VII.- Phẩm A-la-hán.
(71).- Tích chuyện về y-sĩ Kỳ-bà hỏi Đức Phật.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá trong Vườn Xoài của vị Y-sĩ Kỳ-bà, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến một câu hỏi của y-sĩ Kỳ-bà.
Thuở ấy, Đề-bà-đạt-đa muốn ám-sát Đức Phật, lăn một tảng đá lớn từ trên đỉnh núi Linh-thứu xuống, khi Đức Phật đi ngang qua. Tảng đá va mạnh vào một mép đá nhô lên bên sườn núi, một mảnh vụn văng ra trúng vào ngón chơn cái của Phật, khiến Ngài bị thương. Đức Phật liền được đưa đến tịnh-xá trong vườn xoài của y-sĩ Kỳ-bà. Nơi đây, vị y-sĩ nổi tiếng nầy thoa thuốc và băng-bó vết thương cho Đức Phật. Sau đó, ý-sĩ phải lên đường đến chữa bịnh cho một bịnh-nhơn khác trong thành, và hẹn chiều sẽ về thay băng cho Đức Phật. Chiều hôm ấy, khi y-sĩ Kỳ-bà quay về để thăm Đức Phật, thì rủi thay, bốn cửa thành đều đóng cả. Y-sĩ rất lo-lắng, vì nếu chẳng thay băng kịp thời, thì vết thương sẽ gây nhức-nhối, thân-thể sẽ phát-nhiệt và Đức Phật có thể bị đau-đớn và khổ-sở.
Vào lúc ấy, nơi tịnh-xá, Đức Phật gọi Tôn-giả A-nan đến gỡ băng cho Ngài và thấy vết thương đã hoàn-toàn lành hẳn. Sáng sớm hôm sau, khi y-sĩ Kỳ-bà về đến nơi, ông liền đến gần bên Đức Phật và thưa hỏi: "Bạch Thế-tôn, đêm qua con về chẳng kịp để thay băng cho Thế-tôn, chẳng hay Thế-tôn có bị nhức-nhối, đau-đớn chăng?" Đức Phật đáp: "Nầy ông Kỳ-bà, kể từ ngày Như-Lai đắc quả-vị Vô-thượng Bồ-đề, Như-Lai chẳng hề cảm thấy có sự nhức-nhối, đau-đớn, lo-lắng chi cả."
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Với người đi trọn đường sống-chết,
Giải-thoát ưu-phiền và tất cả;
Gông-cùm, xiềng-xích đã đập tan,
Đâu còn nóng-bức vì não-nhiệt.
(Kệ số 090.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Y-sĩ Kỳ-bà: tên vị thầy thuốc nổi-tiếng nầy, tiếng Pali là Jìvaka.
- Vườn Xoài: đây là một vườn xoài rất đẹp ở ngoài thành Vương-xá, được y-sĩ Kỳ-bà dưng-cúng cho Tăng-đoàn để cất tịnh-xá.
- Đề-bà-đạt-đa: tên thật bằng tiếng Pali là Devadatta. Đề-bà-đạt-đa dòng họ Thích-ca, anh ruột của Tôn-giả A-nan, gia-nhập Tăng-đoàn, ganh-tị với Đức Phật, ba lần ám-sát Phật, sau bị đất nứt hút vào điạ-ngục.
- Ám-sát: Ám = mờ-ám, lén-lút; Sát = giết. Ám-sát là giết lén.
- Phát-nhiệt: Nhiệt = nóng-bức trong người.
- Quả-vị Vô-thượng Bồ-đề: ngôi-vị Phật.
- Đi trọn đường sống-chết: Ở đây, ý muốn nói, người đã trải qua cảnh sanh-tử, tử-sanh của Luân-hồi, nay chứng được quả Vô-sanh, chẳng còn phải tái-sanh nữa.
- Gông-cùm, xiềng-xích: Gông = tấm gỗ nặng đeo ở cổ người tù; Cùm = còng sắt khoá chơn của tù; Xiềng-xích = dây sắt trói buộc chơn tay. Ở đây, gông, cùm, xiềng, xích chỉ những điều ràng-buộc khổ-sở, tức là các mối phiền-não, lậu-hoặc làm cho ta đau-khổ trong cuộc sống.
- Não-nhiệt: Não = phiền-não, sự đau-buồn; Nhiệt = nóng-bức. Ở đây chữ não-nhiệt có nghĩa là các mối phiền-muộn trong lòng.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại Đức Phật bị Đề-bà-đạt-đa lăn đá để ám-sát, nhưng chỉ bị thương ở ngón chơn. Ngài được y-sĩ Kỳ-bà săn-sóc, nhưng Ngài chẳng hề bị nhức-nhối, đau-đớn chi cả.
