưng
vấn-đề có phép lạ hay không, chẳng liên-quan gì với Chánh-pháp mà Đức Phật dạy ta cả. Tại sao? Vì lời dạy của Ngài rất thiết-thực cho đời sống hằng ngày của chúng ta, biết đường ngay, nẻo phải, mà thi-hành theo để khỏi phải chịu khổ-sở mãi trong cuộc sống nơi cõi Luân-hồi. Vả lại, Ngài đã được anh Sĩ-di-cúc báo trước việc trả thù của anh Hạ-đinh-nha, tất nhiên Ngài sẽ đề-phòng, tránh được cạm-bẫy. Việc hoá các hoa sen làm chỗ ngồi cũng thế, giả-dụ Phật nói cho anh Hạ biết rằng Ngài đã biết mưu-kế của anh để hại Ngài, thì chắc anh Hạ cũng sẽ phải nhắc ghế cao mời Ngài ngồi, nào có khác chi là các toà hoa sen.
Đọc Kinh-sách, do người sau chép lại, đôi khi có thêm nhiều chi-tiết
lạ-thường, để thu-hút những người nhẹ da, mê-tín, ta cần phân-biệt rõ ý-nghĩa sâu-xa của lời Kinh, chớ vội tin theo, hoặc chê bỏ, vì các chi-tiết khác thường đó. Ý-nghĩa quan-trọng ở đây là sự sáng-suốt của người tin theo Chánh-pháp, chẳng bị lừa gạt vì lời khoe-khoang của bọn ngoại-đạo, tự-bảo mình biết việc quá-khứ, vị-lai, biết được tư-tưởng của người khác.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 058 và 059:
Hai bài kệ nêu lên hình-ảnh rất đẹp của hoa sen bát-ngát hương thơm giữa hố rác bên đường, để ví với người đệ-tử chơn-thành của Đức Phật. Giữa đám người còn mê-mờ, chạy theo danh-lợi, tranh-giành nhau trong cuộc sống, người đệ-tử Phật sáng-suốt tuân theo Chánh-pháp, trì-giữ giới-hạnh, khiến cho tiếng tốt vang xa, nào có khác chi hương thơm bát-ngát của đoá hoa sen, toả rộng ra, vượt lên khỏi chỗ bẩn-thỉu của hố rác bên đường.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng hai bài Kệ.
2.- Tập bỏ các thói mê-tín dị-đoan:
- Đi chùa để xin Xâm: đây là thói mê-tín cần dẹp bỏ. Phải tự-nhũ rằng: việc sẽ đến, thế nào cũng đến; chắc gì cây xâm đoán đúng. Chỉ cần biết giữ lòng thành, làm lành lánh dữ, việc hung-hiểm rồi sẽ qua đi; mình sẵn-sàng để đối-phó, cần gì lời tán-tỉnh của thầy bói.,
- Đừng nhẹ dạ tin lời đồn-đãi rằng thầy nầy có phép thần-thông, cô kia có tài biến-hoá, mà chạy theo để nhờ cứu-độ cho. Phật độ chúng-sanh, chẳng phải bằng cách hoá phép đưa mọi người đến Niết-bàn, mà Ngài chỉ chỉ cách tu-tập cho mọi người tự-tu để chứng Niết-bàn.
-ooOoo-
V.- PHẨM NGU.
(45).- Tích chuyện một người đi tìm hái hoa sen trắng.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc một người đàn-ông, theo lịnh Vua Ba-tư-nặc, đi xa để tìm hái hoa bạch-liên.
Thuở ấy, Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la, một hôm ra khỏi thành đi dạo, gặp một thiếu-phụ trẻ đẹp đang đứng bên cửa sổ trong nhà. Vua trầm-trồ khen ngợi sắc đep của người đàn-bà ấy và trong lòng nổi lên ý-định muốn xâm-chiếm lấy. Nhưng người đàn-bà ấy đã có chồng. Vua liền cho mời hai vợ chồng người thiếu-phụ vào làm việc trong hoàng-cung. Người chồng được lịnh vua, phải đi đến một nơi cách xa thành Xá-vệ hơn mười hai dặm đường, để hái hoa bạch-liên và lấy đất-sét đỏ đem
về kịp trong buổi chiều cùng ngày, để Vua dùng khi tắm rửa. Nếu về
chẳng đúng giờ, người chồng sẽ bị xử tử: nhà vua muốn giết người chồng để chiếm lấy người vợ.
Sáng sớm hôm ấy, người chồng vội-vàng mang giỏ cơm, từ-giả vợ, lên đường đi đến điạ-phận của Điạ-Long-Vương, nơi có hoa sen trắng và đất sét đỏ màu lửa. Dọc đường, anh dừng chơn, nghỉ mệt, đem cơm ra mời các khách bộ-hành cùng ăn. Đến ao sen rộng lớn minh-mông, anh chẳng biết cách nào tìm hái được hoa bạch-liên và móc đất sét đỏ, nên mới đứng bên
bờ ao, lấy cơm ra, rải xuống ao và khấn to lên: "Hởi các vị thần-linh
canh-giữ ao sen nầy, xin hãy nhận thực-phẩm cúng-dường của con và giúp
con có được bông sen trắng cùng đất-sét đỏ, đem về cho Vua, trước khi mặt trời lặn, vì nếu chậm, con sẽ bị vua xử tử!" Bấy giờ, vua Điạ-Long nghe thấy, mới hiện thân lên làm một người già-cả, cầm một bó hoa sen và nắm đất-sét đỏ, đem đến cho người chồng. Tạ ơn xong, người chồng vội-vã lên đường quay về thành.
Chiều hôm ấy, Vua Ba-tư-nặc sợ người chồng trở về kịp thời, nên ra lịnh đóng cửa thành sớm hơn mọi khi. Người chồng về đến thành, thấy cửa đã đóng, liền đến bên vách thành, trét đất sét lên tường, cậm bó hoa sen xuống đất, cất cao giọng, nói to lên: "Hởi dân-chúng trong thành!
Nhà Vua muốn giết tôi để cướp vợ tôi, sai tôi đi hái hoa bạch-liên và lấy đất-sét đỏ, phải về trước khi mặt trời lặn. Mặt trời còn đang đỏ-ối kia, mà cửa thành lại đóng chặt. Xin hãy làm chứng cho tôi đã về kịp thời." Nói xong, người chồng bỏ đi, hướng về Kỳ-viên-tự nơi Đức Phật ngụ, để tìm nơi nương-tựa.
Suốt đêm ấy, vua Ba-tư-nặc trằn-trọc mãi, chẳng ngủ được, trong lòng nung-nấu vì ý-định gian-ác, muốn giết người chồng để chiếm người vợ. Vào khoảng nửa đêm, tai nhà Vua nghe văng-vẳng tiếng kêu than, khóc-lóc rền-rĩ của bốn người đang đau-khổ, từ dưới điạ-ngục vang lên. Sáng ra, nhìn thấy vẻ bơ-phờ của nhà Vua, nghe vua nói mất ngủ, hoàng-hậu Mạt-lợi mới khuyên vua đến thưa-thỉnh cùng Đức Phật. Theo lời, Vua ngự đến chùa Kỳ-viên, nơi đây gặp lại người chồng, đang ngồi hầu bên cạnh Đức Phật. Nghe nhà vua kể lại việc nghe tiếng kêu-khóc trong đêm qua, Đức Phật bảo đó là tiếng kêu khóc của bốn chàng thanh-niên giàu-có, vào thời Đức Phật Ca-diếp, thường hay gian-dâm với vợ người, nay còn đang phải chịu hình-phạt khổ-sở, bị chất đồng-đỏ nấu sôi trong cảnh điạ-ngục Dương-đồng. Nhà vua sực-tỉnh lại, cảm thấy ăn-năn về ý-định đen-tối của mình muốn chiếm vợ của người khác.
Bấy giờ, nhà vua mới thưa với Đức Phật: "Bạch Thế-tôn! Một đêm mất ngủ, con nằm trằn-trọc, thấy đêm dài vô-tận!" Người chồng ngồi gần đó, cũng thưa với Đức Phật: "Bạch Thế-tôn! Khi con cố đi nhanh qua quảng đường dài hơn chục dặm, lòng con cảm thấy ngao-ngán, mệt-mỏi vì đường xa!" Lúc ấy, Đức Phật mới bảo cả hai, đường xa, đêm dài, còn chưa lâu, chưa dài bằng cuộc sống sanh-tử mãi trong cõi Luân-hồi!"
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người trằn-trọc thấy đêm dài vô-tận;
Kẻ mỏi chơn ngao-ngán dặm đường xa.
Hạng ngu-khờ chưa thông Chánh-pháp,
Cõi Luân-hồi, biết thuở nào ra!
(Kệ số 060.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Bạch-liên: Bạch = trắng; Liên = sen; Bạch-liên là hoa sen trắng. Trong bản Kinh tiếng Pali gọi đó là Kamuda.
- Đất-sét đỏ: chất đất dùng khi tắm rửa ngày xưa, như sà-bông ngày nay. Trong bản Kinh tiếng Pali, gọi đất đó là Arunavati.
- Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la: tên thật bằng tiếng Pali là vua Pasenadi, nước Kosala.
- Xử tử: Xử = xét tội; tử = chết. Xử tử là kết tội phải bị chết
- Điạ-phận: Điạ = đất; Phận = khu, vùng; Điạ-phận là vùng đất.
- Điạ-Long-Vương: Điạ = đất; Long = rồng; Vương = vua. Điạ-Long-Vương là vua Rồng đất.
- Trằn-trọc: nằm trên giường mà ngủ chẳng được, thao-thức mãi.
- Bơ-phờ: nhọc-mệt, vẻ mặt hốc-hác.
- Mạt-lợi: tên thật của hoàng-hậu tiếng Pali là Mallikà.
- Đức Phật Ca-diếp: tên Đức Phật nầy tiếng Pali là Kassapa. Đức Phật Ca-diếp giáng-sanh trước Đức Phật Thích-ca. Ngài là vị Phật thứ sáu trong số bảy vị Phật của Hiền-kiếp.
- Gian-dâm: gian-dối lấy vợ hay chồng của người khác.
- Điạ-ngục Dương-đồng: Điạ-ngục = ngục-thất nơi các người chết đang chịu hình-phạt vì tội-ác đã làm lúc còn sống. Điạ-ngục Dương-đồng, tiếng Pali là Lohakumbhi Niraya, nơi đó tội-nhơn bị chất đồng đỏ nấu sôi, cứ một thời-gian lâu mới được trồi lên mặt chảo, kêu khóc chẳng thành lời. Trong điạ-ngục Dương-đồng có bốn chàng thanh-niên lúc sống ở trần-thế, giàu-có mà gian-dâm với vợ người khác.
- Sực-tỉnh: bỗng-nhiên tỉnh-ngộ lại, nhận biết lỗi của mình.
- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = quay trở lại. Chữ Luân-hồi, trong Phật-học, dùng để
chỉ số-phận của chúng-sanh phải sanh ra rồi chết đi để phải sanh lại
nữa, chịu các cảnh khổ-vui của cuộc đời. Muốn thoát khỏi cõi Luân-hồi, phải thông-hiểu Chánh-pháp, tu-tập tiêu-diệt các phiền-não, lậu-hoặc, dứt bỏ được sự tham-ái bám-víu vào cuộc sống sướng ít khổ nhiều nầy, mà chứng cảnh vô-sanh, nhập vào Niết-bàn được an-vui mãi mãi, khỏi phải tái-sanh nữa.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang hai ý-nghĩa: (1) chê-trách ý-định
gian-ác của vua Ba-tư-nặc, muốn chiếm lấy vợ của người khác; (2)
so-sánh sự ngao-ngán của người mỏi chơn phải đi xa, của người trằn-trọc
ban đêm chẳng ngủ được, với số-phận tái-sanh nhiều lần của chúng-sanh ở cõi Luân-hồi.
Gian-dâm, hay tà-dâm, là phạm vào giới thứ ba trong năm điều cấm của ngũ-giới mà người Phật-tử tu tại-gia phải tuân theo. Gian-dâm là thông-dâm với chồng hay vợ của kẻ khác. Đối với giới tỳ-kheo, phải dứt tuyệt việc hành-dâm, nghĩa là phải sống độc-thân trọn đời.
