XXII.- Phẩm ĐỊA-NGỤC.
(223).- Tích chuyện bà Sơn-đà-ly.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bà Sơn-đà-ly, người ngoại-đạo, muốn làm giảm thanh-danh của Đức Phật.
Thuở ấy, các nhóm ngoại-đạo nhận thấy các tín-đồ của họ lần lần ngả theo Phật-giáo, số phẩm-vật lợi-dưỡng của họ bị giảm bớt, nên mới tìm cách phá-hoại thanh-danh của Phật. Họ bàn mưu tính kế với một thiếu-phụ trẻ đẹp tên Sơn-đà-ly, để vu tội dâm cho Đức Phật.
Mỗi buổi chiều trời chạng-vạng, bà Sơn ăn mặc diêm-dúa, đi về hướng chùa Kỳ-viên, gặp ai hỏi thì đáp, vào chùa ngủ chung với Phật ở hương-phòng. Gần đến cổng, bà ta lại rẽ sang khu-vực nhóm ngoại-đạo. Đến sáng sớm ra về, dọc đường khoe với kẻ khác, đêm qua bà ở trong hương-phòng. Cứ như thế, được ba hôm, nhóm ngoại-đạo mướn bọn côn-đồ say rượu rình giết chết bà Sơn, đem thây chôn dưới đống rác phía sau chùa. Chúng sai người đến tố-cáo nơi đền Vua rằng, các tỳ-kheo đã giết bà Sơn-đà-ly để che-dấu tội dâm của Đức Phật.
Chưa kịp điều-tra sự thật cho rõ-ràng, các quan đã cho phép bọn ngoại-đạo đi khắp đường phố trong thành, rêu-rao tội các tỳ-kheo đã giết người dấu xác để che đậy sự dâm-loạn của tu-sĩ Cồ-đàm. Thấy dân-chúng xôn-xao, nhà Vua ra lịnh truy-tầm hung-thủ, bắt được bọn côn-đồ say rượu, họ thú-nhận đã lấy tiền của nhóm ngoại-đạo mà thi-hành tội-ác. Nhà vua liền bắt các kẻ chủ-mưu dẫn đi khắp thành, hô to lên: "Chính chúng tôi mới là kẻ giết người để vu-oan tội dâm cho tu-sĩ Cồ-đàm." Thanh-danh của Đức Phật chẳng hề bị thương-tổn.
Nơi chùa Kỳ-viên, khi nghe các tỳ-kheo tường trình lại biến-cố vừa qua, Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Người nói dối phải sa địa-ngục,
Kẻ làm ác, chối: "chẳng có làm",
Cả hai bị địa-ngục giam,
Ác-nghiệp đã làm, đồng khổ kiếp sau.
(Kệ số 306.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Sơn-đà-ly: tên người đàn-bà nầy, tiếng Pali là Sundarì.
- Lợi-dưỡng: Lợi = có ích-lợi; Dưỡng: nuôi-dưỡng. Lợi-dưỡng là các phẩm-vật, tiện-nghi cung-cấp cho người tu-hành để nuôi thân.
- Vu tội = đặt điều nói xấu khiến cho người khác mắc tội oan.
- Chạng-vạng: trời sắp tối.
- Hương-phòng: căn phòng có hương thơm dành cho Đức Phật, tiếng Pali là Gandhakutì.
- Cồ-đàm: họ của Đức Phật Thích-ca, tiếng Pali là Gotama.
- Truy-tầm hung-thủ = lùng kiếm kẻ đã gây tội-ác (giết người).
- Thanh-danh: danh-tiếng tốt; danh-dự.
- Điạ-ngục: Điạ = đất; Ngục = nhà giam tù. Theo giáo-lý nhà Phật, kẻ làm tội-ác nặng, khi chết đi, phải chịu hình-phạt nơi cõi u-tối, gọi là Điạ-ngục (tiếng Pali là Niraya). Điạ-ngục là một trong ba đường dữ, hai đường kia là quỉ đói và súc-sanh ( =thú-vật.)
- Ác-nghiệp = những việc ác đã làm tạo nên ác-nghiệp. (Nghiệp = những hành-động đã làm, gồm có việc làm, lời nói và ý-tưởng.)
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc các nhóm ngoại-đạo bị mất tín-đồ vì họ đi theo Phật-giáo, muốn vu tội dâm cho Đức Phật, nên họ nhờ bà Sơn-đà-ly giả làm người đi lại với Phật, rồi sai kẻ côn-đồ giết chết, dấu xác bà sau chùa. Về sau, nhà vua cho điều-tra ra sự-thật, bắt được kẻ chủ-mưu, truyền dẫn đi khắp thành, nói lên tội-ác của họ.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời Phật nói trong bài Kệ: kẻ nói dối sẽ bị sa điạ-ngục.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 306:
Bài Kệ nêu rõ tội nói dối, vu oan kẻ khác và chối tội, sẽ phải chịu hình-phạt sa vào điạ-ngục khi chết đi. Nhưng ngay trong hiện đời, kẻ quen nói dối chẳng bao giờ được sự tín-nhiệm của ai cả. Sự nói dối tạo nên ác-nghiệp, đeo theo người nối dối, phải chịu khổ trong kiếp tới nữa. Vì lẽ đó, giới-luật thứ tư của người tu tại-gia là cấm nói sai sự-thật, chỉ trừ một trường-hợp duy-nhứt là nói dối để cứu mạng người.
(224).- Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên thấy ngạ-quỉ.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các ngạ-quỉ do Tôn-giả Mục-kiền-liên nhìn thấy.
Thuở ấy, Tôn-giả Mục-kiền-liên cùng với một vị Trưởng-lão, một hôm đi từ trên đỉnh núi Linh-thứu xuống, đến triền núi, bỗng thấy một con quỉ-đói, thân hình ốm-o như một bộ xương khô. Tôn-giả nhìn kỹ, lại thấy thêm bốn vị tỳ-kheo mặc áo vàng, đang oằn-oại trong ngọn lửa bốc cháy. Khi về đến tịnh-xá, Tôn-giả mới trình với Đức Phật những điều trông-thấy. Đức Phật bảo: "Vào thời Đức Phật Ca-diếp, có bốn tỳ-kheo đã phạm nhiều tội-ác, họ vừa mãn hạn trong điạ-ngục xong, nay phải chịu nốt hình-phạt trong kiếp ngạ-quỉ bị lửa đốt cháy."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Nhiều người khoác áo cà-sa,
Tâm chưa nhiếp-phục, ác-tà nhiễm-ô.