Ý-nghĩa của Tích chuyện: đắc quả-vị Phật thì chẳng còn phiền-não.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 090:
Bài kệ mô-tả cảnh sống an-nhiên, tự-tại của một bực A-la-hán vì đã tận-diệt xong các sự ràng-buộc của phiền-não, lậu-hoặc.
HỌC TẬP:
- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ mục-tiêu tu-tập là tiêu-diệt phiền-não, để được sống trong cảnh an-nhiên, tự-tại.
(72).- Tích chuyện Tôn-giả Đại Ca-diếp ở lại Trúc-lâm.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Tînh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến việc Tôn-giả Đại Ca-diếp lưu lại tịnh-xá nầy.
Thuở ấy, vào mùa an-cư kiết-hạ, Đức Phật cùng chư Tăng đang ở tại Vương-xá-thành. Còn mười lăm hôm nữa thì xuất-hạ, Đức Phật dặn bảo chư Tăng chuẩn-bị hành-trang để lên đường. Bấy giờ, tăng-chúng rộn-rịp, kẻ giặt-gỵa áo-quần, người may vá cà-sa. Một số tỳ-kheo nhìn thấy Tôn-giả Đại Ca-diếp đem phơi các bộ áo mới đẹp-đẽ, mới nghĩ: "Tôn-giả Đại Ca-diếp được dân thành Vương-xá quí-phục lắm, nên dâng-cúng những bộ y rất đẹp. Chẳng lẽ Tôn-giả lại rời bỏ họ ra đi, thế nào Ngài cũng ở nán lại đây."
Đến hôm trước ngày khởi-hành, Đức Phật lại nghĩ, hiện ở đây,
dân-chúng còn cần được giúp-đỡ về mặt giáo-lý, như chỉ-dạy thêm cho các
Sa-di hay cho các thiện-nam, tín-nữ đến tịnh-xá cúng-dường. Do đó, Đức
Phật liền chỉ-định Tôn-giả Đại Ca-diếp cùng với một số tỳ-kheo vừa
gia-nhập Tăng-đoàn, nên lưu lại Tịnh-xá Trúc-lâm thêm một thời-gian nữa.
Đến hôm khởi-hành, chẳng thấy Tôn-giả Đại Ca-diếp tháp-tùng Đức
Phật, mấy vị tỳ-kheo kia liền nói: "Đúng rồi, ta đã đoán chẳng sai!
Tôn-giả Đại Ca-diếp lưu-luyến các tín-đồ ở đây, nên chẳng chịu rời đi." Đức Phật nghe thấy mới bảo họ rằng: "Các ông đừng nghĩ xấu cho Đại Ca-diếp. Chính Như-Lai đã yêu-cầu Đại Ca-diếp ở lại tịnh-xá Trúc-lâm để chỉ-dạy giáo-lý thêm cho dân-chúng, chớ nào phải vì luyến-lưu nơi nầy mà Đại Ca-diếp chẳng rời đi được."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người chuyên-cần tỉnh-giác trong chánh-niệm,
Chẳng tìm thoả-thích nơi chỗ trú chơn,
Rời nhà phiền-não, tâm không ái-nhiễm.
Như cánh ngỗng trời rời hồ bẩn-đục,
Rày đó mai đây, vui sống độc-thân.
(Kệ số 091.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Trúc-lâm: Trúc = tre, hay trúc; Lâm = rừng. Vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) nước Ma-kiệt-đà (Magadha) dâng cúng lên Đức Phật ngôi vườn trúc rất đẹp, để xây cất Tịnh-xá Trúc-lâm (Veluvana), gần thành Vương-xá (Ràjagaha).
- An-cư kiết-hạ: An-cư là ở yên; Kiết-hạ là trải qua mùa hè. Xin nhắc lại: vào mùa hè, chư Tăng quay về Tịnh-xá tu-tập, chẳng đi khất-thực bên ngoài, để tránh đạp chết côn-trùng. Dự một kỳ an-cư, thì thêm một tuổi đạo.
- Xuất-hạ: Xuất = đi ra. Hạ = mùa hè. Xuất-hạ ở đây có nghĩa là chấm-dứt thời kỳ an-cư kiết-hạ.
- Đại Ca-diếp: tiếng Pali là Mahàkassapa, tôn-giả là đại-đệ-tử của Đức Phật, tu theo hạnh đầu-đà, cầm đầu Tăng-đoàn khi Đức Phật mất.
