phàn 2
II. Phẩm: Chẳng Phóng-dật
(15) Tích chuyện Hoàng-hậu Sa-mã-hoa
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ ở tu-viện Cô-si-ta, gần thành Cô-sâm-bi, trong một kỳ giảng pháp, có đề-cập đến Hoàng-hậu Sa-mã-hoa, chánh-cung của vua Ưu-đề-na, nước Cô-sâm-bi.
Hoàng-hậu Sa-mã-hoa có năm trăm cung-nữ, trong số đó có bà Khưu-du hằng ngày đến tiệm bán hoa của Sử-ma-na mua bông về trang-hoàng cung của Hoàng-hậu. Trong dịp đến tiệm bán hoa, bà Khưu-du được nghe Đức Phật thuyết-pháp ở đó và ba chứng-đắc được quả-vị Tu-đà-huờn. Khi trở về hoàng-cung, bà Khưu-du nhắc lại bài pháp cho Hoàng-hậu và các cung-nữ nghe và nhờ đó mà tất cả đều chứng-đắc được quả-vị Tu-đà-huờn. Kể từ đãy, bà Khưu-du được Hoàng-hậu kính-trọng như mẹ và thầy dạy đạo. Bà Khưu-du khỏi phải làm công-việc tạp-dịch nữa và tiếp-tục đi nghe Đức Phật giảng-pháp về chỉ-dạy lại cho Hoàng-hậu và các cung-nữ. Chẳng bao lâu, bà Khưu-du đã thông-thạo về Tam-Tạng Kinh-điển.
Hoàng-hậu Sa-mã-hoa và các cung-nữ rất mong muốn được trông thấy Đức Phật để đảnh-lễ, nhưng họ sợ Vua Ưu-đề-na tức-giận, nên chỉ dám khoét một lỗ hổng trên bức tường ở hoàng-cung để lén nhìn ra ngoài, nom theo Đức Phật hằng ngày đến nhà các cư-sĩ Cô-sa-ka, Cúc-khưu-ta và Pha-hoa-di để khất-thực.
Vào thời ấy, vua Ưu-đề-na còn có
một vị vương-phi tên là Mã-can-di-hoa, vốn là người con gái yêu của một
vị Bà-la-môn tên là Mã-can-di. Một hôm, Mã-can-di trông thấy Đức Phật với tướng-mạo trang-nghiêm, đẹp-đẽ, ôm bình bát đi khất-thực, ông Mã liền gọi vợ và con ra xem, và muốn gả con cho Đức Phật vì, theo ông, chỉ có người oai-nghi như Đức Phật mới xứng với vẻ đẽp tuyệt-trần của cô Mã-can-di-hoa. Nhưng Đức Phật từ-chối: "Ngay cả khi thấy ba người con gái của Ma-vương là các cô Tham-ái, Ác-cảm, và Dục-vọng, nhan-sắc xinh-đẹp hơn nhiều, ta còn chẳng cảm thấy một chút nào lòng dục khởi lên nữa. Dầu sao, đối với tấm thân đầy chất bẩn và nước tiểu kia, ta cũng chẳng muốn để chơn ta đụng phải."
Khi nghe Đức Phật nói như thế, hai vợ chồng vị Bà-la-môn Mã-can-di liền chứng-đắc được đạo-quả A-na-hàm. Họ liền giao con gái cho người em trai và xin gia-nhập vào Giáo-hội Tăng-già. Tuy nhiên, cô Mã-can-di-hoa lúc ấy rất căm-hận Đức Phật và thề rằng sẽ trả thù, khi có dịp. Về sau, cô Mã-can-di-hoa được người chú đem dâng cho Vua Ưu-đề-na và được tuyển làm vương-phi. Khi Mã-can-di-hoa hay tin Đức Phật đến xứ Cô-sâm-bi và Hoàng-hậu Sa-mã-hoa cùng các cung-nữ khoét vách tường để dòm
ra ngoài, bà Mã liền tố-cáo với Vua, bảo rằng Hoàng-hậu và các cung-nữ
chẳng trung-thành với Vua và có sự giao-du với bên ngoài. Vua Ưu-đề-na đến cung Hoàng-hậu, nhìn thấy lỗ hổng trên tường, nhưng khi nghe trình-bày sự-thật, nhà vua hết nghi-nan và chẳng tức-giận.
Bà Mã-can-di-hoa vẫn còn căm-tức nên tìm cách thuyết-phục Vua rằng Hoàng-hậu Sa-mã-hoa chẳng những chẳng trung-thành với Vua mà còn âm-mưu giết vua nữa. Được biết trước Vua sẽ ngự đến cung Hoàng-hậu, bà vương-phi Mã liền bắt một con rắn nhỏ thật độc, đem dấu vào trong cái bầu của cây đờn tì-bà, mà vua thường thích đờn, rồi lấy một bó hoa chận phía ngoài cho rắn chẳng bò ra được. Bà liền tâu với Vua là bà có linh-cảm rằng có người sẽ ám-hại vua, xin vua đừng đến cung Hoàng-hậu. Nhưng nhà vua chẳng nghe, bà Mã liền xin tháp-tùng, nói là để bảo-vệ Vua khi cần.
Đến cung Hoàng-hậu, sau khi dự tiệc, Vua sai mang đờn ra để Ngài tấu
nhạc. Bà Mã liền rút bó hoa ra khỏi cây đờn và đem dưng cho Vua. Con
rắn thoát khỏi chỗ bị giam, liền chui ra, rít lên, bò đến bên Vua. Nhà
vua tức-giận, bấy giờ tin lời bà Mã là Hoàng-hậu Sa-mã-hoa muốn giết
vua. Ngài liền bắt Hoàng-hậu và các cung-nữ đứng giàn hàng, rồi giương cây cung, đặt tên có tẩm thuốc độc, nhắm bắn. Lúc ấy, Hoàng-hậu trầm-tĩnh bảo các cung-nữ đừng sợ-hãi và cũng đừng oán-giận vua, mà phải nhiệt-tâm rải tâm Từ đến
Vua và vương-phi. Khi mũi tên độc của Vua bay về phía các cung-nữ thì
lạ thay, nó lại quay ngược trở về, rơi xuống đất. Nhà Vua tỉnh-ngộ mới
biết Hoàng-hậu trong-trắng và vô-tội.Kể từ đó, Vua cho phép Hoàng-hậu
được thỉnh Đức Phật vào hoàng-cung để cúng-dường thực-phẩm và nghe
thuyết-pháp.
Nhận thấy các âm-mưu để hại Hoàng-hậu chẳng thành công, bà vương-phi Mã can-di-hoa mới nghĩ đến một kế-hoạch chót. Bà cho người về nhờ chú bà thuê người đến đốt cung Hoàng-hậu. Khi hay tin có hỏa-tai, nhà Vua đến cung Hoàng-hậu, nhưng chậm mất rồi, vì Hoàng-hậu và các cung-nữ đang nhập vào thiền-đînh dưới ngọn lửa hồng đang bùng cháy. Bấy giờ, phần lớn các cung-nữ đều chứng-đắc quả-vị Tu-đà-huờn, một số ít chứng được quả A-na-hàm.
Khi ngọn lửa đã tàn, nhà Vua chẳng để lộ vẻ tức-giận, mà nói rằng: "Khi Sa-mã-hoa còn sống, ta vẫn luôn luôn lo-ngại bà ta ám-hại, nay bà ta đã chết rồi, ta mới yên-tâm. Kẻ nào đã đốt cháy cung nầy mới thật là kẻ yêu ta, muốn bảo-vệ ta đó." Bãy giờ, bà Mã-can-di-hoa liền tâu rằng chính bà đã thuê người đốt. Nhà vua cười khen bà Mã và ra lịnh mời tất cả thân-nhơn của bà đến cung Vua để dự tiệc khen thưởng. Họ vui mà đến, đông đủ cả. Nhà Vua liền ra lịnh bắt tất cả, dĩ nhiên cả Vương-phi Mã-can-di-hoa cũng ở trong số đó, đem ra sân thiêu sống.
Khi Đức Phật nghe được các biến-cố đó, Ngài liền đọc lên ba bài Kệ sau đây cho chúng Tăng nghe:
Tình-giác là con đường Bất-tử
Buông lung là nẻo dữ Tử-sanh.
Sống theo tỉnh-giác, tâm lành
Hơn người phóng-dật đã thành chửa chôn
(Kệ số 021.)
Đã thông-hiểu chỗ hơn kém đó
Bực trí cao chẳng có buông-lung;
Chí thành tỉnh-giác một lòng
An vui cõi Thánh, ung-dung thanh-nhàn.
(Kệ số 022)
Bực trí-giả hằng tu thiền-định
Nỗ-lực tinh-cần tỉnh-giác luôn.
Vô-thượng Niết-bàn liền chứng-đắc;
Gông-cùm, xiềng-xích đều đập tan.
(Kệ số 023.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Các tên được Việt-hoá cho dễ đọc:
Tiếng Việt: Tiếng Pali:
- Cô-si-ta: Ghosita:
- Cô-sâm-bi: Kosambi
- Sa-mã-hoa: Sàmàvati
- Ưu-đề-na: Udena
- Khưu-du: Khujjuttarà
- Sử-ma-na: Sumana
- Cô-sa-ka: Ghosaka
- Cúc-khưu-ta: Kukkuta
- Pha-hoa-di: Pàvàriya
- Mã-can-di: Màgandiya
- Mã-can-di-hoa: Màgandiyà
- Chánh-cung: người vợ chánh của vua; hoàng-hậu.
- Cung-nữ: cô gái phục-vụ trong hoàng-cung.
- Tạp-dịch: tạp = lặt-vặt; dịch = công-việc. Tạp-dịch là làm các công-việc lặt-vặt trong nhà.
- Vương-phi: vương = vua; phi = vợ; vợ thứ. Theo phong-tục đa-thê ( = có nhiều vợ), ngoài Hoàng-hậu ra, Vua còn có nhiều vợ khác, gọi là vương-phi.
- Căm-hận: thù-ghét.
- Tố-cáo: kể rõ tội-trạng của một người với kẻ khác.
- Giao-du: giao = giao-thiệp, kết bạn; du = chơi bời với nhau.
- Nghi-nan: nghi-ngờ.
-Trung-trinh: trung = trung-thành; trinh = trinh-tiết. Giữ lòng trung-thành với chồng.
- Đờn tì-bà: một loại đờn giây, trông tựa như vĩ-cầm ngày nay.