Vì nghiệp dữ đẩy xô vào điạ-ngục,
Cảnh khổ nầy do ác-hạnh sanh ra.
(Kệ số 307.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Mục-kiền-liên: tên vị đại-đệ-tử của Phật, giỏi nhứt về thần-thông, tiếng Pali là Moggallàna.
- Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: tu-viện nầy do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisàra), nước Ma-kiệt-đà (Magadha), xây cất gần thủ đô Vương-xá (Ràjagaha), trong vườn trúc, để dâng-cúng Đức Phật. Tịnh-xá Trúc-lâm, tiếng Pali là Veluvana.
- Linh-thứu: chim kên-kên; ngọn núi giống hình chim kên-kên xoè hai cánh ra; nơi đây Đức Phật giảng Kinh Pháp-Hoa. Tên ngọn núi nầy, tiếng Pali là Gijjhakùta.
- Ngạ-quỉ = quỉ đói; một hạng chúng-sanh ở cõi dữ, thân ốm, bụng to, cổ nhỏ, luôn đói khát. Tiếng Pali là Peta.
- Phật Ca-diếp: Đức Phật Kassapa ra đời trước Đức Phật Thích-ca.
- Điạ-ngục = cõi u-tối, nơi các tội-nhơn chịu hình-phạt khi chết.
- Cà-sa: tiếng Pali là Kasaya, áo choàng bên ngoài, màu vàng, của tu-sĩ Phật-giáo.
- Nhiếp-phục: điều-phục, tuân theo kỷ-luật. Tâm nhiếp-phục chẳng còn chạy lang-thang nữa, biết tập-trung tư-tưởng và chú-tâm.
- Ác-tà: Ác = dữ; Tà = xiêng-xéo, chẳng đúng-đắn.
- Nhiễm-ô = Nhiễm = lây, dính dơ; Ô = ô-trọc; dơ-dáy.
- Ác-hạnh: Ác = xấu, dữ; Hạnh = hạnh-kiểm; Ác-hạnh là tánh-tình xấu- ác, thường gây ra tội-lỗi.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (207), trang 607, Tập 3 nói về vì sao phải tái-sanh làm ngạ-quỉ, tức là quỉ đói. Ở Tích chuyện nầy, bốn vị tỳ-kheo vào thời Đức Phật Ca-diếp, vì chẳng giữ đúng giới-luật, tâm buông-lung, phạm nhiều tội-ác, nên sau khi mãn hạn ở điạ-ngục ra, phải sanh làm quỉ đói bị lửa đốt cháy. Theo kinh-sách, khi còn sống mà quá bỏn-xẻn, rít-róng, keo-kiệt, thì kiếp sau sẽ vướng vào đường dữ của quỉ đói, đó là ý-nghĩa của Tích chuyện.
Nhơn đây, xin nói thêm về sáu cõi trong Luân-hồi: chúng-sanh tùy theo nghiệp mà được sanh vào một trong sáu cõi, chia ra ba đường lành và ba đường dữ:
- Ba đường lành: (1) cõi Trời; (2) cõi Người; (3) cõi A-tu-la, tức là cõi thần-linh;
- Ba đường dữ: (4) điạ-ngục; (5) ngạ-quỉ; (6) súc-sanh.
Tùy theo nghiệp lành hay dữ, chúng-sanh cứ trôi lăn mãi trong sáu cõi của Luân-hồi. Tu chứng được quả-vị A-la-hán, mới dứt.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 307:
Bài Kệ nói về các vị tỳ-kheo tu-hành chẳng đứng-đắn, phạm giới-luật, gây tội-ác, nên phải sa vào điạ-ngục. Sau một đời ở điạ-ngục rất lâu, lại phải tái-sanh làm ngạ-quỉ, chịu đói-khát trong một đời nữa. Đó là ý-nghĩa răn-dạy của hai câu: "Vì nghiệp dữ đẩy xô vào điạ-ngục; Cảnh khổ nầy do ác-hạnh sanh ra." (Chữ "cảnh khổ nầy" ám-chỉ cảnh khổ của loài ngạ-quỉ.)
(225).- Tích chuyện các tỳ-kheo tăng-thượng-mạn.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ nơi rừng Đại-lâm, xứ Tỳ-da-ly, trong kỳ một giảng-pháp, có đề-cập đến một nhóm tỳ-kheo tăng-thượng-mạn.
Thuở ấy, xứ Hoa-di đang bị đói-kém, thực-phẩm khan-hiếm, dân chúng phải chịu đói khổ. Có một nhóm tỳ-kheo đến bên bờ sông Lạc-thuỷ, sống qua mùa an-cư kiết-hạ ở xứ đó. Họ bàn-luận cùng nhau làm cách nào để được dân-chúng cúng-dường thực-phẩm đầy-đủ . Họ kháo lên rằng trong nhóm có người nầy đã chứng được Đạo, người kia đã đắc được Quả, vị nọ thường vào Thiền-định. Mỗi khi có dân-chúng đến viếng, họ thưa gọi nhau bằng các quả-vị, xưng-tụng đạo-hạnh lẫn nhau, khiến cho dân-chúng lầm tin là họ đã thật-sự chứng-đắc, nên bớt phần thực-phẩm trong nhà, đem dâng-cúng dồi-dào cho họ.