-Hành-trang = đồ-vật mang theo.Hành = đi.Trang = trang-bị, hành-lý
- Cà-sa: tiếng Phạn là Kasaya, áo màu vàng hay nâu của tu-sĩ.
- Y = y-phục, quần-áo. Tiếng nhà chùa, đắp y là mặc áo cà-sa vào.
- Sa-di: tiếng Pali Samanera, người mới vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ-giới Tỳ-kheo.
- Tháp-tùng = đi theo.
- Lưu-luyến: mê-thích, chẳng rời bỏ được.
- Tín-đồ: Tín = tin-tưởng; Đồ = đồ-đệ, học-trò. Tín-đồ là kẻ tin Đạo.
- Tỉnh-giác trong chánh-niệm là làm gi, nói gì, nghĩ gì, cũng biết mình đang làm, đang nói, đang nghĩ đến việc đó, chẳng xao-lãng.
- Trú chơn = nghỉ chơn; ở đây có nghĩa là nhà cửa để ở.
- Nhà phiền-não: ý muốn nói, rời đời sống thế-tục để đi tu.
- Ái-nhiễm: Ái = thương-yêu, tríu-mến; Nhiễm: dính, lây. Chữ ái-nhiễm ở đây có nghĩa như tham-ái, khát-ái, ái-dục, khiến ta say-đắm, dứt bỏ ra chẳng được; vì thế mà phải chiu mãi cảnh khổ của Luân-hồi.
- Ngỗng trời: tiếng Hán-Việt là thiên-nga, ngỗng lông màu trắng.
- Rày đây mai đó: nay ở đây mai ở chỗ kia, chẳng quyến-luyến chỗ ở nào cả.
- Độc-thân: sống một mình, chẳng có gia-đình riêng.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại một số Tỳ-kheo thấy Tôn-giả Đại Ca-diếp lưu lại tịnh-xá Trúc-lâm, sau khi Đức Phật và Tăng-đoàn rời đi, cho rằng Tôn-giả lưu-luyến nơi nầy. Đức Phật quở các vị Tỳ-kheo đó đã nghĩ quấy về Tôn-giả. Đức Phật bảo, Ca-diếp ở nán lại Trúc-lâm là do lời yêu-cầu của Phật, để dạy-dỗ dân-chúng về giáo-lý, chớ Tôn-giả đã dứt-bỏ sự tham-luyến rồi, đâu còn tríu-mến nơi nầy hơn nơi khác.
Ý-nghĩa quan-trọng của Tích chuyện là dạy ta đừng tham-luyến.
(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 091:
Ý-nghĩa của bài Kệ dạy ta về hạnh xả-bỏ, còn gọi là hạnh khước-từ, hay hạnh viễn-ly. Theo hạnh nầy thì chẳng tham-đắm, mê-luyến, hay tríu-mến vào điều nào cả. Tại sao phải lià-bỏ, đừng tham-đắm?
Vì sự tríu-mến có tánh-cách ràng-buộc, khiến ta mất sự tự-do. Chỉ vì
quyến-luyến vào cuộc sống sướng ít khổ nhiều nầy, mà con người phải
tái-sanh lại mãi trong vòng Luân-hồi, chẳng được giải-thoát.
Như đã biết, Xả là một trong bốn Tâm vô-lượng, khiến ta xem mọi sự-vật đều bình-đẳng như nhau (vì bản-tánh muôn vật vốn rỗng-rang), chẳng quá mến vật nầy, chẳng quá ghét việc kia; giữ được tâm xả, là có được tâm quân-bình, thanh-thản. Trong bốn Tâm vô-lượng Từ, Bi, Hỉ, Xả, tâm Xả là khó tu-tập nhứt, nhưng nhờ nó mà ta dứt bỏ được sự ràng-buộc
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, đặc biệt nên ghi nhớ câu "Chẳng tìm thoả-thích nơi chỗ trú chơn", để chẳng tríu-mến mọi sự-vật trên cõi đời "tạm trú chơn" nầy.
2.- Thử tập một vài điều nhỏ trong hạnh Xả-ly:
- Đến "cử" cà-phê, đang bận làm việc gì, nên làm cho xong đàng-hoàng, rồi hãy uống.
- Đến nhà lạ ngủ, thiếu cái gối ôm quen thuộc, đừng thao-thức nhớ mà chẳng ngủ được. Thử ngủ thiếu gối một đêm xem sao.
- Con dao cưng bị mẻ, đừng quát-tháo vang lên, dao nào cũng là dao, sao lại chẳng tạm dùng đỡ dao khác cho tiện.
