XXIV.- Phẩm THAM-ÁI.
(240).- Tích chuyện con cá vàng.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một con cá vàng rất đẹp nhưng miệng phát ra mùi hôi.
Thuở ấy, có người đánh cá bắt được một con cá vàng rất xinh đẹp, mới đem dâng cho Vua để lãnh thưởng. Đức Vua trầm-trồ khen ngợi cá đẹp đang bơi lội tung-tăng, bỗng cá trồi lên mặt nước đớp mồi, miệng mở ra, toả một mùi hôi nồng-nặc. Vua lấy làm lạ, mới đem chậu cá đến chùa Kỳ-viên, thưa hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo, cá vàng nầy, thân hình dẹp-đẽ nhưng miệng phát ra mùi hôi-thúi, vì đang chịu quả-báo của tội-ác đã làm trong tiền-kiếp. Rồi Đức Phật mới kể lại chuyện xưa như sau:
Vào thời Đức Phật Ca-diếp, có một vị tỳ-kheo tên là Ca-bi-la rất thông-suốt Tam-tạng Kinh-điển. Ỷ mình có sức học cao, tỳ-kheo Ca-bi-la thường tỏ ra khinh-mạn các bạn đồng-tu. Mỗi khi có sự tranh-luận nào về giáo-lý, Ca-bi-la khinh-khỉnh nói với người đối-thoại:
"Đạo-hữu đã hiểu-biết giáo-lý đến mức nào?", ngầm khoe kiến-thức
sâu-rộng của mình. Vào một dịp lễ Bố-tát tụng giới, trong khi các
tỳ-kheo cùng đọc giới Ba-la-đề-mộc-xoa, Ca-bi-la chẳng tụng theo, lại bảo: "Ta còn lạ gì với Luật-tạng, Kinh-tạng và Luận-tạng; các ông chỉ biết đọc vanh-vách, có hiểu được như Ta không?" Nói xong, Ca-bi-la bỏ ra ngoài. Tuy có công chỉ-dạy giáo-lý cho các tỳ-kheo khác, nhưng thái-độ khinh-mạn của Ca-bi-la đã gây khó-khăn nhiều trong việc truyền-bá Chánh-pháp. Vì tội-ác nầy, Ca-bi-la phải sa vào địa-ngục, chịu hình-phạt trong suốt thời Đức Phật Ca-diếp. Nhưng nhờ có công giảng-dạy giáo-lý, nên khi mãn hạn ở địa-ngục, được tái-sanh vào hàng súc-sanh, thành con cá vàng, có thân-hình đẹp-đẽ, nhưng miệng lại thở ra mùi hôi-thối.
Kể đến đây, Đức Phật hướng về các tỳ-kheo, bảo: "Nầy chư Tăng, đối với Chánh-pháp, chẳng những phải thông-hiểu thấu-đáo, mà còn phải thực-hành cho tinh-chuyên nữa."
Rồi Đức Phật mới nói lên bốn bài Kệ sau đây:
Nơi người sống cuộc đời phóng-dật,
Như dây leo, ái-dục tăng nhanh.
Nhảy từ đời nầy sang đến đời khác,
Như khỉ rừng ham trái cứ chuyền cành.
(Kệ số 334.)
Trên đời, người bị ngập tràn,
Lòng tham khát-ái buộc ràng khít-khao.
Ái-dục tăng mau như đám cỏ,
Gặp được mưa rào mọc tràn lan.
(Kệ số 335.)
Trên đời, người khắc-phục xong
Bụng tham khát-ái khó hòng diệt tiêu.
Ưu-sầu, phiền-muộn đều xa lánh
Như nước rơi trên cánh lá sen.
(Kệ số 336.)
Đây, điều lành Như-Lai chỉ-dạy
Cho mọi người họp tại nơi đây.
Hãy đào ái-dục ngay tận rễ
Như ngườì bứng xới rễ cỏ thơm.
Chớ để Ma-vương sớm hôm theo phá
Như giòng nước lũ ngập cả bụi lau.
(Kệ số 337.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Quả-báo: Quả = hậu-quả; Báo = báo ứng. Theo thuyết Nhơn-Quả của nhà Phật, một hành-động cố-ý làm, chẳng những mang kết-quả trong hiện-tại, mà còn gây hậu-quả về sau. Vì đã làm ác trong quá-khứ, nên nay phải chịu điều khổ-sở, đó gọi là quả-báo xấu.
- Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = các đời sống; Tiền-kiếp là các đời sống đã qua trước, trước đời hiện-tại nầy.
- Đức Phật Ca-diếp: vị Phật hiện ra thế-gian trước Đức Phật Thích-ca; tên tiếng Pali là Kassapa Buddha.
- Ca-bi-la: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Kapila.
- Tam-Tạng Kinh-điển: Tam = ba; Tạng = cái giỏ đựng kinh-sách; Tam-Tạng Kinh-điển là tất cả kinh-sách về giáo-lý, được Đức Phật giảng, ghi chép lại; gồm có (1) Luật-tạng: các giới-luật răn cấm trong Đạo (Vinaya); (2) Kinh-tạng: các bài kinh, kệ ghi lời Phật giảng-dạy (Suttanta); (3) Luận-tạng: các bài luận-giảng về Chánh-pháp (Abhidhamma). Tam-tạng, tiếng Pali là Tipitaka.
- Khinh-mạn = Khinh = chê, xem nhẹ; Mạn = tiếng Phạn là Mano, ngạo-mạn, kiêu-căng, quá tự-cao. Kẻ khinh-mạn xem thường người khác, quá tự-cao, sanh ra phách-lối trong lời nói và hành-động.
- Đối-thoại: Đối = đang ở trước mặt; Thoại = nói chuyện; Kẻ đối-thoại là người đang nói chuyện với mình.
- Kiến-thức; Kiến = thấy; Thức = biết; Kiến-thức là sự hiểu-biết.
- Lễ Bố-tát tụng giới: Lễ Bố-tát, tiếng Pali là Uposatha, cứ vào đầu tháng và giữa tháng các tỳ-kheo họp lại để đọc-tụng giới-luật, nhắc-nhở kỷ-luật tu-hành cho nhau, gọi là tụng giới.
- Giới Ba-la-đề-mộc-xoa: tiếng Pali là Pàtimokkha, dịch tiếng Hán-Việt là Biệt-giải-thoát, thường được gọi trong chùa là Giới-bổn, tức là căn-bản các giới-luật của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Pháp = pháp-tu; Phật-học gọi Chánh-pháp là giáo-lý của chính Đức Phật giảng-dạy; tiếng Pali là Dhamma.
- Điạ-ngục: Điạ = đất; Ngục = nhà giam tù. Theo kinh-sách, người phạm tội nặng khi sống, đến chết sẽ chịu hình-phạt khổ-sở lâu dài nơi điạ-ngục u-tối ở cõi âm.
- Súc-sanh: thú-vật.
- Thực-hành cho tinh-chuyên = đem lời Phật dạy ra áp-dụng trong cuộc sống tu-hành hằng ngày, cho nhuần-nhã.
- Phóng-dật = buông-lung, chẳng biết tự kềm-chế; lười-biếng.
- Dây leo: đây là loại cây cỏ quấn leo quanh cây lớn mà sống.
- Ái-dục: Ái = thích; Dục = muốn; Ái-dục là tình cảm chẳng tốt, cứ ham muốn chạy theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ và thấp-hèn.
- Khát-ái: Khát = khao-khát; Ái = mê-thích; đây dịch chữ Tanhà của tiếng Pali, còn được dịch là Tham-ái, tên Phẩm XXIV của Kinh nầy.
- Khắc-phục = thắng được.
- Ưu-sầu: Ưu = lo-lắng; Sầu = buồn-bã.
- Như-Lai: Như = như thế; Lai = đến. Đức Phật tự-xưng là Như-Lai khi nói với kẻ khác; có nghĩa là: người đã đến như thế đó) Theo Kinh Kim-cang, chữ Như-Lai được giải-nghĩa như vầy: "Chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, đó là Như-Lai". Ý-nghĩa:"Chẳng từ đâu đến" là chẳng biết nguồn-gốc, chẳng do sanh ra mới có;"Chẳng đi về đâu" là chẳng biết tương-lai sẽ như thế nào, chẳng biết khi mất sẽ về đâu. Ý-nghĩa sâu-xa: Người như thế (Như-Lai) tức là bực vô-sanh, chẳng bị tái-sanh, nên chẳng sanh ra mà cũng chẳng chết đi, cứ như thế mãi!
- Ma-vương: Vua Ma, sự cám-dỗ, xúi-dục làm điều quấy.
- Nước lũ = nước lụt, nước dâng tràn lên khắp nơi.
- Bụi lau = bụi cây lau, mọc ở ven sông như cây sậy.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại tiền-kiếp của con cá vàng, thân đẹp mà miệng thúi. Nguyên tỳ-kheo Ca-bi-la vào thời Đức Phật Ca-diếp, phách-lối vì thông-hiểu kinh-kệ, phạm lỗi ngã-mạn, khinh chê lễ Bố-tát, bị sa điạ-ngục, sau đó tái-sanh làm con cá vàng.
Khi kể lại tiền-kiếp của Ca-bi-la, Đức Phật dạy: Chánh-pháp chẳng những phải thông-suốt, mà còn phải đem áp-dụng tu-hành cho nhuần-nhã nữa: đó là ý-nghĩa của Tích chuyện, có phần nặng về luật Nhơn-Quả; hễ lấy việc tu-tập làm nhơn lành trong kiếp nầy, thì kiếp sau sẽ được hưởng quả tốt.
(2) Ý-nghĩa bốn bài Kệ số 334, 335, 336 và 337:
Ý-nghĩa chung của bốn bài Kệ nầy có liên-quan đến Luật Nhơn-Quả, do nguyên-nhơn nào mà ta phải bị tái-sanh chịu khổ trong cõi Luân-hồi: đó là do lòng Tham-ái cứ theo bám chặt, bấu-víu mãi vào các thú-vui tạm-bợ của cuộc sống.
Xin phân-tách ý-nghĩa riêng từng bài Kệ:
Bài Kệ số 334: sống phóng-dật sẽ khiến ta trôi lăn mãi
trong vòng Luân-hồi lận-đận.
1) Nơi người sống cuộc đời phóng-dật: sống buông-trôi, chẳng tu-hành, đó là nguyên-nhơn sẽ khiến ta mắc vòng Luân-hồi mãi.
2) Như dây leo, ái-dục tăng nhanh: lòng ham-muốn cứ tăng mãi tựa như ngọn cây dây leo quấn quanh thân cây to, càng ngày lá càng thêm rậm-rạp. Tại sao ái-dục tăng? Vì lười-biếng, sống buông-lung.
3) Nhảy từ đời nầy sang đến đời khác: đây là tả cảnh tái-sanh, cứ sanh sanh, tử tử mãi chẳng ngừng, trong nhiều đời kiếp: đó là quả tái-sanh của nhơn ái-dục và phóng-dật, nói ở hai câu trước.
4) Như khỉ rừng ham trái cứ chuyền cành: hình-ảnh sống-động so-sánh sự tái-sanh chẳng dứt như con khỉ rừng ham trái, cứ chuyền mãi từ cành nầy sang cành khác, chẳng thôi.
Bài Kệ số 335: Khát-ái ràng-buộc con người vào Luân-hồi.
1) Trên đời, người bị ngập tràn, Lòng tham khát-ái buộc ràng khít-khao: Ta cứ tưởng đời ta sống trong tự-do, chẳng ngờ bị ràng-buộc chặt-chẽ bởi lòng tham, bám vào các thú-vui vật-chất tạm-bợ.