Mãn mùa an-cư, chư Tăng quay về tịnh-xá để đảnh-lễ Đức Phật. Ngài thăm hỏi chư tỳ-kheo, đã trải qua mùa hè ra sao, tu-tập như thế nào. Hầu hết các vị tu-sĩ đều xanh-xao vì thiếu ăn trong ba tháng; chỉ riêng có nhóm tỳ-kheo sống bên bờ sông Lạc-thủy xem ra hồng-hào, lại có phần mập-mạp ra. Đức Phật hỏi họ: "Xứ Hoa-di đang đói kém, chư Tăng ở bên sông Lạc-thủy có gặp khó-khăn trong việc ăn-uống không?" Họ thưa, không. Đức Phật gạn hỏi lý-do, họ liền thưa lại việc họ gọi nhau bằng các quả-vị, nên được dân-chúng tin-tưởng cúng-dường đầy-đủ. Đức Phật hỏi lại: "Trong số các ông đây, ai đã thật-sự chứng được Đạo, Quả?" Chẳng ai đáp có. Đức Phật liền quở trách họ: "Chưa chứng-đắc mà bảo là đã chứng-đắc, đó là tăng-thượng-mạn, tỳ-kheo phải dẹp bỏ lòng ngã-mạn mới chứng được Đạo, Quả."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Thà nuốt hòn-sắt đỏ lửa hồng,
Hơn ăn vật-thực được cúng-dường,
Nếu chưa giữ được tròn giới-hạnh:
Nghĩ, nói, làm, xấu cả ba đường.
(Kệ số 308.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Tăng-thượng-mạn: Tăng = gia-tăng, thêm; Thượng = trên; Mạn = kiêu-căng, quá tự-cao. Tăng-thượng-mạn là nết xấu hay khoe-khoang, của kẻ tu-hành, chưa chứng-đắc quả-vị mà tự nhận đã chứng-đắc.
-Rừng Đại-lâm, xứ Tỳ-da-ly: khu rừng lớn, tiếng Pali là Mahàvana trong xứ Vesàli, miền Bắc của Ấn-độ xưa.
- Xứ Hoa-di, sông Lạc-thuỷ: phiên-âm và dịch gượng hai điạ-danh nầy; tiếng Pali là xứ Vaggis, sông Vaggumudà ( =khả-ái và an-vui.)
- An-cư kiết-hạ: An-cư = ở yên; kiết-hạ = qua mùa hè.An-cư kiết-hạ: ở Ấn-độ mùa hè, mưa dầm, côn trùng sinh-sản nhiều, tỳ-kheo chẳng đi ra ngoài để khất-thực, ngại đạp chết côn-trùng, lưu lại tịnh-xá lo tu-tập, sống nhờ sự cúng-dường của các tín-đồ. Cứ mỗi mùa an-cư như thế, người tu tăng thêm một tuổi-đạo, được gọi là lạp-tuế.
- Đạo, Quả: Đạo = đường, đường-lối, cách-thức tu-hành; Quả = kết-quả việc tu-hành đã thành-công. Có bốn Đạo: Tu-đà-huờn-hướng, Tư-đà-hàm-hướng, A-na-hàm-hướng, A-la-hán-hướng và bốn Quả là Tu-đà-huờn-quả, Tư-đà-hàm-quả, A-na-hàm-quả và A-la-hán-quả.
- Thiền-định: tu Thiền và đắc định; khi ngồi Thiền, tâm an-định
- Ngã-mạn: tự-cao, phách-lối, coi cái Ngã ( =Ta) của mình là hơn hết
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại mưu-mô của các tỳ-kheo tăng-thượng-mạn, gọi nhau bằng các quả-vị còn chưa xứng vì họ chưa chứng được, với mục-đích là để dân-chúng lầm họ đã đắc đạo mà cúng-dường nhiều. Họ bị Đức Phật quở về tội tăng-thượng-mạn đó.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 308:
Bài Kệ khuyên các vị tu-hành phải tự-xét đức-hạnh của mình có đầy-đủ mới dám nhận lễ-vật cúng-dường của các tín-đồ hiến-tặng.
1) Hai câu đầu: thà chịu đói-khát chớ chẳng lạm-nhận của cúng-dường. Tại sao? Vì người đi tu mà lạm-nhận, sẽ bị sa vào điạ-ngục., để phải nuốt hòn sắt nóng đỏ.
2) Hai câu chót nhắc nhở đến ba nghiệp: thân, miệng, ý có trong-sạch, thì giới-đức mới được tròn vẹn.
(226).- Tích chuyện thanh-niên Khê-ma-ca.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến chàng thanh-niên đẹp trai, tánh hay trăng-gió, tên là Khê-ma-ca.
Khê-ma-ca là con nhà giàu-có, gọi cư-sĩ Cấp-cô-độc bằng bác. Dáng-vóc đẹp trai, ăn nói duyên-dáng, nên Khê được nhiều phụ-nữ trong vùng mê-say, do đó Khê đã phạm nhiều lần tội thông-dâm với kẻ đã có chồng. Đã bị bắt quả-tang cả ba lần, nhưng nhà chức-trách nể-nang cư-sĩ Cấp-cô-độc, nên chẳng truy-tố Khê về tội gian-dâm. Nhưng lần phạm tội sau cùng, cư-sĩ Cấp-cô-độc bắt dẫn Khê-ma-ca đến trình Đức Phật. Đức Phật giảng cho Khê-ma-ca biết sự đồi-bại của tội tà-dâm và các hậu-quả nặng-nề mà gian-phu, dâm-phụ phải chịu.
Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:
Bốn điều bất-hạnh đang chờ-chực
Kẻ dể-duôi dâm-dật vợ người:
Mang tai-hoạ, ngủ đâu yên giấc,
Ba: bị trách; bốn: sa điạ-ngục.
(Kệ số 309.)
Mang tai-hoạ, phải đọa vào đường dữ,
Vui phút giây, đôi dâm-đãng phập-phồng;
Vua lại ban-hành cực-hình xét-xử.
Vậy, đừng phạm tiết những ai có chồng.
(Kệ số 310.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Khê-ma-ca: tên chàng thanh-niên nầy, tiếng Pali là Khemaka.
- Tánh hay trăng-gió: nghĩa bóng là ham thích thú-vui với phụ-nữ
- Cư-sĩ Cấp-cô-độc: vị cư-sĩ nổi tiếng nầy, thường giúp đỡ kẻ cô-đơn, cất chùa Kỳ-viên; tên tiếng Pali là Anàthapindika.