(73).- Tích chuyện Trưởng-lão Lã-tha-sĩ.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Lã-tha-sĩ về vấn-đề ăn uống.
Thuở ấy có Trưởng-lão Lã-tha-sĩ khi đi khất-thực trong làng, thường ngừng lại để dùng bữa. Sau đó, Trưởng-lão lại lên đường tiếp-tục đi khất-thực nữa, để có thêm thực-phẩm. Khi về đến tu-viện, Trưởng-lão đem cơm ra phơi khô và tích-trữ lại. Mấy ngày hôm sau, Trưởng-lão cứ lấy cơm khô ra pha nước vào, hâm nóng lại mà dùng, khỏi phải đi khất-thực, để dành trọn thời-giờ ngồi Thiền. Có vài vị Tỳ-kheo thấy thế, cho rằng Trưởng-lão đã vi-phạm giới-luật, tích-trữ vật-phẩm, mới trình với Đức Phật. Đức Phật liền ra lịnh cấm không cho tỳ-kheo để dành thực-phẩm đã xin được, sau bữa ngọ-trai. Nhưng Đức Phật chẳng khiển-trách Trưởng-lão Lã-tha-sĩ, vì việc Trưởng-lão phơi cơm để dành ăn hôm sau xãy ra trước khi có lịnh cấm. Vả lại, Trưởng-lão sở dĩ tích-trữ cơm trước đây, chẳng phải vì lòng tham-lam về thức-ăn, mà chỉ vì muốn có dư thời-giờ để ngồi thiền lâu hơn.
Bấy giờ, Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Những ai chẳng tích-trữ,
Biết niệm-thực khi ăn,
Lấy Giải-thoát Niết-Bàn
- Vốn Không và Vô-tướng -
Để riêng làm đối-tượng,
Hướng họ đi, khó vẽ
Như chim bay trên trời.
(Kệ số 092.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Lã-tha-sĩ: tên thật của Trưởng-lão, tiếng Pali là Belatthasìsa.
- Khất-thực: Khất = đi ăn xin; Thực = ăn. Khất-thực là đi xin ăn.
- Tích-trữ: chứa lại để dành về sau.
- Ngọ-trai: Ngọ = giữa trưa, mười hai giờ trưa; Trai = bữa ăn chay.
- Khiển-trách: rầy-la, trách-phạt và dạy-dỗ.
- Niệm-thực: Niệm = đọc thầm hay đọc ra tiếng; Thực = ăn. Theo giới-luật, trong bữa ăn, tu-sĩ phải niệm-thực, nghĩa là, khởi lên trong tâm những ý-tưởng thiện-lành liên-quan về việc ăn-uống, như sau đây:
Theo Bắc-tông, khi ăn ba muỗng cơm đầu, phải niệm Tam-đề: (1) nguyện bỏ điều ác, (2) nguyện làm điều lành, (3) nguyện giữ tâm-ý trong-sạch, cứu-độ chúng-sanh. Và suốt bữa ăn, trong tâm phải nghĩ đến Ngũ-quán: (1) nhớ ơn thí-chủ đã hiến-tặng bữa ăn, (2) xét xem mình có xứng-đáng được lãnh ăn vật-thực cúng-dường chăng, (3) phải ngăn lòng tham ăn, (4) quán-tưởng thức ăn như vị thuốc để trị bịnh đói của mình, (5) dùng các thức ăn nầy chỉ để thêm sức-khoẻ mà tu-tập cho chóng thành Đạo.
Theo Nam-tông, niệm-thực có nghĩa là trong khi ăn, phải có ba sự liễu-tri (Parinnàs =hiểu-biết thật rõ-ràng) về vật-thực: (1) biết rõ bản-chất của món đang ăn (nataparinnà ); (2) biết rõ tánh-cách vật-chất thấp-kém của thức ăn (tìranaparinnà); (3) biết rõ chẳng ham-thích trong việc ăn uống (pahànaparinnà).
- Giải-thoát Niết-bàn: Giải = tháo mở ra; Thoát = ra khỏi; Niết-bàn = chữ Phạn là Nirvana, tiếng Pali là Nibbana, có nghĩa là ra khỏi rừng u-tối của các phiền-não, khổ-sở.
- Không = tiếng Phạn là Sunyata, có nghĩa là trống-không, rỗng-rang, chẳng chứa-đựng gì. Đừng tưởng-lầm Không là chẳng có, trái lại, Không có nghĩa là Có, có mà rỗng-rang. Đây là một ý-niệm rất khó giải-thích trong giáo-lý Phật-học.