2) Ái-dục tăng mau như đám cỏ, Gặp được mưa rào mọc tràn lan: hình-ảnh sống-động so-sánh sự ái-dục, ham theo dục-vọng, càng được càng muốn thêm, với đám cỏ non gặp mưa rào mọc tràn lan.
Bài Kệ số 336: dứt được Khát-ái là diệt tiêu hết phiền-não.
1) Trên đời, người khắc-phục xong, Bụng tham khát-ái khó hòng diệt tiêu: sự Khát-ái rất khó mà diệt cho tiêu, nhưng người nào khắc-phục được nó sẽ chấm-dứt được mọi phiền-não do nó gây cho mình.
2) Ưu-sầu, phiền-muộn đều xa-lánh, Như nước rơi trên cánh lá sen: hình-ảnh thơ-mộng so-sánh các ưu-phiền chẳng còn vướng bận tâm người đã khắc-phục được tham-ái, cũng như nước đổ lên lá sen!
Bài Kệ số 337: Đức Phật dạy, đào bỏ Ái-dục hết gốc rễ.
1) Đây, đìều lành Như-Lai chỉ-dạy, Cho mọi người họp tại nơi đây: đây là lời dạy quan-trọng bực nhứt của Phật, chớ xem thường.
2) Hãy đào ái-dục ngay tận rễ, Như người bứng-xới rễ cỏ thơm: phải đào-xới hết gốc rễ của Ái-dục cho tiệt hẳn, cũng như nhổ cỏ, phải nhổ sạch hết cả rễ cái, rễ con chằng-chịt.
3) Chớ để Ma-vương sớm hôm theo phá, Như giòng nước lũ ngập cả bụi lau: nhổ chưa hết gốc rễ Ái-dục, dễ bị sự cám-dỗ (của Ma-vương) lôi kéo, rồi cứ trôi lăn mãi trong vòng lẩn-quẩn khổ-đau của Luân-hồi, như nước lụt ngập tràn cả bụi lau.
(241).- Tích chuyện con heo nái.
Vào một thời kia, Đức Phật trú tại Tînh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến một con heo nái.
Thuở ấy, Đức Phật cùng chư Tăng đi khất-thực trong thành Vương-xá, bỗng Ngài mỉm cười, khi nhìn thấy một con heo nái đang ủi đất bên gốc cây. Về đến tịnh-xá, Tôn-giả A-nan thưa hỏi lý-do. Đức Phật bảo: "Nầy A-nan, ông có thấy con heo đang ủi đất dưới gốc cây bên vệ đường, lúc nảy không? Vào thời Đức Phật Câu-lưu-tôn, nó là một con gà mái, thường đứng bên hông chùa, nghe giảng Kinh, nên được tái-sanh làm một nàng công-chúa. Một hôm công-chúa đi cầu, nhìn thấy các dòi bọ nhung-nhúc bên dưới, quán-tưởng đến tấm-thân vô-thường rồi cũng bị dòi, bọ đục-khoét, mới phát tâm tu-hành. Mãn đời đó, được sanh lên cõi Trời Phạm-thiên làm thiên-nữ. Hưởng hết phước, lại vì nghiệp-báo ở tiền-kiếp, phải tái-sanh dưới thân-hình con heo nái nầy. A-nan, ông có thấy chăng, nghiệp lành và nghiệp dữ đã lôi kéo ta phải trôi lăn, lên xuống, mãi trong cõi Luân-hồi lận-đận."
Rồi Đức Phật mới nói lên sáu bài Kệ sau đây:
Như cây đốn còn gốc bền, rễ cứng
Sẽ đâm chồi mọc lại vững như xưa,
Gốc ái-dục tuỳ-miên chưa nhổ bứng,
Khổ "sanh-già-chết" cứ mãi dây-dưa.
(Kệ số 338.)
Băm-sáu dòng "ái-dục" cuồn-cuộn chảy,
Đẩy mạnh người mê vào lạc-thú.
Tư-tưởng ái-tham vùng nổi dậy,
Lôi cuốn người tà-kiến như cơn lũ.
(Kệ số 339.)
Dòng "ái-dục" chảy tràn khắp chốn
Khiến dây leo bám chặt, đâm chồi.
Thấy rõ dây leo bò lổn-ngổn,
Với "dao" trí, đoạn hết gốc ngọn.
(Kệ số 340.)
Trong chúng-sanh, niềm vui cuộn chảy
Từ lục-trần, bị ái-dục nhuốm dơ.
Cầu hạnh-phước, nhưng dục-lạc mê-mờ,
Cảnh sanh-già nên mới chịu lấy.
(Kệ số 341.)
Ái-dục bao-vây, người vùng-vẫy
Như thỏ mắc lưới nhảy loanh-quanh.
Hễ còn bị ái-dục hành,
Là còn đau-khổ tử-sanh lâu dài.
(Kệ số 342.)
Ái-dục bao vây, người vùng-vẫy
Như thỏ mắc lưới, nhảy loanh-quanh.
Ly-dục, tỳ-kheo muốn đạt thành
Ái-dục, phải mau nhiếp-phục vậy.
(Kệ số 343.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: ngôi tu-viện nầy cất trong vuờn Trúc, gần thủ-đô nước Ma-kiệt-đà (Magadha) do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) dâng-cúng lên Phật và Tăng-đoàn. Tên tiếng Pali là tu-viện Veluvana, ở thành Ràjagaha. (Tịnh = yên-vắng; xá = nhà)
- Khất-thực: Khất = đi xin; Thực = ăn. Theo giới-luật, tỳ-kheo (còn gọi là Khất-sĩ ), chẳng được phép có nghề riêng để sanh-sống, phải đi xin ăn, trước để dẹp lòng tự-ái, hạ mình xuống đi xin kẻ khác, sau là để có dịp gặp dân-chúng để chỉ-dạy cách tu-hành cho họ.
- Tôn-giả A-nan: tên người thị-giả( = hầu-cận) của Đức Phật Thích-ca, tiếng Pali là Ananda. Tôn-giả vốn là em chú-bác với Đức Phật.
- Phật Câu-lưu-tôn: vị Phật nầy là vị Phật thứ nhứt ở Hiền-kiếp; tên bằng tiếng Pali là Kakusandha Buddha.
- Tái-sanh: Tái = trở lại một lần nữa; Sanh = sanh ra. Theo thuyết Luân-hồi trong đạo Phật, chúng-sanh có nhiều đời sống, cứ sanh rồi chết đi, lại sanh nữa, mãi mãi chịu khổ-đau trong vòng Luân-hồi.
- Quán-tưởng: suy-nghĩ sâu-xa.
- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = hằng còn. Lẽ vô-thường là Chơn-lý, theo đó muôn vật có hình-tướng phải chịu sự biến-đổi mãi, để đi đến hoại-diệt, chẳng thường-còn luôn luôn được.
- Phát-tâm tu-hành: mới khởi lòng muốn tu gọi là phát-tâm.
- Trời Phạm-Thiên: cõi Trời thuộc cảnh Sơ-thiền, trong Sắc-giới.
- Thiên-nữ: Thiên = Trời; Nữ = cô gái.
- Nghiệp-báo: Nghiệp = những hành-động đã qua; Báo = báo-ứng. Theo thuyết nghiệp-báo của nhà Phật, chúng-sanh sẽ tuỳ theo hành-động đã qua và ngày nay mà chịu lấy vận-mạng mình, gọi là chịu nghiệp-báo. Hễ làm lành, được nghiệp lành, sanh vào nơi sung-sướng; còn làm ác, có nghiệp dữ, sẽ đầu-thai vào nơi khổ-sở.
- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo thuyết nhà Phật, chúng-sanh cứ sanh ra, rối chết đi, rồi theo nghiệp-báo tái sanh lại, để rồi lại chết nữa, cứ như thế mãi, cũng như bánh xe cứ lăn tròn vòng.
- Kệ: bài thơ ngắn, tóm-tắt lời giảng của Đức Phật.
- Ái-dục: Ái = thích, thương; Dục = ham-muốn. Ái-dục là tình-cảm thèm-khát, ham muốn theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ ở đời. Tiếng Pali là Tanhà, còn được dịch là Tham-ái.
- Tuỳ-miên: đang ngủ, nằm sẵn đấy chờ cơ-hội sẽ nổi lên.
- Băm sáu dòng ái-dục: ba mươi sáu dòng ái-dục, 36 thứ ham-muốn, bám-víu. Tại sao có đến 36 dòng ái-dục? Vì ái-dục:
- sanh ra từ sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý: ... ... 6 dòng
- bám-víu vào sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp: ... 6 dòng
- khởi lên trong ba thời: quá-khứ, hiện-tại vị-lai: ... ... ... x 3 thời
Tổng cộng lại: (6 + 6) x 3 = 36 dòng ái-dục.
- Lạc-thú: Lạc = vui. Lạc-thú là thú vui.
- Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo, chẳng đúng; Kiến = ý-kiến. Có hai tà-kiến quan-trọng: (1) thường-kiến: cho rằng chúng-sanh có linh-hồn bất-biến, thường-còn, hễ đã sanh làm người rồi thì chẳng tái-sanh làm thú -vật đuợc; (2) đoạn-kiến: cho rằng chết là hết, chỉ có đời nầy thôi
- Cơn lũ = cơn lụt-lội, nước dâng cao ngập tràn khắp nơi.
- Dây leo: loài cây thân như dây leo quấn vào thân cây khác.
- Dao trí: ví Trí-huệ như con dao bén, cắt đứt được hết phiền-não
- Lục-trần: sáu trần, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
- Bị ái-dục hành: bị ái-dục hành-hạ, bị sự thèm-khát thúc-đẩy.
- Ly-dục: Ly = lià xa; Dục = ham muốn.
- Nhiếp-phục:: khuất-phục, kềm-chế, lấy lại quyền làm chủ.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại tiền-kiếp của một con heo nái, trôi lăn trong vòng
lẩn-quẩn của Luân-hồi. Trong một kiếp trước, vốn là một con gà mái,
biết nghe kinh; sau sanh làm công-chúa, phát-tâm tu-hành, nên được sanh lên cõi Trời; rồi vì hết phước và phải chịu nghiệp-báo mới tái-sanh vào hàng súc-sanh, mang thân heo. Khi kể lại tiền-kiếp đó, Đức Phật dạy, phải tu để dứt nghiệp mới thoát khỏi vòng Luân-hồi.
(2) Ý-nghĩa của sáu bài Kệ, từ số 338 đến số 343:
Cả sáu bài Kệ đều nói về nguyên-nhơn gây đau-khổ cho chúng-sanh trôi lăn trong Luân-hồi chính là ái-dục và khuyên ta nên đào-bứng hết gốc-rễ của lòng ham-muốn chạy theo thú-vui tạm-bợ ở đời.
Xin phân-tách để tìm ý-nghĩa riêng từng bài:
Kệ số 338: gốc ái-dục nhổ chưa hết rễ, còn chịu khổ dây-dưa.
1) "Như cây đốn còn gốc bền, rễ cứng, Sẽ đâm chồi mọc lại vững như xưa": gốc còn rễ là còn mầm sống, đâm chồi trở lại, cũng như còn luyến-tiếc là chưa dứt bỏ được ái-dục (tham muốn);
2) "Gốc ái-dục tùy-miên chưa nhổ bứng, Khổ ‘sanh-già-chết’ cứ mãi dây-dưa": ‘Tuỳ-miên’ là còn đang ngủ đó, chưa chết đâu; hễ còn ái-dục là còn phải tái-sanh, do đó còn phải chịu mãi cảnh khổ sanh, già, bịnh, chết trong cõi Luân-hồi.
Kệ số 339: sức lôi-cuốn của ái-dục mạnh-mẽ như cơn lũ-lụt.