Đức Phật so-sánh con đường dài thăm-thẳm của Luân-hồi với đoạn đường
xa, với đêm dài chẳng ngủ được, để chỉ cho ta thấy cuộc Luân-hồi, phải
tái-sanh trong vòng sanh-tử, là dài-dặc, như người bước đi mãi trong
đêm tối. Người thường, chẳng hiểu Chánh-pháp, chỉ biết một đời sống trăm năm mà thôi, tưởng rằng sau khi chết là hết. Đó là điều sai-lầm lớn, vì trước khi sanh ra đời nầy, đã có đời trước, và sau khi chết đi, còn phải tái-sanh vào đời sau. Tại sao vậy? Đó là vì khi sống, chúng-sanh đã tạo nên nghiệp; khi dứt cuộc sống nầy, nghiệp sẽ kéo ta đi tái-sanh. Ai làm lành, sanh vào cõi lành; ai làm ác, sanh vào cõi dữ. Cứ thế tiếp-tục mãi chẳng ngừng, trừ phi biết tu-tập để chứng được Niết-bàn vô-sanh.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 060:
Bài Kệ, sau khi so-sánh cõi Luân-hồi với dặm đường xa, với đêm dài trằn-trọc, mách cho cách thoát khỏi: phải thông-hiểu Chánh-pháp và chuyên-tâm tu-tập để dứt nghiệp mà chứng cảnh Niết-bàn vô-sanh. Chỉ có người ngu-khờ, chẳng biết đến Chánh-pháp, mới trôi lăn mãi trong vòng đau-khổ của Luân-hồi.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ cảnh khổ của Luân-hồi.
2.- Có Luân-hồi thật-sự hay không? Đây là câu hỏi mà các
người chẳng tin nơi Đạo Phật, thường đặt ra. Ta chớ nên để mất thì-giờ,
bàn-cãi vô-ích với họ về việc nầy. Chỉ nên tự-hỏi: nếu thật có
Luân-hồi, mà chẳng chịu tin, thì số-phận của mình sẽ ra sao? Tin thì có
lợi, chẳng tin lỗ-lã biết chừng nào mà kể.
(46).- Tích chuyện người Sa-di của Tôn-giả Đại Ca-diếp.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến người Sa-di của Tôn-giả Đại Ca-diếp.
Thuở ấy, Tôn-giả Đại Ca-diếp ngụ gần thành Vương-xá, có hai người Sa-di theo hầu; một người biết tuân theo lời dạy, kính-cẩn, lễ-độ với Tôn-giả; còn người kia thì chẳng được như thế. Khi Tôn-giả chỉ-dạy bổn-phận của người tu-hành đối với bực trưởng-thượng, thì người sau nầy tỏ ra rất bất-mãn. Một hôm, người ấy đến nhà một người tín-nữ, nói dối rằng Tôn-giả Đại Ca-diếp bị bịnh; người tín-nữ liền dưng-cúng thực-phẩm ngon, nhờ đem về cho Tôn-giả dùng. Người Sa-di ấy nhận lời, nhưng dọc đường ăn hết cả. Đến khi Tôn-giả biết chuyện đó, mới quở-trách về tội nói dối, thì anh ta lại tỏ ra căm-giận. Sánh hôm sau, khi Tôn-giả và người Sa-di kia đi khất-thực, thì anh ta ở lại tịnh-xá, đập vỡ cả chậu, bát, son chảo, rồi nổi lửa đốt cháy cả căn nhà.
Bấy giờ có một vị tỳ-kheo ở Vương-xá-thành, đến Kỳ-viên-tự yết-kiến Đức
Phật, thuật lại việc Tôn-giả Đại Ca-diếp bị người Sa-di đốt cháy cả
tịnh-xá, Đức Phật mới bảo, nếu chẳng gặp được người tốt, thì cứ nên sống một mình, còn hơn là làm bạn với người ngu.
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Tìm bạn đường, mà tìm chưa gặp
Kẻ bằng mình, hoặc bậc hơn mình.
Thà rằng cứ ở độc-cư,
Còn hơn kết bạn người ngu, kẻ khờ.
(Kệ số 061.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Đại Ca-diếp: tên thật của Tôn-giả tiếng Pali là Mahàkassapa.
- Sa-di: người tu-sĩ vào chùa tập-sự tu-hành. Sau hai năm, nếu đủ tuổi, sẽ được thọ-giới tỳ-kheo. Tiếng Pali là Sàmanera, ở chùa Việt gọi là chú tiểu, chú điệu.
- Tịnh-xá: Tịnh = yên-tịnh, thanh-tịnh; Xá = nhà. Tịnh-xá là ngôi nhà nhỏ, thanh-vắng, để làm nơi tu-hành.
- Bất-mãn: Bất = chẳng; Mãn = vừa ý. Bất-mãn là giận, chẳng được vừa lòng.
- Độc-cư: Độc = cô-độc, ở một mình, chẳng có bạn-bè; Cư = ở.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện chê thái-độ tu-hành
của người Sa-di: chẳng biết nghe lời thầy dạy, tỏ ra bất-mãn khi bị quở
trách về tội nói dối. Ý-nghĩa của Tích chuyện là chớ nên thân-cận với
người ngu, kẻ khờ, vì sẽ gặp những điều bất-lợi do họ gây ra cho mình.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 061:
Bài Kệ khuyên ta nên chọn người bạn đường. Thông-thường chữ bạn đường có nghĩa là người cùng đi chung đường với mình; lại còn có nghĩa là người bạn chung sống cả đời với mình, chồng hay vợ. Ở đây, Tôn-giả có hai người đệ-tử, một người tốt, một người xấu. Đức Phật bảo, thà rằng ở độc-cư, chớ chọn đệ-tử ngu-khờ mà bị thiệt-hại. Thật ra Tôn-giả Đại Ca-diếp chẳng phải kết-bạn với hai người đệ-tử, mà chính là thâu-nhận họ để chỉ-dạy đạo cho họ. Lời khuyên của Đức Phật về việc chọn bạn để sống chung có tầm-mức rộng-rãi hơn: thà ở một mình, nếu chẳng gặp người bằng mình hay hơn mình mà kết bạn. Bằng mình, hay hơn mình, ở đây, có nghĩa là bằng hay hơn về đức-hạnh, chớ chẳng có nghĩa là giàu-có, sang-trọng hơn mình, vì nếu chọn như thế sẽ mang tiếng là quá trọng danh-lợi, quyền-thế, điều mà người tu-hành phải tránh.
HỌC TẬP:
Học thuộc lòng bài Kệ; để ghi nhớ trong việc chọn bạn mà
chơi. Một khi đã kết-thân rồi, ta phải tỏ lòng trung thành với nhau, vì
thế, cần chọn lựa kỹ-lưỡng trước khi kết bạn.
(47).- Tích chuyện người keo-kiết tên A-nan-đà.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến ông A-nan-đà là người giàu-có lớn mà rất rít-róng, chẳng hề chịu bố-thí cho ai cả.
Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một người rất giàu, gia-sản lên đến tám triệu tiền vàng, nhưng rất rít-róng, chẳng dám ăn-tiêu, chẳng hề chịu bố-thí cho người nghèo-khổ. Ông ta thường dạy con là Mã-la-sĩ rằng: "Con đừng tưởng là nhà ta giàu-có lớn. Con chẳng nên bố-thí cho ai, mà phải lo làm sao cho của-cải mỗi ngày một tăng thêm, nếu không sẽ bị phá-sản." Ông ta có năm hủ vàng chôn dấu trong nhà; đến khi chết, quên chẳng kịp chỉ chỗ cho người con.
A-nan-đà thác-sanh vào một làng chuyên nghề đi ăn xin, ở nước Xá-vệ. Khi mẹ ông ta mang thai, cả làng bị khốn-khó vì đi xin chẳng được ai cho như ngày trước. Các vị bô-lão trong làng, nghi rằng trong làng hiện đang có kẻ bất-hạnh, đem đến điều không may cho cả xóm, mới bàn cùng nhau, tìm xem nhà nào là nhà gây ra sự xui-xẻo đó. Sau khi phân-tách, chia ra từng nhóm, họ nhận thấy chính người đàn-bà mang thai kia là nguyên-nhơn, nên đuổi bà ta ra khỏi làng. Người đàn-bà bất-hạnh nọ, sau sanh ra được một đứa con rất xấu-xí, mặt mũi gớm-ghiếc, trông thấy rất ghê-tởm. Mỗi khi đi ẵm con đi xin, chẳng ai dám nhìn mà cho tiền bố-thí. Hôm nào bỏ con ở nhà, đi xin mới được đủ tiền nuôi miệng. Khi đứa con biết đi, bà ta cho nó một cái bát để tự đi xin ăn lấy, rồi bỏ nó luôn. Bấy giờ, đứa bé lang-thang đi khắp nước Xá-vệ, bỗng sực nhớ đến tiền-kiếp của nó, nhà cửa rất giàu-có. Nó liền đi trở lại nhà cũ, nhưng lũ con của Mã-la-sĩ trông thấy gương mặt gớm-ghiếc của nó, khóc thét lên, nên bọn đầy-tớ lấy gậy đuổi nó đi khỏi.
Lúc bấy giờ, Đức Phật và chư Tăng đang đi khất-thực ở thành Xá-vệ, Ngài thấy cảnh-tượng ấy, biết đến tiền-kiếp của A-nan-đà rít-róng như thế nào, đã dạy con ra sao, mới sai đệ-tử mời Mã-la-sĩ đến tu-viện nói chuyện. Đức Phật bảo Mã-la-sĩ rằng, đứa bé ăn mày kia chính là cha của anh ta vào kiếp trước. Mã-la-sĩ chẳng tin. Đức Phật nói thêm, cha anh chôn năm hủ vàng trong nhà, khi chết chưa kịp chỉ chỗ cho anh. Mã-la-sĩ theo lời chỉ-dạy của Phật, về nhà đào lên, được vàng, mới tin lời Phật. Kể từ ấy, Mã-la-sĩ trở nên một Phật-tử tại-gia rất thuần-thành.
Bấy giờ Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
"Đây, con Ta!". "Đấy, của Ta!"
Người ngu tham-ái sanh ra ưu-phiền.
Sao chẳng biết "Ta" riêng còn chẳng có,
Nói làm chi "con ta đó", "của ta đây"?
(Kệ số 062.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Keo-kiết: hà-tiện, rít-róng, kẹo, bỏn-xẻn.
- A-nan-đà: tên thật người nầy tiếng Pali là Ànanda. Đừng lầm với Tôn-giả A-nan-đà là vị đại-đệ-tử của Đức Phật.
- Gia-sản: Gia = nhà; Sản = của-cải . Gia-sản là tiền của trong nhà.
- Mã-la-sĩ: tên thật người con nầy tiếng Pali là Mùlasiri.
- Phá-sản: Phá = bị hư hao; Bị phá-sản là bị nghèo đi, hết tiền.
- Thác-sanh: sanh trở lại.
- Bất-hạnh: Bất = chẳng; Hạnh = may-mắn. Bất-hạnh là chẳng may, vô-phước, gặp điều rủi-ro.
- Bô-lão: các người già-cả và minh-mẫn.
- Tiền-kiếp: Tiền = trước kia; Kiếp = đời sống. Tiền-kiếp là đời sống trước đời hiện-tại.
- Tham-ái: lòng tham bám-víu vào cuộc sống sướng ít khổ nhiều nầy, khiến cho phải trôi lăn trong cõi Luân-hồi mãi.
- Ưu-phiền: sự phiền-muộn, buồn-khổ.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại cuộc đời và
kiếp tái-sanh của một con người rít-róng, giàu-có mà chẳng dám
tiêu-xài, chẳng chịu bố-thí. Vì quá bỏn-xẻn trong lối sống, nên theo nghiệp phải tái-sanh làm kẻ nghèo-khổ.
Ý-nghĩa quan-trọng của Tích chuyện là tiền-bạc, con-cái chẳng thể mang theo để giúp-đỡ cho ta trong kiếp sống sau nầy, chỉ có sự bố-thí, hào-phóng ( = bố-thí rộng-rãi) mới đem lại hạnh-phúc vào các đời sau.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 062:
Bài Kệ, nhơn Tích chuyện nói lên hai điều quan-trọng: (1) vì tham-luyến về tiền-bạc, con-cái, mà con người phải chịu phiền-não; (2) quan-niệm VÔ-NGÃ trong giáo-lý nhà Phật.
- Về sự tham-luyến.- Tham-ái, tham-luyến là một tình-cảm tríu-mến, bám chặt vào điều mình ham-thích. Chính sự bấu-víu nầy làm nguyên-nhơn khiến cho chúng-sanh phải tái-sanh mãi trong vòng sanh-tử của cõi Luân-hồi, để theo-đuổi vào điều mình ham-thích. Ngay trong cuộc sống hiện-tại, vì sự tham-luyến, mà con người phải chịu nhiều phiền-lụy, như có tiền chẳng dám tiêu-dùng, lo tích-trữ, chịu thiếu-thốn, "làm mọi‘’ cho đồng tiền, mỗi khi phải chi-tiêu thì xót-xa trong bụng.