- Vô-tướng: Vô = chẳng có; Tướng = hình-tướng. Vô-tướng là chẳng có hình-dạng, màu-sắc, mùi-vị, v.v. để dùng giác-quan mà nhận ra được, nhưng dùng trí thì biết được.
- Đối-tượng: Đối = ở trước mặt; Tượng = hình-thể. Chữ đối-tượng ở đây có nghĩa là những gì mình đang nghĩ đến trong tâm, những gì tâm mình đang quán-thấy.
- Hướng họ đi khó vẽ: vì đã chứng-đắc Niết-bàn, chẳng tái-sanh nữa, nên chẳng thể biết được họ "đi" về đâu (ở cõi tịch-diệt, vắng-vẻ).
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại việc Trưởng-lão Lã-tha-sĩ để dành cơm, đem phơi khô, để khỏi đi khất-thực hằng ngày, dùng thời-giờ dư ra để ngồi Thiền, tu-tập cho tinh-tấn. Đức Phật sau đó có ra lịnh cấm chẳng được tích-trữ thực-phẩm, vì chẳng muốn cho tỳ-kheo có lòng tham-lam về ăn-uống. Ý-nghĩa của Tích-chuyện là chẳng nên tham-đắm về thực-phẩm, chẳng nên tích-trữ đồ-vật, để dẹp lòng tham-ái còn sót lại.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 092:
Bài Kệ nầy dạy ta ba điều:
1) Chẳng nên tích-trữ: Theo giới-luật của Tỳ-kheo, mỗi người chỉ có được ba bộ quần-áo, một cái bát, và một vài vật-dụng cần-thiết khác cùng thuốc men. Tại sao vậy? Đây là hạnh-nguyện giữ sự bần-cùng, chẳng tham-đắm của-cải, bởi vì tiền-bạc, tài-sản là sợi dây ràng-buộc con người vào đời sống thế-tục, khiến ta cứ trôi-lăn mãi trong vòng sanh-tử của Luân-hồi.
2) Biết niệm-thực khi ăn: Đây là giới-luật phải thi-hành trước khi dùng bữa. Cho dầu là Bắc-tông, hay Nam-tông, người tu-sĩ trong khi ăn phải niệm trong tâm rằng việc ăn-uống chỉ cần-thiết để mình có đủ sức-khoẻ hầu tinh-tấn tu-hành. Thức-ăn được coi như một vị thuốc, thuốc để trị bịnh đói nơi ta, chớ chẳng phải để cho khoái khẩu-vị!
3) Tu-tập Thiền-định nhắm vào mục-tiêu Niết-Bàn: đây là lời dạy cho các vị tu-hành nhằm chứng-đắc sự giác-ngộ và giải-thoát; mục-tiêu rất cao cho người Phật-tử tại-gia. Dầu sao, bước khởi đầu cho cả hai hạng xuất-gia và tại-gia, đều là sự dứt bỏ chẳng tham-luyến đến thực-phẩm, chẳng tích-trữ của cải. Nhờ sự dứt-bỏ nầy mà lòng tham-ái lần lần bị dẹp đi, mở đường cho sự giải-thoát sau nầy.
HỌC TẬP:
1.- Ghi các điều NIÊM-THƯC trước khi ăn và nhớ nên xem thức-ăn chỉ như vị thuốc trị bịnh đói hàng ngày mà thôi.
2.- Xin đề-nghị nhìn lại dưới gầm giường, trong nhà xe, các vật bị trữ lại lâu ngày, nên vứt đi. "Bỏ thì thương, mà vương thì tội!"
(74).- Tích chuyện Trưởng-lão A-na-luật.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến Trưởng-lão A-na-luật.
Thuở ấy, Trưởng-lão A-na-luật vì chiếc áo-cà-sa đã cũ, rách nhiều chỗ, muốn tìm vải may một bộ áo lành để mặc. Trưởng-lão định đến các đống rác, nhặt các mảnh vải vụn, đem về ráp may áo. Lúc bấy giờ, thiên-nữ Gia-li-ni trên cung Trời, nhìn thấy người chồng cũ của mình trong tiền-kiếp là Trưởng-lão A-na-luật, đang bới các đống rác tìm vải vụn, mới lấy ba khúc vải quí trên cõi Trời đem dấu bên dưới. Trưởng-lão nhìn thấy, lấy đem về tịnh-xá. Hôm sau, Đức Phật cùng chúng Tăng đến viếng Trưởng-lão A-na-luật và giúp Trưởng-lão may cắt áo.