- Linh-cảm: linh = linh-thiêng, huyền-bí; cảm = cảm-giác. Linh-cảm là tự-nhiên có ý-nghĩ biết trước về một việc sắp xãy ra.
-Ám-hại: ám = đen tối; hại = nguy-hại. Ám-hại là hại ngầm.
- rải tâm Từ: tức là trong tâm chỉ nghĩ đến sự Từ-bi, và mong muốn tấm lòng Từ-bi của mình sẽ chuyển-động được tâm người mình đang nghĩ đến.
- Tình-ngộ: liền biết mình đã nghĩ lầm.
- Kế-hoạch: mưu-kế dự-định sẽ làm.
- Hoả-tai: hoả = lửa; tai = tai-nạn. Bị lửa cháy thiêu.
-Thân-nhơn: thân = thân-tình, bà con; nhơn = người.
- Biến-cố: việc quan-trọng đã xãy ra.
- Tỉnh-giác: tỉnh = chẳng còn mê; giác = biết. Người tỉnh-giác là người sáng-suốt, làm gì cũng biết mình đang làm gì, luôn chú-ý đến hành-động và mọi biến-chuyển trong tâm của mình.
- Bất-tử: bất = chẳng; tử = chết. Vì sao tỉnh-giác là con đường Bất-tử? Vì khi tỉnh-giác, biết mình đang sống, làm gì, nghĩ gì cũng biết, khác với người mê tuy còn thở nhưng như chết rồi vì mình chẳng biết mình đang làm gì, đang nghĩ gì.
- Buông-lung: buông trôi, chẳng có sự tự kềm-chế lấy mình. Cùng nghĩa với chữ Phóng-dật.
- Phóng-dật: phóng = buông trôi; dật = nghỉ ngơi. Cùng một nghĩa với các chữ: buông-lung, lười-biếng, cẩu-thả.
- Chưả chôn: còn sống đó, nhưng vật-vờ, vất-vưởng như người chết chưa chôn, vậy thôi.
- Ung-dung: thong-thả, tự-do, chẳng bị ràng-buộc.
- Vô-thượng: vô = chẳng có; thượng = trên. Vô-thượng là chẳng còn gì ở trên đó nữa; cao nhứt.
- Niết-Bàn: tiếng Pali là Nirvana, có nghĩa là ra khỏi rừng u-tối, tức là rừng phiền-não. Chữ Niết-bàn chỉ tâm-trạng của người đã dứt sạch hết các phiền-não, sống ung-dung, tự-tại. Đừng tưởng-lầm Niết-bàn là một nơi chốn nào trong không-gian mà người tu-hành đắc-đạo đến đó ở cho thật sung-sướng. Đó chỉ là cảnh-giới của tâm người đã dứt hết các điều ham-muốn, sống an-nhiên trong niềm vui thanh-tịnh, nhẹ-nhàng.
Có hai cảnh Niết-bàn: khi còn sống thì vào Hữu-dư Niết-bàn; đến khi bỏ thân-xác thì vào Vô-dư Niết-bàn (dư = dư-y, tức là tấm thân thể-xác). Các bực chứng quả-vị A-la-hán, đắc được Vô-sanh ( = chẳng còn phải tái-sanh trong cõi Luân-hồi), gọi là chứng-đắc Niết-bàn.
-Tham-ái, Ác-cảm, Dục-vọng: tên của ba cô gái đẹp của Ma-vương. Tham-ái = khao-khát; Ác-cảm = có ý ác, ghét; Dục-vọng = lòng ham-muốn. Cả ba đều chỉ đến sự cám-dỗ.
- A-na-hàm: quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-văn, chẳng còn phải sanh lại ở cõi người nữa, nên được gọi là Bất-Lai. Tiếng Pali là Anàgàmi.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện đưa ra hai mẩu người:
một người hiền-từ biết tu-tập theo Chánh-pháp, biết lấy ơn ra trả oán;
và một người buông-lung theo lòng oán-hận, gây ra nhiều tội-ác. Mẩu
người trước là Hoàng-hậu Sa-mã-hoa; mẩu người sau là bà Vương-phi
Mã-can-di-hoa. Tích chuyện cho thấy: đã làm ác, tất phải chịu lấy hậu-quả xấu, ngay trong đời nầy.
Ngoài ý-nghĩa chánh vừa nêu trên, ta còn tìm thấy những ý-nghĩa khác sau đây:
1.- Cùng một lời nói của Phật về tấm thân bất-tịnh, hai ông bà Mã-can-di và cô gái Mã-can-di-hoa có phản ứng khác nhau:
- Ông bà Mã-can-di biết rõ bên trong tấm thân của con người chứa
những thứ bất-tịnh như nước tiểu, máu mủ, v.v. nên khi nghe xong lời
Phật, hai vợ chồng mới chứng được thánh-quả.
- Cô Mã-can-di-hoa vì tự-ái, nghe Phật nói thế, liền căm-giận; sự si-mê nầy cộng với tâm thù-oán khiến cô đi sâu vào con đường tà-ác.
-Phép quán thân bất-tịnh giúp ta nhận thấy rõ, thân bề ngoài có đẹp-đẽ vì trau-chuốt, còn bên trong chứa đầy chất dơ-bẩn. Đó là Sự-thật. Một khi đã biết rõ như thế, sẽ sanh ra nhàm chán việc đuổi theo các thú vui thể-xác, nhờ đó mà dứt được các dục-vọng, tiến đến sự giải-thoát cho tâm thoát khỏi mọi sự ràng-buộc.
2.- Vua Ưu-đề-na là người biết nhận lỗi khi mình làm quấy: Khi mũi tên quay ngược lại chẳng hại bà Hoàng-hậu, nhà vua liền biết ngay là bà vô-tội. Trước đó, thái-độ trầm-tĩnh của Hoàng-hậu dặn bảo các cung-nữ chẳng những chẳng đưọc oán-hận Vua, mà còn phải rãi tâm Từ đến
Vua và vương-phi. Lẽ ra, đứng trước thái-độ đó, nhà Vua phải cảm-động
mà dừng tay, nhưng vì lòng tức-giận đang nổi mạnh lên đã che mời lý-trí
của nhà vua. Nhà Vua đã tỏ ra sáng-suốt khi chăng cái bẫy ra để bắt kẻ
thủ-phạm chủ mưu đốt chết Hoàng-hậu; tuy nhiên khi trừng-trị luôn tất cả thân nhơn của bà Mã-can-di-hoa, thì cũng tàn-ác quá!
3.- Rải tâm Từ: Lòng Từ là lòng thương người, muốn cho người được an-vui. Rải tâm Từ là trong tâm an-định phát ra những tư-tưởng tốt-đẹp hướng về người mà mình muốn cho nhận được các làn sóng tư-tưởng đó. Có hai điều cần trong việc rải tâm Từ: (1) tâm phải ở trong tình-trạng an-định, nghĩa là lúc đó chỉ nghĩ đến lòng Từ mà thôi; (2) tâm phải chơn-thành và khẩn-thiết, thật-sự mong muốn cho người mình đang hướng về được mọi sự an-lành. Rải tâm Từ đến những người thân-yêu thì dễ hơn rải đến người thù-nghịch. Người biết đem lòng Từ đối-đãi với kẻ nghịch là người đã thắng hoàn-toàn được món độc: sân ( =giận-hờn).
(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ:
1.- Bài Kệ số 021: so-sánh giữa hai lối sống: buông-lung ( = phóng-dật) và tỉnh-giác. Sống buông-lung là chẳng biết tự kềm-chế, hoặc để cho tham, cho sân, lôi kéo mình đi. Chúng lôi kéo vào nẻo dữ. Còn sống tỉnh-giác, biết kềm-chế tâm, biết rõ mọi biến-chuyển của tâm, khi tham, biết tham là xấu; khi sân, biết giận thì mất khôn. Người tỉnh-giác như thế tiến theo con đường lành, sẽ chứng-đắc các đạo-quả, thoát vòng sanh-tử Luân-hồi.
2.- Bài Kệ số 022: nêu lên ích-lợi mà người tỉnh-giác được hưởng: sống an vui trong cõi Thánh, tức là được giải-thoát mọi ràng-buộc, ung-dung, thanh nhàn, chẳng phiền-muộn; trái hẳn với người buông-lung sống như người chết chưa chôn.
3.- Bài Kệ số 023: nhờ Thiền-định mà tâm thường tỉnh-giác. Nếu biết tu-tập thiền-định một cách tinh-cần, sẽ chứng-đắc được cảnh-giới an vui cuả Vô-thượng Niết-bàn.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng ba bài Kệ.
2.- Tập rải tâm Từ đến những người thân, như cha, mẹ, anh chị em.
3.- Lâu lâu, có giận ai, hãy nghĩ tới việc rải tâm Từ đến người ấy. Khi gặp lại người ấy, lòng mình sẽ nhẹ-nhàng hơn: đó là lợi lớn cho mình rồi. Cứ thấy bớt giận dai là mừng đi, vì đã thắng được cái "sân"rồi đó!
(16).- Tích chuyện người chủ ngân-hàng.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tu-viện Trúc-Lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến ông chủ ngân-hàng tên là Cung-thác-cơ.
Vào thời xa xưa ấy, thành Vương-xá bị nạn dịch, dân-chúng chết hại rất nhiều. Tại tư-gia của vị giám-đốc ngân-hàng, các đầy-tớ đều bị bịnh chết cả. Vợ chồng ông chủ cũng vướng phải bịnh dịch. Khi biết mình chẳng sống sót nổi, ông mới kêu người con trai còn nhỏ tuổi lại mà bảo trốn đi nơi xa; và
chỉ nên trở về sau một thời-gian thật lâu. Ông còn trối với con là ông
có chôn dấu một kho-tàng bốn ngàn nén vàng và chỉ chỗ cho nó sau nầy đào lên mà dùng. Đứa con vâng lời cha, trốn vào rừng sâu; mười hai năm sau, khi đã trưởng-thành, mới quay về chốn cũ.
Lúc bấy giờ, ở thành Vương-xá, chẳng ai nhận ra được chàng trai con ông chủ ngân-hàng cả, vì vóc-dáng đã to lớn, thay đổi nhiều. Cung-thác-cơ liền tìm đến nơi chôn dấu kho-tàng, thấy vẫn còn nguyên-hiện. Nhưng chàng nghĩ rằng, nếu ta đào lên lấy vàng, thì những người chung-quanh tưởng đó là của vô-thừa-nhận chôn dưới đất, sẽ tố-cáo đến quan, rồi ta sẽ bị bắt vì vi-phạm luật-lệ. Theo luật thời ấy, những của tìm ra dưới đất đều thuộc về nhà Vua. Vì thế, Cung-thác-cơ mới đi tìm nghề sanh-sống, chẳng đụng tới kho tàng. Vào nhà một nông-gia, chàng xin việc và được thâu-nhận làm người báo giờ, mỗi buổi sáng, kêu gọi mọi người thức dậy, đến giờ nấu cơm, đến giờ đem trâu bò ra cày ruộng, v.v. Chàng chăm-chỉ làm việc như thế trong một thời-gian.