- Về quan-niệm VÔ-NGÃ: Đây là quan-niệm căn-bản trong giáo-lý nhà Phật. Vô-ngã là chẳng có cái Ta, cái Ngã. Thông-thường mọi người nói: Ta có thân Ta, có nhà Ta, có con-cái của Ta. Phật-học gọi Ta là Ngã, những điều của Ta đó, là Ngã-sở. Phật-học cho rằng Ngã và Ngã-sở đều
rỗng-rang, giả-tạm, chẳng có thật, tuy thấy có đó, nhưng rồi sẽ
tiêu-tán đi, chẳng bền-vững. Người tu-hành chẳng tham-luyến vào điều
giả-tạm, mà phải biết quí-trọng đến điều chơn-thật, bền-vững. Điều chơn-thật, bền-vững đó, chính là Phật-tánh có sẵn nơi mọi chúng-sanh; Phật-tánh là khả-năng giác-ngộ và giải-thoát khỏi cảnh Luân-hồi. Còn tấm thân nầy, ta gọi là Ta đó, do năm uẩn hợp-thành, sẽ có lúc năm uẩn rời nhau ra mà thân bị diệt chết. Chỉ có Phật-tánh mới tồn-tại, hằng còn, nhưng người thường chẳng biết đến để noi theo mà tu-tập thoát khổ.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ; lưu-ý về quan-niệm Vô-ngã.
2.- Tập dứt bỏ sự luyến-ái:
- mỗi khi mất-mát một vật chi, đừng quá tiếc-rẻ.
- nên bố-thí rộng-rãi để diệt bỏ bụng xẻn-tham.
(48).- Tích chuyện hai người móc túi.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến hai người làm nghề móc túi.
Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có hai người chuyên sống về nghề móc túi trộm
tiền của kẻ khác. Một hôm, cả hai theo chơn một nhóm Phật-tử vào chùa
Kỳ-viên nghe Đức Phật giảng-pháp. Một người lắng nghe lời Phật dạy, còn một người thừa cơ các Phật-tử mãi lo nghe, để móc túi họ lấy tiền-bạc. Sau buổi giảng-pháp, cả hai quay về nhà nấu cơm ăn. Người móc túi được tiền, mua đồ ăn ngon nấu trong bếp; còn anh kia chẳng có tiền, phải ăn nhờ vào bạn. Người vợ anh móc túi liền nói mỉa-mai anh kia: "Anh là người quá thông-minh, biết nghe lời Phật dạy, nên chẳng kiếm được tiền, nay phải đến nhà tôi ăn nhờ vào của chồng tôi vừa kiếm ra." Nghe nói thế, anh nầy nghĩ rằng: ‘Bà ta là người ngu mà cứ tưởng mình và chồng mình là người có trí, nên mới mỉa-mai chê-trách ta như vậy."
Sau đó, anh cùng với thân-nhơn trở lại yết-kiến Đức Phật ở chùa Kỳ-viên. Khi nghe anh kể lại lời mỉa-mai của người vợ bạn móc túi của anh, Đức Phật mới nói lên bài Kệ ngắn sau đây:
Người ngu biết mình ngu,
Chẳng ngu đến chừng ấy.
Người ngu nhận mình trí,
Đấy là người chí ngu.
(Kệ số 063.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Mìa-mai: nói lời chua-ngoa, thầm chê kẻ khác.
- Thân-nhơn = người bà-con.
- Yết-kiến = đến gặp người trưởng-thượng.
- Chí ngu = ngu hết sức là ngu.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại việc hai người móc túi, đến nghe Đức Phật giảng-pháp. Một người biết mình còn ngu-dại làm nghề bất-lương, nên lắng nghe lời giảng. Còn người kia, tự cho mình là người khôn, biết thừa cơ-hội để móc túi những kẻ đang chăm-chú nghe lời Phật.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là: thừa cơ-hội người ta chăm-chú nghe pháp mà móc túi, là một hành-động rất ngu-khờ, vì tạo nên tội-lỗi, sau phải chịu quả-báo xấu. Chẳng biết sự ngu-khờ đó, mà lại tưởng mình khôn-lanh biết thừa cơ-hội, đó là sự dại-dột đến tột-bực: chỉ trông thấy mối lợi nhỏ, chẳng biết quả-báo tai-hại về đời sau.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 063:
Bài Kệ phân-tách hai trường-hợp:
- Người ngu biết mình ngu: biết được mình ngu chẳng còn ngu đến chừng ấy, vì đã biết được mình. Nếu mình biết mình còn ngu, mình mới lo học-hỏi thêm, mới có cơ-hội để thành người trí.
- Người ngu tự-nhận mình là người trí: chẳng biết được mình, lại thêm kiêu-căng nhận mình là người khôn, thì còn cái ngu nào bằng, cho nên bài Kệ mới nói là chí ngu, hết sức ngu! Tại sao lại chí ngu? Chí ngu vì khi tự nhận mình đã khôn rồi, đâu chịu học-hỏi thêm, thành ra chẳng có cơ-hội mở mang trí thông-minh của mình, sống mãi trong sự ngu-tối.
Ý-nghĩa quan-trọng của bài Kệ: đừng bao giờ tự-nhận mình là người trí, hãy khiêm-nhường nhận sự thiếu thông-minh của mình để học hỏi thêm điều hay lẽ phải.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, nhớ lấy để giữ lấy tánh khiêm-nhường.
2.- Khi bị ai chê là ngu, đừng nổi giận. Hãy bình-tâm xét xem mình đã ngu ở điểm nào mà sửa-chữa lại. Hành-động nầy là hành-động khôn-ngoan, để trả lời cho người đã chê mình ngu vừa qua.
3.- Nên thành-thật cám ơn kẻ chê mình ngu, vì kẻ ấy đã giúp cơ-hội cho mình được khôn thêm.
(49).- Tích chuyện Trưởng-lão Ưu-đà-di.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Ưu-đà-di.
Thuở ấy, có Trưởng-lão Ưu-đà-di là một tỳ-kheo tánh hay khoe-khoang, muốn được mọi người khen tặng mình
là người thông-hiểu rành-rẽ về Chánh-pháp, nên hay lên ngồi nơi các vị
Trưởng-lão thường thuyết-pháp. Một hôm có một nhóm du-tăng đến viếng chùa, trông thấy Trưởng-lão Ưu-đà-di, mới đến thưa hỏi về ngũ uẩn. Trưởng-lão Ưu-đà-di chẳng thể giảng-giải được thế nào là năm uẩn, vì Trưởng-lão chẳng thông-suốt Chánh-pháp. Các vị du-tăng rất ngạc-nhiên, nhận thấy một vị tỳ-kheo lớn tuổi, đã ở lâu bên cạnh Phật mà chẳng hiểu được thế nào là tấm thân năm uẩn, chẳng rành về lục căn và lục trần.
Bấy giờ, để trả lời chỗ họ thắc-mắc, Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người ngu dầu mãi bên người trí,
Chánh-pháp còn chẳng tí hiểu rành;
Khác nào cái muỗng múc canh,
Múc thời có múc, chẳng sành vị ngon.
(Kệ số 064.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Trưởng-lão: Trưởng = lớn; Lão = già-cả. Trong Phật-học, chữ Trưởng-lão dùng để chỉ các vị tu-hành lâu năm, đức-hạnh cao. Tiếng Pali là Thera; phái nữ là Theri.
- Ưu-đà-di: tên thật của Trưởng-lão, tiếng Pali là Udàyi.
- Du-tăng: Du = đi đó đây; Tăng = nam tu-sĩ. Các vị du-tăng thường đi đây đó, để tìm thầy học-hỏi thêm về Đạo-pháp.
- Ngũ-uẩn, năm uẩn: năm nhóm tụ-họp tạm thời tạo nên thân-tâm con người. Đó là sắc-uẩn, thân-thể vật-chất, và bốn uẩn thuôc về tâm: thọ-uẩn, các tình-cảm; tưởng-uẩn, các tư-tưởng, hành-uẩn, các hành-động, và thức-uẩn, các sự hiểu-biết.
- Lục-căn: Lục = sáu; Căn = nơi phát-xuất ra, nguồn-gốc. Lục căn là các giác-quan giúp ta biết được cảnh bên ngoài và tư-tưởng bên trong. Lục căn gồm có: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
- Lục trần: Trần = bụi-bặm. Chữ Lục-trần trong Phật-học dùng để chỉ sáu hình-thái của cảnh vật bên ngoài và ý bên trong. Đó là: sắc (màu-sắc, hình-dáng), thanh (tiếng động), hương (mùi), vị (vị nếm), xúc (sự đụng-chạm), pháp (sự-vật bên ngoài gợi lên ý bên trong).
- Sành = hiểu rành-rẽ, thấu đáo.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị, chê Trưởng-lão Ưu-đà-di ở gần bên Phật lâu ngày mà chẳng thông-hiểu được Chánh-pháp.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 064:
Bài Kệ ví người ngu ở gần người trí, mà chẳng biết học-hỏi thêm điều gì, tựa như cái muỗng ngâm trong tô canh mà chẳng biết gì đến vị ngon của canh cả.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ; mỗi khi đến chùa
nghe giảng Kinh-kệ, nên tìm hiểu cho rành-rẽ hầu ứng-dụng vào việc
tu-hành; chớ lơ-là, nghe xong rồi ra khỏi cổng chùa, bao nhiêu lời
giảng đều cuốn theo chiều gió!
2.- Tập thưa hỏi với các bực thiện-tri-thức:
- đem những điều mình còn thắc-mắc ra hỏi, đừng e-lệ sợ bị chê là dốt;
- thử nhìn lại thân-tâm mình, xét xem sắc-uẩn, thọ-uẩn,... là gì, tại sao thân năm uẩn nầy lại vô-thường và vô-ngã.
- học thuộc lòng lục căn, lục trần gồm có những gì, để biết kềm-chế các giác-quan chẳng chạy theo cảnh-vật bên ngoài khiến cho tâm phải vọng-động.
(50).- Tích chuyện ba mươi chàng thanh-niên.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến ba mươi chàng thanh-niên ở Phả-vị-kha.
Thuở ấy, có một nhóm thanh-niên tại làng Phả-vị-kha dẫn một dâm-nữ vào rừng để hành-lạc. Người dâm-nữ lén đánh cắp các vật trang-sức và bỏ trốn đi. Trong khi bọn thanh-niên lùng kiếm trong rừng, thì họ gặp được Đức Phật và chư Tăng đi ngang qua đó. Họ dừng lại, nghe Đức Phật thuyết-pháp và một số ít trong nhóm thanh-niên chứng được quả-vị Tu-đà-huờn. Các thanh-niên ấy liền xin Đức Phật cho gia-nhập Tăng-đoàn, và theo Đức Phật về chùa Kỳ-viên. Trong một thời-gian ngắn cư-trú tại đây, các thanh-niên ấy đã tỏ ra rất chuyên-cần tu-tập, giữ gìới thật thanh-tịnh và theo hạnh đầu-đà để thanh-lọc thân-tâm. Đến khi Đức Phật thuyết-giảng Kinh Tương-Ưng Vô-Thỉ (Anamatagga Samyutta), tất cả ba mươi chàng thanh-niên ở làng Phả-vị-kha đều chứng-đắc được đạo-quả A-la-hán.
Khi các vị tỳ-kheo khác tỏ ra ngạc-nhiên trước sự thành-đạt nhanh-chóng của đoàn thanh-niên Phả-vị-kha, Đức Phật liền nói lên bài Kệ sau:
Người khôn một lúc bên người trí,
Chánh-pháp liền thông chí ngọn-ngành,
Khác nào cái lưỡi nếm canh,
Canh chua, canh ngót, đều sành vị ngon.
(Kệ số 065.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Phả-vị-kha: tên thật làng nầy tiếng Pali là Pàveyyaka.
- Dâm-nữ: người đàn-bà bán dâm ( = làm điếm).
- Hành-lạc: Hành = làm; Lạc = vui. Hành-lạc là mua vui về thể-xác.
- Vật trang-sức: đồ-vật quí-giá đeo trong người để trang-điểm.
- Hạnh đầu-đà: tiếng Pali là Dhutanga; đây là lối tu khổ-hạnh. Người khéo giữ hạnh đầu-đà vào thời Đức Phật là Tôn-giả Đại Ca-diếp.
- Kinh Tương-ưng Vô-thỉ: trong các bản Kinh thuộc Tương-ưng nầy, Đức Phật diễn-giảng về thuyết Luân-hồi, cắt nghĩa tại sao chúng-sanh phải trôi lăn mãi qua vô-lượng kiếp tái-sanh sống đi chết lại.
- Thông chí ngọn-ngành: thông-suốt rành-rẽ cả đầu-đuôi gốc ngọn, chẳng sót chỗ nào.
- Canh chua, canh ngót: Thiện-Nhựt tôi xin thành-tâm sám-hối, vì trong bản nguyên-tác chẳng có bốn chữ "Canh chua, canh ngót" nầy, tôi sở dĩ thêm vào, là để cho gọn câu văn. Canh ngót là canh rau ngót.
- Sành: biết rành-rẽ.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại việc ba mươi chàng thanh-niên biết bỏ các thú-vui nhục-dục, nghe lời Phật dạy mà tu-tập chứng được quả-vị A-la-hán. Họ sở dĩ thành-công nhanh-chóng, là nhờ vào trí-huệ thông-minh, chí kiên-quyết tu-tập và giữ giới-hạnh đầu-đà.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 065:
Thử so-sánh với bài Kệ trước, số 064: người ngu ở mãi bên người trí, cũng chẳng học được gì, còn người khôn dầu ở bên người trí một thời-gian ngắn, cũng sớm thông-thạo được Chánh-pháp.