Khi ấy, thiên-nữ Gia-li-ni hoá hình thành một thiếu-phụ, đi vào làng, kêu gọi dân-chúng trong vùng, mang thực-phẩm tươi-tốt đến cúng-dường Đức Phật. Số thực-phẩm dâng-cúng rất nhiều, chư Tăng dùng chẳng hết. Bấy giờ, có một số tỳ-kheo nghĩ rằng, Trưởng-lão A-na-luật muốn khoe-khoang mình có nhiều đồ-chúng, đã bảo họ dâng-cúng nhiều phẩm-vật lên Đức Phật và chúng Tăng như thế, cho nên mới thừa-thãi. Đoán biết tâm-trạng của họ đang nghĩ lầm về Trưởng-lão A-na-luật, Đức Phật nói: "Nầy chư Tỳ-kheo, chớ nên nghĩ lầm về thái-độ của A-na-luật. Tấm vải quí nầy, cùng thực-phẩm cúng-dường kia, là do vị thiên-nữ Gia-li-ni trên cung Trời dâng-cúng. Đối với bực A-la-hán đã giải-thoát như A-na-luật, trong lòng chẳng bao giờ có sự lo nghĩ đến các sự ăn, mặc cả."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người tận-diệt lậu-hoặc,
Chẳng đắm-say vật-thực,
Lấy Giải-thoát Niết-bàn
- Vốn Không và Vô-tướng -
Để riêng làm đối-tượng,
Như chim bay trên không,
Lối người đi, khó vẽ
(Kệ số 093.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- A-na-luật: tên thật của Trưởng-lão, tiếng Pali là Anuruddha; thường được phiên-âm theo giọng đọc Hán-Việt là A-nâu-lâu-đà.
- Cà-sa: áo màu vàng, khoác bên ngoài, của tu-sĩ Phật-giáo; tiếng Pali là kàsàva. Còn gọi là phước-điền-y ( = áo ruộng phước.)
- Thiên-nữ: Thiên =Trời;Nữ =phụ-nữ, đàn-bà. Thiên-nữ là người phụ-nữ trên cõi Trời.
- Tiền-kiếp:Tiền =trước;Kiếp =đời sống. Tiền-kiếp là đời kiếp trước.
- Đồ-chúng: Đồ =tín-đồ, đệ-tử, người theo học Đạo; Chúng =số đông. Đồ-chúng là những người đệ-tử theo học Đạo.
- Tận-diệt: Tận =hết cả; Diệt = làm cho tiêu mất. Tận diệt là dẹp hết.
- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra, như máu, mủ; Hoặc = điều sai-lầm. Chữ Lậu-hoặc được dùng để dịch chữ àsavas tiếng Pali, chỉ vào các phiền-não như tham, sân, si, thường bộc-lộ ra các hành-động xấu-ác, xem như chất dơ-dáy từ trong người rỉ chảy ra.
- Lấy Giải-thoát Niết-bàn - vốn Không và Vô-tướng- Để riêng làm đối-tượng: Ba câu kệ nầy đã được tìm hiểu trong bài trước, trang 245. Xin nhắc lại vắn-tắt: Giải-thoát = hết bị ràng-buộc; Niết-bàn = tâm-trạng người đã diệt xong các phiền-não; Không =rỗng-rang, chẳng chứa đựng gì; Vô-tướng = chẳng có hình-thể; Đối-tượng = điều đang nghĩ trong tâm.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc Trưởng-lão A-na-luật đi lượm vải vụn về ráp may áo cà-sa. Nhơn việc nầy, Đức Phật dạy, các bực A-la-hán chẳng hề lo nghĩ đến việc ăn và mặc, để chuyên tâm tu-hành.
(2)Ý-nghĩa của bài Kệ số 093: giống bài Kệ số 092.
HỌC TẬP:
- Học thuộc lòng hai bài Kệ số 092 và 093, để ghi nhớ, đừng quá chú-trọng đến việc ăn thật ngon, mặc thật đẹp, để lo tu-hành.
(75).- Tích chuyện Trưởng-lão Ca-chiên-diên.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Đông-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Đại Ca-chiên-diên.