1) "Băm-sáu dòng ái-dục cuồn-cuộn chảy, Đẩy mạnh người mê vào lạc thú": sáu căn bấu-víu vào sáu trần qua ba thời quá-khứ, hiện-tại và vị-lai, tạo nên sức mạnh xô-đẩy người mê đi tìm thú-vui tạm-bợ
2) "Tư-tưởng ái-tham vùng nổi dậy, Lôi cuốn người tà-kiến như cơn lũ": vì sáu căn kẹt vào sáu trần khiến tà-kiến bên trong tâm nổi dậy, lôi-cuốn người mê chẳng khác nào cơn lụt to tràn ngập khắp nơi.
Kệ số 340: dùng ‘dao’ Trí-huệ cắt đứt hết gốc ngọn của ái-dục
1) "Dòng ái-dục chảy tràn khắp chốn, Khiến dây leo bám chặt, đâm chồi.": sức mạnh của ái-dục khiến cho sự bấu-víu của căn-trần càng chặt-chẽ, như dây leo đâm chồi, mọc lá, bám quanh thân cây;
2) "Thấy rõ dây leo bò lổn-ngổn, Với ‘dao’ Trí đoạn hết gốc ngọn": NhờTrí-huệ soi sáng thấy ái-dục bám-víu như các dây leo bò lổn-ngổn, liền chặt đứt, liền đoạn hết cả gốc rễ của sự tham-luyến. Nói cách khác, nhờ tỉnh-giác, thắp sáng lên đuốc Tuệ, vung gươm Trí lên mà cắt đứt được ái-dục.
Kệ số 341: lạc-thú ở đời bị ái-dục nhuốm dơ, nên phải chịu khổ
1) "Trong chúng-sanh, niềm vui cuộn chảy, Từ lục-trần, bị ái-dục nhuốm dơ": Cuộc sống trong Luân-hồi khổ nhiều sướng ít, nhưng vẫn có niềm vui; tiếc thay, nguồn vui sống đó vì các căn bám-víu vào các trần, nên bị ái-dục làm nhiễm dơ;
2) "Cầu hạnh-phước, nhưng dục-lạc mê-mờ": việc tìm cầu hạnh-phước trong cuộc sống là đìều chánh-đáng, nhưng tiếc thay, con người lại bị mê-mờ vì quá tham muốn các dục-lạc, các thú-vui vật-chất thấp-hèn và tạm bợ, nên phải khổ;
3) "Cảnh sanh-già nên mới chịu lấy": vì cố bám chặt vào các dục-lạc vật-chất còn chưa được thỏa-mãn hết, nên cứ mãi chịu cảnh khổ của sanh-già-bịnh-chết.
Kệ số 342: còn chưa thoát lưới ái-dục là còn chịu khổ tử-sanh.
1) "Ái-dục bao vây, người vùng-vẫy, Như thỏ mắc lưới, nhảy loanh-quanh": con người bị ái-dục bao vây nào khác chi con thỏ bị mắc lưới, cố vùng-vẫy mà chẳng thoát ra được. Tại sao? Vì còn tiếc.
2) "Hễ còn bị ái-dục hành, là còn đau khổ tử-sanh lâu dài": Ái-dục hành-hạ con người bằng cách thúc-đẩy chạy theo các thú-vui vật-chất quá tầm tay, chẳng được thoả-mãn nên chẳng những khổ trong hiện-đời, mà còn phải trôi-lăn mãi trong cảnh sống-chết của Luân-hồi.
Kệ số 343: muốn ly-dục hoàn-toàn, tỳ-kheo phải diệt ái-dục.
1) Hai câu đầu nhắc lại thí-dụ thỏ mắc lưới ở bài Kệ 342 trước.
2) "Ly-dục, tỳ-kheo muốn đạt thành, Ái-dục, phải mau nhiếp-phục vậy": đạt thành bực ly-dục là chứng quả A-la-hán vô-sanh, căn bản tu-tập là phải mau diệt ái-dục, dẹp bỏ hẳn sự tríu-mến, luyến-tiếc.
(242).- Tích chuyện tên trộm bị xử tử.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Tînh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một tên trộm bị xử tử-hình.
Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo làm đệ-tử cho Tôn-giả Đại Ca-diếp, tu-tập đắc được bốn cảnh Thiền. Một hôm trong khi đi khất-thực tại nhà người chú, thấy một người đàn-bà, người ấy sanh lòng thương-yêu muốn cưới, mới xin hoàn-tục. Sau khi rời Tăng-đoàn, vị ấy trở về nếp sống của thường-nhơn, nhưng chẳng biết làm nghề chi để sanh-nhai. Bị đuổi ra khỏi nhà, người ấy đi lang-thang một dạo, rồi kết bè với bọn trộm. Chẳng may, cả bọn bị bắt và bị lên án tử-hình.
Trên đường bị dẫn ra nghĩa-điạ để chém đầu, vị cựu-tỳ-kheo gặp được Tôn-giả Đại Ca-diếp. Tôn-giả trông thấy người đệ-tử cũ sắp bị hành-hình, mới dạy rằng: "Nầy đệ-tử, con phải nên tập-trung tư-tưởng ngay để quán-chiếu về lẽ thân-tâm vô-thường." Vị cựu-tỳ-kheo vâng lời, liền khẩn-thiết quán-tưởng. Trong khi các người đao-phủ lo dọn-dẹp pháp-trường để hành-quyết thì vị cựu-tỳ-kheo đã nhập định, gương mặt tươi-tỉnh, chẳng có chút gì lo-sợ như các tội-nhơn khác đang kêu khóc. Dân-chúng rất ngạc-nhiên và các đao-phủ dừng đao lại, chẳng dám chém vị cựu-tỳ-kheo. Họ trở về trình lại, đức Vua liền ra lịnh tha tội và sai dẫn vị ấy đến gặp Đức Phật. Đức Phật liền đọc bài Kệ sau đây:
Lià rừng ‘ái’, hướng đến rừng ‘tu’
Bỏ rừng ‘tu’, trở lại nhà nầy.
Xuất-gia hoàn-tục xem đây,
Như người cổi trói lấy dây buộc mình.
(Kệ số 344.)
Sau khi lắng nghe bài Kệ, tâm vị cựu-tỳ-kheo quán-chiếu tánh-cách vô-thường, bất-toại-nguyện và vô-ngã của thân-tâm năm uẩn nầy, nên chứng được quả-vị Tu-đà-huờn. Khi được tự-do khỏi tội, vị ấy liền xin phép thọ-giới tỳ-kheo trở lại, và tinh-tấn tu-tập, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán.
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: ngôi chùa nầy cất trong vườn trúc, được vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) dâng cúng Đức Phật, gần thủ-đô Ràjagaha nước Ma-kiệt-đà (Magadha). Tiếng Pali: Veluvana.
- Tử-hình: Tử = chết, Hình = hình-phạt; Tử-hình là xử tội chết.
- Tôn-giả Đại Ca-diếp = vị đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, giỏi bực nhứt về hạnh đầu-đà; tên tiếng Pali là Mahà Kassapa.
- Bốn cảnh Thiền: tu Thiền lần-lượt chứng được sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền và tứ-thiền.
- Hoàn-tục: Hoàn = trở lại; Tục = thế-tục, đời sống thường; Hoàn-tục là nói đến các vị ty-kheo rời chùa trở lại đời sống cũ với gia-đình.
- Hành-hình = đem ra xử tội; ở đây là đem chém đầu.
-Tập-trung tư-tưởng: gom ý lại, chú tâm vào một điểm duy-nhứt.
- Thân-tâm vô-thường: thân-tâm nầy chẳng thường còn mãi, sẽ bị hư-hoại, chết đi. Ở đây, biết đệ-tử mình sắp bị xử chém, Tôn-giả dạy như thế là để cho đệ-tử khỏi lo-sợ trước khi chết.
- Khẩn-thiết: Khẩn = gấp;Thiết = tha-thiết. Ở đây là cố làm hết sức.
- Đao-phủ: người cầm đao chém đầu tội-nhơn.
- Nhập Định: Nhập = vào; Định = an-ổn, ở yên. Khi tu Thiền, tâm dừng lại, chú vào đề-tài quán-tưởng, chẳng lo ra, chẳng bị cảnh bên ngoài lôi-cuốn nữa, đó là đang nhập định.
- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là rời nhà đi tu.
- Vô-thường: chẳng thường-còn, bị biến-đổi để rồi hư-hoại mất.
- Bất-toại-nguyện: Bất = chẳng; Toại = vừa-ý; Nguyện = mong cầu. Tánh-cách bất-toại-nguyện là chẳng đem lại sự vừa-ý mong-muốn.
- Vô-ngã: Vô = chẳng; Ngã = Ta. Tánh-cách vô-ngã là chẳng có Ta, chẳng có chủ-thể, chẳng có linh-hồn bất-diệt ở nơi thân nầy cả.
- Thân-tâm năm uẩn = Năm uẩn là: (1)sắc-uẩn, thân thể-xác; (2)thọ-uẩn, các cảm-thọ; (3)tưởng-uẩn, các tư-tưởng; (4)hành-uẩn, các hành-động; (5) thức-uẩn, các hiểu-biết. Sắc-uẩn là thân; bốn uẩn còn lại là tâm.
- Tu-đà-huờn: quả-vị đầu-tiên, còn gọi là Nhập-lưu (gia nhập vào dòng Thánh), hay Thất-lai (chỉ còn tái-sanh bảy lần nữa thì nhập Niết-bàn). Tiếng Pali là Sotàpatti.
- Thọ-giới tỳ-kheo: làm lễ nhận tuân theo 250 giới của tỳ-kheo.
- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, chẳng còn tái-sanh nữa, dứt được Luân-hồi, chứng-đắc Niết-bàn. Tiếng Pali là Arahant.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo hoàn-tục, theo bọn bất-lương đi ăn trộm, bị bắt và kết tội tử-hình. Trên đường ra pháp-trường, người ấy gặp Tôn-giả Đại-Ca-diếp là thầy cũ dạy đạo. Tôn-giả khuyên người đệ-tử phải chí-tâm quán-tưởng thân-tâm vô-thường. Nhờ biết nghe lời thầy, khẩn-thiết hành Thiền ngay lúc ấy, nên vị cựu-tỳ-kheo trở nên bình-thản, gương mặt tươi-tỉnh, chẳng chút lo-sợ. Bọn đao-phủ ngạc-nhiên, chẳng dám chém, trình lại Vua. Vua ra lịnh dẫn đến gặp Phật. Nghe lời Phật dạy, vị ấy trở lại thọ-giới tỳ-kheo, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán.
Ý-nghĩa Tích chuyện là đã đi tu là chọn con đường giải-thoát, mà lại hoàn-tục, đó cũng như người được cổi trói rồi, nay lại lấy dây tự buộc mình lần nữa.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 344:
Ý-nghĩa của bài Kệ: đi tu là đang được giải-thoát; còn hoàn-tục là đang được cởi trói, mà lấy dây ra buộc mình lại.
Xin phân-tách từng câu của bài Kệ:
1) "Lià rừng ‘ái’, hướng đến rừng tu": Lìa rừng tham-ái là lià đời sống thế-tục đầy tham-ái, dục-vọng và ràng-buộc, tức là xuất-gia; hướng đến rừng tu là bước vào con đường tu-tập, để được giác-ngộ và giải-thoát.
2) "Bỏ rừng tu, trở lại nhà nầy": Rời bỏ nơi đang tu-hành yên-tịnh mà trở lại căn nhà phiền-não ồn-ào trước kia, tức là hoàn-tục.
3) "Xuất-gia, hoàn-tục, xem đây, Như người cổi trói lấy dây buộc mình": Người xuất-gia là người được cổi trói. Ai đã trói? Vợ, con, gia-đình ràng-buộc. Cái gì đã trói? Các thú-vui vật-chất trong đời sống thế-tục, cảnh tranh-đấu vì tiền-tài, sự-nghiệp, danh-vọng đang trói. Đã được cổi các sợi dây ràng-buộc rồi, nay quay về chốn cũ để tự trói mình lần nữa, đó là hành-động thiếu suy-xét, rất đáng tiếc.