- Thông-dâm, gian-dâm, tà-dâm: Dâm = sự giao-hợp giữa trai gái Gian-dâm, tà-dâm là tội-phạm lấy vợ hay lấy chồng của kẻ khác. Giới thứ ba của người tu tại-gia là cấm tà-dâm, phải có lòng trung-thành với nhau trong tình-nghĩa chồng-vợ. Đối với kẻ xuất-gia, giới-luật cấm hẳn việc dâm-dục, phải sống độc-thân.
- Bắt quả-tang = bị bắt tại trận, bị bắt đủ bằng-cớ đang phạm tội.
- Nể-nang = vị bụng, vì kính-nể mà bỏ qua chẳng nói đến.
- Truy-tố = đưa ra xét xử để trị tội.
- Đồi-bại = xấu-xa, hư-hỏng đáng phỉ-nhổ.
- Gian-phu, dâm-phụ: Gian-phu = đàn-ông gian; Dâm-phụ =đàn-bà dâm-đãng.
- Bất-hạnh: Bất = chẳng; Hạnh = may-mắn. Bất-hạnh = chẳng may
- Dể-duôi = thiếu sự tự kềm-chế, dễ theo điều quấy.
- Dâm-đãng, Dâm-dật = chạy theo thú-vui thể-xác giữa trai gái.
- Cực-hình = hình-phạt nghiêm-khắc, nặng-nề.
- Phạm tiết: vi-phạm trinh-tiết; vì gian-dâm khiến mất sự trung-thành giữa vợ-chồng.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc chàng Khê-ma-ca đẹp trai, con nhà giàu, ăn nói có duyên, ham-thích việc gió-trăng, phạm tội thông-dâm cùng phụ-nữ có chồng. Chàng được người bác là cư-sĩ Cấp-cô-độc dẫn đến nghe Đức Phật chỉ-dạy về tội-ác tà-dâm cần tránh, để khỏi bị các hậu-quả tai-hại, trong đó có việc sa vào điạ-ngục là nặng-nề nhứt.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 309 và 310:
Hai bài Kệ kể ra những hậu-quả tại-hại của tội tà-dâm:
1) Hai câu đầu của bài Kệ số 309 báo bốn điều bất-hạnh:
2) Câu thứ ba nêu ra hai hậu-quả: (1) mang tai-hoạ, vì người chồng trả thù; (2) ngủ chẳng yên-giấc, vì cứ lo-sợ lộ tội; (3) bị trách phạt; (4) sa vào điạ-ngục.
3) Câu đầu của bài Kệ số 310: "Mang tai-hoạ, phải đoạ vào đường dữ, đó là sa vào điạ-ngục, chịu hình-phạt nặng và lâu ở cõi âm.
4) Câu "Vui phút giây, đôi dâm-đãng phập-phồng" cho thấy rõ thú-vui thể-xác rất ngắn-ngủi, đâu bù lại sự lo-lắng kéo dài, sợ lộ tội.
5) Câu ‘’Vua lại ban-hành cực-hình xét-xử" nói rõ hình-phạt ngay trong hiện-đời nầy, bị tù-tội theo luật-lệ trong xã-hội.
6) Câu chót là lời kết-luận: đừng phạm tội tà-dâm.
(227).- Tích chuyện vị tỳ-kheo xem nhẹ giới-cấm nhỏ.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo hay khinh thường các giới-cấm nhỏ.
Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo vô-ý cắt đứt một nắm cỏ, phạm vào giới-luật cấm đốn cây, nhổ cỏ, trong Tăng-đoàn. Mặc dầu vị ấy đã theo đúng thủ-tục thú-tội mình với bạn đồng-tu rồi, nhưng trong tâm vẫn còn thắc-mắc, lo-ngại mình đã trót vi-phạm giới-luật. Một vị tỳ-kheo khác nghe than-thở, mới bảo: "Một vi-phạm nhỏ vào giới-luật, theo đúng thủ-tục thú-tội xong, thì kể như giới-đức đã được thanh-tịnh rồi, có chi mà
phải thắc-mắc. Vả lại, nhổ cỏ là việc nhỏ, chẳng quan-trọng gì, nè, tôi
thử nhổ cho bạn xem." Nói xong, vị ấy cúi xuống vừa bứt một nắm cỏ,
miệng vừa cười.
Sự-việc đó đến tai Đức Phật. Ngài cho gọi vị tỳ-kheo cố-tình nhổ cỏ ấy đến quở trách và nói lên ba bài Kệ sau đây:
Ai vụng nắm cỏ kusa,
Bàn tay bị cỏ cắt đứt.
Cùng thế ấy, đã xuất-gia
Hạnh Sa-môn mà lơ-là
Ắt phải sa điạ-ngục.
(Kệ số 311.)
Một hành-động làm cho có lệ,
Giữ giới-đức bị ô-nhiễm tệ,
Sống Phạm-hạnh một cách khả-nghi,
Chứng được quả cao, đâu có lẽ!
(Kệ số 312.)
Có điều cần phải làm, làm ngay,
Làm hăng say, làm hết năng-lực.
Sống cuộc đời tu-sĩ phóng-dật,
Chỉ làm tăng cát bụi tung bay.
(Kệ số 313.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Khinh thường = xem nhẹ, chẳng coi là quan-trọng chi cho lắm.
- Cấm đốn cây, nhổ cỏ: đây là một giới-cấm Phật đặt ra, để tránh sự sát-hại các loại côn-trùng sống dưới mặt đất.
- Thủ-tục thú-tội: theo Luật-tạng, các gìới-luật được phân ra thành trọng-cấm và khinh-cấm. Các tội năng như tội dâm, tội sát-sanh nếu phạm phải sẽ bị trục-xuất khỏi Tăng-đoàn. Các tội nhẹ, như nhổ cỏ, chỉ cần thưa thiệt với vị tỳ-kheo đồng-tu, tỏ lòng sám-hối là đủ.
- Giới-đức thanh-tịnh: giữ cho hạnh-kiểm, thái-độ của mình được đứng-đắn, chẳng bị tội-lỗi làm dơ-bẩn.
- Cỏ kusa: một loại cỏ có mùi thơm, lá bén như lá xả.
- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà, gia-đình. Bực xuất-gia là người đã rời bỏ cuộc sống trong nhà, đi tu.