Bấy giờ, Vua xứ Ma-kiệt-đà là Tần-bà-sa-la, mỗi buổi sáng nghe tiếng của Cung-thác-cơ đi rao khắp nơi, mới lấy làm lạ, nghe giọng nói như là tiếng nói của một người giàu-sang. Ngài liền cho thị-vệ ra xem, thì ra đó là một chàng trai nghèo-khổ đang đi báo thức. Nhà vua chẳng tin người nghèo khổ mà có giọng nói như thế, mới cho điều-tra. Một thị-nữ được phái đi làm công-việc nầy. Bà ta dẫn theo một dứa con gái, cải-trang thành một người du-khách lỡ độ đường, đến xin ngụ qua đêm trong trang-trại mà Cung-thúc-cơ giúp việc. Người chủ nông-trại cho phép bà và con ngụ tạm nơi túp lều của Cung-thác-cơ.
Vào độ ấy, có buổi lễ cúng-tế cho hoa mầu được tươi-tốt. Vua ra lịnh mọi người phải đóng-góp vào để mua-sắm lễ-vật. Cung-thác-cơ nghèo quá, chẳng có tiền, đành phải đến chỗ chôn dấu vàng, đào lên, lấy vài đồng tiền, rồi nhờ bà khách ngụ đem đi đóng góp phần mình cho quan. Bà thị-nữ lấy tiền riêng của mình ra đóng góp, còn hai đồng tiền vàng gởi ngay đến hoàng-cung. Bà trở về tâu sự-việc lên Vua và đề-nghị Vua cho gọi Cung-thác-cơ đến trình-diện. Cung-thác-cơ sợ-hãi, chẳng biết mình bị tội gì, nhưng sau cùng cũng đến. Đức Vua hỏi nguyên-do vì sao Cung-thác-cơ có được hai đồng tiền vàng, và Vua hứa rằng, nếu nói lên đúng sự-thật thì
chẳng hề bị bắt tội. Cung-thác-cơ liền kể lại hết sự-tình, ngày còn bé,
cha là chủ ngân-hàng, bị bịnh dịch khi chết có trối chỗ chôn vàng,
thời-gian mười hai năm trốn ở rừng sâu, nay trở về, nhưng chẳng dám đào lên để hưởng-dụng, mà phải đi làm công cho một nông-gia. Nhà Vua thấy vẻ thật-tình, cho điều-tra lại rõ-ràng, mới phong cho Cung-thác-cơ làm giám-đốc ngân-hàng của Hoàng-gia, và lại gả công-chúa cho chàng nữa.
Sau đó, trong một dịp đến đảnh-lễ Đức Phật ở tịnh-xá Trúc-Lâm, nhà Vua cho Cung-thác-cơ tháp-tùng. Nhà Vua trình lên Đức Phật sự-việc của Cung-thác-cơ, khen chàng là người biết nỗ-lực tìm lấy nghề-nghiệp để sanh-sống, hơn là nhờ vào gia-tài của cha-mẹ chôn dấu để lại.
Nhơn dịp nầy, Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Người tỉnh-giác, các căn điều-phục;
Đúng theo Chánh-pháp, cuộc mưu-sanh;
Việc làm cẩn-trọng, nhiệt-thành;
Ý, lời, hành-động cũng thanh-tịnh rồi;
Chẳng hề phóng-dật trong lối sống,
Danh-tiếng người nầy tăng-trưởng thật cao.
(Kệ số 024).
Sau khi nghe xong bài Kệ, Cung-thác-cơ chứng được quả-vị Tu-đà-huờn.
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Ngân-hàng: ngân = bạc; hàng = cửa hàng. Ngân-hàng là nhà băng
- Trúc-Lâm: trúc = cây tre, cây trúc; lâm = rừng. Tên tu-viện nầy bằng tiếng Pali là Veluvana.
- Cung-thác-cơ: tên thật bằng tiếng Pali là Kumbhaghosaka.
- Giám-đốc: giám = cai-quản, coi-sóc; đốc = đốc-thúc, điều-khiển. Giám-đốc là vị chủ, điều-khiển mọi người trong hảng.
- Bịnh dịch: bịnh truyền-nhiễm nguy-hiểm, giết chết nhiều người.
- Vô-thừa-nhận: vô = chẳng có; thừa-nhận = nhìn-nhận. Của vô-thừa-nhận là của vô-chủ, chẳng biết của ai.
- Vi-phạm: vi = làm trái với; phạm = phạm tội.
- Nông-gia: nông = nghề làm ruộng; gia = nhà. Nông-gia là người làm ruộng, trồng lúa.
- Ma-kiệt-đà: tên nước, tiếng Pali là Magadha.
- Tần-bà-sa-la: tên thật bằng tiếng Pali là Bimbisara.
- Thị-vệ: thị = người theo hầu; vệ = người theo bảo-vệ. Thị-vệ là lính theo hầu vua.
- Thị-nữ: người đàn-bà hầu-hạ trong cung vua.
- Lỡ độ-đường: đi đường quá về ban đêm, tìm chỗ ngủ.
- Trang-trại: khu vườn hay ruộng có trồng-trọt.
- Nông-trại: khu vườn, ruộng của nông-gia.
- Điều-tra: tìm các bằng chứng về sự-thật.
- Trình-diện: trình = thưa trình; diện = mặt. Trình-diện là đến ra mắt.
- Các căn: căn = gốc; nơi phát-sanh ra. Theo nghĩa chuyên-môn trong Phật-học, sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
- Điều-phục: điều = điều-khiển, sắp-xếp cho có thứ-tự; phục = chế-phục, làm chủ lấy. Điều-phục các căn có nghĩa là làm chủ các giác-quan, chẳng chạy theo cảnh-vật bên ngoài. Thí-dụ: chẳng nhìn vào chỗ chẳng đáng nhìn.
- Cuộc mưu-sanh: mưu-sanh = làm nghề để sanh-sống, nuôi thân mình và gia-đình. Mưu-sanh đúng theo Chánh-pháp, chính là Chánh-Mạng, được Đức Phật giảng trong Bát-Chánh-Đạo. Về việc chọn nghề cho đúng theo Chánh-pháp, xin xem lại ở cuối trang 45. Về Bát-Chánh-Đạo, xin xem lại cuối trang 38.
- Cẩn-trọng: cẩn = cẩn-thận, kỹ-lưỡng; trọng = chú-trọng tới.
- Nhiệt-thành: nhiệt = nóng, thành = thành-thật. Làm việc thật nhiệt-thành là làm việc rất cẩn-thận, hăng-say và thích-thú mà làm.
- Tăng-trưởng: tăng = gia-tăng, thêm lên; trưởng = lớn. Tăng-trưởng là càng ngày càng to lớn hơn. Trái với giảm-thiểu.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại đời sống cần-cù, đúng theo Chánh-pháp của một chàng thanh-niên, tuy được cha-mẹ để lại nhiều tiền-của mà chẳng tiêu-dùng, vẫn siêng-năng chọn nghề sanh-sống trong-sạch và đạo-đức. Khác hẳn với các cậu "công-tử bột" xài-phá gia-tài cha mẹ để lại, chẳng có nghề-ngỗng gì làm ăn cả.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 024:
Ý-nghĩa của bài Kệ bổ-túc ý-nghĩa của Tích-chuyện và dạy ta nên sống trong tỉnh-giác và theo đúng Chánh-pháp. Người như thế biết:
- tỉnh-giác: khi làm hay suy-nghĩ thì biết làm và nghĩ đúng;
- các căn điều-phục: giữ gìn các căn, chẳng chạy theo các thú vui vật-chất, chẳng để cho cảnh-vật bên ngoài cám-dỗ và lôi-cuốn;
- cuộc mưu-sanh đúng theo Chánh-pháp: biết chọn nghề có ích cho mình, gia-đình mình mà chẳng hại đến các chúng-sanh khác;
- việc làm cẩn-trọng, nhiệt-thành: hành-động cẩn-thận, chín-chắn và hăng-hái.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ.
2.- Phải biết chọn nghề đúng với Chánh-mạng: xem lại trang 45.
3.- Giữ sao cho BA NGHIÊP được thanh-tịnh: (1) thân làm việc đàng-hoàng (thân-nghiệp); (2) miệng nói lời chơn-chánh (khẩu-nghiệp); (3) ý suy-nghĩ chơn-thiện (ý-nghiệp). Đó là đường-lối thanh-lọc thân-tâm.
(17).- Tích chuyện Tôn-giả Tiểu-Phan-tha-ca.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tu-viện Trúc-Lâm, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Tôn-giả Tiểu-Phan-tha-ca, vị tỳ-kheo chậm hiểu mà mau quên.
Tiểu Phan-tha-ca cùng với anh là Đại Phan-tha-ca, là cháu nội của một vị giám-đốc ngân-hàng; vị nầy thường dẫn hai cháu đi nghe giảng-pháp. Về sau, Đại Phan-tha-ca gia-nhập Tăng-đoàn, chẳng bao lâu chứng được đạo-quả A-la-hán. Tiểu Phan-tha-ca cũng theo chơn anh, đi xuất-gia, nhưng vì trí thông-minh chậm lụt, học đâu quên đó, một bài kệ bốn câu, thuộc câu chót thì quên mất câu đầu. Đó là vì trong tiền-kiếp, vào thời Đức Phật Ca-diếp, Tiểu Phan đã trêu chọc một vị Tăng-nhơn ngu-tối, cho nên kiếp nầy phải sanh ra chậm hiểu mà mau quên. Anh là Đại Phan rất thất-vọng về Tiểu Phan, lại thường nói Tiểu Phan chẳng xứng-đáng làm tỳ-kheo trong Tăng-đoàn.