(243).- Tích chuyện các người tù bị xiềng-xích.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các người tù bị xiềng-xích.
Thuở ấy, có ba mươi vị tỳ-kheo đi khất-thực trong thành Xá-vệ, trông thấy một đoàn người tù-tội tay bị còng, chơn bị xích được dẫn đi ngang qua hàng phố. Lúc về chùa, khi trình lên Đức Phật các điều đã
trông thấy buổi sáng, có một vị tỳ-kheo thưa với Phật: "Bạch Thế-tôn,
chẳng biết còn có vật nào trói buộc bền-chặt hơn còng, xiềng hay xích
nữa chăng?" Đức Phật đáp: ‘Nầy chư tỳ-kheo, xiềng xích bằng sắt đó trói buộc còn chưa chặt chẽ bằng khát-vọng về thực-phẩm, về y-phục, về tài-sản, về gia-đình. Tham-ái kềm-kẹp con người nặng-nề gấp trăm, gấp ngàn lần xiềng, xích sắt. Cho nên, người hiền-trí mới cắt đứt tham-ái, rời xa căn nhà phiền-não mà gia-nhập Tăng-đoàn.
Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:
Xiềng bằng sắt, bằng gỗ, bằng gai,
Người trí bảo, chưa dai, chưa bền.
Luyến-lưu con thảo, vợ hiền,
Ngọc-ngà, trang-sức là xiềng chặt hơn.
(Kệ số 345.)
Ràng-buộc đó thật bền, người trí bảo,
Tuy mềm, nhưng trì nặng, thật khó tháo.
Bực hiền-trí dứt xong bao kiềm-toả,
Dục-lạc khước-từ, thoát khổ thế-gian.
(Kệ số 346.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Xiềng, xích: sợi dây, thường bằng sắt, để cột trói.
- Còng = cái khoá kẹp hai bàn tay chập lại nhau.
- Khát-vọng = ham-muốn nhiều; đòi cho được.
- Tham-ái = ham-muốn, thương-thích, tríu-mến đến quá mức.
- Tăng-đoàn: nhóm tu-sĩ Phật-giáo từ bốn người trở lên.
- Xiềng bằng gai = xiềng làm bằng dây gai (cây gai giống như cây bố, vỏ cây dùng dệt bao tải đựng lúa gạo.)
- Hiền-trí = người tánh hiền-lành và có trí-huệ thông-minh.
- Kiềm-tỏa: Kiềm = cây kềm;Toả = ống khoá. Nghĩa bóng: trói buộc.
- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui; Dục-lạc là ham sự vui-thú.
- Khước-từ = từ-chối, từ bỏ, lià xa.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất đơn-sơ, thấy các người tù bị còng tay, xích chơn đi ngang qua, vị tỳ-kheo hỏi Phật, có vật trói buộc nào còn chặt-chẽ hơn xiềng, xích chăng. Đức Phật đáp, sự tham-ái, mê-luyến tài-sản và gia-đình ràng-buộc con người còn nặng-nề hơn gấp trăm ngàn lần.
Ý-nghĩa của Tích chuyện khuyên ta nên sớm cắt đứt sự tham-ái, khước-từ mọi ham-muốn để chọn con đường tu-hành giác-ngộ và giải-thoát.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 345 và 346:
Hai bài Kệ nhập chung lại thành một bài dạy ta phải sớm cắt-đứt sự tham-ái, tríu-mến bên trong tâm ta, ràng-buộc chặt hơn xiềng-xích.
1) "Xiềng bằng sắt, bằng gỗ, bằng gai, Người trí bảo, chưa dai, chưa bền": các loại xiềng-xích bằng sắt, bằng gỗ, hay bằng dây gai còn chưa bền, chưa dai, vì còn có thể tháo ra được.
2) "Luyến-lưu con thảo, vợ hiền, Ngọc-ngà, trang-sức là xiềng chặt hơn": Thương con thảo, mến vợ hiền, quí tài-sản, đó là điều chánh-đáng; nhưng thương-mến đến mức quá tưng-tiu, chiều-chuộng, giữ bo-bo, đó là điều sai-lầm khiến ta trở thành nô-lệ mà chẳng hay biết; vì chẳng hay-biết mình đang bị ràng-buộc, nên sự ràng-buộc mới bền, mới dai, chẳng hề nghĩ đến lúc nào nên tháo-gỡ ra.
3)"Ràng-buộc đó thật bền, tuy mềm, nhưng trì nặng, khó tháo": sự luyến-ái vì quá êm-dịu nên chính mình chẳng chịu tháo-gỡ ra, cho nên sức ràng-buộc của nó tuy mềm nhưng trì nặng, đeo-đẳng mãi.
4) "Bực hiền-trí dứt xong bao phiền-não, Dục-lạc khước-từ, thoát khổ thế-gian": đây là bực chứng quả A-la-hán ly-dục (dứt mọi phiền-não, dục-vọng), thoát được khổ bị tái-sanh ở cõi Luân-hồi, hoàn-toàn giải-thoát, sống an-vui trong cảnh Niết-bàn vắng-lặng.
(244).- Tích chuyện Hoàng-hậu Khê-ma.
Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (122) về công-chúa Gia-nhã-ba.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến hoàng-hậu Khê-ma.
Bà Khê-ma là hoàng-hậu của vua Tần-bà-sa-la, nước Ma-kiệt-đà, rất hãnh-diện về nhan-sắc tuyệt đẹp của bà. Đức Vua muốn mời hoàng-hậu đến viếng Tịnh-xá Trúc-lâm và đảnh-lễ Đức Phật. Nhưng hoàng-hậu nghe nói Đức Phật thường chẳng khen-ngợi về sắc-đẹp, nên
bà tránh né chẳng muốn gặp Phật. Vua sai các nhạc-sĩ tấu-nhạc lên
ca-tụng cảnh-trí thanh-vắng và thơ-mộng của Tịnh-xá Trúc-lâm, khiến cho
hoàng-hậu mê-thích, mới cùng đức Vua lên đường đến lễ Phật. Bấy giờ, Đức Phật đang giảng pháp. Ngài nhìn thấy bà Khê-ma, biết rõ tâm-trạng hãnh-dện sắc-đẹp của bà, nên mới dùng thần-thông biến ra một cô thiếu-nữ trẻ, xinh-tươi lộng-lẫy, ngồi quạt hầu sau lưng Đức Phật. Chỉ riêng
có hoàng-hậu mới nom ra cô thiếu-nữ, hoàng-hậu càng ngắm, càng nhận ra
nhan-sắc của mình thua xa cô ấy. Bỗng, cô gái biến thành một người
thiếu-phụ trung-niên với mấy sợi tóc bạc phất-phơ trên trán. Chẳng mấy
chốc, người thiếu-phụ lại khòm lưng, tay cầm quạt chẳng muốn nổi, nét nhăn trên da mặt trông như một cụ-già. Ô kià, cụ già đó lại ngã lăn ra chết, rồi thân-thể sình chướng lên, dòi bọ đục-khoét để lộ xương trắng-hếu. Vừa lúc đó, bài pháp của Đức Phật cũng chấm-dứt. Tâm-trạng của hoàng-hậu biến-đổi nhanh-chóng, từ sự mê-luyến tấm thân đẹp-đẽ, chuyển sang sự ngao-ngán thấy nhan-sắc tàn-phai quá mau lẹ, lẽ vô-thường sớm đưa đến sự hoại-diệt của thân-tâm. Đức Phật soi thấy rõ tâm-trạng đó của hoàng-hậu, mới nói tiếp: "Nầy Hoàng-hậu, Hoàng-hậu có nhìn thấy nhan-sắc lộng-lẫy kia chẳng mấy chốc đã biến thành một đống xương trắng, để nhận ra lẽ vô-thường của thân-tâm không? Mê-luyến nhan-sắc chẳng bền-vững kia chỉ khéo kéo ta vào khổ-đau của Luân-hồi."
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó hoàng-hậu Khê-ma chứng được quả Tu-đà-huờn, về sau thọ-giới tỳ-kheo-ni và được Phật mời cầm đầu Ni-đoàn:
Người mê dục-lạc rơi trở vào dòng,
Như nhện chăng tơ lọt vào lưới nó.
Bực hiền-trí, ái-tham đều cắt bỏ,
Thoát mọi ưu-phiền, cất bước thong-dong.
(Kệ số 347,)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Khê-ma: tên tiếng Pali là Khemà; Tần-bà-sa-la = Bimbisara.
-Trúc-lâm = Veluvana; Vương-xá = Ràjagaha; Ma-kiệt-đà = Magadha.
- Tâm-trạng = những gì đang xảy ra bên trong tâm của một người
- Thần-thông = khả-năng mầu-nhiệm, do định-lực tu-hành cao.
- Trung-niên: tuổi trung-bình khoảng bốn, năm mươi; sồn-sồn.
- Vô-thường: chẳng bền, hay biến-đổi, để đi đến tiêu-diệt.
-Tu-đà-huờn: quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-lưu hay Thất-lai, tiếng Pali là Sotàpatti
-Ni-đoàn: đoàn-thể nữ-tu-sĩ Phật-giáo. Ni = tỳ-kheo-ni = Bhikkhuni
- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui. Dục-lạc chỉ thú-vui thấp.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Nhờ trông thấy sắc đẹp một cô thiếu-nữ chóng tàn-phai, trở thành một cụ-già lụm-cụm rồi lăn ra chết, Hoàng-hậu Khê-ma sớm thức-tỉnh. Bà nghe lời khuyên của Đức Phật, lìa bỏ sự tham-luyến vào thân-tâm vô-thường, gia-nhập Ni-đoàn, thoát khỏi cảnh khổ Luân-hồi.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 347:
Bài Kệ khuyên ta sớm cắt bỏ sự ái-dục để chọn đường giải-thoát.
1) "Người mê dục-lạc rơi trở vào dòng": Vì ham thú-vui vật-chất, tạm-bợ, ta lọt trở lại vào dòng khát-ái từ trong tâm ta chảy ra.
2) "Như nhện chăng tơ lọt vào lưới nó": ta bị chính tham-ái của ta kéo vào cảnh khổ, nào khác chi nhện kia lọt vào lưới của nó.
3)"Bực hiền-trí, ái-tham đều cắt bỏ, Thoát mọi ưu-phiền, cất bước thong-dong": đây
là bực tu-hành đã chứng được quả-vị A-la-hán: mọi ái-tham cắt-đứt, mọi
phiền-não dứt sạch, mọi chướng-ngại vượt qua, thoát khỏi cảnh tái-sanh
trôi-lăn trong vòng Luân-hồi, nay được thong-dong, tự-tại trong cảnh-giới Niết-bàn an-vui, vắng-lặng.
(245).- Tích chuyện người diễn trò nhào-lộn.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến chàng Úc-ga diễn trò nhào-lộn.
Thuở ấy, có một đoàn hát xiệc đến trình-diễn ở thành Vương-xá trong bảy ngày. Đủ bảy ngày, chàng Úc-ga, con nhà giàu-có, đều theo coi, lòng mê-tít nhan-sắc của cô gái trẻ-đẹp có tài nhào-lộn trên đầu ngọn tre cao gần mười thước. Chàng xin cưới nàng, và bỏ nhà theo gánh xiệc. Vì chẳng có nghề gì để sanh-sống, Úc-gia xin làm phu khuân-vác đồ-đạc, đẩy xe cho đoàn hát. Năm sau, sanh được một đứa con trai, vợ chàng thường hát ru con ngủ:
Con ơi, con ngủ cho say,
Cha con ngu-dốt cả ngày đẩy xe.