- Hạnh Sa-môn: Hạnh = giới-hạnh, hạnh-kiểm; Sa-môn = tu-sĩ Phật-giáo. Chữ Sa-môn có ba ý-nghĩa: (1) cần-giả, siêng làm việc lành; (2) tức-giả, thôi chẳng làm việc ác; (3) bần-giả, nguyện chịu nghèo-khổ để tu-hành.
- Làm cho có lệ = làm qua loa, chẳng chú tâm vào; như tụng kinh, miệng đọc thuộc lòng mà bụng lo ra, nghĩ đến việc ... đi chợ.
- Ô-nhiễm tệ: Ô = đen, dơ; Nhiễm = dính, lây; Tệ = xấu, dở.
- Phạm-hạnh: hạnh tu thanh-tịnh, nguyện dứt bỏ hẳn sự dâm-dục
- Khả-nghi: đáng ngờ-vực, khó tin được.
- Phóng-dật: buông-lung, chẳng siêng-năng, cố-gắng chi cả.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Ý-nghĩa của Tích chuyện là chớ xem thường mọi điều gìới-cấm, dầu nặng, dầu nhẹ, lúc nào cũng phải tuân-phục. Vì nếu tỏ ra lơ-là, giới-đức sẽ bị nhiễm-ô, mất sự thanh-tịnh.
(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 311, 312 và 313:
Bài Kệ số 311 khuyên ta chớ lơ-là trong việc giữ gìn giới-luật, vì nếu đã nguyện giữ mà lại phá giới, sẽ bị tội sa vào điạ-ngục. Hai câu: "Ai vụng nắm cỏ kusa, Bàn tay bị cỏ cắt đứt" so-sánh sự sắc-bén của giới-luật với lá cỏ bén kusa; nếu chẳng khéo cầm-giữ sẽ bị đứt tay.
Bài Kệ số 312 chê-trách kẻ tu-hành giữ giới-luật một cách lấy lệ, làm cho có chừng vậy thôi. Thái-độ lơ-là nầy dễ khiến giới-đức bị nhiễm-ô, mất cả sự thanh-tịnh. Hậu-quả là chẳng thể nào chứng được đạo-quả.
Bài Kệ số 313 khuyên nên tu-hành cho thật tinh-tấn:
- "Có điều cần phải làm, làm ngay": điều chi? Đó là việc giữ gìn giới-đức thanh-tịnh để chóng đến ngày giác-ngộ và giải-thoát.
- "Làm hăng-say, làm hết năng-lực": đấy là thái-độ tinh-tấn của người tu-hành đang gắng sức, chẳng có lúc nào lơ-là cả.
- "Sống cuộc đời tu-sĩ phóng-dật, Chỉ làm tăng cát-bụi tung bay" Cuộc đời phóng-dật, ở đây, là chẳng biết, chẳng chịu, khép mình vào kỷ-luật của giới-đức. Như thế chỉ làm tăng thêm tội-lỗi, ví như cát-bụi dơ-bẩn tung bay lên, nêu gương xấu cho dân-chúng.
HỌC TẬP:
Tuy Tích chuyện cùng ba bài Kệ nói đến các vị xuất-gia tu-hành, nhưng chúng ta cũng rút ra được những bài học nhỏ về việc giữ gìn giới-luật cho người tu tại-gia.
1) Người Phật-tử tu tại nhà phải giữ trọn ngũ-giới gồm có: (1) chẳng sát-sanh; (2) chẳng trộm-cắp; (3) chẳng tà-dâm; (4) chẳng nói dối; (5) chẳng uống rượu. Đây là năm điều căn-bản của việc tu-hành tại-gia, có là bao, khi so-sánh với 250 điều của tỳ-kheo và 350 điều của tỳ-kheo-ni của các bực xuất-gia.
2) Xin kể vài điểm lơ-là thường thấy trong việc giữ ngũ-giới:
- ăn chay là để tránh sát-sanh; tối đói bụng, nói "Tối rồi, Phật đi ngủ, mình cứ ăn tô phở nhỏ cho hết xót ruột!"
- cấm trộm-cắp là để diệt lòng tham; trong sở sẵn giấy trắng, cứ lấy vài tờ ra viết thơ cho bạn, có hề chi!
- cấm tà-dâm là để giữ lòng trong-sạch, lại thích làm bộ lỡ đụng nhè-nhẹ vào người đẹp khác phái!
- cấm nói dối là để tôn-trọng sự-thật; đi xa về kể chuyện thường thêm-thắt vài chi-tiết vẽ-vời ra, cho câu chuyện thêm ... dòn!
- cấm uống rượu là để trí-óc được sáng-suốt; trong buổi tiếp-tân, pha rượu loảng nhâm-nhi chơi, chút đỉnh mà, nào có hại chi đâu!
(228).- Tích chuyện người vợ ghen-tuông.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc một người đàn-bà tánh hay ghen-tuông, hành-hạ một đứa tớ gái.
Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một người đàn-bà tánh hay ghen-tuông, nghi chồng mình tằng-tịu với đứa tớ gái. Bà ta bắt đứa tớ, đem trói lại, tra khảo, rồi trong cơn ghen-giận, bà xẻo tai, cắt mũi nó, đem giam nó vào phòng tối. Sau đó, bà theo chồng đến chùa để lạy Phật.
Một lát sau, thân-nhơn của đứa tớ gái, đến nhà chủ để thăm nó, nghe tiếng nó rên la trong phòng tối, mới vào cổi trói cho nó và dẫn nó đến chùa, thưa trình cùng Phật. Bấy giờ Đức Phật đang giảng pháp cho đông-đảo tín-đồ ngồi nghe. Sau thời pháp, thân-nhơn đứa tớ gái trình Phật sự-thể vì sao nó bị hành-hạ tàn-nhẫn như thế. Rồi họ chỉ vào thân-thể tiều-tuỵ, bị đánh-đập nhiều vết thương-tích trên mặt của đứa tớ gái cho mọi người trông thấy. Đức Phật bảo: "Nầy chư thiện-nam, tín-nữ, chớ nên làm điều ác, vì điều ác dầu dấu kín mấy đi nữa, cũng lộ ra sau nầy và đem lại đau-khổ ray-rứt cho người đã làm ác. Còn việc thiện dầu âm-thầm làm, cũng mang lại hạnh-phúc và yên-vui."