Trái với bài Kệ số 064 so-sánh người ngu như cái muỗng vô-tri, chẳng biết mùi-vị của canh, bài Kệ số 065 khen người khôn như cái lưỡi nhạy cảm, nếm biết được mùi-vị thơm ngon của các loại canh.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, so-sánh với bài Kệ trước, và cố-gắng thưa hỏi thêm để sớm trở thành người khôn.
2.- Thử soát lại xem mình đã hiểu bổn-phận của người Phật-tử tu tại-gia như thế nào: Thọ Tam-quy là gì? Tại sao lại quy-y? Giữ ngũ giới là giữ những giới nào? Tại sao? Nếu còn ngập-ngừng, phải mau thưa hỏi các vị tu-hành nơi chùa.
(51).- Tích chuyện người cùi Sở-phù-bút.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến ông Sở-phù-bút là người cùi.
Thuở ấy có một người cùi tên là Sở-phù-bút, ngồi bên ngoài đám đông đang tụ-tập nghe Đức Phật giảng pháp, mà chứng được quả-vị Tu-đà-huờn. Đến khi đám đông giải-tán, anh Sở mới lặng-lẽ bước theo sau chơn Đức Phật và chư Tăng mà đi về chùa Kỳ-viên. Dọc đường, có vị Thiên-đế là Sắc-ca muốn thử xem tín-tâm của anh Sở có kiên-cố chăng, mới hiện-hình lên làm một người giàu-có, nói với anh Sở: ‘Này anh kia, tôi xem anh đang nghèo-khó,
bịnh-tật, phải sống nhờ vào lòng từ-thiện của mọi người. Nay tôi sẽ ban
cho anh thật nhiều của-cải, nếu anh chịu từ-khước đừng tin-tưởng vào Phật, Pháp và Tăng nữa. Anh chịu không?" Anh Sở thẳng-thắng trả lời: ‘Thưa ông, ông lầm lắm. Tôi là người giàu-có, đủ cả bảy món thánh-tài của bực Thánh-giả. Một là tín-tâm; hai là giới-hạnh; ba là tâm tàm; bốn là tâm quí; năm là đa-văn; sáu là trí-huệ; bảy là xả-ly. Bấy nhiêu điều đó còn quí hơn tài-sản của ông cho tôi."
Vị Thiên-đế liền đến bên Phật, trước khi Sở-phù-bút tới chùa. Thiên-đế thuật lại những lời đối-đáp của anh Sở cho Đức Phật nghe. Đức Phật nói: "Cho dầu có một trăm vị Thiên-đế như ông đến dụ-dỗ anh Sở cũng chẳng thành-công khiến anh ta chẳng tin vào Phật-pháp." Vừa lúc ấy, anh Sở tới nơi, trình với Đức Phật rằng, anh vừa chứng được quả-vị Tu-đà-huờn, sau khi nghe Phật giảng-pháp. Sau đó, anh rời chùa ra về. Dọc đường, anh Sở bị một con bò cái hung-hăng húc vào người, anh ngả ra chết tại chỗ.
Bấy giờ chư Tăng nghe thấy, mới đến thưa cùng Phật và hỏi chẳng biết anh Sở được tái-sanh về cõi nào. Đức Phật đáp: "Anh Sở hiện đang tái-sanh vào cõi Trời Đao-lợi, nhờ chứng được quả-vị Tu-đà-huờn. Trong một kiếp trước, anh Sở đã phun-nhổ vào một vị Bích-chi-Phật, nên kiếp nầy phải sanh làm người cùi-hủi. Trong một kiếp khác, anh Sở đã giết một người dâm-nữ, nên nay bị ngưòi ấy, đầu-thai làm con bò húc chết để trả thù."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người ngu là kẻ thù chính họ;
Làm ác, vì chẳng có trí khôn,
Phải chịu quả đắng-cay khổ-sở.
(Kệ số 066.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Người cùi: người bị bịnh phung ( =phong) lở-lói, rụng móng tay, móng chơn, nhức-nhối, khổ-sở. Còn gọi là bịnh hủi.
- Sở-phù-bút: tên thật người cùi nầy tiếng Pali là Suppabuddha.
- Thiên-đế Sắc-ca: tên vị Vua Trời nầy tiếng Pali là Sakka.
- Tín-tâm: Tín = lòng tin-tưởng vào Phật-pháp; tâm = lòng. Tiếng Pali là Saddhà.
- Kiên-cố = bền-chặc, vững-chắc, chẳng lung-lay.
- Từ-thiện: Từ = nhơn-từ, thương người; Thiện = lành. Từ-thiện là lòng thương người nghèo khó, muốn giúp đỡ họ.
- Bảy món Thánh-tài: Thánh = bực đã giác-ngộ và giải-thoát; trái với phàm-phu; Tài = tài-sản, của-cải. Bảy món Thánh-tài là bảy đức-tánh của bực Thánh-giả, quí-báu hơn của-cải vật-chất.
- Giới-hạnh: Giới = điều răn-cấm; Hạnh = hạnh-kiểm. Giới-hạnh là sự giữ-gìn các giới-cấm; tiếng Pali là Sila.
- Tâm tàm: Tàm = biết hổ-thẹn trong lòng khi lỡ làm điều quấy. Tiếng Pali là Hiri.
- Tâm Quí: Quí = biết lo-sợ khi lỡ làm điều quấy (sợ quả-báo xấu). Tiếng Pali là Ottappa.
- Đa-văn: Đa = nhiều; Văn = nghe. Đa-văn là người nghe nhiều, học rộng. Tôn-giả A-nan là người đa-văn bực nhứt vào thời Đức Phật Thích-ca.
- Trí-huệ: ở đây là trí thông-minh đưa ta đến bờ giác-ngộ và giải-thoát, trong Phật-học gọi là Trí-huệ Bát-nhã; tiếng Pali là Pannà.
- Xả-ly: Xả = buông-bỏ, chẳng luyến-tiếc; Ly = lià xa. Tiếng Pali là Upekkha.
- Cõi Trời Đao-lợi: cõi Trời nầy, tiếng Pali là Tàvatimsa.
- Bích-chi-Phật: phiên-âm tiếng Pali là Paccekabuddha; Bích-chi-Phật là vị tu-hành vào thời chẳng có Phật giáng-sanh, quán-chiếu pháp Mười Hai Nhơn-Duyên mà chứng-quả. Còn gọi là Duyên-giác, Độc-giác.
- Quả đắng-cay: Quả = quả-báo, kết-quả của việc đã làm lúc trước. Trái nghĩa với chữ nguyên-nhơn, nhơn-duyên. Quả-báo đắng-cay là trong đời nầy phải chịu nhiều điều khổ-sở.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang hai ý-nghĩa: (1) lời đối-đáp giữa anh Sở-phù-bút và Thiên-đế Sắc-ca, liên-quan đến bảy món Thánh-tài; (2) quả-báo xấu mà người cùi Sở-phù-bút phải gánh chịu trong đời nầy.
Tại sao gọi bảy đức-tánh của bực Thánh là Thất Thánh-tài? Bảy đức-tánh quí-báu nầy giúp ta đến nơi giác-ngộ và giải-thoát khỏi cuộc sống khổ-sở, nên cao-quí hơn tiền-bạc, của-cải.
Theo Luật Nhơn-Quả, hễ làm ác thì phải chịu quả-báo xấu trong đời nầy hay các đời sau. Quả-báo chẳng trỗ liền theo hành-động, mà chờ đủ cơ-duyên mới kết-thành, có thể kéo dài qua nhiều đời.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 066:
Thử phân-tách từng câu của bài Kệ:
- Người ngu là kẻ thù chính họ: người ngu tạo điều ác gây ra quả-báo khổ-sở, cũng như kẻ thù gây đau-khổ cho mình. Vì thế, sự ngu-dốt của mình là kẻ thù của chính mình, cần phải tu-học dẹp bỏ sự si-mê.
- Làm ác, vì chẳng có trí-khôn: người ngu chỉ trông thấy mối lợi nhỏ trước mắt, chẳng phân-biệt được điều lành với việc ác, chẳng trông xa biết đến Luật Nhơn-quả sau nầy, nên mới phạm tội. Đó chẳng qua vì thiếu trí-khôn, chẳng phân-biệt được thiện và ác.
- Phải chịu quả đắng-cay, khổ-sở: đây
là hậu-quả chắc-chắn sẽ xãy ra, hoặc trong đời nầy, hoặc về đời sau. Cứ
nhìn đến cảnh khổ của người cùi Sở-phù-bút là biết được quả đắng-cay xãy ra như thế nào.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ để tự răn mình, mỗi khi sắp làm điều sai
2.- Học thuộc lòng Thất Thánh-tài (thất = bảy); tự xét xem mình đang có được món nào; còn đang thiếu món nào, ráng tập để có được.
(52).- Tích chuyện một người nông-phu.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một người nông-phu cầm thuốc độc.
Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một bọn trộm-cắp vào nhà một người giàu-có, lấy mất một số tiền-bạc lớn, đem chia nhau rồi giải-tán. Một đứa trong bọn, lãnh phần, trên đường về, đánh rơi một gói vàng ở dọc đường mà không hay biết.
Bấy giờ, vào sáng sớm, sau cơn Thiền-định, Đức Phật quán-thấy có một người nông-phu trong làng kia, đã đến cơ-duyên chứng-được quả-vị Tu-đà-huờn, nên Ngài cùng chư Tăng đi khất-thực ngang qua đó. Người nông-phu trông thấy Đức Phật, liền cung-kính làm lễ, rồi mới tiếp-tục cày-bừa. Đức Phật nhìn thấy bên vệ đường có gói vàng, mới nói với Tôn-giả A-nan: "Này A-nan, ông có thấy một con rắn rất độc đó không?" Tôn-giả A-nan cũng nhìn thấy gói vàng đó, mới thưa cùng Phật: "Bạch Thế-tôn, vâng, đó là một con rắn thật độc." Nói xong, cả đoàn tiếp-tục lên đường.
Người nông-phu nghe Đức Phật và Tôn-giả A-nan nói có rắn độc bên đường, mới dừng cày lại, đến bên vệ đường tìm xem con rắn, nhưng chỉ thấy một gói vàng của ai bỏ quên đó. Anh ta liền cầm lên, đem vào bụi rậm, bỏ đấy, rồi trở ra làm việc như cũ. Lúc ấy, người nhà giàu hay tin bị mất trộm, mới cùng đầy-tớ, theo dấu, rượt theo bọn cắp. Đến nơi người nông-phu đang cày ruộng, họ nom theo dấu chơn, xông vào bụi rậm, lấy lại được túi vàng. Họ bắt anh nông-phu, đánh đập anh và giải anh đến đền vua để kết tội. Vua ra lịnh xử tử người nông-phu vì tội trộm. Các người lính được lịnh dẫn người nông-phu ra pháp-trường để giết chết. Dọc đường, người nông-phu cứ lập đi, lập lại mãi câu nói: "Này A-nan, ông có thấy con rắn độc đó không? - Bạch Thế-tôn, vâng đó là một con rắn thật độc." Bọn lính chẳng hiểu ý-nghĩa tại sao người nông-phu cứ lảm-nhảm nói mãi như vậy, mới dẫn anh ta trở lại đền Vua, và trình lên Vua sự-việc như thế. Vua nghĩ có lẽ anh nông-phu vô-tội và muốn được Đức Phật đứng ra làm chứng cho sự vô-tội của anh, mới truyền dẫn anh đến gặp Đức Phật. Nghe Đức Phật thuật lại việc thấy gói vàng ban sáng, nhà Vua biết anh nông-phu vô-tội, mới tha cho. Vua nói: "Nếu người nông-phu nầy chẳng nhắc lại lời của Đức Phật, thì đã bị xử-tử rồi." Đức Phật bảo: "Người hiền-trí chẳng hề làm việc gì mà phải hối-tiếc về sau."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Hành-động ác, làm xong thì hối-quá.
Lệ tràn mi, sợ quả-báo về sau.
(Kệ số 067.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Giải-tán = rời nhau mà đi phân-tán, mỗi người một ngả.
- Vệ đường = lề đường.
- Xử tử = kết tội phải chết.
- Pháp-trường: Pháp = pháp-luật; Trường = nơi, chỗ. Pháp-trường là nơi xử tử các tội-nhơn bị tử-hình.
- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành, ngay-thẳng; Trí = thông-minh. Người hiền-trí là người có trí thông-mình, làm lành lánh dữ.
- Hối-tiếc; Hối-quá: Hối = ăn-năn; Tiếc =tiếc rẻ; Quá = tội-lỗi. Hối-tiếc là tiếc rẻ; Hối-quá là ăn-năn đã lỡ phạm tội.
- Lệ = nước mắt. Lệ tràn mi là khóc lóc, chảy nước mắt.