Chẳng tài, chẳng học, chẳng nghề.
Lớn lên, con chớ theo bề cha con.
Mỗi khi nghe giọng ru con của vợ, Úc-gia rất hỗ-thẹn, mới xin người
cha vợ dạy cho nghề nhào-lộn. Chẳng bao lâu, học-hành có tấn-bộ, Úc-gia
trình-diễn cũng được nhiều người hoan-hô.
Một hôm, Úc-gia đang nhún-nhẩy trên ngọn sào tre, dân-chúng vỗ tay tán-thưởng, thì đoàn khất-sĩ của Đức Phật đi đến. Mọi người tranh nhau đảnh-lễ Phật, chẳng ai màng nhìn tiếp trò nhào-lộn. Đứng trên ngọn sào, lòng Úc-gia chán-nãn, nhưng tai lại nghe lời Đức Phật đang nói văng-vẳng bên dưới: "Nầy chư thiện-nam, tín-nữ, chớ tham-luyến vào thân-tâm năm uẩn, hãy mau mau tìm lối thoát khỏi vòng tử-sanh lận-đận của Luân-hồi."
Rồi Đức Phật lại nói lên bài Kệ sau đây, khiến cho Úc-gia thức-tỉnh, sau đó rời đoàn hát, xin thọ-giới tỳ-kheo, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán:
Dĩ-vãng bỏ qua,
Tương-lai chẳng ngại,
Hiện-tại chẳng màng.
Bờ bên kia dòng sanh-tử, vượt sang,
Trí thanh-tịnh, cùng với tâm tự-tại,
Cảnh Luân-hồi sanh-lão, chẳng trở lại.
(Kệ số 348.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Úc-ga = tên chàng trai nầy, tiếng Pali là Uggasena.
- Xiệc = phiên-âm chữ Pháp là cirque, gánh hát diễn trò nhào-lộn
- Trình-diễn: diễn trò cho dân-chúng xem.
- Tán-thưởng = khen-ngợi.
- Thiện-nam, tín-nữ: Thiện = lành, Nam = đàn-ông; Tín = tin-tưởng; Nữ = đàn-bà. Thiện-nam, tín-nữ chỉ về dân-chúng tin nghe theo đạo.
- Khất-sĩ: Khất = đi ăn xin; sĩ = người; Khất-sĩ, Tỳ-kheo, Bhikkhu, là tu-sĩ Phật-giáo, đi xin để nuôi thân, chẳng được phép có nghề riêng.
- Thân-tâm năm uẩn: thân người gồm có năm uẩn: (1) sắc-uẩn, thân xác-thịt; (2) thọ-uẩn, các cảm-thọ; (3) tưởng-uẩn, các tư-tưởng; (4) hành-uẩn, các hành-động; (5) thức-uẩn, các sự hiểu-biết. Sắc-uẩn là thân, bốn uẩn còn lại là tâm. Thân-tâm nầy do năm uẩn do nhơn-duyên tạm-thời họp nhau mà thành, hết duyên sẽ tan-rả, chẳng bền-vững, vô-thường; do đó, ta chớ nên tham-luyến quá.
- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo thuyết nhà Phật, chúng-sanh có nhiều đời sống, mãn kiếp nầy sẽ tuỳ nghiệp mà sanh lại, để rồi lại chết đi, rồi lại tái-sanh, cứ như thế mãi, cũng như bánh xe quay một vòng rồi lăn tiếp; đó là vòng sanh-tử lận-đận của Luân-hồi.
- Thức-tỉnh = tỉnh-ngộ, biết mình trước lầm, nay nghe nói mới hiểu ra được sự-thật.
- Thọ-giới tỳ-kheo = làm lễ nhận tuân theo giới-luật của tỳ-kheo mà tu-hành. Tỳ-kheo-giới còn gọi là cụ-túc-giới, gồm có 250 điều răn-cấm; trong khi đó người tu tại-gia chỉ có 5 điều cấm mà thôi.
- A-la-hán: quả-vị thứ tư, bực Thánh. Tu đã dứt được hết các phiền-não, vượt qua hết các chướng-ngại, lià bỏ mọi tham-muốn ( = ly-dục), chứng được vô-sanh ( = chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi) mới đắc quả A-la-hán. Theo nghĩa chuyên-môn, A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-đáng cho Trời, người cúng-dường; (2) sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não (như tham, sân, si...); (3) vô-sanh ( = chẳng còn tái-sanh, vào Niết-bàn tịch-diệt), Tiếng Pali là Arahant.
- Tự-tại: tự-do, chẳng bị ràng-buộc. Ngoài đời nói tự-do, trong Đạo gọi tự-tại.
- Sanh-lão = sanh già. Nói đủ bốn điều Khổ là: sanh, lão, bịnh, tử.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc thanh-niên Úc-ga vì mê cô đào trong gánh xiệc, cưới cô và theo sống trong gánh hát, phụ-giúp việc khuân-vác. Sau chàng học được nghề nhào-lộn; một hôm đang trình-diễn, bỗng nghe Đức Phật nói pháp, liền tỉnh-ngộ, rời gánh hát đi tu, chứng được quả-vị A-la-hán.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của Đức Phật: chớ mê-luyến thân-tâm năm uẩn, phải chuyên-tu để thoát khỏi Luân-hồi.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 348:
Đây là một trong các bài Kệ quan-trọng nhứt của Kinh Pháp-Cú, tưởng nên học thuộc lòng để ghi nhớ lời Phật dạy mãi.
Xin phân-tách từng câu:
1. Ba câu đầu: "Dĩ-vảng bỏ qua, Tương-lai chẳng ngại, Hiện-tại chẳng màng": Sao lại bỏ qua dĩ-vãng? Vì dĩ-vãng đã qua rồi, có nhớ lại cũng chẳng sửa đổi được. Sao lại chẳng ngại tương-lai? Vì tương-lai còn chưa đến, dầu có ngại cho lắm cũng chẳng ích-lợi chi, chỉ cần biết sẵn-sàng đối-phó là đủ. Còn hiện-tại mà chẳng màng nữa, thì màng cái chi? Trong hiện-tại biết mình đang tu-tập đúng đường-lối giải-thoát, đó là điều đáng màng. Đang tu-tập là đang gát qua bên cảnh-vật hiện-tại ở chung-quanh, chỉ biết ngay trong giờ phút nầy đây, tâm ta đang hướng về bên trong, gột bỏ mọi phiền-não, chận đứng mọi vọng-tưởng, đó là điều đáng màng. Nói cách khác, hiện-tại chỉ đáng màng, khi giữ được chánh-niệm trong tâm.
2) "Bờ bên kia dòng sanh-tử, vượt sang": Bờ bên kia là bờ giác-ngộ. Vượt được dòng sanh-tử là thoát khỏi cảnh tái-sanh của Luân-hồi. Trọn câu nầy nói đến sự tu của bực thánh, chứng quả-vị A-la-hán.
3) "Trí thanh-tịnh, cùng với tâm tự-tại": đây là Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, và chơn-tâm vừa thanh-tịnh, vừa chẳng bị ràng-buộc. Nói cách khác, tâm, trí ấy chính là tâm-trí của bực đắc quả Thánh.
4) "Cảnh Luân-hồi sanh-lão, chẳng trở lại": đây là chứng-đắc Niết-Bàn, chẳng còn phải tái-sanh mãi trong vòng Luân-hồi để chịu khổ nữa.
(246).- Tích chuyện người thiện-xạ.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo mà kiếp trước là một chàng thiện-xạ.
Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo sau khi đi khất-thực, ngồi ăn trong một cái am vắng. Sau đó, khát nước, vị ấy mới lần vào một xóm nhà, xin nước uống. Một người đàn-bà đem nước ra dâng, trông thấy dáng-mạo đoan-trang của vị tỳ-kheo, bỗng nổi lên lòng thương-yêu, muốn dùng cách để mê-hoặc. Khi sắp ra đi, vị tỳ-kheo được người đàn-bà thỉnh ngày mai trở lại để nhận lễ cúng-dường. Sáng hôm sau, đợi khi vị tỳ-kheo thọ-thực xong, người đàn-bà lên tiếng than-thở: "Bạch đại-đức, nhà con vắng-vẻ quá, chẳng có người đàn-ông trông trước trông sau!" Vị tỳ-kheo nghe hiểu được ý-ngầm của người đàn-bà, tuy ra về chùa, mà lòng còn vấn-vương mơ-tưởng.
Ngày qua ngày, vị tỳ-kheo ấy lòng buồn-bã, biếng việc tu-hành, thân-hình càng ngày càng tiều-tụy. Các bạn đồng-tu mới thưa-trình sự-việc lên Đức Phật. Đức Phật bảo: ‘Nầy tỳ-kheo, người đàn-bà làm cho con tơ-tưởng mãi trong tâm, vốn là vợ con trong tiền-kiếp. Đời trước, con vốn là một nhà thiện-xạ, bắn cung thật giỏi. Một hôm, hai vợ chồng đang đi trong rừng vắng, bỗng bị bọn cướp chận đường. Trong khi con nỗ-lực chiến-đấu với tên đầu-đảng, thì vợ con nhìn thấy thân-hình vạm-vỡ của tướng cướp mà sanh lòng yêu. Con hô lên, bảo vợ đưa thanh gươm trong bịt để chém tên cướp; nhưng vợ con lại trao thanh kiếm cho kẻ thù. Kết-quả là con bị giết chết và vợ con đi theo sống với tên đầu-đảng. Người đàn-bà ấy đã hại một đời con như thế, nay lại tìm cách quyến-rũ con hoàn-tục, phá luôn thêm cuộc đời tu-hành giải-thoát của con."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
Người bị ý chẳng lành kích-thích,
Ái-tham nhiều, thấy sắc mê-tít;
Ái-dục nơi người càng gia-tăng,
Ma-vương trói buộc thêm chằng-chịt.
(Kệ số 349.)
Người dẹp ý chẳng lành an-định,
Tỉnh-giác, thường quán thân bất-tịnh,
Ái-dục nơi người bỏ dứt xong,
Ma-vương muốn trói, đừng có hòng.
(Kệ số 350.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Thiện-xạ: Thiện = giỏi; Xạ = bắn. Thiện-xạ là người bắn giỏi.
- Am = cốc, ngôi nhà nhỏ làm nơi thờ-phượng.
- Đoan-trang = đẹp và trang-nghiêm.
- Mê-hoặc = dụ-dỗ vào đường quấy.
- Thọ-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Tiếng nhà chùa, nghĩa là ăn.
- Đại-đức = tiếng tôn-xưng gọi bực tu-hành.
- Ý-ngầm = ý dấu kín bên trong, chỉ nói mí, chẳng nói toạc ra.
- Tơ-tưởng = mơ-tưởng đến hoài và có ý-định về tình-ái.
- Tiền-kiếp = kiếp trước.
- Hoàn-tục = trở lại đời sống có gia-đình, bỏ việc tu ở chùa.
- Kích-thích = gây cảm-xúc mạnh khiến cho phải hành-động; xúi-dục, thúc-đẩy.
- Ái-tham: Ái = thương, thích; Tham = ham muốn quá chừng. Chữ ái-tham dùng dịch chữ Tanhà của tiếng Pali. Đây là nguyên-nhơn gây ra đau-khổ, tức là Tập-đế trong Tứ-diệu-đế. Hễ diệt được ái-dục, bứng hết gốc rễ của nó, thì thoát được khổ-đau trong cõi Luân-hồi, chẳng còn phải tái-sanh nữa.
- Ái-dục: Ái = thương, thích; Dục = ham-muốn. Chữ ái-dục được dùng để chỉ sự ham-muốn chạy theo các thú-vui vật-chất thấp và tạm-bợ.