Vào cuối thời-kỳ an-cư kiết-hạ, nhằm đêm trăng tròn, vua Trời Đế-thích cùng chư Thiên đến đảnh-lễ Đức Phật tại tịnh-xá Đông-viên, do bà nữ-cư-sĩ Vi-sa-kha xây cất và cúng-dường cho Tăng-ni-đoàn. Bấy giờ, vây quanh Đức Phật có đông-đủ các vị đại-đệ-tử và chư tăng, ni. Chỉ còn thiếu Trưởng-lão Ca-chiên-diên đang bận việc ở xứ A-văng-ti chưa về kịp; một chỗ ngồi trang-trọng được chừa trống, để chờ Trưởng-lão. Sau khi dâng hoa và lễ Phật xong, vua Trời Đế-thích nhìn thấy chỗ trống, mới hỏi, để dành cho ai ngồi. Khi nghe đáp, chỗ ấy dành cho Trưởng-lão Ca-chiên-diên, Vua Đế-thích mới phát lòng ngưỡng-mộ, mong được dâng hoa cúng-dường Trưởng-lão Ca-chiên-diên. Ngay vào lúc ấy, Trưởng-lão về đến nơi và được chư Thiên chào đón, dâng hoa và đảnh lễ.
Đa-số chư Tăng đều kính-mến Trưởng-lão Ca-chiên-diên, chỉ có một số
ít lại cho rằng vua Trời Đế-thích đã tỏ ra thiên-vị vì ngưỡng-mộ
Trưởng-lão hơn các vị tỳ-kheo khác. Đức Phật bảo: "Một người đã khéo điều-phục các căn thì được cả Trời và Người cùng kính-mến."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Bực A-la-hán điều-phục các căn,
Như ngựa thuần khéo luyện bởi người chăn.
Ngã-mạn đã trừ, lậu-hoặc cũng dứt,
Người vững-chắc, chư Thiên đều mến-phục.
(Kệ số 094.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa CHỮ:
- Ca-chiên-diên: tên thật Trưởng-lão, tiếng Pali là Mahakaccàyana, thường được phiên-âm, đọc theo tiếng Hán-Việt là Đại Ca-chiên-diên.
- An-cư kiết-hạ: Vào mùa hè, chư Tăng ở lại tịnh-xá tu, chẳng đi khất-thực. An-cư là ở yên; kiết-hạ là qua mùa hè.
- Vua Trời Đế-thích: vua cõi Trời Đao-lợi, tên tiếng Pali là Sakka.
- Đông-viên: ngôi tịnh-xá do bà Vi-sa-kha xây cất để cúng-dường Tăng-ni-đoàn, nằm phiá Đông chùa Kỳ-viên; tiếng Pali là Pubbàràma.
- Vi-sa-kha: bà tín-nữ nổi tiếng thời Đức Phật, tiếng Pali là Visakha
- A-văng-ti: tên điạ-danh nầy tiếng Pali là Avanti.
- Trang-trọng = cao-quí.
-Ngưỡng-mộ: Ngưỡng = kính-ngưỡng; Mộ = ái-mộ; kính mến.
- Thiên-vị: Thiên = nghiêng về một bên; Vị =vị-trí, chỗ. Thiên-vị là chẳng công-bình, ưa người nầy hơn người khác.
- Điều-phục: Điều = điều-khiển; Phục = phục-tùng.Điều-phục các căn nghĩa là biết làm chủ các giác-quan, chẳng chạy theo cảnh bên ngoài.
- Ngựa thuần: ngựa đã được luyện-tập thuần-thục, dễ khiến, dễ cỡi
- Ngã-mạn = kiêu-căng, phách lối.
- Lậu-hoặc = các lỗi-lầm, phiền-não để lộ ra hành-động xấu.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Khi thấy Vua Trời Đế-thích riêng tỏ lòng ngưỡng-mộ Trưởng-lão Ca-chiên-diên, một số tỳ-kheo cho đó là hành-vi thiên-vị, Đức Phật dạy rằng, một bực A-la-hán như Trưởng-lão, đã điều-phục được các giác-quan, dẹp xong lòng ngã-mạn, thì đáng được chư Thiên kính mộ.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 094:
Ý-nghĩa bài Kệ nêu ra bốn đức-tánh của bực A-la-hán:
1) Điều-phục các căn; chẳng chạy theo cảnh-vật bên ngoài;
2) Ngã-mạn đã trừ: dẹp bỏ sự kiêu-căng, chẳng xem mình hơn kẻ khác; có lòng nhũn-nhặn.
3- Lậu-hoặc cũng dứt: các món phiền-não tham, sân, si đã được tận-diệt.
4) Người vững-chắc: ý muốn nói, tâm đã an-định, hết xao-động.
HỌC TẬP:
- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ bốn đức-tánh của bực La-hán. Đối với người tu tại-gia, có thể bắt đầu tập bỏ bớt hai điều lậu-hoặc nầy: diệt tham bằng bố-thí; diệt sân bằng nhẫn-nhục, chẳng tranh hơn thua.