- Quả-báo: kết-quả của hành-động đã làm trước kia. Quả-báo có thể xãy ra trong đời nầy, hay về các đời sau.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Ý-nghĩa chánh-yếu của Tích chuyện là xem gói vàng bỏ bên đường như con rắn độc. Tại sao gọi đó là con rắn độc? Bị rắn độc cắn, nọc độc có thể giết chết người. Gói vàng bỏ quên kia, nếu tham-lam mà lấy, sau bị người chủ biết, sẽ bị tù-tội; tai-hại cũng như nọc độc của con rắn giết người. Bài học của Tích chuyện là chớ nên tham-lam lấy của rơi.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 067:
Bài Kệ số 067 định-nghĩa thế nào là hành-động ác. Hành-động ác, làm xong thì tỏ ra hối-tiếc, lo-lắng vì sợ bị quả-báo xấu.
Thông-thường, muốn biết một hành-động lành hay dữ, người ta xét đến hành-động ấy có đem lại lợi-ích hay gây ra tổn-hại. Nếu có lợi cho mình mà có hại cho người khác, thì đó là hành-động xấu. Dầu trong hiện-tại có đem lợi cho mình ít nhiều, nhưng vì gây thiệt-hại cho kẻ khác, nên hành-động ấy trở nên xấu-ác, mà hậu-quả bất-lợi sẽ đến với người chủ-động về sau.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ; ghi nhớ để khỏi bị cám-dỗ làm việc ác.
2.- Tập tánh ngay-thẳng cho trẻ con:
- đi đường thấy có tiền rơi, lượm lên đem cho người ăn xin
- trong lớp, lượm được cây viết chì, đem lên trình Thầy để trả lại cho người mất.
- đi xe buýt, thấy trên ghế có cây dù bỏ quên, cầm lấy giao cho người tài-xế, để đem hoàn lại cho người chủ., v.v.
(53).- Tích chuyện người bán hoa Sử-mã-na.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến người bán hoa tên là Sử-mã-na.
Thuở ấy, ở thành Vương-xá, có một người bán hoa tên là Sử-mã-na, mỗi
ngày cung-cấp hoa tươi cho vua Tần-bà-sa-la. Một hôm, anh mang hoa đến đền vua, dọc đường gặp Đức Phật đang cùng chư Tăng đi khất-thực, ánh hào-quang rực-rỡ toả ra. Anh Sử trông thấy cảnh trang-nghiêm đó, mới phát-tâm dâng hoa cúng-dường lên Đức Phật. Trong đầu anh nghĩ, cho dầu vua có đuổi anh ra khỏi thành, cho dầu Vua có buộc tội chết cho anh đi nữa, vì chẳng đem hoa đúng hẹn, anh cũng muốn được đến bên Phật mà dâng hoa lên cho Ngài. Nghĩ xong, anh liền đem tất cả bó hoa rải lên trên đỉnh đầu Đức Phật, hai bên và sau lưng Ngài. Lạ lùng thay, các bông hoa chẳng rơi xuống đất, mà lơ-lửng trên không, kết thành một cái lọng che đầu Phật, làm
thành một bức tường hoa hai bên và sau lưng Phật. Mỗi bước chơn của
Phật bước tới, các cánh hoa bay theo, chẳng rời. Dân chúng trong thành
nô-nức rủ nhau ra ngắm xem cảnh-tượng đẹp-đẽ đó. Lòng anh Sử tràn-ngập một niềm phỉ-lạc vô-biên.
Bấy giờ, vợ của Sử-mã-na đến hoàng-cung, tâu cùng Vua Tần-bà-sa-la, là chồng bà đã đem hết hoa ra dâng cúng Phật rồi, nên hôm nay chẳng có hoa để đem dâng vua. Nhà Vua nghe nói có Đức Phật đi đến, mới ngự ra thành, trông thấy quang-cảnh trang-nghiêm, Đức Phật đang đi dưới tàng hoa đẹp, hào-quang sáng chói, mới thỉnh Phật vào thành cúng-dường thực-phẩm. Sau buổi ngọ-trai, Đức Phật quay về tịnh-xá, nhà Vua đi tiễn một quãng đường. Trở về hoàng-cung, Vua cho gọi Sử-mã-na đến, thưởng cho tám con voi, tám con ngựa, tám người nô-lệ nam, tám người nô-lệ nữ, tám người đầy-tớ gái và tám ngàn đồng tiền.
Nơi tịnh-xá, khi Đức Phật bước vào Hương-phòng, thì các bó hoa tự-nhiên rơi xuống đất. Ngài A-nan bạch Phật: "Sử-mã-na dưng-hoa cúng-dường như thế được công-đức gì?" Đức Phật bảo: "Sử-mã-na dâng hoa cúng-dường Phật mà chẳng nghĩ đến mạng-sống, vì có thể bị tội với vua, sẽ được công-đức rất to lớn: trong nhiều kiếp Luân-hồi, Sử-mã-na sẽ khỏi phải sa vào nẻo dữ, rồi sau cùng sẽ chứng được quả-vị Bích-chi-Phật." Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Hành-động thiện, làm xong không tiếc-rẻ,
Quả-báo lành, mặt đầy vẻ vui-tươi.
(Kệ số 068.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Sử-mã-na: tên thật của người bán hoa, tiếng Pali là Sumana.
- Hào-quang = ánh-sáng năm màu rực-rỡ toả ra từ Đức Phật.
- Tần-bà-sa-la: tên thật vị vua nước Ma-kiệt-đà (Magadha) nầy, tiếng Pali là Bimbisàra.
- Vương-xá: tên thành nầy, tiếng Pali là Ràjagaha.
- Phát-tâm = trong lòng nẩy ra ý-định tốt.
- Lọng = cây dù lớn bằng lụa để che cho các người sang-trọng.
- Phỉ-lạc = niềm vui rộng-lớn từ trong lòng toả ra mặt-mũi.
- Vô-biên = chẳng có bờ-bến nào, hết sức rộng lớn.
- Hương-phòng: căn phòng có hương thơm dành riêng cho Đức Phật, tiếng Pali là Gandhakuti.
- Nẻo dữ: tái-sanh vào cõi ác-đạo như điạ-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh
- Bích-chi-Phật: xem lại bài trước.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể kại việc ông Sử-ma-na phát-tâm dâng hoa cúng-dường Phật, mà chẳng nghĩ đến mạng-sống của mình bị lâm nguy. Làm được công-đức nầy, lòng ông Sử tràn-đầy niềm phỉ-lạc. Theo lời Đức Phật ông Sử nhờ đó mà chẳng sa vào ác-đạo khi tái-sanh và về sau sẽ chứng được quả-vị Bích-chi-Phật. Đó là hành-động thiện đem lại quả-báo tốt, đúng theo Luật Nhơn-Quả.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 068:
Trái với bài Kệ số 067 ở trước, bài Kệ nầy nói về hành-động thiện. Hành-động thiện, làm xong, thì chẳng tiếc rẻ; trái lại người làm việc thiện, biết sẽ được quả-báo lành về sau, nên trong hiện-tại, lòng rất vui-thích. Đó là lợi-ích của việc thiện.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, nhớ lại bài Kệ trước, để phân-biệt các hành-động thiện và ác.
2.- Điều quan-trọng trong việc cúng-dường là sự thành-tâm, chẳng phải vì mong-muốn được quả-báo tốt, mà chỉ vì lòng thành-kính đối với Phật là bực đại-giác đã chỉ dạy ta con đường thoát khổ. Quả-báo tốt thế nào cũng đến, chẳng cần phải mong-cầu, tự nó sẽ đến về sau.
(54).- Tích chuyện Nữ-Trưởng-lão Bích-Liên.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Nữ-trưởng-lão Bích-Liên.
Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một cô thiếu-nữ rất đẹp và hiền-thục. Vẻ đẹp sắc-sảo và tánh-nết hiền-hoà của cô, được mọi người khen-tặng và gọi cô là nàng Bích-Liên, đoá
hoa sen màu xanh-biếc. Nhiều bực vương-tôn, công-tử, hào-phú đều
gấm-ghé xin cưới làm vợ. Nhưng cô chẳng ưng ai cả, lại muốn xuất-gia
vào làm ni-cô trong chùa. Sau khi được thọ-giới Tỳ-kheo-ni, ni-cô
tinh-tấn tu-hành; trong một kỳ toạ-thiền, ngồi chăm-chú nhìn vào ngọn đèn, quán-chiếu về đề-tài thiền-quán là hoả-đại, ni-cô Bích-liên chứng-đắc được đạo-quả A-la-hán.
Sau đó, ni-cô Bích-Liên dựng một cái cốc nhỏ nơi rừng Hắc-lâm để tịnh-tu trong cảnh độc-cư. Vào một buổi sáng nọ, ni-cô mang bình bát vào làng khất-thực. Một kẻ bất-lương tên là Nan-đà,
vốn là con người cậu của ni-cô, lẻn vào cốc, trốn dưới gầm giường. Khi
ni-cô trở về, hắn nhảy ra cưỡng-bức; vì sức yếu, ni-cô chống-cự chẳng
lại, bị hắn hãm-hiếp. Sau khi thoả-mãn thú-tánh, hắn bước ra ngoài;
bỗng đất nứt ra, hút hắn sa ngay vào điạ-ngục A-tỳ.
Khi được biết thảm-trạng của ni-cô, Đức Phật nói lên bài Kệ sau:
Hành-vi ác còn chưa chín-rục,
Tưởng như là mật ngọt, người ngu.
Đến khi nó đã chín muồi,
Phải mang quả khổ khóc vùi, người ngu.
(Kệ số 069.)
Bấy giờ, Đức Phật sai thỉnh vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la đến tịnh-xá, trình-bày cùng Vua sự nguy-hiểm của các ni-cô phải sống độc-cư trong rừng và yêu-cầu vua bảo-vệ họ, tránh sự tái-diễn thảm-trạng bị cưỡng-hiếp đó. Vua hứa sẽ cho xây cất nữ-tu-viện ở gần thành, để các tỳ-kheo-ni có chỗ an-toàn mà tu-tập.
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Nữ-Trưởng-lão: vị tỳ-kheo-ni tu lâu năm, đức hạnh cao. Tiếng Pali là Theri. Phái nam gọi là Thera, trưởng-lão.
- Bích-Liên: Bích = màu xanh biếc; Liên = hoa sen. Tên thật của vị ni-cô, tiếng Pali là Uppalavannà.
- Đề-tài thiền-quán: trong khi ngồi Thiền, chuyên-tâm suy-tư về một đề-tài. Ở đây, ni-cô suy-tư về lửa, hay là hoả-đại.
- Cốc = cái am nhỏ, cất nơi thanh-vắng để tu-hành.
- Độc-cư: Độc = cô-độc, ở một mình; Cư = ở, cư-trú, cư-ngụ.
- Cưỡng-bức: dùng sức mạnh mà hiếp người phụ-nữ.
- Hãm-hiếp: dùng võ-lực xâm-phạm tiết-hạnh người phụ-nữ.
- Thú-tánh: thoả-mãn thú-vui xác-thịt, cách dã-man như loài thú.
- Điạ-ngục A-tỳ: tên điạ-ngục, nơi chịu hình-phạt chẳng ngừng. Tiếng Pali là Avìci Niraya.
- Thảm-trạng: Thảm = bi-thảm, đau-đớn; Trạng = tình-trạng.
- Chín-rục = Chín muồi = đã đầy-đủ nhơn-duyên đưa đến hậu-quả.
-Tái-diễn: Tái = lập lại;diễn =xãy ra.Tái-diễn là việc cũ xãy ra lần nữa.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại cuộc đời đạo-hạnh của một vị ni-sư trẻ-đẹp chẳng may bị cưỡng-hiếp. Hành-động xấu-ác của kẻ dâm-ô xâm-phạm tiết-hạnh của ni-cô, bị quả-báo nhãn-tiền ( =trước mắt), ngay sau khi hãm-hiếp: bị đất nứt hút sâu vào điạ-ngục A-tỳ.
Ý-nghĩa quan-trọng: làm ác bị quả-báo dữ, theo Luật Nhơn-Quả.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 069:
Bài Kệ nói về hậu-quả mau và chậm của hành-động xấu-ác. Khi chưa thấy hậu-quả, người ngu tưởng rằng hành-động xấu đem lại lợi-lạc cho mình, như mật ngọt; nhưng đến khi quả-báo xấu trỗ ra, bị khổ-sở, bấy giờ người ngu sẽ khóc vùi vì đau-khổ.
HỌC TẬP:
Học thuộc lòng bài Kệ, để răn mình, tránh bị điều ác cám-dỗ.
(55).- Tích chuyện Trưởng-lão Giang-bửu-kha.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Giang-bửu-kha.
Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người con nhà giàu-có, tên là Giang-bửu-kha, vì nghiệp-quả xấu của các đời trước, nên có hai tập-quán lạ-lùng: ngủ trên mặt đất, chẳng nằm giường chiếu, và ăn phân của chính mình, thay vì dùng cơm như mọi người. Lớn lên, cha mẹ gởi theo học đạo với nhóm ẩn-sĩ loã-thể. Khi các người ẩn-sĩ biết được
thói-quen xấu hay ăn phân của Giang, họ liền đuổi Giang đi khỏi. Giang
lang-thang đây đó, đứng một chân, miệng há-hốc. Có ai hỏi, Giang nói mình chỉ sống nhờ không-khí, chẳng ăn uống, cho nên mới mở miệng ra hoài. Chỉ đứng một chơn thôi, vì sợ mặt đất chẳng chịu đựng nổi sức nặng của thân mình.