- Gia-tăng = thêm lên.
- Tỉnh-giác = tâm chú-ý luôn giữ chánh-niệm, chẳng buông-lung
- Quán thân bất-tịnh: suy-nghĩ sâu xa về tấm thân vật-chất bên trong chứa nhiều chất dơ, như mủ, nước tiểu, để hết đắm-say sắc-đẹp
- Ma-vương = vua Ma; nghĩa rộng là sự cám-dỗ, xúi làm bậy.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo bị một người đàn-bà quyến-rũ, lòng mơ tưởng đến sắc-đẹp, muốn hoàn-tục, nên tu-hành biếng-nhác, thân-thể tiều-tụy. Vị tỳ-kheo được dẫn đến gặp Đức Phật, nghe kể lại, trong tiền-kiếp, người đàn-bà ấy đã từng là vợ phản-bội mình, trao gươm cho tướng cướp để giết chồng. Nay trong kiếp nầy, người ấy lại muốn phá-hoại thêm cuộc đời tu-hành của mình nữa, vị tỳ-kheo tỉnh-ngộ, dẹp bỏ ý hoàn-tục, mà tinh-tấn tu-hành trở lại.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là khi ý bất-thiện nổi lên trong tâm, phải dùng chánh-niệm mà chận bỏ đi ngay.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 349 và 350:
Bài Kệ số 349 nêu lên sự nguy-hiểm của ý chẳng lành ( = ý bất-thiện), khiến ta bị Ma-vương ( = sự cám-dỗ) lôi kéo theo con đường dữ. Ái-tham, ái-dục là những ý bất-thiện đó.
1) "Người bị ý chẳng lành kích-thích, Ái-tham nhiều, thấy sắc mê-tít": Vì chẳng biết điều-phục các căn, để mắt chạy theo sắc-đẹp bên ngoài, nên ái-tham bên trong tâm xúi-dục theo con đường quấy.
2) "Ái-dục nơi người càng gia-tăng, Ma-vương trói buộc thêm chằng-chịt": Ái-dục, sự ham-muốn theo các thú-vui vật-chất càng ngày càng thêm chồng-chất, đó là đang bị Ma-vương ( =sự cám-dỗ) trói buộc chặt-chẽ, khó thoát được.
Bài Kệ số 350 dạy ta cách cổi trói của Ma-vương, tức là làm cách nào để khỏi bị cám-dỗ theo các thú-vui vật-chất thấp-hèn và tạm-bợ.
1) "Người dẹp ý chẳng lành an-định": mỗi khi ý bất-thiện nổi lên trong tâm, chánh-niệm nhận ra được ngay, liền chận lại, đuổi đi, khiến cho tâm trở nên an-định.
2) "Tỉnh-giác, thường quán thân bất-tịnh": đây là hai cách hữu-hiệu, giữ tâm an-định và chận ý bất-thiện: (1) Tỉnh-giác: tâm luôn luôn chú-ý vào mọi ý-nghĩ khởi lên trong tâm; (2) Quán thân bất-tịnh: thường suy-nghĩ sâu-xa về tấm thân bề ngoài xem đẹp mà bên trong chứa chất dơ, nên sanh ra nhàm-chán, chẳng mê sắc-dẹp nữa.
3)‘’Ái-dục nơi người bỏ dứt xong, Ma-vương muốn trói, đừng có hòng": Vì lòng ham-muốn( = ái-dục) đã dứt, đâu còn bị cám-dỗ nữa.
(247).- Tích chuyện Tôn-giả La-hầu-la bị Ma khuấy.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến việc Ma-vương khuấy-phá Tôn-giả La-hầu-la.
Thuở ấy, có một nhóm đông-đảo các tỳ-kheo từ các phương xa, về chùa Kỳ-viên, đảnh-lễ Đức Phật. Để đủ chỗ an-nghỉ về đêm, Tôn-giả La-hầu-la, con trai của Thái-tử Tất-đạt-ta khi chưa đi tu, mới nhường chỗ của mình, ra ngủ ở ngoài cửa hương-phòng của Đức Phật. Đến khuya, Ma-vương hiện lên làm một con voi to lớn, lấy vòi quấn chặt đầu Tôn-giả rồi lại rống lên nhiều tiếng quái-dị, để doạ-nhát. Nhưng Tôn-giả vẫn dửng-dưng chẳng chút lo-sợ, nao-núng chi cả. Từ trong hương-phòng, Đức Phật biết được cảnh ấy, mới nói với Ma-vương: "Nầy Ma-vương hiểm-độc, dầu cả hàng ngàn Ma-vương như ngươi đến phá, có làm sợ-hãi được con ta đâu. La-hầu-la chẳng hề sợ-hãi, thoát khỏi tham-ái, luôn luôn tỉnh-giác và sáng-suốt."
Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây, khiến cho Ma-vương biết Đức Phật đã rõ được sự khuấy-rối của mình, nên biến đi mất:
Mục-tiêu cứu-cánh, người đã chiếm,
Hết sợ, ly-tham, chẳng ô-nhiễm,
Nhổ mũi tên sanh-tử độc-hiểm,
Thân nầy là thân chót Luân-hồi.
(Kệ số 351.)
Lià ái-dục, chẳng hề chấp-thủ,
Biện-tài vô-ngại đủ bốn thứ:
Nghĩa, pháp, từ, thuyết có thứ-tự;
Thân nầy là thân chót Luân-hồi,
Vị ấy là Đại-trí vĩ-nhơn.
(Kệ số 352.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- La-hầu-la: tên tiếng Pali là Ràhula, con của Thái-tử Tất-đạt-ta (Sidharta) khi Ngài chưa đi tu thành Phật.
- Đảnh-lễ: cúi đầu lạy, làm lễ ra mắt bực trưởng-thượng.
- Hương-phòng: căn phòng có hương thơm dành riêng cho Đức Phật; tiếng Pali là Gandhakuti.
- Ma-vương: Vua Ma, trên cõi Trời Tha-hoá tự-tại, hay đi cám-dỗ, xúi dục người làm việc quấy; nghĩa bóng là sự cám-dỗ. (Pali là Màra.)
- Hiểm-độc = nguy-hiểm và độc-ác; tánh ác ngầm.
- Tỉnh-giác = Tỉnh = hết mê; giác = biết. Người tỉnh-giác luôn luôn bình-tỉnh, chú-ý đến mọi hành-động, lời nói và ý-nghĩ của mình; tâm giữ chánh-niệm, chẳng hề buông-lơi.
- Mục-tiêu cứu-cánh: Mục = con mắt; Tiêu = cái mốc nhìn để bắn vào; Mục-tiêu là chỗ mình nhắm vào khi làm việc gì; gần nghĩa với chữ Mục-đích. Cứu-cánh: cứu = cánh = cuối cùng, kết-quả chót. Mục-tiêu cứu-cánh, ở đây, là chứng-đắc được quả-vị A-la-hán, bực Thánh.
- Nhổ mũi tên sanh-tử: thoát khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi.
- Chấp-thủ: nắm chặt, ôm cứng, bấu-víu chẳng chịu buông-bỏ đi.
- Biện-tài vô-ngại: Biện = hùng-biện, tranh-luận; Tài = tài giỏi; Vô = chẳng; Ngại = ngại-ngùng, lo-sợ. Biện-tài vô-ngại là có tài tranh-luận với kẻ khác mà chẳng hề sợ-hãi; cũng như tài hùng-biện.
- Nghĩa = ý-nghĩa thâm-sâu; Pháp = pháp-tu; Từ = chữ, lời nói; Thuyết = nói. Bốn chữ Nghĩa, Pháp, Từ, Thuyết là bốn điều mà người nói pháp nắm vững, khi tranh-luận với kẻ khác chẳng lo-ngại bị thua.
- Thân chót Luân-hồi: đây là tấm thân cuối-cùng, chẳng còn phải tái-sanh để mang thêm thân nào khác nữa, vì chứng được pháp-thân, thân vô-hình, bất-hoại và tự-tại trong cảnh Niết-bàn.
- Vĩ-nhơn: Vĩ = to-lớn, cao-cả; Nhơn = người. Bực vĩ-nhơn có tài-năng lớn, có chí-khí cao. Gần nghĩa với chữ Anh-hùng.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của T1ch chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị, Tôn-giả La-hầu-la bị ma nhát mà chẳng hề
sợ-hãi. Ý-nghĩa của Tích chuyện dạy ta phải bình-tỉnh, tỉnh-giác mỗi
khi bị cám-dỗ, để theo đúng con đường thiện-lành.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 351 và 352:
Hai bài Kệ cùng nói đến bực Thánh, đã đạt được mục-tiêu tu-tập là chứng được quả-vị A-la-hán, thoát khỏi vòng sanh-tử của Luân-hồi.
Xin lần-lượt kể ra những đức-tánh của bực đã chứng A-la-hán:
Kệ số 351:
1) "Mục-tiêu cứu-cánh, người đã chiếm": mục-tiêu đó là chứng được quả-vị A-la-hán, bực Thánh.
2) "Hết sợ, ly-tham, chẳng ô-nhiễm": ba đức-tánh (1) chẳng lo-ngại; (2) dứt tham-ái; (3) chẳng hề dính-nhiễm điều dữ-ác.
3) "Nhổ mũi tên sanh-tử độc-hiểm,Thân nầy là thân chót Luân-hồi": chẳng còn bị tái-sanh nữa trong cõi Luân-hồi đau-khổ nầy.
Kệ số 352:
1) "Lià ái-dục, chẳng hề chấp-thủ": hai đức-tánh: (1) bỏ hết mọi ham-muốn các thú-vui vật-chất thấp-hèn; (2) dẹp bỏ mọi thành-kiến, mọi tà-kiến, chẳng bấu-víu vào điều gì cả.
2) "Biện-tài vô-ngại đủ bốn thứ: Nghĩa, pháp, từ, thuyết có thứ-tự": vì đã thấm-nhuần Chánh-pháp, lại được tài hùng-biện, nên khi tranh-luận, lúc giảng-pháp, đều thành công mỹ-mãn.
3) "Thân nầy là thân chót Luân-hồi, Vị ấy là Đại-trí vĩ-nhơn": đó là vị Thánh dùng Trí-huệ lớn ( = Trí Bát-nhã Ba-la-mật) mà vượt qua được vòng sanh-tử của Luân, bỏ nhục-thân, chứng pháp-thân bất-hoại
(248).- Tích chuyện ẩn-sĩ Ưu-ba-ca.
Thuở ấy, khi Đức Phật vừa thành Đạo dưới cội cây Bồ-đề, Ngài nghĩ đến năm người bạn-đạo cũ, muốn chỉ-dạy cho họ đường-lối tu-hành mà Ngài đã thành-công, mới đi đến vuờn Lộc-uyển, gần thành Ba-la-nại để gặp họ.
Khi xưa, lúc còn theo lối khổ-hạnh mỗi ngày chỉ ăn một nắm mè để sống, tu-sĩ Cồ-đàm có năm người bạn, đứng đầu là ông Kiều-trần-như đi theo học đạo. Đến khi nhận thấy lối ép-xác chẳng đưa đến kết-quả mong-muốn, tu-sĩ Cồ-đàm trở lại ăn uống bình-thường, mỗi ngày một bữa, các người bạn-đạo tưởng Ngài đã thối-chí nên bỏ đi. Nay thành Đạo, Đức Phật muốn độ cho các bạn cũ thấy được con đường Trung-đạo. Trên đường tìm đến vườn Lộc-uyển, Đức Phật gặp một tu-sĩ khổ-hạnh tên là Ưu-ba-ca. Nhìn tướng-mạo trang-nghiêm, dáng đi thanh-thoát của Đức Phật, Ưu-ba-ca rất cảm-phục, mới cất tiếng hỏi: "Chẳng hay Ngài đã theo học vị thầy dạy đạo nào?" Đức Phật liền đáp, Ngài tự tìm lấy con đường giải-thoát, chẳng có thầy nào dạy cả.