Rồi đó Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Việc ác, tốt hơn, nên bỏ dứt,
Trót làm sanh ray-rứt trong lòng.
Việc thiện, tốt hơn, làm lập-tức,
Chẳng hề hối-tiếc khi làm xong.
(Kệ số 314.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Ghen-tuông: nết xấu sợ chồng hay vợ mình thương-yêu kẻ khác
- Tằng-tịu = dan-díu tình-ái với kẻ khác một cách bất-chánh.
- Tra-khảo = đánh-đập để vặn hỏi.
- Thân-nhơn: người thân trong gia-đình.
- Tín-đồ: Tín = tin-tưởng; Đồ = đồ-đệ; học trò. Tín-đồ = kẻ theo đạo.
- Thiện-nam, tín-nữ: Thiện = lành; Tín = tin-tưởng; Thiện-nam = đàn-ông làm lành; Tín-nữ = đàn-bà tin đạo. Ở đây, chỉ các tín-đồ.
- Ray-rứt: gây sự đau-khổ kéo dài, ngấm-ngầm bên trong tâm.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc người vợ ghen-tuông đánh-đập, hành-hạ một đứa tớ gái vì nghi nó dan-díu tình-ái với chồng mình, rồi giam nó trong phòng kín. Nhưng nó được thân-nhơn giải-cứu, dẫn đến trình cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: "Việc ác dầu dấu kín, sớm muộn chi cũng lộ, rồi gây đau khổ ray-rứt trong lòng người làm ác..."
Ý-nghĩa của Tích chuyện là đừng vì ghen-tuông mà có những hành-động ác, hãy dẹp bỏ ngay sự sân-hận.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 314:
Bài Kệ số 314, chẳng nói đến việc đánh ghen trong Tích chuyện, chỉ phân-biệt rõ hai hành-động thiện và ác:
1) Việc ác sanh ray-rứt trong lòng: Tại sao? Vì người làm ác hối-tiếc đã
gây đau-khổ cho người khác, trong lòng ray-rứt chẳng nguôi. Do đó, phải
dứt bỏ ngay việc ác, mỗi khi ác-ý vừa khởi lên trong tâm.
2. Việc thiện nên làm ngay lập-tức: Tại sao? Nên làm, vì việc thiện đem an-vui đến cho kẻ khác và cho mình. Phải làm ngay lập-tức, vì nếu chần-chờ làm việc thiện, cơ-hội đi qua, sẽ mất dịp tạo thêm nghiệp lành cho bản thân.
(229). Tích chuện càv Tỳ-kheo qua mùa an-cư nơi biên-ải.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một nhóm Tỳ-kheo qua mùa an-cư tại một nơi xa-xôi gần biên-giới.
Thuở ấy, vào mùa an-cư kết-hạ, có một nhóm Tỳ-kheo đến cư-trú tại một vùng gần biên-giới. Trong tháng đàu của mùa mưa, họ được dân-chúng trong vùng cung-cấp đày-đủ thực-phậm và các tiện-nghi khác.
Vào tháng thứ hai, vùng biên-giới bị giặc-giã đến cướp-phá, nhiều người dân bị giặc bắt đi. Dân chúng vì phải lo phòng-vệ cửa ải, cứu-trợ người bị thương, xây-dựng lại các nơi bị tàn-phá, nên chẳng thể cung-ứng đầy-đủ cho chư Tăng. Vì thế, các tỳ-kheo đã trải qua mùa an-cư trong thiếu-thốn, nhưng chẳng vì thế mà việc tu-tập bớt phần tinh-tấn.
Mãn mùa an-cư, chư Tăng quay về chùa, tường-trình lên Đức Phật kết-quả tu-tập trong ba tháng hè vừa qua. Được biết chư Tăng gặp khó-khăn nơi biên-ải, Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, rất khó mà có được đời sống vật-chất đầy-đủ đủ tiện-nghi mà chẳng cần phải cố-gắng. Cũng như dân-chúng vùng biên-thuỳ đã
phòng-vệ thị-trấn của họ, gìn-giữ cả bên trong thành cũng như bên ngoài
ải, tỳ-kheo phải biết phòng-hộ thân-tâm mình, cả bên trong lẫn bên
ngoài."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó một số tỳ-kheo nỗ-lực tu-tập mà chứng được quả-vị A-la-hán:
Canh-phòng cửa ải ngoài biên-giới,
Phải canh cả trong thành ngoài ải.
Tự phòng-vệ mình, nào có khác.
Gặp dịp tốt học Pháp, chớ bỏ qua,
Lỡ dịp, đau buồn khi sa cõi ác.
(Kệ số 315.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
-Biên-ải, Biên-giới, Biên-thuỳ: Biên =ngoài bià, gần lằn ranh; Ải = đồn-binh giữ giặc; Giới, Thuỳ = ranh-giới. Biên-ải là đồn lính đóng ngoài biên-giới, để giữ vững biên-thùy cho đất nước.
- An-cư kiết-hạ: An-cư = ở yên; Kiết hạ = trải qua mùa hè. An-cư kiết-hạ là trong thời-gian ba tháng hè, mưa dầm, các tỳ-kheo chẳng ra ngoài đi khất-thực, vì ngại đạp chết côn-trùng đang sanh-sản nhiều, lưu lại nơi tịnh-xá để tu-tập, sống nhờ sự cúng-dường của tín-đồ.
- Phòng-vệ, phòng-hộ: Phòng = đề-phòng; Hộ =Vệ = giữ gìn.
- Cung-ứng = châu-cấp cho đầy-đủ; tiếp-tế.
- Thị-trấn: Thị = chợ, thành-thị; Trấn = trấn-giữ; nơi được canh chừng. Thị-trấn là thành-phố được tăng-cường việc phòng-thủ.
- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt của bực tu-hành đã diệt hết các phiền-não, vượt các chướng-ngại, lìa bỏ mọi ham muốn, chứng được vô-sanh ( = chẳng phải tái-sanh trong Luân-hồi nữa), sống tự-tại trong cảnh-giới Niết-Bàn. Tiếng Pali là Arahant.