Vào độ ấy, có cư-sĩ Di-hoa-ca đến đảnh-lễ Phật và thỉnh Phật cùng chư Tăng về nhà để
dâng cúng thực-phẩm. Đức Phật nhận lời. Đại Phan lúc bấy giờ chịu
trách-nhiệm sắp xếp để chư Tăng đi thọ-thực. Trong danh-sách, tất cả
tăng-chúng đều được mời đi, nhưng Đại Phan lại bỏ tên của Tiểu Phan ra. Khi Tiểu Phan biết được tin ấy, liền sanh ưu-phiền, cho rằng mình chẳng xứng đáng, mới tính trở về nhà, hoàn-tục. Đức Phật đọc rõ ý-định đau-buồn đó của Tiểu Phan, mới đến gọi Tiểu Phan theo Ngài về Hương-phòng. Đức Phật lấy ra một cái khăn trắng, bảo Tiểu Phan ngồi xuống, cầm lấy khăn, mặt hướng về phương Đông, tay chà khăn, miệng đọc hai tiếng: "Lau sạch!" Sau đó, Đức Phật liền lên đường đến nhà cư-sĩ Di-hoa-ca.
Ngồi trong hương-phòng, Tiểu Phan chăm-chú làm theo lời Phật dạy, tay chà khăn, miệng đọc:’‘Lau sạch!", chẳng hề ngừng-nghỉ. Chẳng bao lâu, cái khăn trắng dính dơ, đổi thành màu ngà-ngà. Miệng vẫn đọc, tay vẫn chà, Tiểu Phạn nhận thấy sự biến-đổi của cái khăn và đồng thời trong tâm quán-tưởng được tánh-cách vô-thường của mọi vật hữu-vi. Bấy giờ, Đức Phật, từ nhà của Di-hoa-ca, đọc được tư-tưởng đó của Tiểu Phan, Ngài liền dùng thần-thông chiếu hào-quang lên và hoá hình ra ngồi trước mặt Tiểu Phan. Ngài bảo Tiểu Phan: "Chẳng phải chỉ có cái khăn bị dính bụi dơ mà thôi đâu; bên trong tâm mọi người có ba chất bẩn là tham, sân, si. Nếu biết "lau sạch" ba chất dơ đó trong tâm, thì tỳ-kheo sẽ đạt được mục-tiêu và chứng-đắc đạo-quả A-la-hán." Tiểu Phan nghe nhận được lời Phật dạy, tiếp-tục quán-tưởng, và chẳng bao lâu liền chứng-đắc quả-vị A-la-hán, gột rửa được chỗ u-tối trong tâm-trí.
Vào lúc ấy, nơi nhà cư-sĩ Di-hoa-ca đang sửa-soạn dâng thực-phẩm lên Đức Phật và tăng-chúng. Đức Phật liền lấy tay che bát lại, và nói: "Còn thiếu một tỳ-kheo, chưa được mời đến dự." Cư-sĩ vội sai người chạy đến tu-viện Trúc-lâm; rồi một lát sau, tỳ-kheo Tiểu Phan-tha-ca theo người đầy-tớ của cư-sĩ bước vào nhà. Sau khi thọ-thực xong, Đức Phật mời Tiểu Phan thuyết-pháp. Bấy giờ, Tiểu Phan với lòng đầy tự-tín, nói thao-thao bất-tuyệt, giọng như con sư-tử rống!
Khi trở về tịnh xá, chúng Tăng bày tỏ sự ngạc-nhiên, thấy Tiểu Phan thuyết-pháp rất hay, Đức Phật liền thuật lại việc Tiểu Phan đã tập-luyện với hai tiếng "Lau sạch" một cách tinh-cần, khẩn-thiết, nên đã chứng-đắc quả Thánh. Rồi Đức Phật đọc lên bài Kệ sau đây:
Bằng vào tỉnh-giác và nỗ-lực,
Giới-đức cao, điều-phục các căn;
Xem kià bực trí xây hòn đảo,
Lũ-lụt dầu to khó ngập tràn.
(Kệ số 025).
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Các tên được Việt-hoá cho dễ đọc:
Đại Phan-tha-ca: Mahàpanthaka.
Tiểu Phan-tha-ca: Cùlapanthaka. - Trung-hoa phiên-âm, đọc ra tiếng Hán-Việt là Châu-lợi-bàn-đà-già. (Mahà = lớn, Đại; Cùla = nhỏ, Tiểu)
Di-hoa-ca : Jivaka.
- Hoàn-tục: hoàn = trở về, trở lại; tục = thế-tục. Hoàn-tục là việc người đã xuất-gia đi tu rồi, nay lại bỏ tu, quay về với đời sống thế-tục.
- Hương-phòng: căn phòng riêng, có hương thơm, trong cốc của Đức Phật (cốc = túp lều nhỏ, dành cho người tu-hành tịnh-tu.) Chữ Hương-phòng dịch nghĩa tiếng Pali là Gandhakuti.
- "Lau sạch": nguyên tiếng Pali là Rajoharanam. Rajo, Raja là bụi dơ, chất bẩn; Harana là làm cho sạch; lau, tẩy cho sạch.
- Màu ngà-ngà: màu trắng đục, vì dính dơ, có lẽ vì buị và mồ-hôi tay của Tiểu Phan.
- Vô-thường: vô = chẳng có; thường = thường-hằng. Vô-thường là tánh-cách của sự biến-đổi theo thời-gian, chẳng giữ nguyên-vẹn được.
- Hữu-vi: hữu = có; vi = làm. Theo nghĩa thường thì hữu-vi là những sự-vật do tạo-tác nên mà thành; và vì do tạo-tác mà thành, nên cùng với thời gian mà bị huỷ-diệt mất; hễ có thành, thì có hoại. Theo nghĩa chuyên-môn trong Phật-học, hữu-vi là những sự-vật bị điều-kiện-hoá, nghĩa là, chịu sự thay đổi tùy theo hoàn-cảnh, tùy theo duyên-cớ. Thí-dụ như cái nhà là vật hữu-vi, do xây cất mà thành, rồi một ngày kia sẽ sụp đổ. Thí-dụ khác, thân-tâm con người là vật hữu-vi, do cha-mẹ sanh ra, sẽ có ngày chết đi.
Trái ngược với Hữu-vi là Vô-vi, tức là những sự-vật chẳng do ai tạo nên mới có, mà luôn luôn thường-hằng, thí-dụ như: Sự-thật, Hư-không.
- Quán-tưởng: suy-nghĩ sâu-xa về một đề-tài duy-nhứt, chẳng xao lãng, chẳng lo-ra.
- Thao-thao bất-tuyệt: thao-thao = nói trôi chảy, rõ-ràng, lưu-loát; bất-tuyệt = chẳng dứt.
- Như sư-tử rống: trong kinh Phật, thường nói về tài thuyết-pháp khiến cho người nghe tin-phục và vâng theo, cũng như con sư-tử rống lên muôn thú nghe đến đều sợ-hãi và tuân-phục.
- Tự-tín: tin ở tài-sức của mình, chẳng nhút-nhát.
- Nỗ-lực: ráng hết sức mình, dẹp bỏ mọi việc khác để làm cho xong được việc đang làm.
- Giới-đức: giới = các điều răn-cấm; đức = đức-hạnh, tánh-tình.
- Xây hòn đảo: ý nói tạo cho mình một nơi nương-tựa vững chắc; cũng như một hòn đảo vươn lên khỏi mặt nước vậy.
- Lũ-lụt: nước dâng tràn cao lên làm ngập tất cả.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang các ý-nghĩa sau đây:
1.- Nỗ-lực tinh-cần của Tiểu Phan khi thực-hành lời dạy của Phật: ngồi yên, tay chà khăn, miệng đọc "Lau sạch", mắt nhìn khăn, tâm chú-ý chẳng lúc nào lo-ra, chẳng lúc nào ngưng-nghỉ. Nỗ-lực tinh-chuyên nầy đưa đến sự định-tâm và nhờ đó mà trí-huệ phát sáng. Cố-giữ thân trong kỷ-luật, đó là giới; chú-ý liên-tục, đó là định. Kết-quả: đắc huệ.
2.- Cách dạy của Phật hết sức thực-tiển và có hiệu-lực phi-thường: đối với người chậm hiểu mau quên, Ngài chỉ dạy có hai tiếng: "Lau sạch" mà thôi, rồi chỉ cách điều-phục thân-tâm: tay thì chà, miệng thì đọc, tai nghe tiếng, mắt nhìn vào khăn, tức là buộc tâm phải chú-ý vào việc học. Thầy như thế, trò như thế, thảo nào chẳng đạt được kết-quả mau chóng.
3.- Từ sự quan-sát cái khăn đổi màu đến sự quán-tưởng tính-cách vô-thường của sự-vật hữu-vi: đó
là con đường thanh-lọc thân-tâm. Trong Tích chuyện chẳng thuật rõ sự
biến-chuyển ở nội-tâm của Tiểu Phan, nhưng ta có thể phỏng-đoán là nhờ
sự định-tâm mà Tiểu Phan đã đi sâu vào quán-tưởng, quét sãch được ba món độc: tham, sân, si mà Phật chỉ dạy phải lau sạch, phải dẹp bỏ.
(2).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 025:
Ngoài việc nhắc lại các đức-tánh: tỉnh-giác và nỗ-lực, bài kệ còn nói đến giới-đức và điều-phục các căn. Thường tu Thiền mà chẳng đắc định-tâm được, là vì thường ngày giữ giới lơ-là, các căn buông lung, chạy theo ngoại-cảnh.
Bài kệ ví sự thành-công của người tỉnh-giác như xây cho mình một hòn đảo vững-chắc, khiến cho lũ-lụt của ba món độc chẳng tràn ngập nổi
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài kệ.
2.- Tập chú-ý: thử nhìn vào cây nhang và xem đến bao giờ thì lại nhìn vào chỗ khác; thử hít vào và thở ra, theo dõi hơi thở, coi được mấy hơi thở.
3.- Ngay bây giờ, thử soát lại xem mình còn nhớ được mấy bài Kệ.
(18).- Tích chuyện "Hội-hè tuổi-trẻ vui-nhộn".
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến dịp lễ vui-nhộn của lũ thiếu-niên khờ.
Vào thời đó, ở nước Xá-vệ có tục-lệ của bọn thiếu-niên khờ-dại tổ-chức một tuần-lễ vui-đùa. Trong thời-gian nầy, bọn trẻ ngốc-nghếch ấy lấy tro và phân bò bôi trét lên đầu, mặt, rồi đi rong khắp cả phố-phường, hò-hét om lên. Chúng đến trước cửa nhà người ta, đứng đấy phiền-nhiễu, chờ được cho tiền mới chịu đi khỏi.