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Ta chinh-phục, làu-thông tất cả,
Dứt trói buộc, ta đã thoát-ly,
Lậu-hoặc, ái-dục, ta còn gì?
Tự ta, ta được thắng-trí cao,
Ta còn gọi ai là Thầy ta sao?
(Kệ số 353.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Ẩn-sĩ Ưu-ba-ca: tên vị tu-hành ở ẩn nầy, tiếng Pali là Upaka.
- Vườn Lộc-uyển, thành Ba-la-nại: vườn nai (Pali: Migaedàya), còn gọi là Vườn Tiên (Isipatana), gần thành Bénarès, nay là Vàranàsi.
- Khổ-hạnh: đường-lối tu-hành ép-xác, ăn-uống rất ít, thân gầy.
- Cồ-đàm: họ của Đức Phật Thích-ca, tiếng Pali là Gotama.
- Kiều-trần-như: đệ-tử đầu-tiên của Phật, tiếng Pali: Kondana.
- Trung-Đạo: con đường ở giữa, tránh xa hai cực-đoan; khổ-hạnh (ép-xác) và lợi-dưỡng (hưởng đủ mọi sung-sướng vật-chất).
- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy; Hoặc = điều sái-quấy. Lậu-hoặc là các phiền-não như tham, sân, si... từ trong tâm bộc lộ ra bằng việc quấy.
- Thắng-trí: trí vượt thắng tất cả; tức là Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất đơn-sơ, Đức Phật trả lời câu hỏi của ẩn-sĩ Ưu-ba-ca: Ngài tự tìm lấy con đường giác-ngộ và giải-thoát, chẳng có thầy.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 353:
Bài Kệ nầy, nếu thốt ra từ một người nào khác, sẽ mang ý-nghĩa rất kiêu-căng; nhưng đây là lời nói của Đức Phật, nói lên Sự-thật tự mình tìm ra con đường giải-thoát, lời nói chơn-thành của một bực Đại-giác, chứng được Nhứt-thiết chủng-trí, thấu-hiểu rõ tất cả mọi loài.
(249).- Tích chuyện Trời Đế-Thích thưa hỏi Phật.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc vua Trời Đế-Thích thưa hỏi Đức Phật bốn câu về Chánh-pháp.
Thuở ấy, trên cung Trời Đao-lợi, chư Thiên đang học-tập về Chánh-pháp, còn chưa tìm lời giải-đáp thoả đáng về bốn câu hỏi quan-trọng. Vua Trời Đế-Thích chẳng tìm ra giải-pháp, mới cùng với chư Thiên đến chùa Kỳ-viên, yết-kiến Đức Phật. Vua Trời trình Phật bốn câu hỏi như sau:
1) Trong các vật hiến-tặng, vật nào quí nhứt?
2) Trong các hương-vị, mùi-vị nào ngon nhứt?
3) Trong các sự vui-mừng, điều nào đáng hoan-hỉ nhứt?
4) Tại sao sự diệt-tận mọi tham-ái là công-đức tối-thượng?
Đức Phật đáp: "Nầy chư Thiên, Chánh-pháp là tặng-phẩm quí-báu nhứt, Pháp-vị là hương-vị đậm-đà nhứt, Pháp-hỉ là niềm hoan-hỉ cao-cả nhứt, Ái-tận là công-đức thù-thắng nhứt, vì đưa đến quả-vị Thánh A-la-hán."
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Pháp-thí quí hơn mọi bố-thí,
Pháp-vị thắng hơn mọi hương-vị,
Pháp-hỉ vui hơn mọi hoan-hỉ,
Ái-tận vượt khỏi mọi đau-khổ.
(Kệ số 354.)
Chư Thiên vui mừng, tán-thán. Vua Trời Đế-thích liền bạch Phật: "Bạch Thế-tôn, bố-thí Chánh-pháp là quí-báu nhứt, sao chúng-sanh còn chưa được thọ-hưởng hết? Con kính xin Thế-tôn hứa-khả cho mọi loài chúng-sanh đồng hưởng lợi-lạc cao-quí nầy." Đức Phật liền cho tập-hợp tất cả tỳ-kheo lại, cùng hồi-hướng công-đức đến tất cả pháp-giới chúng-sanh.
Và kể từ đó, nghi-thức Hồi-hướng được thực-hành sau mỗi khoá lễ chánh-thức trong chùa.
TÌM HIỂU:
- A.- Nghĩa Chữ:
- Vua Trời Đế-thích: vị vua trên cõi Trời Đao-lợi, tiếng Pali: vua Sakka, ở cõi trời Tàvatimsa
- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Pháp = pháp-tu. Chánh-pháp là lời dạy của Đức Phật, để tu-hành được giác-ngộ và giải-thoát. Tiếng Pali là Dhamma.
- Giải-đáp thoả-đáng: trả lời rõ-ràng cho vừa ý mọi người.
- Chư Thiên: Chư = số đông; Thiên = Trời; tiếng Pali là Deva.
- Hoan-hỉ = vui mừng.
- Diệt-tận tham-ái: Diệt = làm cho tiêu mất; Tận = tận cùng, mất hết cả;Tham = ham muốn quá chừng; ái = thương, thích. Lòng tham-ái quá ham muốn tìm các thú-vui nhưng chẳng thoả-mãn, khiến ta phải chịu khổ mãi trong cuộc sanh-tử lận-đận của Luân-hồi; muốn chấm dứt khổ-đau, cần phải diệt-tận tham-ái.
- Công-đức tối thượng: Công-đức = việc làm tốt giúp vào việc tu-hành đưa đến giác-ngộ và giải-thoát; Tối-thượng = rất cao-cả.
- Tặng-phẩm = phẩm-vật đem ra hiến-tặng.
- Pháp-vị: Pháp = Chánh-pháp; pháp-tu; Vị = hương-vị; nghĩa bóng là ý-nghĩa sâu-xa, thâm-trầm. Pháp-vị là ý-nghĩa sâu-xa của pháp-tu khiến ta biết con đường giải-thoát mà vui lòng tu theo.
- Pháp-hỉ: Pháp = Chánh-pháp; pháp-tu; Hỉ = vui mừng và sung-sướng. Pháp-hỉ là lòng vui nhẹ-nhàng, cảm thấy thật sung-sướng khi nghe và hiểu-biết được ý-nghĩa sâu-xa của lời dạy về pháp-tu.
- Ái-tận: Ái = tham-ái, sự ham-muốn quá mức về các thú-vui; dịch nghĩa chữ Tanhà trong tiếng Pali là khát-ái, ví sự ham-muốn, tham-ái, như sự khát-khao được uống nước của người đã uống phải nước mặn, cứ khát hoài. Tận = dứt tiệt. Lòng ái-tận là tâm-trạng của bực tu-hành đã diệt xong mọi sự ham-muốn, đạt đến sự ly-dục (ly = lià xa; dục = ham-muốn) của bực Thánh A-la-hán.
- Tán-thán = khen-ngợi.
- Hứa-khả = nhận cho, cho phép.
- Hồi-hướng: Hồi = trở về; Hướng = hướng về, nhắm vào. Hồi-hướng công-đức là nguyện đem công-đức nầy chia-xẻ với người mình đang hướng về.
- Thù-thắng = hơn tất cả, thắng được tất cả; tốt và mạnh nhứt.
- Nghi-thức: Nghi = lễ-nghi; Thức = cách-thức. Nghi-thức là những điều cần làm theo thứ-tự và trang-nghiêm trong các buổi lễ.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc vua Trời Đế-thích cùng chư Thiên đến thưa hỏi Phật về bốn câu có liên-quan đến Chánh-pháp. Đức Phật giải-đáp và đọc lên bài Kệ, chỉ rõ Chánh-pháp là điều quí-báu nhứt, vì nhờ đó mà ta biết đường-lối tu-hành để được giác-ngộ và giải-thoát.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là nghe Pháp, hiểu được ý-nghĩa thâm-sâu, sanh lòng vui-mừng, ráng tu-tập để diệt mọi tham-ái, dứt mọi khổ-đau. Đem chia-xẻ sự hiểu Pháp với mọi người là bố-thí Pháp, một công-đức thật là quí-báu.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 354:
1) "Pháp-thí quí hơn mọi bố-thí": Pháp-thí là đem Chánh-pháp đến vớí mọi người: (1) giảng Kinh-kệ, (2) ấn-tống kinh-sách, (3) mời người cùng tu. Bố-thí có: (1) tài-thí (tặng tiền-của), (2) pháp-thí; (3) vô-uý-thí (an-ủi người cho bớt sợ-hãi, lo-lắng). Tại sao Pháp-thí lại quí nhứt? Vì nhờ biết Chánh-pháp tu-hành được giải-thoát vĩnh-viễn mọi khổ-đau, trong khi các bố-thí khác chỉ tạm thời xoa-dịu nổi khổ.
2) "Pháp-vị thắng hơn mọi hương-vị": Pháp-vị là ý-vị, là ý-nghĩa sâu-xa của Chánh-pháp. Tại sao pháp-vị hơn mọi hương-vị? Vì hương-vị pháp-tu, giữ mãi được trong tâm, khiến ta nỗ-lực tu-hành để được giải-thoát, trong khi các hương-vị khác, qua khỏi cổ thì mất.
3) "Pháp-hỉ vui hơn mọi hoan-hỉ": Pháp-hỉ là niềm vui nhẹ-nhàng trong tâm sau khi thấm-nhuần Chánh-pháp. Niềm vui nầy kéo dài cả cuộc sống, vì nhờ tu theo Chánh-pháp, được thoát khổ Luân-hồi, trong khi các sự vui khác hễ chấm-dứt thì lại sanh khổ-đau tiếp.
4) "Ái-tận vượt khỏi mọi khổ-đau": Ái-tận là diệt cho sạch bụng ham-muốn. Tham-ái là nguồn-gốc sanh ra đau-khổ trong cảnh sanh-tử của Luân-hồi. Tận-diệt tham-ái là cốt-tuỷ của Chánh-pháp, là pháp-vị; đó là con đường tu-tâm, tự giải-thoát ngay trong đời nầy mọi khổ đau của cuộc sống, và chấm-dứt vĩnh-viễn được nguyên-nhơn đã gây ra sự tái-sanh, khỏi phải trôi lăn mãi trong các nẻo Luân-hồi lận-đận.
(250).- Tích chuyện một người tuyệt-tự.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một người nhà giàu mà tuyệt-tự.