Giang thường tự-hào bảo rằng: "Tôi chẳng bao giờ ngồi xuống và chẳng
bao giờ ngủ cả." Nhiều người tưởng thật, mới dưng-cúng thực-phẩm ngon
cho Giang. Y chỉ vít lấy một chút xíu đồ ăn và nói với người hiến cơm rằng: "Ta thọ-nhận bấy nhiêu cũng đủ tạo công-đức cúng-dường cho anh rồi. Thôi, đi đi! ‘’ Thái-độ kỳ-dị của Giang đã khiến cho mọi người tặng cho anh ta biệt-hiệu là con chó sói.
Một hôm, trong cơn thiền-quán, Đức Phật nhận thấy cơ-duyên đã đến cho Giang-bửu-kha chứng được đạo-quả A-la-hán. Buổi chiều hôm ấy, Đức Phật đi đến chỗ Giang trú-ngụ, và xin Giang chỉ cho mình một chỗ để nghỉ qua đêm. Giang liền chỉ hang đá bên cạnh. Vào khoảng canh ba đêm ấy, các vị Thiên-đế xuống yết-kiến Đức Phật, từ Tứ Thiên-vương, Vua Trời Đế-Thích, đến cả Đại-Phạm Thiên-vương, lần lượt đến đảnh-lễ Phật, hào-quang sáng chói cả vùng. Sáng ra, Giang-bửu-kha tới hỏi Phật có thấy ánh hào-quang ban đêm không. Khi nghe Đức Phật thuật lại việc các Thiên-vương đến đảnh-lễ, Giang liền nói: "Ngài hẳn là một bực siêu-nhơn được
các vua Trời đảnh lễ. Tôi tu khổ-hạnh hơn bốn mươi lăm năm nay, đứng
một chơn, chỉ sống bằng không-khí chẳng hề ăn uống, thế mà chẳng có vị Trời nào đảnh-lễ tôi cả." Đức Phật đáp: "Này Giang-bửu-kha, anh có gạt người khác thì được, chớ nói dối ta chẳng được đâu. Ta biết rõ, trong bốn mươi lăm năm, anh chỉ ăn phân thế cơm, và tối ngủ nằm dưới đất." Rồi Đức Phật lại thuật chuyện tiền-kiếp của Giang cho Giang nghe. Vào thời Đức Phật Ca-diếp, Giang đã ngăn trở một vị Trưởng-lão không cho đến nhà một thí-chủ, chỉ để một mình Giang nhận thực-phẩm cúng-dường mà thôi. Khi ra về, thí-chủ nhờ mang cơm về cho vị Trưởng-lão, thì Giang đem vứt đi hết. Vì tội-ác đó mà kiếp nầy, Giang mới ăn phân và ngủ trên mặt đất. Nghe đến đó, Giang rùng mình hoảng-sợ, ăn-năn tội-lỗi, và xin Đức Phật cho quy-y để gia-nhập Tăng-đoàn. Đức Phật liền đem Chánh-pháp ra giảng-dạy cho Giang nghe. Giang tinh-tấn tu-hành, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán.
Sau đó, có mấy người đệ-tử cũ của Giang ngày xưa, đến tịnh-xá Kỳ-viên, thấy Giang ở đó, mới ngạc-nhiên hỏi. Giang cho biết, bây giờ đã quy-y Phật-pháp, làm đệ-tử của Đức Phật. Đức Phật mới nói với các người đệ-tử cũ của Giang rằng: "Thầy cũ của các ông, mặc dầu trong hơn bốn mươi năm tu khổ-hạnh, ăn rất ít, nhưng công-đức đó chẳng bằng một phần mười sáu của sự tu-tập và chứng-quả ngày nay."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Tháng nầy qua tháng nọ,
Người ngu tu khổ-hạnh,
Ăn ít, vít bằng ngọn cỏ kusa.
So ra hắn chẳng bằng phần mười sáu
Của bực sành Chơn-lý pháp hữu-vi.
(Kệ số 070.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Giang-bửu-kha: tên thật vị trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Jambuka.
- Nghiệp-quả = hành-động của kiếp đã qua có ảnh-hưởng đến đời sống của kiếp hiện-tại.
- Tập-quán = thói quen.
- Ẩn-sĩ = tu-sĩ ở nơi xa-vắng, sống khổ-hạnh.
- Loã-thể: Loã = loã-lồ, chẳng mặc quần-áo, chỉ vấn khố che phiá dưới. Thể = thân-thể.
- Tự-hào: tự cho mình là giỏi, khoe-khoang.
- Hiến = tặng, đem cho.
- Thiên-đế: Thiên = trời; Đế = vua. Thiên-đế là vua trên cõi Trời.
- Tứ Thiên-Vương: bốn vị Vua Trời trị-vì ở bốn phương trên cõi Trời Dục-giới: Trì-quốc (Đông), Tăng-trưởng (Nam), Quảng-mục (Tây) và Đa-văn (Bắc). Tiếng Pali là Càtumahàràjika.
- Đại-Phạm Thiên = vua Trời cõi Sắc-giới, tiếng Pali là Mahàbrahmà
- Đảnh-lễ: lạy, làm lễ chào-kính, cúi đầu sát đất.
- Siêu-nhơn: Siêu = vượt lên trên; Nhơn = người. Bực siêu-nhơn là người tài-năng vượt lên trên người thường.
- Tu khổ-hạnh: tu ép-xác, tưởng lầm rằng hễ càng ép-xác là càng được giải-thoát.
- Ăn ít, vít bằng ngọn cỏ kusa: Kusa là tên một loại cỏ, lá nhỏ. Câu nầy có nghĩa là ăn rất ít,như dùng lá cỏ kusa khều chất ăn vào miệng.
- Chơn-lý: Sự-thật.
- Pháp hữu-vi: Pháp = tất cả sự sự, vật-vật; Hữu = có; Vi = làm. Các pháp hữu-vi là những sự-vật có hình-thể, do tạo nên mà có, và vì thế mà chẳng bền-vững, vô-thường; thí-dụ như ngôi nhà, bàn-ghế. Trái với pháp hữu-vi là pháp vô-vi, những sự-việc chẳng có hình-tướng mà thường-hằng, chẳng biến-đổi, chẳng phải do sự tạo-tác mà nên, thí-dụ như Sự-Thật, Phật-tánh. Người tu-hành để được giải-thoát, chẳng chạy theo các pháp hữu-vi để tham-luyến, mà hướng về các pháp vô-vi để thanh-lọc thân-tâm, phát-triển trí-huệ hầu sớm ra khỏi cảnh Luân-hồi sanh-tử khổ-đau.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện có hai ý-nghĩa: (1) Giang-bửu-kha mang hai tật xấu ăn phân và nằm ngủ trên mặt đất, là do quả-báo của kiếp trước đã vứt bỏ thức ăn cúng-dường cho một vị Trưởng-lão; (2) việc tu khổ-hạnh, ép-xác là sai-lầm, chẳng đưa đến sự giác-ngộ và giải-thoát.
Nhờ gặp được Phật chỉ-dạy cho Chánh-pháp, Giang mới biết bỏ lối tu khổ-hạnh mà theo đúng đường tu phát-triển Trí-huệ để được giải-thoát.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 070:
Bài Kệ chê-trách lối tu khổ-hạnh ( = ép-xác), hành-hạ thân-thể như đứng mãi một chơn chẳng ngồi, ăn thật ít chỉ để khỏi chết đói, như thế chẳng làm phát-triển được Trí-huệ, để có thể được giác-ngộ và giải-thoát. Đức
Phật cho rằng tu khổ-hạnh như thế, tháng nầy qua tháng nọ, mà công-đức
chẳng bằng một phần mười sáu của người đã thông-hiểu Chơn-lý các pháp hữu-vi nói trong Chánh-pháp.
Tu-hành để giải-thoát khỏi cảnh khổ của Luân-hồi, phải dựa vào Trí-huệ, giúp ta phân-biệt được việc nào vô-thường, việc nào thường-hằng. Tránh chẳng để các pháp hữu-vi cám-dỗ mà tham-luyến, biết sự bền-vững của các pháp vô-vi mà noi theo, người Phật-tử tu-tập Thiền-định, mở mang Trí-huệ, nhờ đó mà giác-ngộ và giải-thoát, sớm chứng được lẽ vô-sanh của Niết-Bàn tịch-diệt.
Tóm lại, bài Kệ dạy ta, giữa hai con đường (1) lợi-dưỡng, chạy theo các tiện-nghi vật-chất thái-quá, và (2) khổ-hạnh, ép-xác, hành-hạ thân-thể, ta phải chọn con đường Trung-đạo, biết giữ-gìn sức khoẻ để phát-triển Trí-huệ, mới mong sớm đến ngày thành-công viên-mãn.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ; ứng-dụng vào việc tu-hành hằng ngày: ăn uống đầy-đủ, giữ-gìn sức-khoẻ, đồng thời siêng-năng tu Thiền-định.
2.- Phá bỏ các sự hiểu-lầm về việc ăn chay: nhiều người cứ tưởng tu tại-gia là phải ăn chay trường, càng ăn khắc-khổ càng được phước. Đó là điều sai-lầm lớn.
- Ăn chay cốt là để diệt bỏ ý sát-sanh. Nếu trong khi ăn chay mà còn nghĩ đến thịt, đến cá, thì việc ăn chay chẳng đem lại công-đức gì, vì ý sát-sanh vẫn còn đó. Mặt khác, ăn chay thì phải ăn đầy-đủ các chất bổ-dưỡng, chẳng nên ăn quấy-quá, cơm với muối sả mà thôi, sẽ mất sức rồi đau-ốm, thì việc tu-hành chẳng tiến-bộ được.
- Dọn thức ăn chay, chẳng nên làm các món chay trông giống món ăn mặn, như chiên mì-căn làm con cá, kho cà-tím làm cá-trê; như thế, gợi lên sự thèm-thuồng các món mặn, và chưa bỏ được ý-nghĩ sát-sanh.
(56).- Tích chuyện về Ngạ-quỉ A-hi.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một ngạ-quỉ tên là A-hi.
Thuở ấy, Tôn-giả Đại Mục-kiền-liên cùng với tỳ-kheo Lạt-kha-na đi khất-thực tại một làng ở gần thành Vương-xá. Dọc dường, Tôn-giả chợt nhìn thấy một điều gì, mỉm cười rồi tiếp-tục đi, chẳng nói gì cả. Đến khi về đến tịnh-xá, tỳ-kheo Lạt-kha-na mới hỏi, tại sao lúc nẩy Tôn-giả đã mỉm-cười. Tôn-giả đáp: "Tôi nhìn thấy một ngạ-quỉ đầu người mình rắn, nên mới mỉm-cười."
Đức Phật nghe thấy, cũng bảo rằng: "Vào ngày ta chứng đắc đạo-quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, ta cũng trông thấy ngạ-quỉ đó." Rồi Đức Phật liền kể lại tiền-kiếp của ngạ-quỉ đó. Vào một thời xa-xưa, có một vị Bích-chi-Phật được nhiều người tôn-sùng. Dân-chúng đi lại để đảnh-lễ Ngài nơi tịnh-xá, phải trải qua một cánh đồng. Người chủ cánh đồng sợ dân-chúng qua lại nhiều, dẫm lên lúa má của mình, nên thừa dịp vị Bích-chi-Phật đi vắng, lén đốt cháy ngôi tịnh-xá. Vị Bích-chi-Phật phải dời đi nơi khác. Các người đệ-tử của Ngài tức-giận, mới giết chết người chủ ruộng. Người nầy tái-sanh vào điạ-ngục Vô-gián A-tỳ, vì hành-động xấu-ác đó mà chịu hình-phạt trong nhiều kiếp. Đến kiếp nầy, y mang thân-hình ngạ-quỉ, để trả nốt quả-báo.
Đức Phật kết-luận: "Một hành-động xấu chẳng đem đén quả-báo xấu ngay tức-khắc, nhưng nghiệp-quả vẫn theo đuổi mãi người phạm tội cũng như viên than hồng còn ngún mãi dưới đống tro."
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Việc làm ác đâu liền trỗ quả,
Như sữa tươi đâu đã đông ngay,
Âm-thầm theo đốt người ngu-dốt,
Như cục than hồng ngún dưới tro.
( Kệ số 071.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Ngạ-quỉ: còn gọi là Ngã-quỉ, là quỉ-đói, một loại chúng-sanh trong đường dữ, bụng to mà cổ nhỏ, luôn luôn đói khát.
- Lạt-kha-na: tên thật của vị tỳ-kheo, tiếng Pali là Lakkhana.