Lúc bấy giờ, các thiện-nam, tín nữ đến tu-viện trình với chư Tăng, xin đừng ra đường, và mỗi ngày họ đem thực-phẩm đến dâng-cúng các vị tỳ-kheo. Dân-chúng cũng ngại có việc rắc-rối, nên đóng cửa im-ỉm. Đến ngày thứ tám, hội-hè chấm dứt, các cư-sĩ mới đến mời Đức Phật và chư Tăng lên đường khất-thực như trước.
Khi nghe kể lại cuộc hội-hè của bọn trẻ trong tuần qua, Đức Phật bảo rằng, chỉ những kẻ ngu-khờ, dại-dột mới có thái-độ và hành-động như thế, thật đáng chê-trách. Bấy giờ, Đức Phật đọc hai bài Kệ sau đây:
Người ngốc với kẻ khờ
Sống buông-lung, vật-vờ.
Bực trí giữ tỉnh-giác,
Tợ viên ngọc trong kho.
(Kệ số 026.)
Chớ sống đời phóng-dật,
Chớ say mê dục-lạc.
Hãy thiền-định, tỉnh-giác,
Niềm vui lớn sẽ đạt.
(Kệ số 027.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Hội-hè: dịp vui có đông người tu-tập ồn-ào.
- Vui nhộn: vui nhưng quá ồn-ào.
- Khờ-dại: thiếu thông-minh, ít học.
- Ngốc-nghếch: ngu khờ, thiếu hiểu-biết.
- Phiền-nhiễu: gây bực-bội, khó chịu cho kẻ khác.
- Im-ỉm: im-lìm, chẳng mở hé cửa.
- Vật-vờ: lờ-phờ, lười-biếng, chẳng chút hăng-hái.
- Dục-lạc: dục = ham muốn; lạc = thú vui. Dục-lạc là các thú vui về vật-chất, thấp-kém.
- Niềm vui lớn: ý muốn nói đến niềm vui lâu dài, to lớn của cảnh-giới Niết-bàn.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị, kể lại phong-tục xấu xưa kia ở nước Xá-vệ về bọn trẻ khờ-dại tu-tập đông-đảo trong một tuần, gây ồn-ào và phiền-nhiễu dân-chúng. Đức Phật cho rằng hành-động của chúng là dại-khờ, chẳng biết sống theo tỉnh-giác, để đạt được niềm vui lớn hơn: Niết-Bàn.
(2) Ý-nghĩa của hai Kệ 026 và 027:
1.- Kệ số 026 chê-trách hạng người sống buông-lung và khen các bực biết tỉnh-giác: kẻ buông-lung vật-vờ, sống chẳng có mục-đích; còn người trí, biết giữ sự tỉnh-giác, cao-quí như viên bảo-ngọc trong kho.
2.- Kệ số 027 khuyên ta chớ phóng-dật và hãy chuyên-cần tu-tập thiền-định và tỉnh-giác, để đạt nguồn vui to lớn, lâu dài hơn các thú-vui vật-chất: đó là nguồn vui Vô-thượng Niết-Bàn.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng hai bài Kệ.
2.- Bớt nghe ca-nhạc, xem phim, xem truyền-hình, đã mất thời-giờ, còn khiến tâm dễ buông-lung, bị các cảnh say-mê, bạo-hành lôi-cuốn. Giới cấm thứ 8 trong Bát-quan-trai-giới là chẳng nghe hát-xướng.
(19).- Tích chuyện Tôn-giả Đại Ca-Diếp.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-cệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Tôn-giả Đại Ca-diếp.
Thuở ấy, Tôn-giả Đại Ca-diếp đang ẩn-cư nơi động Cây Tiêu và để trọn thời-giờ luyện-tập Thiền-định. Tôn-giả quán-tưởng về ánh hào-quang và cố gắng phát-triển thiên-nhãn để chiếu soi pháp-giới và xem chúng-sanh nào tỉnh-giác, chúng-sanh nào phóng-dật, chúng-sanh nào sắp chết cùng chúng-sanh nào sắp tái-sanh.
Lúc bấy giờ, Đức Phật trong cơn nhập-định tại Kỳ-viên-tự, bằng thiên-nhãn, Ngài thấy được đường-lối của Tôn-giả Đại Ca-diếp đang tu-tập. Đức Phật muốn báo cho Tôn-giả biết rằng Tôn-giả đang phí mất thời-giờ để làm công-việc quán-chiếu như trên. Ngài liền phóng hào-quang và hoá hiện ngồi ngay trước mặt Tôn-giả Đại Ca-diếp. Đức Phật bảo: "Nầy Ca-diếp, số chúng-sanh chết đi và tái-sanh lại thật là vô-lượng, ông chẳng thể đếm cho xuể được. Ông chẳng nên lo-lắng về điều ấy, vì đó là phạm-vi trách nhiệm của chư Phật."
Bấy giờ, Đức Phật liền đọc lên bài Kệ sau đây:
Bực hiền-trí lên lầu cao trí-huệ,
Bằng giác-tâm, dẹp hết tệ buông-lung.
Các ngài dứt khổ trong lòng,
Đoái nhìn đến kẻ trong vòng khổ-đau,
Như bực Thánh trên cao đỉnh núi,
Cúi nhìn xem bên dưới đồng bằng
Còn lắm phàm-phu nhọc-nhằn, dại-dột.
(Kệ số 028.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Tôn-giả Đại Ca-diếp: tên bằng tiếng Pali là Mahàkassapa. Ngài là vị Tổ thứ nhứt của Thiền-tông Ấn-độ. Trong hội Linh-sơn, một hôm Đức Phật cầm một cành hoa đưa lên trước chúng Tăng mà chẳng nói gì cả Tôn-giả Đại Ca-diếp nhìn cành hoa, lặng-lẽ mĩm cười. Đức Phật nói: "Ta nay có Chánh-pháp nhãn-tạng, trao cho Đại Ca-diếp." Câu chuyện nầy về sau thường được nhắc đến là việc "nhìn hoa mà nhận ra được Phật-tánh."
Tôn-giả Đại Ca-diếp là vị đại-đệ-tử giỏi nhứt về hạnh đầu-đà ( = tu khổ-hạnh).Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Tôn-giả cầm đầu Tăng-đoàn, và triệu-tập Kỳ Kết-tập Kinh-điển Lần Thứ Nhứt tại thành Vương-xá.
- Ẩn-cư: ẩn = ở riêng một mình nơi xa vắng; cư = ở, cư-trú, ngụ.
- Động Cây Tiêu: động = hang đá; cây Tiêu tên bằng tiếng Pali là Pipphali.
- Hào-quang: ánh-sáng rực-rỡ.
- Thiên-nhãn: thiên = Trời; nhãn = con mắt. Người tu-hành đắc được thiên-nhãn có thể nhìn thấy thật xa, thấy cả những vât bị ngăn che.
- Nhập-định: nhập = vào; định = định-lực. Nhập-định là tâm của người tu thiền đang ở trong tình-trạng vắng-lặng, chẳng bị cảnh-vật bên ngoài lôi-kéo, mà ý bên trong cũng dừng lại, chẳng trì-níu.
- Vô-lượng: vô = chẳng có; lượng = tính, đếm, cân, lường. Vô-lượng có nghĩa lààvô-số, chẳng thể đếm tính được.
- Phạm-vi trách-nhiệm: ý muốn nói đó là thuộc về phần việc riêng của chư Phật.
- Hiền-trí: hiền: lành, tốt; trí = trí-huệ, thông-minh. Theo nghĩa chuyên-môn trong Phật-học, bực Hiền là người chứng-đắc được ba quả-vị đàu-tiên của hành Thanh-văn; bực Trí là người đã chứng-đắc được trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật ( = trí-huệ giác-ngộ và giải-thoát.)
- Trí-huệ: trí thông-minh. Theo nghĩa chuyên-môn trong Phật-h sự sáng-suốt ( = Bát-nhã) đưa ta sang bờ giác-ngộ bên kia ( =ba-la-mật).
- Giác-tâm: giác = hiểu-biết thấu-đáo; tâm = lòng. Giác-tâm là tâm giác-ngộ, thấu rõ đường-lối giải-thoát khỏi cảnh sanh-tử Luân-hồi.
- Tệ: đìều xấu-tệ.
- Đoái nhìn: thương mà nhìn đến.
- Phàm-phu: phàm = thường; phu = người. Phàm-phu là người thường, chưa tu-hành. Trong Phật-học chữ phàm-phu trái với chữ Thánh.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị: Tôn-giả Đại Ca-diếp quán-tưởng về sự sanh-tử của chúng-sanh, dùng thiên-nhãn để đếm xem ai phải sanh về đâu, ai sắp chết. Đức Phật biết được tâm-trạng đó của Tôn-giả, mới khuyên Tôn-giả đừng mất thời-giờ làm công việc đó, vì chúng-sanh sanh-tử, tử sanh thật là vô-lượng, đếm sao cho xuể.
Thế thì ta phải chọn đề-tài gì để quán-tưởng? Tích chuyện chẳng thấy nói, nhưng bài Kệ chỉ rõ: dùng giác-tâm để dẹp hết sự phóng-dật và các phiền-não trong lòng.
(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 028:
Bài Kệ gợi lên hình-ảnh của bực hiền-trí đang bước lên lầu cao trí-huệ, nhìn xuống phiá dưới thấy những kẻ phàm-phu còn dại-khờ mà xót lòng thương, muốn cứu-giúp.
Ngày nay, ta thường gọi những người trí-thức cao là những bực đã đến đỉnh cao trí-huệ. Theo ý-nghĩa trong bài Kệ, bực đỉnh cao trí-huệ đã dẹp hết tất cả phiền-não trong lòng mình, nhìn thấy kẻ còn lận-đận trong vòng đau-khổ, phải thương họ, và dĩ-nhiên, phải giúp họ thoát khổ. Đó là đường-lối tự-giác và giác-tha: mình đã giác-ngộ, dẹp bỏ mọi phiền-não cùng tánh buông-lung (phóng-dật), nay đi chia-xẻ sự giác-ngộ của mình với kẻ khác.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ.
2.- Tập dẹp bỏ tật xấu phóng-dật: Xin đề-nghị vài điểm:
- Sáng sớm 5giờ rưỡi, thức dậy tập thể-thao và ngồi Thiền, muà hè cũng như mùa đông. Đừng viện cớ gì để "nằm nướng" thêm.
- Đừng gát lại ngày mai việc có thể làm ngay ngày nay: chịu khó ngồi lại viết bức thơ trả lời bạn, vì đã nhận được thơ bạn hơn mười bữa rồi. Lười viết thơ cũng là một hình-thức phóng-dật đấy!