Thuở ấy, một hôm vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la, đến đảnh-lễ Đức Phật và thưa: " Bạch Thế-tôn, hôm nay con đến trễ để nghe pháp, vì bận phải đi trông coi việc tịch thu vào công-khố tài-sản của một người rất giàu-có, chết đi chẳng có con cháu, hay bà con để thừa hưởng gia-tài. Người ấy rất rít-róng, tuy giàu chẳng dám tiêu-pha, mặc áo quần lam-lũ, ăn-uống khắc-khổ lắm." Đức Phật đáp: ‘Nầy Đại-vương, người tuyệt-tự đó, trong tiền-kiếp nhờ có làm một việc thiện nên đời nầy được giàu-có lớn, nhưng cũng vì hành-vi bất-thiện khác mà phải chịu cảnh tuyệt-tự." Nhà Vua muốn nghe chuyện xưa, Đức Phật kể tiếp:
Vào một kiếp xa xưa, có một người nhà giàu, tánh rất bỏn-xẻn, chẳng hề bố-thí cho ai. Một hôm sắp đi ra phố, có một vị Bích-chi-Phật đến khất-thực tại nhà. Người ấy bảo vợ đem thực-phẩm ra dưng, rồi ra đi. Người vợ thấy chồng, ngày thường rất hà-tiện, nay lại phát-tâm cúng-dường như thế, mới đem các món ăn quí trong nhà ra dưng-cúng. Sau khi đi chợ về, người nhà
giàu gặp lại vị Bích-chi-Phật, lén nhìn vào bình bát, thấy thực-phẩm
quí-giá, mới tiếc-rẻ, trong bụng nghĩ, vợ mình dại quá, chẳng để món ấy cho bọn gia-nhơn ăn, chúng sẽ thích mà làm việc giỏi hơn cho mình, sao lại đem cho vị tỳ-kheo nầy, ông ấy ăn no sẽ buồn ngủ mất." Vì bố-thí mà còn bỏn-xẻn tiếc của, cho nên đời nầy, người ấy có tiền mà chẳng dám ăn xài, cam chịu đói khát. Lại nữa, người ấy lén thuê du-côn giết chết con trai của em mình, để giành hưởng gia-tài của em để lại. Vì tội-ác nầy, nên đời nầy người ấy bị tuyệt-tự, gia-tài bị tịch thu vào công-khố theo luật.
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Tiền-tài làm hỏng người ngu,
Hại chi được đến người tu Niết-bàn,
Kẻ cuồng-dại hám giàu-sang,
Hại mình mà cũng hại lan đến người.
(Kệ số 355.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Tuyệt-tự = chẳng có con-cái hay thân-nhơn để nối dòng.
- Vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la: tiếng Pali: Pasenadi, Kosala.
- Tịch-thu vào công-khố = lấy hết bỏ vào kho nhà-nước.
- Bích-chi-Phật: bực tu-hành giác-ngộ và giải-thoát vào thời chẳng có Chánh-pháp của Đức Phật. Tiếng Pali Paccekabuddha.
- Bỏn-xẻn = rít-róng, keo-kiệt, kẹo, hà-tiện quá mức.
- Niết-bàn: tâm-trạng người đã dứt hết phiền-não, chứng được vô-sanh ( =hết bị tái-sanh), sống tự-tại. Phạn: Nirvana; Pali: Nibbàna.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc một người giàu-có mà tít-róng, chẳng dám ăn-mặc, chết đi chẳng có con cái, nên gia-tài bị tịch-thâu vào công-khố, theo luật đînh. Đức Phật kể thêm, tiền-kiếp của người ấy, làm được việc thiện là cúng-dường vị Bích-chi-Phật, nhưng lại tiếc của; và một tội-ác, giết cháu, để giành gia-tài của em.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là tiền-bạc chẳng đem lại hạnh-phước cho người ngu, và dạy ta phải bỏ bụng rít-róng mà bố-thí rộng-rãi.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 355:
Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng, dạy ta phải biết làm chủ đồng tiền, chớtrở thành nô-lệ cho tiền-bạc.
1. Tiền-tài làm hỏng người ngu: Tại sao lại bảo là ngu? Vì kẻ có tiền đó bị làm nô-lệ cho đồng tiền. Làm hỏng bằng
cách nào? Vì muốn có thêm nhiều tiền, nên chẳng dám tiêu-xài, quá
rít-róng mà khổ thân. Lại nếu có nhiều tiền mà tiêu-xài phung-phí,
chẳng mấy chốc sẽ trở lại nghèo túng.
2. Hại chi được đến người tu Niết-bàn: người tu Niết-bàn biết lìa xa mọi ham-muốn ( =ly-dục), chẳng còn ham làm giàu, nên chẳng quá trọng tiền-bạc nữa, biếy vừa đủ ( =tri túc).
3. Kẻ cuồng-dại ham hiàu-sanh, Hại mình mà cũng hại lan đến người: Hại mình phải chịu khổ-sở làm nô-lệ cho đồng tiền. Hại lan đến người, chẳng nói chi xa, ngay trong hàng con cái ở gần, ỷ tiền-của, ỷ quyền-thế, mà sanh ra nhiều tội-lỗi như hoang-phí, kiêu-cămg.
(251).- Tích chuyện vị Thiên-nam An-khư-ra.
Vào một thời kia, Đức Phật lên cung Trời Đao-lợi thuyết-pháp, có đề-cập đến vị Thiên-nam tên là An-khư-ra.
Thuở ấy, Đức Phật lên cung Trời Đao-lợi thuyết-giảng Vi-diệu-pháp (A-tỳ-đạt-ma) cho mẹ là Hoàng-hậu Ma-gia, nay là thiên-nữ San-tư-sĩ nghe. Chư Thiên đến tham-dự, nghe Phật giảng, trong số có vị Thiên-nam tên là Yên-đà-kha, người đã cúng-dường cho Trưởng-lão A-na-luật. Nhờ công-đức nầy được thực-hiện vào thời Chánh-pháp của Đức Phật, nên vị thiên-nam nầy được sanh lên cõi Trời Đao-lợi, hưởng được mọi sự sung-sướng quí-báu. Đồng thời, có vị Thiên-nam, tên An-khư-ra cũng giàu lòng bố-thí, được sanh lên cõi Trời, nhưng hưởng sự khoái-lạc chẳng sang-trọng bằng vị thiên-nam Yên-đà-kha. Thiên-nam An-khư-ra thắc-mắc chỗ khác-biệt đó, mới đến thưa cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: "Nầy thiên-nam, khi bố-thí, ông phải nên chọn đúng người thọ-thí, vì tặng-vật cũng tựa như các hạt giống, hễ gieo vào đất tốt mầu-mỡ thì trỗ sanh hoa-quả tươi ngọt, còn nếu gieo vào nơi cằn-cỗi, sẽ thâu-hoạch được ít oi."
Rồi Đức Phật mới nói lên bốn bài Kệ sau đây:
Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Tham-lam làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-tham, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 356.)
Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Hận sân làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-sân, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 357.)
Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Si-mê làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người vô-si, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 358.)
Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
Dục-tham làm hại mọi đường chúng-sanh.
Người ly-dục, ta thành-tâm bố-thí,
Phước lành, do đó, quí-báu hơn.
(Kệ số 359.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Thiên-nam, Thiên-nữ: Thiên = trời; Nam = đàn-ông; Nữ = đàn-bà.
- An-khư-ra: tên vị thiên-nam nầy tiếng Pali là Ankura.
- Yên-đà-kha: tên vị thiên-nam nầy, tiếng Pali là Indaka.
- Trời Đao-lợi = cõi Trời trong Dục-giới, tiếng Pali là Tàvatimsa.
- Hoàng-hậu Ma-gia, thiên-nữ San-tư-sĩ: Mẹ của thái-tử Tất-đạt-ta, sau khi sanh Thái-tử được bảy ngày thì mất, tái-sanh lên cõi Trời Đâu-suất (Tusita). Pali: Hoàng-hậu Mahà Màyà, thiên-nữ Santusita.
- A-na-luật = đại-đệ-tử của Phật, tên tiếng Pali là Anuruddha.
- Thọ-thí: còn gọi là thọ-giả, người nhận của bố-thí.
- Vô-tham: Vô = chẳng; Tham = ham-muốn quá. Người vô-tham đã diệt hẳn bụng tham. - Vô-sân: người vô-sân chẳng hề giận-hờn; còn người vô-si là bực có trí-huệ thông-minh, hết si-mê, ngu-tối.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại một vị thiên-nam cõi trời Đao-lợi hỏi Phật tại sao cùng có công-đức bố-thí mà nay người được
hưởng phước-báu nhiều, người ít hơn. Đức Phật đáp, bố-thí cũng như gieo
hạt giống, nếu gặp đất mầu-mỡ sẽ trỗ trái ngọt; nếu gặp người thọ-thí
có đức-hạnh mà bố-thí, sẽ được phước-báu nhiều.
Tích chuyện tuy giản-dị nhưng ý-nghĩa lại tế-nhị: trong việc bố-thí, phải biết chọn người để trao-tặng hiến-vật, gặp được bực giới- đức vẹn-toàn, mà thành-tâm cúng-dường thì phước báu sẽ to lớn, còn nhẹ dạ nghe theo lời bọn buôn thần bán thánh mà đem tiền của ra để bố-thí cầu-danh thì chẳng những phước-báu sẽ ít-ỏi mà lại còn nuôi-dưỡng các tổ-chức mạo danh nghĩa cứu-trợ lén-lút làm ăn bất-chánh.
Ý-nghĩa sâu-xa của công-đức bố-thí là, về phiá người thí-giả, bỏ được bụng xẻn-tham của mình, chia-xẻ những gì mình có cùng với kẻ khác; về phía người thọ-giả, được cứu-giúp trong cơn thiếu-thốn mà khởi lên lòng tự-cứu lấy mình. Bố-thí chơn-thành đúng theo ý-nghĩa trên đây, chẳng mong-cầu báo-đáp, chẳng chút vướng-bận háo-danh.
Muốn đạt đến phước-báu to-lớn nhứt trong công-đức bố-thí, phải đạt đến mức Bố-thí Ba-la-mật, nghĩa là bố-thí cách nào mà thí--giả vượt đến bờ bên kia (Ba-la-mật, Parami, có nghĩa là xong-xuôi, hoàn-mãn rồi; tức là đến được bờ giác-ngộ và giải-thoát.) Giáo-lý Bắc-tông dạy rằng, người thi-hành bố-thí Ba-la-mật, trong tâm chẳng hề khởi lên ba việc, Tam-Không: (1) không thấy mình là người bố-thí, ban ơn cho kẻ khác; ( =Ngã-không); (2) không thấy người kia là kẻ chiụ ơn, phải lo báo-đáp lại, ( = Nhơn-không); (3) không thấy vật đem ra hiến-tặng, để tiếc-rẻ, không thấy việc làm của mình là việc thiện đáng khen-ngợi chi,( = Pháp-không). Tam-Không nầy là Tam giải-thoát-môn, ba cánh cửa mở rộng cho ta đến nơi giải-thoát.
(2) Ý-nghĩa của bốn bài Kệ 356, 357, 358, 359:
Bốn bài Kệ cùng một lối hành văn, giống nhau ở ý-nghĩa khen tặng sự bố-thí, mà chỉ khác nhau ở mỗi bài một đức-tánh quí, hễ tập được sẽ đưa ta đến bờ giác-ngộ và giải-thoát. Xin kể bốn đức-tánh quí
1) Vô-tham để đối-trị bụng Tham-lam: Tham đứng đầu trong tam độc, khiến ta trôi-lăn mãi trong cảnh sanh-tử khổ-đau của Luân-hồi. Bài Kệ ví tham như cỏ hoang làm hại ruộng nương, đây là làm hại đất tâm của người tu-hành. Trị tham chẳng gì hơn là việc bố-thí. Dứt được tham là được giải-thoát, đó là phước lành quí-báu nhứt.
2) Vô-sân để đối-trị lòng hờn-giận, oán-thù, gây oan-trái kéo dài nghiệp-báo phải chịu mãi cảnh Luân-hồi. Cũng như tham, sân-hận là cỏ hoang làm hại đất tâm của ta.
3) Vô-si để đối-trị sự si-mê, che-mờ tâm-trí ta, chẳng biết rõ đường tu-hành để giác-ngộ và giải-thoát. Si-mê cũng là cỏ hoang.
4) Ly-dục để đối-trị bụng ham-muốn, tức là tham-dục, chạy theo thú-vui vật-chất thấp-hèn và tạm-bợ. Ta hãy nhổ cỏ tham-dục đi.
Khi bố-thí, ta khó có dịp để lựa kẻ thọ-giả đủ các đức-tánh đó, nhưng bài Kệ cũng ngầm khuyên ta, hãy cố tập cho mình các tánh ấy.
-ooOoo-