- Pháp = Chánh-pháp, lời dạy của Phật ghi trong Kinh-kệ, chỉ rõ đường-lối tu-hành để được giác-ngộ và giải-thoát.
- Cõi ác: ba đường dữ trong Luân-hồi: điạ-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại mùa an-cư kiết-hạ của một nhóm tỳ-kheo đến sống gần biên-giới. Họ gặp phải khó-khăn trong vấn-đề ăn-uống, vì dân-chúng phải lo phòng-vệ cửa ải, nên chẳng cung-ứng đủ thực-phẩm. Đức Phật nhơn chuyện đó, dạy các tỳ-kheo phải biết phòng-hộ thân-tâm mình, cũng như dân-chúng phòng vệ cửa ải, bên trong cũng như bên ngoài.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là việc phòng-hộ thân-tâm phải luôn luôn gìn-giữ và điều-phục tâm bên trong cũng như các căn bên ngoài.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 315:
Bài Kệ số 315 khuyên ta nên phòng-hộ thân-tâm ta cũng như dân-chúng
vùng biên-giới phòng-vệ cửa ải, cả trong thành lẫn ngoài ải. Như thế,
người tu-hành phải, bên ngoài điều-phục các căn, bên trong tỉnh-giác, giữ chánh-niệm trong tâm. Nhưng cách phòng-vệ hữu-hiệu và bền-lâu nhứt, chính là việc học-tập Chánh-pháp; nếu có dịp được nghe Pháp mà bỏ qua, về sau hối-tiếc đã quá muộn, khi đau-khổ phải sa vào ba đường ác của cõi Luân-hồi.
HỌC TẬP:
1) Điều-phục các căn như thế nào? Mắt đừng chạy theo cảnh; tai đừng mê âm-thanh; mữi chớ quá thích mùi thơm; lưỡi chớ thèm vật ngon-ngọt quá; tay chớ ham sờ vật êm-láng; để giữ cho tâm yên.
2) Điều-phục tâm như thế nào? Luôn giữ chánh-niệm theo hơi thở ra vào nhẹ-nhàng, khiến cho tâm an-tịnh, chẳng vọng-động.
(230).- Tích chuyện nhóm loã-thể Ni-kiền-tử.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tai chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến nhóm tu-sĩ loã-thể Ni-kiền-tử.
Thuở ấy có nhóm tu-sĩ loã-thể Ni-kiền-tử đi khất-thực, tay cầm bình
bát có miếng vải nhỏ che bên trên, mình chỉ quấn khố che hạ-bộ. Các vị
tỳ-kheo trông thấy, bảo: ‘Các vị tu-sĩ Ni-kiền-tử có khố che phiá dưới,
trông ra có phần trang-nhã hơn các ẩn-sĩ loã-lồ." Các tu-sĩ Ni-kiền-tử đáp: "Chúng ta che phiá dưới thân-thể, chẳng phải là vì sợ xấu-hổ đâu. Chúng ta lấy vải đậy bình bát lại là để tránh bụi-bặm, vì trong bụi-bặm vẫn có sự-sống."
Khi trở về chùa, các vị tỳ-kheo trình lại Phật những điều các tu-sĩ Ni-kiền-tử đã nói. Đức Phật bảo: "Nầy chư Tăng, bọn Ni-kiền-tử chỉ che hạ-bộ mà chẳng biết thẹn ở chỗ đáng thẹn, họ lại che bình bát, thẹn ở nơi chẳng đáng thẹn. Vướng-mắc tà-kiến như thế, họ sẽ sa vào đường dữ của Luân-hồi."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây, vài người trong nhóm Ni-kiền-tử nghe hiểu được, mới xin quy-y Tam-Bảo:
Chẳng đáng hổ-ngươi mà lại thẹn,
Việc đáng thẹn mà lại trơ-trẻn.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm-ấp
Sẽ đoạ vào cõi thấp, khi tái-sanh.
(Kệ số 316.)
Chẳng đáng sợ mà lại hãi-hùng,
Việc đáng ghê mà lại dửng-dưng.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm-ấp,
Sẽ đoạ vào cõi thấp, khi tái-sanh.
(Kệ số 317.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Loã-thể Ni-kiền-tử: Loã = loã-lồ, chẳng che-đậy; Thể = thân-thể; Ni-kiền-tử = phiên-âm tên nhóm tu-sĩ loã-thể, tiếng Pali là Nigantha.
- Khất-thực: Khất = đi xin, Thực = ăn. Theo giáo-lý nhà Phật, các tỳ-kheo theo hạnh khất-sĩ, hạ mình xuống đi xin ăn, để diệt lòng tự-ái và có dịp gặp dân-chúng để chỉ-dạy Chánh-pháp cho họ.
- Bình bát: tô chén lớn như cái nồi, bằng sành, bằng gỗ hay bằng đồng, dùng đựng thức-ăn khi xin được.
- Khố = mảnh vải nhỏ và dài, che phiá dưới, chẳng mặc quần.
- Hạ-bộ: Hạ = dưới, Bộ = bộ-phận. Hạ-bộ tức là bộ-phận sanh-dục
-Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo; Kiến = ý-tưởng; Tà-kiến là ý-tưởng sai-lầm
- Đường dữ: Luân-hồi có ba đường dữ, điạ-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh
- Quy-y Tam-Bảo: Quy-y = Quy = trở về; Y = nương-tựa; Tam =ba; Bảo = ngôi báu. Đó là quay về nương-tựa nơi Phật, Pháp và Tăng.
- Hổ-ngươi = thẹn, mắc-cở.
- Trơ-trẻn: chẳng biết thẹn, chẳng biết mắc-cở, chai-lỳ lắm!
- Hãi-hùng: sợ-hãi lắm, ghê-sợ nhiều.