- Đạo-quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác: dịch nghĩa chữ A-nậu-đa-la Tam-miệu tam-bồ-đề ( Anuttara Sanyak Sambodhi) tức là quả-vị Phật. Vô-thượng = chẳng còn gì cao hơn nữa; Chánh-đẳng = đẳng-cấp chơn-chánh nhứt; Chánh-giác = giác-ngộ đứng-đắn nhứt.
- Bích-chi-Phật: tiếng Pali là Paccekabuddha, bực tu-hành tự-giác, vào thời chẳng có Phật, nhờ quán-chiếu Lý Mười-hai Nhơn-Duyên mà giác-ngộ; còn gọi là Duyên-giác, Độc-giác. Theo đẳng-cấp các bực đại-giác, từ dưới lên trên: A-la-hán, Duyên-giác, Độc-giác, Bích-chi-Phật, Bồ-tát và Phật.
- Điạ-ngục Vô-gián: tên điạ-ngục nặng tội nhứt, tội-nhơn chịu hình-phạt chẳng ngừng ( = vô-gián, chẳng gián-đoạn), tiếng Pali là Avìci Niraya, dịch âm là A-tỳ diạ-ngục.
- Trỗ quả: hành-động ác sanh ra hậu-quả xấu, cũng như cây đơm bông, kết trái vậy.
- Đông: đông-đặc lại.
B-. Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện nêu lên hậu-quả dài lâu, từ ngục Vô-gián đến thân-hình quỉ-đói, của một hành-động xấu-ác: đốt tịnh-xá của vị Bích-chi-Phật đang tu-hành.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 071:
Bài kệ nhắc lại ý-nghĩa của Tích chuyện: chẳng có cách nào trốn thoát quả-báo của một hành-động xấu. Tuy chẳng khởi-phát ngay liền sau hành-động, ví như sữa tươi chẳng đông-đặc ngay; nhưng quả-báo vẫn theo đuổi người phạm-tội mãi mãi, tựa như viên than hồng còn ngún dưới tro chẳng tắt.
HỌC TẬP:
Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ về Luật Nhơn-Quả.
(57).- Tích chuiyện về Ngạ-quỉ Sa-thi-cừu.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến ngạ-quỉ Sa-thi-cừu.
Thuở ấy, Tôn-giả Đại Mục-kiền-liên, cùng với tỳ-kheo Lạt-kha-na, đang đi khất-thực; bỗng Tôn-giả nhìn thấy một ngạ-quỉ với một cái đầu to lớn dị-thường. Về đến tịnh-xá, Tôn-giả thưa trình với Phật. Đức Phật nói: "Đó là ngạ-quỉ Sa-thi-cừu, trong một tiền-kiếp, có tài quăng đá, trăm phát trăm trúng. Một hôm, Sa-thi-cừu xin người Thầy cho phép mình thử tài ném đá xem. Vị Thầy bảo, đừng ném vào trâu, bò hay người đi đường, vì phải bồi-thường thiệt-hại. Chỉ nên chọn một mục-tiêu nào chẳng có chủ hay người chăn-giữ mà ném.
Vừa lúc ấy, Sa-thi-cừu trông thấy một vị Bích-chi-Phật đi khất-thực ngang qua đấy. Anh ta nghĩ vị tu-sĩ nầy chẳng có thân-nhơn, chẳng có ai đi theo coi chừng, vậy đó là một mục-tiêu lý-tưởng cho anh ta thử tài ném đá. Anh ta liền quăng một hòn đá nhỏ, vào lỗ tai bên trái, rồi xuyên qua lỗ tai bên mặt của vị Bích-chi-Phật. Khi về đến am, vị Bích-chi-Phật ngả ra chết. Các người đệ-tử biết chuyện, tìm đến giết chết Sa-thi-cừu để trả thù. Sa-thi-cừu chết đi, lọt vào điạ-ngục A-tỳ, chịu hình-phạt nhiều kiếp; đến kiếp nầy, tái-sanh dưới thân-hình ngạ-quỉ, đầu to dềnh-dàng, luôn bị một cái búa đồng nóng đỏ đập vào liên-tiếp. Đó là để trả nốt nghiệp-quả mà y đã gây ra, vì thử tài ném đá vào đầu vị Bích chi-pPhật.
Đức Phật kết-luận: "Người ngu mà có tài khéo-léo chỉ tổ hại mình mà thôi!"
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Chỉ có hại cho thân,
Người ngu tập thuật khéo;
Danh-vọng và kiến-thức
Tiêu-diệt mất công-đức,
Bổ đầu anh bể nứt.
(Kệ số 072.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Sa-thi-cừu: tên ngạ-quỉ nầy, tiếng Pali là Satthikùtapeta.
- Trúc-lâm: Trúc = cây tre, cây trúc; Lâm = rừng. Vua Tần-bà-sa-la dưng-cúng vườn trúc gần thành Vương-xá, để cất Tịnh-xá Trúc-lâm.
- Các chữ Ngạ-quỉ, Bích-chi-Phật, Lạt-kha-na, điạ-ngục A-tỳ, xin xem lại bài trước ở trang 192.
- Mục-tiêu: Mục = con mắt; tiêu = cái nêu để nhắm vào mà bắn.
- Lý-tưởng: ở đây mục-tiêu lý-tưởng có nghĩa là mục-tiêu tốt nhứt
- Am = căn nhà nhỏ để thờ-cúng, hay để ở tu-hành.
- Dềnh-dàng = to-lớn quá, kềnh-càng.
-Thuật = kỹ-thuật, sự khéo-léo.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Cũng như bài trước, Tích chuyện kể lại hậu-quả của hành-động ác phải gánh chịu trong nhiều kiếp. Mặt khác, Tích chuyện nêu lên sự ngu-khờ của Sa-thi-cừu, nghe thầy nói nên chọn mục-tiêu chẳng có chủ, liền nhắm vào nhà tu-hành mà ném đá. Vì chẳng có trí thông-minh, nên tài khéo ném đá trở lại hại anh ta, chẳng những bị giết chết kiếp nầy, mà còn bị hình-phạt ở điạ-ngục và đầu-thai làm ngạ-quỉ.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 072:
Bài Kệ nêu lên sự nguy-hiểm cho người ngu khi tập làm khéo, vì thuật khéo đó, nếu chẳng biết sử-dụng đúng đường, sẽ trở lại hại mình.
Ba câu Kệ sau nói về danh-vọng và kiến-thức làm tiêu-diệt mất công-đức. Danh-vọng dễ làm người say-mê, kiêu-căng và ỷ tài, thường đưa đến cái hại cho thân. Kiến-thức là sự hiểu-biết; nếu biết nhiều mà chẳng có đức-hạnh, sự hiểu-biết cũng có thể khiến ta theo con đường tà, có hại. Bài Kệ bảo rằng danh-vọng và kiến-thức bổ đầu ta, đó là vì cả hai thường cám-dỗ, xúi-dục người ngu hành-động liều-lĩnh, dễ gây tai-hại cho người và cho mình.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để tự răn mình, đừng ham "làm khéo".
2.- Ghi nhớ hai Tích chuiyện số 56 và 57: đây là những thí-dụ chứng-minh được nói trong Kinh-sách về Luật Nhơn-Quả.
(58).- Tích chuyện về người gia-chủ tên Tâm.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến Tỳ-kheo Sử-đạt-ma và một người gia-chủ tên Tâm.
Thuở ấy có người gia-chủ tên Tâm, một hôm gặp được Tôn-giả Ma-nam là một trong năm người đệ-tử đầu-tiên của Đức Phật, đang đi khất-thực. Ông Tâm dâng-cúng thực-phẩm rồi được nghe giảng-pháp và chứng-đắc được quả-vị Tu-đà-huờn. Sau đó, ông Tâm dựng một tịnh-xá trong vườn xoài của mình, tiếp-đón chư Tăng, cúng-dường mọi nhu-cầu và mời Tỳ-kheo Sử-đạt-ma về làm trụ-trì.
Một hôm, hai vị đại-đệ-tử của Đức Phật là Tôn-giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên đến viếng tịnh-xá trong vườn xoài. Sau khi nghe Tôn-giả Xá-lợi-phất giảng-pháp, ông Tâm chứng được quả-vị A-na-hàm. Ông liền thỉnh hai vị đại-đệ-tử ngày mai đến nhà thọ-thực. Hôm sau, khi hai Tôn-giả đến nhà, ông Tâm liền đến mời Tỳ-kheo Sử-đạt-ma cùng
dự buổi ngọ-trai. Vị tỳ-kheo thấy ông Tâm mời mình sau khi thỉnh hai vị
kia, cho rằng ông Tâm khinh-dễ mình mới từ-chối. Ông Tâm ngõ lời xin
lỗi nhiều lần, tỳ-kheo Sử mới chịu đến, nhưng chẳng vào ngồi. Khi nhìn thấy lễ-vật dâng-cúng lên hai vị đại-đệ-tử, tỳ-kheo Sử trong lòng nổi lên ganh-tị, đứng dậy to-tiếng nói với ông Tâm: "Ta chẳng thèm ở tịnh-xá nầy nữa!" rồi bỏ ra đi.
Tỳ-kheo Sử-đạt-ma liền đó đi đến chùa Kỳ-viên, thưa-trình sự-việc nơi nhà ông Tâm lên Đức Phật. Đức Phật bảo: "Nầy tỳ-kheo Sử-đạt-ma, ông đã có lỗi hỗn-hào với gia-chủ Tâm, ông nên đến xin lỗi đi." Vâng lịnh Đức Phật, tỳ-kheo Sử đến xin lỗi gia-chủ, nhưng ông Tâm vẫn chưa vừa lòng. Tỳ-kheo Sử mới trở lại chùa Kỳ-viên lần nữa để thưa với Phật. Đức Phật nhận thấy, bấy giờ, sự kiêu-mạn nơi tâm của tỳ-kheo Sử đã giảm mất đi nhiều, mới bảo ông ta rằng: ‘Nầy tỳ-kheo Sử-đạt-ma, một vị tỳ-kheo đứng-đắn chẳng bao giờ nói:
"Đây là chùa của tôi, đây là đệ-tử của tôi, đây là đàn-việt của tôi!"
Tại sao? Vì khi nói lên như thế, thì khiến cho sự tham-luyến, sự
kiêu-mạn trong lòng ngày càng gia-tăng."
Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:
Kẻ ngu-tăng ham danh chẳng xứng,
Trong Tăng-đoàn, dành đứng chỗ cao;
Nơi tu-viện, đòi cao quyền-thế,
Ngoài đời, muốn kẻ thế tôn-sùng.
(Kệ số 073.)
"Hãy để cho người Tăng, kẻ tục
Nghĩ, nhờ ta công-tác mới thành.
Trong mọi việc, dầu to, dầu nhỏ,
Ai cũng đều theo lịnh của Ta!"
Đó là tham-vọng người ngu-dại,
Khiến cho dục, mạn, lại gia-tăng.
(Kệ số 074.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Tâm: tên nguời gia-chủ nầy, tiếng Pali là Citta.
- Sử-đạt-ma: tên vị tỳ-kheo nầy tiếng Pali là Sudhamma.
- Ma-nam: tên vị Tôn-giả nầy tiếng Pali là Mahànàma. Cùng với các ông Kiều-trần-như, Át-bệ, Bạt-đề và Ca-diếp là những người được nghe Đức Phật thuyết-giảng Kinh Chuyển Pháp-Luân lần đầu-tiên tại vườn Lộc-Uyển, sau khi Đức Phật vừa thành Đạo.
- Tu-đà-huờn: đây là quả-vị thứ nhứt, thấp nhứt. Ba quả-vị kia là Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. A-la-hán là bực Thánh, còn ba quả-vị trước là bực Hiền.
-Trụ-trì: vị tỳ-kheo coi-sóc và cai-quản một tu-viện.
- Ganh-tị = ghen-ghét, cà-nanh.
- Kiêu-mạn = kiêu-căng, phách-lối.
- Đàn-việt: người thí-chủ, tin-tưởng đạo Phật, năng cúng-dường. Tiếng Pali là dànapati.
- Ngu-tăng: vị Tăng thiếu trí thông-minh.
- Kẻ thế, kẻ tục = những người ở ngoài đời, chưa xuất-gia đi tu.
- Dục, mạn: Dục = dục-vọng, lòng ham-muốn, tham-luyến; Mạn = kiêu-mạn, kiêu-căng, phách-lối.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo vì lòng ganh-tị và kiêu-mạn mà có lời hỗn-hào với một người gia-chủ ( = chủ nhà) đã thành-tâm cúng-dường một ngôi tịnh-xá. Biết nghe lời dạy của Đức Phật, tỳ-kheo Sử-đạt-ma đến xin lỗi ông Tâm là người gia-chủ, nhờ đó mà lòng kiêu-mạn nơi vị tỳ-kheo được diệt-bỏ.