(20).- Tích chuyện hai vị Tỳ-kheo bạn đồng-tu.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến hai vị tỳ-kheo là bạn đồng-tu, nhưng cách tu-tập lại khác nhau xa.
Vào độ ấy, hai vị tỳ-kheo đó, sau khi được Đức Phật chỉ-dạy cho mỗi người một đề-tài quán-tưởng, liền đi vào rừng sâu, để tỉnh-tu. Một vị tỳ-kheo có tánh phóng-dật, dành phần lớn thời-giờ ngồi sưởi bên đống lửa, tán chuyện gẫu với các vị tỳ-kheo trẻ tuổi khác trong suốt canh đầu của đêm, rồi sau đó nằm lăn ra ngủ. Còn vị tỳ-kheo kia rất tinh-cần, giữ đúng các bổn-phận của một vị tăng-nhơn. Vị ấy đi kinh-hành vào thời canh đầu, canh giữa thì an-nghỉ, đến canh cuối, lại thức dậy, siêng-năng hành-thiền. Nhờ tinh-tấn luyện-tập như thế, nên chẳng bao lâu vị nầy chứng-đắc được đạo-quả A-la-hán.
Đến cuối mùa mưa, chấm-dứt thời-kỳ an-cư-kiết-hạ, hai vị tỳ-kheo đều quay về Tịnh-xá Kỳ-viên để đảnh-lễ Phật. Đức Phật hỏi: " Trong mùa an-cư, các ông đã tu-hành như thế nào?" Vị tỳ-kheo lười-biếng mới bạch Phật: " Bạch Thế-tôn, anh bạn đồng-tu với con chẳng được siêng-năng cho lắm, thường bỏ phí thời-giờ, nằm lăn ra ngủ." Nhưng Đức Phật lại gạn hỏi: ‘ ‘Thế, còn ông thì sao?" Vị tỳ-kheo ấy đáp rằng ông ta thường ngồi gần bên lửa sưởi ấm vào canh đầu, rồi ngồi yên suốt cả đêm chẳng ngủ. Tuy nhiên, Đức Phật quán thấy rõ
ràng sự thật, nên bảo vị tỳ-kheo lười-biếng rằng: "Chính ông là người
lười, phóng-dật, chẳng tu-hành tinh-tấn, lại tìm cách nói xấu bạn ông,
vu cho bạn ông là người lười và phóng-dật. Ông cũng như một con ngựa
hèn, chậm-lụt, sánh thế nào được với con tuấn-mã, chạy nhanh, là người bạn đồng-tu của ông."
Rồi Đức Phật mới đọc lên bài Kệ sau đây:
Tinh-cần sống giữa người còn phóng-dật,
Tỉnh-táo bên kẻ ngủ gật triền-miên,
Bỏ sau lưng đám ngựa hèn,
Như con tuấn-mã, bực hiền phi nhanh.
(Kệ số 029.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Đề-tài quán-tưởng: đề-tài = đầu-đề, vấn-đề; quán-tưởng = suy-nghĩ sâu-xa. Đề-tài quán-tưởng là đầu-đề được đem ra suy-nghiệm trong lúc ngồi thiền; như nếu đang quán-tưởng về tấm thân bất-tịnh, thì đầu-đề là thân-thể chứa đầy chất dơ-bẩn bên trong.
- Tỉnh-tu: tỉnh = yên lặng; tu = tu. Tỉnh-tu là tu trong yên-lặng, ở nơi xa vắng, để dễ chuyên-tâm.
- Tán chuyện gẫu: nói chuyện tầm-phào cho vui, chẳng đứng-đắn.
- Canh đầu của đêm: canh = khoảng thời gian vài tiếng đồng-hồ trong một đêm. Ấn-độ chia đêm ra ba canh, canh đầu, canh giữa và canh chót. Việt-nam ta chia đêm ra làm năm canh, mỗi canh hai giờ; nửa đêm vào giờ Tí, là canh ba.
- Kinh-hành: Kinh = kinh-kệ; hành = đi. Đi hinh-hành là đi chậm chậm từng bước một, trong tâm niệm Kinh hay niệm Phật. Còn gọi là thiền-hành.
- Vu: nói phao-vu, gán tội xấu cho kẻ khác.
- Ngựa hèn: ngựa xấu, ngựa dở.
- Tuấn-mã: tuấn = đẹp, mạnh; mã = con gnựa. Tuấn-mã là ngựa hay, giỏi, chạy nhanh. Phi = bay; ở đây có nghĩa là chạy thật nhanh.
- Tinh-cần: siêng-năng, nỗ-lực và bền-chí.
- Triền-miên: chằng-chịt; ở đây, có nghĩa là ngủ lâu và nhiều quá.
- Bực Hiền: các vị tu-hành đã chứng-đắc được một trong ba quả-vị đầu-tiên của hàng Thanh-văn: Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại hai thái-độ tu-hành của hai vị tỳ-kheo đồng-tu: một vị lười-biếng, phóng-dật; một vị tinh-cần, nỗ-lực hành-thiền. Lẽ dĩ nhiên, kẻ lười đã bỏ phí thời-giờ để ngủ-nghỉ, tán gẫu; còn người tinh-cần, tu-hành đúng theo lời Phật dạy, nên sớm chứng-đắc được đạo-quả A-la-hán. Đức Phật ví người lười như con ngựa hèn, lẹt đẹt theo sau, còn người siêng-năng như con tuấn-mã chạy nhanh, bỏ lại sau đám ngựa dở.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 029:
Bài kệ số 029 nêu lên hình-ảnh của hai mẩu người: kẻ lười như con ngựa hèn, người siêng như con tuấn-mã. Cùng nhận chung một lời chỉ-dạy của Đức Phật để tỉnh-tu, một người thành-công, còn một người chẳng đắc được gì cả; chỗ khác nhau chính là nỗ-lực của từng người. Bài kệ cho thấy rõ ích-lợi của sự tinh-cần và tai-hại của sự phóng-dật.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ.
2.- Để tự mình sửa đổi lấy mình, xin đề-nghị lập một bảng, chia ra làm hai cột, một cột ghi những việc mình thường ngán chẳng thích làm, và một cột ghi những việc mình thường ham thích làm. So sánh hai cột, tự hỏi tại sao mình ngán ở cột bên nầy, và tại sao mình thích ở cột bên kia. Rồi, thử làm như thế nầy: lấy một việc ngán làm, đem làm ngay; đến khi nhớ và thèm muốn làm việc mình thích, thì dừng lại, tự nói với mình: hãy chờ trong chốc lát, mười phút chẳng hạn. Kế đó, so-sánh hai thái-độ của chính mình, lúc bắt đầu làm cái việc ngán, với thời-gian chờ-đợi để làm cái việc thích.
Nếu thấy mình hăng-hái làm việc mình ngán: tánh lười đã bị khuất-phục.
Nếu thấy mình chẳng nôn-nóng trong khi chờ, chưa làm việc mình thích: sự cám-dỗ bị đánh lui trong một thời-gian; nếu kiên-quyết thêm, thắng luôn sự cám-dỗ. Đó là một cách nhỏ để thanh-lọc tâm.
(21).- Tích chuyện Mã-Hà.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Nóc Nhọn, gần thành Tỳ-da-ly, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Mã-Hà sau tái sanh làm Vua Đế-Thích ở cõi Trời.
Vào độ ấy, có một vị hoàng-tử xứ Ly-xa, tên là Mã-hà-ly, đến nghe Đức Phật giảng kinh Đế-Thích Sở-Vấn. Đức
Phật nhắc đến tên của vị Đế-Thích một cách rất nồng-nhiệt, khiến cho
hoàng-tử Mã-hà-ly nghĩ trong bụng chắc Đức Phật đã có quen biết nhiều
với vị Thiên-chủ đó. Hoàng-tử liền bạch Phật để hỏi cho rõ. Đức Phật
đáp: "Ta biết rõ Đế-Thích và Ta cũng biết do đâu mà vị ấy trở thành Thiên-chủ Đế-Thích." Rồi đó, Đức Phật kể lại sự-tích như sau .
Thuở xưa, tại làng Ma-ca-la, có chàng thanh-niên tên là Mã-Hà. Chàng
thanh-niên nầy, cùng với ba mươi hai người bạn cùng tuổi, lo đi đắp đường, xây cầu và cất nhà tạm-trú cho khách bộ-hành. Mã-Hà còn tuân theo đúng bảy điều giới-luật trong suốt đời mình. Bảy điều ấy là:
(1) phụng-dưỡng mẹ cha, (2) kính-trọng các bực tôn-trưởng, (3) nói lời
dịu-dàng, hoà-nhã, (4) tránh phỉ-báng, vu-khống kẻ khác, (5) chẳng
rít-róng mà sẵn lòng bố-thí, (6) luôn luôn nói lên Sự-thật, (7) biết tự
kềm-chế chẳng nổi giận.
Chính nhờ những công-đức phước-thiện và đức-hạnh đẹp-đẽ đó trong đời sống ấy, nên Mã-Hà được tái-sanh thành Thiên-chủ Đế-Thích, làm vua ở cõi Trời.
Bấy giờ, Đức Phật mới nói lên bài Kệ như sau:
Tinh-cần hành thiện gắng tua,
Khiến cho Đế-Thích làm vua cõi Trời.
Tình-giác thời được lời khen ngợi,
Còn buông-lung thì mới bị chê.
(Kệ số 030.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Mã-Hà: tên thật bằng tiếng Pali là Magha.
- Chùa Nóc-Nhọn: tên thật bằng tiếng Pali là Kùtàgàra (Kùtà = nhô lên cao; agàra = nơi cư-trú).
- Tỳ-da-ly: thành-phố Vesali; phiên-âm đọc theo chữ Hán-Việt.
- Kinh Đế-Thích Sở-Vấn: Đế-Thích = Vua ở cõi Trời, tiếng Pali gọi là Sakka; sở = chỗ; vấn = hỏi. Trong bản Kinh nầy, vua Trời Đế-Thích thưa hỏi Đức Phật, tại sao có thù-hận giữa các chúng-sanh. Bản Kinh tên là Sakkapanha Suttanta, thuộc về Trường-Bộ-Kinh (Digha Nikaya).
- Mã-hà-ly: tên thật bằng tiếng Pali là Mahàli.
- Xứ Ly-xa: tên thật của xứ nầy bằng tiếng Pali là Licchavi.