- Dửng-dưng = chẳng hề cảm-động, chẳng động tâm, trơ-trơ.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mô-tả thái-độ chẳng đứng-đắn của nhóm loã-thể Ni-kiền-tử, chẳng thẹn chỗ đáng thẹn, lại thẹn chỗ chẳng đáng thẹn. Đức Phật dạy, thẹn và chẳng biết thẹn như thế, cùng với sự sợ và chẳng sợ đúng chỗ là đang vướng phải hai tà-kiến, sẽ đưa ta vào cõi thấp trong Luân-hồi, khi tái-sanh.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là phải gạt bỏ các tà-kiến, biết thẹn và sợ-hãi, khi lỡ làm việc ác.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 316 và 317:
Hai bài Kệ giống nhau ở hai câu chót: đưa ta tái-sanh vào đường thấp, và khác nhau ở chỗ thẹn và sợ chẳng đúng chỗ. Vướng vào hai tà-kiến thẹn và sợ chẳng đúng chỗ nầy, là vì chẳng thông-hiểu Chánh-pháp, chưa phân-biệt rõ điều chánh với điều tà.
HỌC TẬP:
Ứng-dụng: (1) biết thẹn khi lầm-lỗi; chẳng hề thẹn vì: màu da, nòi-giống, tật-nguyền, nghề lao-động, cảnh nghèo-khó. (2) biết sợ các đìều ác mà tránh; chẳng hề sợ vì: ma nhát, bạo-quyền, sự giàu-sang của kẻ khác cùng sự kỳ-thị.
(231).- Tích chuyện nhóm người dị-giáo.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Cây Sung, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến nhóm người theo Dị-giáo.
Thuở ấy, những người theo Dị-giáo thường dạy con cháu họ, chớ nên chơi đùa với những đứa trẻ theo Phật-giáo, chẳng được vào chùa Kỳ-viên, chẳng nên chào-kính các vị tỳ-kheo. Một hôm, lũ trẻ nô-đùa ngoài sân chùa, có một số khát nước, muốn nhờ các trẻ theo đạo Phật, vào chùa lấy nước đem ra cho chúng giải-khát. Một đứa đi vào chùa, gặp Đức Phật, Ngài bảo nó cứ trở ra mời bọn trẻ vào chùa mà uống nước. Cả bọn đồng vào trong. Sau khi chúng đã uống xong, Đức Phật hỏi han từng đứa và nhơn đó tùy theo sự hiểu-biết mỗi đứa mà giảng pháp cho chúng nghe. Bọn trẻ nghe hiểu, tỏ lòng quy-ngưỡng ba ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng.
Về nhà, mấy đứa trẻ rất thích-thú, kể lại cho cha mẹ chúng nghe. Cha mẹ chúng phần đông ít học, hoảng-sợ lên: "Thôi rồi, trẻ con nhà mình bị Phật quyến-rũ, từ nay mình sẽ mang tiếng là phản-đạo mất rồi." Họ khóc lên, kể lể; người hàng xóm nghe được, khuyên họ dẫn con lên chùa gặp Đức Phật. Họ nghe lời, đến chùa Kỳ-viên, lại được Đức Phật giảng cho nghe giáo-lý rồi Ngài nói lên hai bài Kệ sau đây, khiến cho cả cha con người theo Dị-giáo đều xin quy-y Tam-Bảo:
Chẳng sái-quấy lại bảo là sai,
Việc lỗi-lầm, lại bảo đúng ngay.
Tà-kiến đó, chúng-sanh nào ôm giữ
Sẽ sa vào cõi dữ, khi tái-sanh.
(Kệ số 318.)
Sai, bảo là sai.
Phải, bảo là phải.
Ai biết giữ chánh-kiến nầy
Vào cõi lành, khi sanh lại.
(Kệ số 319.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Dị-giáo: Dị = khác; Giáo = tôn-giáo. Dị-giáo là tôn-giáo khác với Đạo Phật; tạm dịch từ tiếng Pali là Titthi.
- Chùa Cây Sung: tạm dịch từ tiếng Pali là Nigrodàràma, (Nigrodha là loại cây lớn như cây da, có trái giống trái sung.)
- Quy-ngưỡng: Quy = quay về; Ngưỡng = ngưỡng-mộ, kính-trọng.
- Tam-Bảo = Ba ngôi báu: Tam = ba; Bảo = quí-báu. Tam-Bảo là ba ngôi quí-báu: (1)Đức Phật, bực đại-giác, (2)Chánh-pháp, lời Phật dạy đường-lối giác-ngộ và giải-thoát;(3) Tăng-già, các đệ-tử tu-hành theo đúng đường-lối của Phật.
- Quy-y: Quy = quay về; Y = nương-tựa. Quy-y là tìm về nương-tựa tinh-thần vào ngôi Tam-bảo.
- Cõi dữ: có ba cõi dữ trong Luân-hồi: (1) điạ-ngục, ngạ-quỉ ( =quỉ đói), súc-sanh ( =thú-vật). Cõi dữ, đường dữ, tiếng Pali: Duggati
- Cõi lành: ba cõi lành: (1) cõi Người; (2) cõi A-tu-la, thần-linh (Asura); (3) cõi Trời. Cõi lành, đường lành, tiếng Pali là Suggati.
- Chánh-kiến: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Kiến = kiến-thức. Có chánh-kiến là có kiến-thức ( = nghe thấy, hiểu-biết) thật đúng-đắn. Chánh-kiến đứng đầu trong Bát-chánh-đạo, con đường Thánh đưa ta đến cảnh-giới Niết-bàn. (Pali: Sammaditthi = Chánh-kiến.)
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại cơ-duyên rất may-mắn của nhóm người ngoại-đạo theo Dị-giáo, được Đức Phật dạy cho Chánh-pháp, biết rõ con đường giác-ngộ và giải-thoát. Họ bỏ được tà-kiến mê-tín, noi theo Chánh-kiến mà quy-y Tam-Bảo.
Ý-nghĩa của Tích chuyện: rời bỏ tà-kiến của Dị-giáo để theo Chánh-kiến của đạo Phật giải-thoát, đó chẳng phải là "phản-đạo", mà là sự sáng-suốt và can-đảm biết thoát khỏi sự ràng-buộc của mê-tín.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 318 và 319:
Hai bài Kệ nêu rõ sự khác nhau giữa tà-kiến và chánh-kiến: sai, bảo là sai; đúng, bảo là đúng. Tà-kiến đưa ta vào cõi dữ, chánh-kiến dắt ta theo đường lành. (Tưởng ta nên học thuộc lòng hai bài Kệ nầy).
-ooOoo-