Kiêu-mạn, ganh-tị là những món độc khiến cho tâm chẳng được thanh-tịnh; người tu-hành cần phải diệt-bỏ, cũng như đối với ba món độc căn-bản là tham, sân, si.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 073 và 074:
Trong hai bài Kệ nầy, Đức Phật chê-trách thái-độ ngu-dốt, kiêu-mạn và ham-muốn của các người ngu-tăng:
- Ham danh chẳng xứng: ham-muốn được người đời trọng-vọng, trong khi mình chẳng có đức-độ gì, chẳng xứng-đáng gì;
- Nơi Tăng-đoàn, dành đứng chỗ cao: ham đứng, ngồi vào chỗ dành riêng cho các bực Trưởng-lão;
-Nơi tu-viện, đòi cao quyền-thế: trong chùa, đòi có nhiều quyền-hành cai-quản, chỉ-huy mọi người;
- Ngoài đời, muốn kẻ thế tôn-sùng: ham-muốn được các thiện-nam, tín-nữ ngoài đời trọng-vọng mình;
- Thường khoe-khoang: "Hãy để cho mọi người nghĩ rằng nhờ mình mà các công-tác được thành-tựu", hay dành công với người khác;
- Thường tự-hào: "Mọi việc lớn, nhỏ, phải theo lịnh của Ta!", tự xem mình như người lãnh-đạo, có quyền chỉ-huy mọi người.
Các thái-độ xấu đó chỉ làm gia-tăng sự kiêu-căng, phách-lối, có hại cho sự thanh-lọc thân-tâm, nên cần phải luôn luôn xét mình mà diệt-bỏ.
HỌC TẬP:
Tuy hai bài Kệ nói đến các ngu-tăng, nhưng người Phật-tử tại-gia cũng nên học thuộc lòng, để ghi nhớ, tập tánh khiêm-nhường, mỗi khi đi đến chùa làm công-quả.
(59).- Tích chuyện Sa-di Thi-sa.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Sa-di tên là Thi-sa, tu ẩn-cư trong rừng.
Thuở ấy, ở nước Xá-vệ có một người trẻ tuổi tên là Thi-sa, con nhà rất giàu-có; người cha năng dâng-cúng thực-phẩm cho chư Tăng đi khất-thực. Cha của Thi-sa thường thỉnh Tôn-giả Xá-lợi-phất đến nhà thọ-thực, nên Thi-sa có dịp gặp được Tôn-giả. Năm lên bảy tuổi, Thi-sa được Tôn-giả Xá-lợi-phất nhận làm đệ-tử và làm Sa-di tại chùa Kỳ-viên. Trong thời-gian ngụ tại chùa, anh em, bà con thường đến thăm-viếng Thi-sa, mang quà tặng đến biếu. Thi-sa nhận thấy các buổi thăm-viếng như thế thường làm rộn cho mình và mất thì-giờ cho việc tu-hành. Thi-sa mới xin Đức Phật chỉ-dạy cho một đề-tài thiền-quán, và xin phép đi vào
rừng, tu-tập một mình. Mỗi khi, Thi-sa vào làng khất-thực, các thí-chủ
dưng cúng phẩm-vật, Thi-sa chỉ thốt lên mấy lời ngắn-ngủi: "Nguyện-cầu
thí-chủ được an-lạc. Nguyện-cầu thí-chủ thoát khỏi mọi khổ-đau của cuộc đời." Rồi Thi-sa tiếp-tục lên đường, trở về am-cốc vắng-vẻ một mình. Thi-sa tinh-tấn tu-tập ngày đêm, chẳng bao lâu đắc được đạo-quả A-la-hán.
Sau mùa an-cư kiết-hạ, Tôn-giả Xá-lợi-phất và đông-đảo tỳ-kheo tháp-tùng, được phép Đức Phật, vào rừng viếng thăm Sa-di Thi-sa. Các thiện-nam, tín-nữ trong làng
rất mừng, dâng-cúng lễ-vật, và thỉnh-cầu Tôn-giả thuyết-pháp cho nghe.
Nhưng Tôn-giả từ-khước và bảo: " Sa-di Thi-sa trú-ngụ ở đây, sẽ thuyết-pháp cho các vị nghe." Nhưng một thiện-nam lại bảo: "Thầy Thi-sa chỉ biết nói có hai câu: Nguyện-cầu thí-chủ được an-lạc. Nguyện-cầu thí-chủ thoát khỏi mọi khổ-đau của cuộc đời!" mà
thôi, thì thuyết-pháp làm sao?" Tôn-giả Xá-lợi-phất liền bảo Thi-sa:
"Thi-sa, con hãy giảng Chánh-pháp cho mọi người nghe; con hãy chỉ làm
cách nào để được an-lạc và giải-thoát được mọi khổ-đau của cuộc đời."
Vâng lịnh Thầy, Thi-sa bước lên toà ngồi, trong mấy giờ đồng-hồ, thao-thao bất tuyệt, giảng-giải thế nào là ngũ uẩn, lực căn, lục trần, thế nào là ba-mươi-bảy phẩm trợ Đạo, thế nào là con đường dẫn tới đạo-quả A-la-hán và Niết-Bàn. Và chấm-dứt lời giảng bằng câu kết-luận sau đây:
"Đấy, các bực đã chứng-đắc đạo-quả A-la-hán được giải-thoát mọi
khổ-đau của cuộc đời và hằng sống trong cảnh an-lạc. Còn những kẻ khác
cứ trôi-lăn mãi trong cảnh khổ-não của cuộc tử-sanh Luân-hồi."
Tôn-giả Xá-lợi-phất hết lời ngợi-khen Sa-di Thi-sa đã
khéo giảng-giải Chánh-pháp thật rành-rẽ. Dân-chúng nghe pháp, nhiều
ngưòi thán-phục, mà cũng có một số người còn thắc-mắc tại sao Thi-sa
thông-hiểu Chánh-pháp như thế, mà ngày thường chỉ thốt lên có hai câu
nguyện-cầu như thế. Bấy giờ tại chùa Kỳ-viên, Đức Phật quán-thấy tâm-trạng của dân-chúng còn phân-vân, nên hôm sau, Ngài cùng chư Tăng vào làng khất-thực. Sau buổi ngọ-trai và giảng-pháp, Đức Phật bảo dân chúng rằng: ‘Các ông rất may-mắn có được thầy Thi-sa ở vùng nầy; nhờ đó mà chư tăng thường đến viếng làng."
Tối hôm đó, tại chùa Kỳ-viên, chư Tăng thưa cùng Đức Phật: "Thầy Thi-sa đã làm được một việc khó làm: ở đây được nhiều người hiến-tặng phẩm-vật, thế mà thầy đã từ-khước để đi vào rừng sâu tu-tập khổ-hạnh một mình." Đức Phật bảo: "Nầy các tỳ-kheo, cho dầu sống nơi thành-thị hay ở chốn thôn-quê, một vị tỳ-kheo giữ đúng giới-hạnh chẳng bao giờ chú-trọng đến của-cải vật-chất được hiến-tặng. Nếu biết tập hạnh viễn-ly, xa-lià con đường lợi-dưỡng, danh-vọng của thế-gian, mà siêng tu-tập Thiền-định thì sẽ sớm chứng-đắc được đạo-quả A-la-hán."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Một đường dẫn đến lợi thế-gian,
Một nẻo đưa ta tới Niết-bàn.
Thông-hiểu rõ hai đường sai-biệt,
Vị tỳ-kheo, đệ-tử Phật-đà,
Chẳng chút đắm-say mùi danh-lợi
Nỗ-lực hành-trì hạnh viễn-ly.
(Kệ số 075.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Sa-di: người mới vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ-giới Tỳ-kheo. Tiếng Pali là Sàmenara.
- Thi-sa: tên thật của vị Sa-di nầy, tiếng Pali là Tissa. Đừng lầm với vị tỳ-kheo Thi-sa, trùng tên, nói ở Tích chuyện số 3, trang 9.
- Năng dâng cúng: Năng = siêng-năng, thường hay làm.
- Thọ-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn.
- Đệ-tử: Đệ = em, Tử = con. Đệ-tử là học-trò.
- Thí-chủ: Thí = bố-thí, hiến-tặng; Thí-chủ là người hiến-tặng.
- An-lạc: An = yên-ổn; Lạc = vui.
- Am-cốc: Am, Cốc = căn nhà nhỏ nơi xa vắng, để ở ẩn-cư.
- An-cư kiết-hạ: vào ba tháng mùa mưa, các vị tỳ-kheo quay về chùa tu-tập, chẳng đi ra ngoài, sợ dẫm lên côn-trùng, giết-hại sâu-bọ.
- Tháp-tùng: đi theo.
- Thiện-nam, tín-nữ: những người đàn-ông, đàn-bà tin-tưởng vào Đạo Phật, thường dưng-cúng lễ vật đến chư Tăng-ni.
- Thao-thao bất tuyệt: nói rất trôi chảy, chẳng ngừng.
- Ngũ uẩn: năm uẩn: (1) sắc-uẩn, (2) thọ-uẩn, (3) tưởng-uẩn, (4)hành-uẩn, (5) thức-uẩn.
- Lục căn: (1) mắt, (2) tai, (3) mũi, (4) lưỡi, (5) thân, (6) ý.
- Lục trần: (1) sắc, (2)thanh, (3)hương, (4)vị, (5) xúc, (6) pháp.
- Ba-mươi-bảy phẩm trợ Đạo: giúp ta sớm được giác-ngộ và giải-thoát; gồm có (a) 4 niệm-xứ, (b) 4 chánh-cần, (c)4 như-ý-túc, (d) 5 căn, (e) 5 lực, (f) 7 giác-chi, (g) 8 Thánh-đạo. Tiếng Pali là Bodhipakkhiya Dhamma. Muốn biết thêm chi-tiết, xem Phật-Học Phổ-Thông, quyển 3.
- Quán-thấy: nhìn thấy qua cơn Thiền-định.
- Phân-vân: còn nghi-ngờ, chưa tin, chưa chắc.
- Viễn-ly: Viễn = xa, rời; Ly = lià. Hạnh viễn-ly là hạnh xa-lià, chẳng tham-luyến, rời-bỏ, từ-khước mọi danh-lợi.
- Lợi-dưỡng = lối sống thụ-hưởng tiện-nghi vật-chất thật đầy-đủ.
- Phật-đà: phiên-âm chữ Buddha, Phật là hiểu-biết, giác-ngộ.
- Hành-trì: Hành = làm; Trì = giữ. Hành- trì là tuân theo đầy-đủ.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện khen-ngợi một vị Sa-di trẻ tuổi biết thực-hành hạnh viễn-ly, tránh xa các lợi-dưỡng của thế-tục, vào rừng tu-tập Thiền-định.
Hạnh viễn-ly là hạnh khước-từ các lợi-lạc về vật-chất,
tránh xa các thú-vui của thế-tục, dẹp-bỏ sự tham-luyến, hướng về sự
giác-ngộ và giải-thoát. Đây là hạnh cao-quí, tương-đương với tâm xả, là một trong bốn tâm vô-lượng của Bồ-tát-đạo: Từ là ban vui, Bi là cứu khổ, Hỉ là chung vui cùng kẻ thành-công, Xả là buông-bỏ, chẳng bấu-víu vào để tham-luyến.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 075:
Thử phân-tách bài Kệ nầy, như sau:
- Một đường dẫn đến lợi thế-gian: đây là lối sống của người ở thế-gian, lấy lợi làm mục-tiêu để tranh-đấu trong cuộc sống còn. Lợi ở thế-gian gồm có tiền-tài, nhà-cửa, vợ đẹp con khôn, quyền-thế, địa-vị...
- Một nẻo đưa ta tới Niết-bàn: đây là lối sống xuất-thế, nghĩa là chẳng màng đến cảnh danh-lợi của thế-gian, vượt qua lối sống tranh-đua giành-giựt ở đời, để tiến lên mục-tiêu giác-ngộ và giải-thoát của cảnh-giới an-vui thường-hằng của Niết-Bàn, khỏi còn bị khổ-đau của sự tái-sanh trong cõi Luân-hồi nữa.
-Thông-hiểu rõ hai đường sai-biệt: biết rõ sự hơn kém giữa hai lối sống; lối thứ nhứt thoả-mãn các thú-vui tạm-bợ ở một đời; lối thứ hai là lối sống từ-khước mọi tiện-nghi vật-chất, để khắc-phục các phiền-não khiến tâm thanh-tịnh, đạt được niềm vui vĩnh-cửu là được giải-thoát.
- Ba câu chót: đây là thái-độ đứng-đắn của tỳ-kheo, chẳng đắm-say mùi danh-lợi, xa-lià mọi dục-lạc, nỗ-lực tu-tập để chứng Niết-bàn.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ mục-tiêu tu-tập, bền-chí trong việc dứt-bỏ sự thèm-khát, sự tham-luyến.
2.- Thử tập vài điều dễ làm về Hạnh viễn-ly:
- Các món "ghiền" như ăn trầu, hút thuốc, ăn ớt, mê tuồng cải-lương, nhâm-nhi rượu đế, v.v. thử tập nhịn một vài lần, xem sao.
- Ghế mình thường ngồi, chén mình thường cầm, nay bị người khác lỡ dùng, thử xét xem trong bụng mình lúc ấy ra thế nào?
-ooOoo-