- Nồng-nhiệt: nồng = nhiệt = nóng, ấm; ở đây, lời rất khen-ngợi.
- Thiên-chủ: thiên = Trời; chủ = vua, chúa. Vua cõi Trời.
- Đế-Thích: tên vị Thiên-chủ. Vị nầy còn có tên là Kiều-thi-ca.
- Vu-khống: đặt chuyện nói xấu người khác.
- Gắng tua: cố gắng, nỗ-lực.
- Buông-lung: thả lỏng, chạy theo thú vui, chẳng biết tự kềm-chế. Đồng-nghĩa với Phóng-dật. Trái nghĩa với Tinh-cần, Tinh-tấn, Siêng-năng.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại vì sao Mã-hà được sanh lên làm Vua Đế-Thích ở cõi Trời; chính nhờ vào hai việc, (1) siêng năng làm việc thiện, (2) tuân giữ bảy điều giới-luật. Làm Vua ở cõi Trời thì sung-sướng lắm, nhưng ngay tại cõi thế-gian nầy, nếu ta bắt chước theo Mã-Hà, ta cũng được sung-sướng trong lòng.
(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 030:
Bài Kệ nhắc lại Tích chuyện dưới hình-thức văn vần cho dễ nhớ. Chỗ Phật khuyên ta nên theo là làm việc lành và giữ giới-luật.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ.
2.- Tiếp-theo việc đề-nghị ở phần Học-Tập, xin đề-nghi thêm vài việc nhỏ có tầm quan-trọng lớn:
- đừng vứt rác ngoài đường: khi thấy đứa cháu ăn kẹo vứt giấy xuống, mình cúi xuống lượm, cất vào túi. Nó có hỏi, thì bảo để đem bỏ vào thùng rác. Tập cho trẻ có tánh tốt nầy rất quí.
- Đi đường, thấy có miểng chai, cúi xuống lượm bỏ vào thùng rác.
(22).- Tích chuyện một vị Tỳ-kheo.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Tỳ-kheo nhờ quán-sát ngọn lửa bùng cháy mà chứng được Đạo-tuệ.
Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo, sau khi được Phật chỉ-dạy cho một đề-tài quán-tưởng, liền rút vào rừng sâu, để hành-thiền. Mặc dầu vị ấy đã nỗ-lực chuyên-cần trong một thời-gian khá lâu, nhưng chẳng đạt được kết-quả mong-muốn. Vị ấy cảm thấy buồn lòng và chán-nản, nên mới quay trở về Kỳ-viên-tự để xin Đức Phật chỉ-dạy thêm. Trên đường về, vị ấy chợt thấy một làn khói xanh mù-mịt bốc cao lên, liền vội leo lên đỉnh núi để nhìn. Trông thấy ngọn lửa từ-từ bốc lên và lan rộng ra, vị tỳ-kheo bỗng nảy ra trong tâm ý-tưởng nầy: cũng giống như ngọn lửa kia đang thiêu-đốt hết tất cả, Đạo-tuệ sẽ tiêu-diệt mọi kết-sử, cả lớn lẫn nhỏ."
Lúc bấy giờ, tại nơi Hương-phòng ở Kỳ-viên-tự, Đức Phật đang thiền-quán, nhơn đọc được tư-tưởng của vị Tỳ-kheo đang suy-nghiệm, Ngài liền phóng hào-quang, hiện hình đứng trước mặt vị Tỳ-kheo và nói rằng: "Này Tỳ-kheo, tư-tưởng của ông đang đi đúng đường, hãy tinh-tấn tiến theo hướng đó. Tất cả chúng-sanh phải dùng Đạo-tuệ mà đốt cháy hết các kết-sử, lớn hoặc nhỏ, cũng như ngọn lửa rừng đang đốt cháy hết các lùm cây."
Rồi, Đức Phật liền nói lên bài Kệ sau đây:
Tỳ-kheo nào sợ nguy phóng-dật,
Lại an-vui, tỉnh-giác trong lòng,
Tiến nhanh như ngọn lửa hồng
Đốt thiêu kết-sử, xích-xiềng nhỏ, to.
(Kệ số 031.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Đạo-tuệ: đạo = con đường; tuệ = trí sáng-suốt nhìn thấy được ý-nghĩa sự-vật. Nói các vắn-tắt, đạo-tuệ khiến tâm ta nhìn thấy được đúng con đường tu-hành, cần làm gì, cần tránh gì, sẽ chứng-đắc được gì. Trong thiền-tông gọi đó là sơ-giác-ngộ, sự giác-ngộ ở bước đầu.
- Quán-sát: quán = nhìn vào bên trong; sát = xem xét kỹ-lưỡng. Quán-sát khác với quan-sát ở chỗ khi quán-sát, ta quay vào trong tâm mà nhìn sự biến-chuyển của tâm, còn quan-sát, thông-thường thì nhìn cảnh-vật bên ngoài.
- Xiềng-xích: sợi dây sắt trói tay, buộc chơn.
- Kết-sử: kết = kết chặt lại, ràng-buộc lại; sử = sai-khiến. Kết-sử là những tình-cảm, tư-tưởng có tánh-cách ràng-buộc và thúc-dục ta phải hành-động một cách sai-lầm. Còn được dịch là thúc-thằng, theo tiếng Pali là Sanyojana (thúc = ràng-buộc; thằng = sợi dây trói.)
Theo giáo-lý Bắc-tông, có tất cả mười kết-sử, chia ra:
- ngũ độn-sử: năm mối ràng-buộc và sai-khiến, cấp thấp, như (1) thân-kiến (chấp thân thường còn; tiếng Pali là sakkàyaditthi), (2) nghi (hồ-nghi, chẳng tin Chánh-pháp, tiếng Pali là vicikiccha), (3) giới-cấm-thủ (tin vào giới-cấm mê-tín như cúng-tế các tà-thần, tiếng pa-li là silabha taparàmàsa) (4) tham (tiếng Pali là kàmaràga và (5) sân (giận-hờn, tiếng Pali là patigha). - Tu đến bực A-na-hàm thì dứt được hết năm kết-sử nầy.
- ngũ lợi-sử: năm món ràng-buộc và sai khiến, cấp cao, như (1)sắc-ái-kết (tiếng Pali là Rùparàga, luyến-ái cảnh Sắc-giới), (2) vô-sắc-ái (tiếng Pali là Arùparàga, luyến-ái cảnh Vô-sắc-giới), (3) mạn (tiếng Pali là mano, sự kiêu-căng, khi người), (4)trạo (tiếng Pali là Uddachcha, sự giao-động, bối-rối), (5) vô-minh (tiếng Pali là Avijja, sự si-mê, ngu-tối.) - Tu đến bực A-la-hán dứt nốt năm kết-sử nầy, được hoàn-toàn giải-thoát.
Theo giáo-lý Nam-tông, cũng có mười thúc-thằng (Sanyojana), y như trong giáo-lý Bắc-tông, chia ra:
- ba thúc-thằng đầu-tiên khi diệt được, sẽ chứng quả Tu-đà-huờn;
- hai thúc-thằng kế-tiếp khi diệt được sẽ chứng quả Tư-đà-hàm;
- cả năm thúc-thằng đầu-tiên (tương-đương với ngũ độn-sử ) khi diệt xong hết, sẽ chứng quả A-na-hàm;
- bực A-la-hán diệt nốt năm thúc-thằng chót (tương-đương với ngũ lợi-sử).
Nhớ đủ 10 món thì khó, chỉ cần nhớ ba món chánh: tham, sân, si.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất đơn-sơ, thuật lại việc một tỳ-kheo vào rừng hành-thiền, có điểm còn thắc-mắc, quay về thưa hỏi Phật. Dọc đường, thấy một ngọn lửa rừng đang đốt cháy các lùm cây, bỗng nghĩ đến, nơi tâm ta, các kết-sử đang nung-nấu, thúc-đẩy ta vào con đường tà. Nếu ta biết và chứng Đạo-tuệ, thấy rõ con đường tu-hành chơn-chánh, thì với trí-huệ đó, ta sẽ dẹp tan được các kết-sử ràng-buộc kia, cũng như ngọn lửa rừng đang thiêu đốt hết các lùm cây.
Vấn-đề đặt ra cho ta là làm sao chứng được Đạo-tuệ. Đường-lối để tiến đến đó là tiếp-tục quán-tưởng, nghĩa là quay vào bên trong tâm, nhận rõ các biến-chuyển của tâm để điều-phục, để chấn-chỉnh lại theo đúng Chánh-pháp. Đó là đại-ý của lời khuyên của Phật đã dạy vị Tỳ-kheo.
(2).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 031:
Khi mình ham quá mà kịp biết mình đang tham, khi mình nổi nóng mà kịp biết mình đang giận, đó là tâm mình đang tỉnh-giác . Tâm ấy đang biết rõ sự tham, sự giận là quấy, chẳng để cho tham lôi-cuốn, chẳng để cho giận trì-kéo, đó là chận được tham, khắc-phục được giận. Do đó, nhờ sự tỉnh-giác mà tâm tạm thời phá tan được hai kết-sử tham và sân.
Nếu biết giữ tâm luôn luôn tỉnh-giác, trong lòng sẽ an-vui, nhờ đó mà tiến nhanh trên con đường đạo-hạnh. Trái lại, nếu tâm buông-lung, thì nguy-cơ của sự phóng-dật sẽ khiến cho các kết-sử nổi lên ràng-buộc, lôi-kéo, thúc-đẩy ta vào đường tà.
Biết siêng canh-chừng tâm, hằng tỉnh-giác, đó là ý-nghĩa của bài Kệ mà hai câu chót nói đến ích-lợi lớn-lao của việc diệt tan các kết-sử.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài kệ.
2.- Ôn lại cách chận cơn giận nổi lên, được bàn ở trang 15 và 16.
3.- Giới-cấm-thủ là một kết-sử thường thấy ở kẻ mê-tín: mất dao, đem nải chuối cúng Ông Địa nhờ chỉ giùm! Chớ cúng, ráng đi kiếm lấy còn hơn. Ông Địa nào, ở đâu, lại đi ăn hối-lộ như thế!
(23).- Tích chuyện Trưởng-lão Ni-ga-ma.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Trưởng-lão Ni-ga-ma là một tỳ-kheo rất biết đủ.
Tỳ-kheo Ni-ga-ma sanh trưởng tại một thành-phố nhỏ thuộc nước Xá-vệ. Khi gia-nhập Tăng-đoàn, tỳ-kheo Ni-ga-ma sống một cuộc đời hết sức giản-dị, luôn luôn biết đủ, chẳng có những ham-muốn đòi hỏi nhiều như người đời. Hằng ngày, đi khất-thực, ông thường quay về làng cũ, nơi đây thân-nhơn của ông đã chờ sẵn để cúng-dường vật-thực. Ông chẳng hề tham-dự các cuộc đại-bố-thí do Trưởng-giả Cấp-cô-độc hay Vua Ba-tư-nặc tổ-chức.
Lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ-kheo khác bàn-tán về thái-độ của Trưởng-lão Ni-ga-ma. Họ cho rằng Trưởng-lão còn giữ sự lưu-luyến đến các thân-nhơn, chưa cắt đứt được sự luyến-ái. Khi sự-việc trình lên Đức Phật, Ngài liền cho gọi Trưởng-lão Ni-ga-ma đến hầu. Đức Phật hỏi duyên-cớ
vì sao Trưởng-lão cứ khất-thực ở các nhà thân-nhơn cũ. Trưởng-lão
cung-kính bạch rằng, quả thật, Trưởng-lão có quay về làng cũ để khất-thực nơi nhà thân-nhơn; nhưng khi được đủ số cần-dùng thì thôi chẳng đi đến các nhà khác nữa. Và Trưởng-lão cũng chẳng màng được thức ngon hay vật dở, khi thọ-thực. Bấy giờ, Đức Phật thay vì khiển-trách, lại hết lời khen ngợi thái-độ và đức-hạnh của Trưởng-lão Ni-ga-ma. Hướng về các vị tỳ-kheo khác, Đức Phật khuyên nên noi gương biết đủ của Trưởng-lão Ni-ga-ma, hãy bằng lòng với những gì mình có, đừng quá đòi hỏi, đừng ham muốn nhiều, hãy sống đúng theo các nguyên-tắc mà các Đức Phật và các bực Thánh đã đặt ra. Rồi đó, Đức Phật mới kể một câu chuyện về tiền-kiếp của Ngài như sau đây.
Vào một thời xa xưa, có một con Két chúa sống trong một khu vườn cây sung, bên bờ sông Hằng, cùng với một đàn két đông-đảo. Khi ăn hết tất cả các trái sung chín, đàn két liền bay đi nơi khác tìm thức ăn, chỉ còn két-chúa ở lại mà thôi, vì két chúa sống rất đơn-giản, chẳng màng là trái chín, trái sống, hay nếu chẳng có trái thì cũng còn lá, còn cành, còn rễ, vẫn đủ để no dạ. Bấy giờ vị Thiên-chủ
Sắc-ca muốn thử lòng của Két chúa, mới dùng thần-thông làm cho cây sung
bị héo-tàn. Rồi vị Thiên-chủ cùng Hoàng-hậu biến hình thành một cặp
ngỗng, đi đến bên cây sung khô-héo, hỏi Két chúa tại sao lai còn ở mãi tại đây, chẳng bay đi nơi khác mà tìm hoa trái. Két chúa đáp: "Bởi vì tôi cảm thấy mình chẳng biết ơn cây sung nầy, nếu tôi bay đi chỗ khác. Tôi cứ ở mãi nơi đây khi mà tôi còn tìm thấy chút ít đủ để nuôi mình sống. Tôi sẽ là kẻ bạc ơn nếu tôi bỏ đi khi thấy cây đã héo."
Thiên-chủ rất cảm-động trước lời đáp chơn-thành của Két chúa, liền hiện-hình lên và múc nước sông Hằng tưới lên cây. Cây trở nên xanh-tươi, trái oằn cả nhánh.
Kết thúc câu chuyện, Đức Phật nói rằng, bực hiền-trí, dầu là súc-sanh đi nữa, luôn luôn biết đủ, rất bằng lòng với những gì mình đang có. Và Đức Phật cho biết thêm, Két chúa là tiền-thân của Đức Phật; còn Thiên-chủ Sắc-ca là tiền-thân của Tôn-giả A-nâu-lâu-đà.
Bấy giờ, Đức Phật mới đọc bài Kệ sau đây:
Tỳ-kheo nào sợ nguy phóng-dật,
Lại an-vui, tỉnh-giác trong lòng,
Chẳng hề thối-đoạ long-đong,
Niết-bàn ngưỡng cửa đã trông gần kề.
(Kệ số 032.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Ni-ga-ma: tên thật bằng tiếng Pali là Nigamavàsitissa.
- Ba-tư-nặc: tên thật bbằng tiếng Pali là Pasenadi, vua nước Câu-tát-la (Kosala) rất tôn sùng Đạo Phật, thường đến thưa hỏi với Đức Phật.
- Sắc-ca: tên bằng tiếng Pali là Sakka, Vua Đế-Thích ở cõi Trời.
- A-nâu-lâu-đà: đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca, tên thật bằng tiếng Pali là Anurudha.
-Biết đủ: dịch chữ Hán-Việt là tri-túc. Người biết đủ chẳng hề có lòng tham, vui lòng sống với những gì mình có, rất ít nhu-cầu, ít đòi hỏi.
- Đại-bố-thí: đại = lớn; bố = cùng khắp, chẳng sót; thí = cho, tặng. Đại-bố-thí là cuộc hội-lễ lớn do một người giàu-có tổ-chức, đem tiền-của, vật-thực ra hiến-tặng tất cả mọi người đến xin, kéo dài trong nhiều ngày.
- Lưu-luyến; Luyến-ái: tình-cảm quyến-luyến, rời ra chẳng dứt, tríu mến; (lưu = giữ; luyến = đeo-đuổi theo; ái = thương-mến).
- Chẳng màng: chẳng quá chú-trọng đến; xem thường.
- Thọ-thực: thọ = nhận; thực = ăn. Thọ-thực là tiếng nhà chùa để nói việc ăn uống của các người tu-hành.
- Khiển-trách: quở trách, chê, phạt.
- Bạc ơn: phụ lòng người đã giúp mình, vô-ơn, chẳng biết ơn.
- Oằn: nặng trĩu; nói về trái cây nhiều quá làm cong cả cành cây.
- Tiền-thân: tiền = trước; thân = thân hình. Tiền-thân là thân vào đời trước.
- Thối-đoạ: thối = thoái, đi lùi trở lại chỗ xấu; đoạ = rơi xuống thấp. Thối-đoạ, thoái-đoạ, là nói về người tu-hành lùi trở lại chỗ xấu, thấp; tức là sự tu-hành bị kém-cõi đi, chẳng có tiến-bộ.
- Long-đong: lo-lắng, khổ-sở, bơ-vơ.
- Niết-bàn ngưỡng cửa: Ngưỡng cửa Niết-Bàn; ý muốn nói sắp đến thời sẽ được giác-ngộ và giải-thoát, sẽ được sống trong cảnh an-nhiên, tự-tại, thường vui.
- Gần kề: kế bên, sắp tới nơi rồi.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại hai việc: (1) cuộc sống biết đủ của Trưởng-lão Ni-ga-ma, (2) tiền-thân của Đức Phật dưới thân-hình con chim Két chúa. Cả hai chuyện đều đề-cao thái-độ tri-túc trong cuộc sống, biết bằng lòng với những gì mình có, chẳng tham-cầu, chẳng đòi-hỏi, biết tiết-chế trong việc uống ăn. Người biết đủ về phương-diện vật-chất, lại thêm tinh-cần, tỉnh-giác trong lòng, thì sớm chứng được Niết-Bàn vô-thượng.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 032:
Cũng như bài Kệ số 031, bài Kệ nầy nhấn mạnh đến nỗ-lực tinh-cần tu Thiền-định, sao cho trong lòng luôn tỉnh-giác. Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày, biết hạn-chế các nhu-cầu, sẽ giúp ta tinh-tấn tu-hành, chóng chứng được cảnh an-lạc của Niết-bàn.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài kệ.
2.- Học-tập về đức-tánh "biết đủ" của Trưởng-lão Ni-ga-ma: xin đề-nghị vài việc như sau:
- ăn cơm thiếu ớt thì cảm thấy mất ngon, nhưng ớt chẳng phải là món cần-thiết để nuôi sống mình. Thiếu ớt, thì có tiêu, gừng, v.v. nhưng trong giới ăn chay phải cử năm món cay-nồng (thường gọi là ngũ vị tân: hành, hẹ, tỏi, riềng và nén, vì các chất nầy dễ khiến người sanh ra nóng tánh và hay khởi lòng dục.)
- mặc đúng thời-trang chẳng phải là điều đáng trách, nhưng quá chú-trọng đến cách phục-sức là điều cần tránh. Chẳng nên quá cầu-kỳ trong sự chưng-diện; sạch-sẽ, tươm-tất mới là điều cần-thiết đánh giá bề ngoài của con người. Tránh các màu-sắc quá loè-loẹt; giầy cao-su cũng tốt, cần chi đến áo lông cừu, da hải cẩu, vừa tiết-kiệm được tiền-bạc, vừa giữ được giới sát-sanh.
- giải-trí cần sự thanh-tịnh để tỉnh-dưỡng tinh-thần; các buổi nhạc-hội quá ồn-ào, các màn trình-diễn quá dâm-ô, chẳng những trái với đạo-lý, đã tốn tiền, tinh-thần bị đầu-độc thêm ra. Đọc sách, đi bộ tiêu-khiển, đi xe đạp, thăm viếng các cảnh chùa-chiền hay thánh-đường, du-ngoạn nơi thanh-vắng, thường làm cho tinh-thần bớt căng-thẳng.
3.- Học-tập về sự chẳng luyến-ái: luyến-ái là tình-cảm cần tránh, vì tuy bắt nguồn từ tình thương, nhưng luyến-ái khiến ta đắm-mê, bám chặt vào đối-tượng. Luyến-ái chính là một phần của sự tham-ái ( = tanha), tức là lòng mong-muốn, tham-cầu, gom về mình, rồi bám vào sự sống với các thú-vui; do đó mà bị ràng-buộc vào cảnh sanh-tử của Luân-hồi khổ-đau triền-miên. Trong Bốn Chơn-Lý Nhiệm-Mầu, khi nói đến nguyên-nhơn gây ra khổ-đau, Đức Phật đã chỉ rõ chính vì sự tham-ái mà chúng-sanh phải trôi lăn trong cảnh khổ-đau chết đi sống lại mãi mãi.
Vậy, xin tạm đề-nghị vài ba việc thường-thường: (1) bớt "cưng" con; (2) bớt "cưng" xe; và ... (3) bớt hút thuốc, nhai kẹo!
-ooOoo-