(76).- Tích chuyện Trưởng-lão Xá-lợi-phất bị vu-cáo.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến việc Trưởng-lão Xá-lợi-phất bị vu-cáo.
Thuở ấy, vào cuối mùa an-cư, Trưởng-lão Xá-lợi-phất sắp-sửa lên đường đi xa, cùng với một số tỳ-kheo. Có một tăng-nhơn trẻ tuổi vì bị Trưởng-lão nghiêm-khắc chỉ-dạy lỗi-lầm, nên sanh lòng oán-giận, đến thưa trình với Đức Phật rằng, mình bị Trưởng-lão Xá-lợi-phất mắng-nhiếc và đánh-đập. Đức Phật cho mời Trưởng-lão đến để hỏi sự thật ra sao. Trưởng-lão Xá-lợi-phất thưa: "Bạch Thế-tôn, có thể nào một tỳ-kheo thường quán-niệm thân-tâm, trước khi lên đường đi xa lại chẳng sám-hối lỗi-lầm của mình với người bạn đồng-tu? Con đây cũng như đất kia, chẳng thấy thoả-thich khi được hoa đẹp cắm lên, cũng chẳng thấy buồn-phiền khi bị phân hay rác-rưới vung-vãi lên. Con cũng như tấm thảm để chà chơn, như người ăn-mày, như con trâu đã gãy sừng. Con lại cảm thấy nhàm-chán, chẳng hề kuyến-ái đến tấm thân bất-tịnh nầy."
Khi nghe Trưởng-lão thốt lên những lời như thế, vị tăng-nhơn trẻ tuổi cảm thấy hổ-thẹn quá đỗi, bật lên khóc và xin thú tội đã nói dối vu-oan cho Trưởng-lão. Đức Phật khuyên Trưởng-lão nên vì lòng từ-bi mà chấp-nhận lời sám-hối của vị tăng-nhơn, kẻo y bị trừng-phạt nặng-nề. Trưởng-lão Xá-lợi-phất chẳng những chấp-nhận lời sám-hối của vị tăng-nhơn mà còn xin lỗi lại với vị nầy, nếu trước đây Trưởng-lão có làm điều chi xúc-phạm đến.
Lúc bấy giờ, chư Tăng thấy thái-độ đáng kính của Trưởng-lão nên hết lời khen ngợi. Đức Phật nói: "Nầy chư tỳ-kheo, Xá-lợi-phất chẳng còn chút sân-hận và ác-ý trong tâm nữa. Cũng như đất kia, Xá-lợi-phất rất nhẫn-nhục; cũng như trụ đồng kia, Xá-lợi-phất rất vững-chắc; cũng như nước hồ kia lắng sạch bùn-sình, tâm Xá-lợi-phất luôn luôn thanh-tịnh."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Trơ như đất, tâm không hiềm-hận;
Vững như trụ đồng, mặc cảnh nhục vinh,
Trong như hồ nước lắng sạch bùn sình,
Bực La-hán dứt Luân-hồi lận-đận.
(Kệ số 095.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Xá-lợi-phất: vị đại-đệ-tử của Phật, nổi tiếng là thông-minh bực nhứt. Tên tiếng Pali là Sariputta, nghĩa là con trai của bà Sari ( = bà Thu.)
- Vu-cáo: Vu = bịa đặt ra để gán tội cho ai; Cáo = mách, mét.Vu-cáo là dùng lời nói dối-trá đổ tội oan cho kẻ khác.
-Bạch Thế-tôn: Bạch = tiếng thưa trình với bực trưởng-thượng; Thế = thế-gian; Tôn = tôn-kính. Thế-tôn là bực được cả thế-gian tôn-kính. Khi đệ-tử thưa với Đức Phật, thì nói Bạch Thế-tôn. Phật tự-xưng là Như-Lai
- Quán-niệm thân-tâm: Quán-niệm =suy-nghĩ sâu-xa. Theo phép Quán Tứ niệm-xứ, hành-giả luôn nhớ nghĩ đến bốn điều: (1)thân bất-tịnh ( =bên trong thân chứa nhiều chất dơ), (2)thọ thị khổ ( =các cảm-thọ gây ra đau-khổ), (3)tâm vô-thường ( =tâm hay thay đổi luôn), (4) pháp vô-ngã (muôn vật đều rỗng-rang, vô-ngã). Nhờ phép quán nầy, ta chẳng bấu-víu vào thú vui vật-chất của cuộc đời sướng ít khổ nhiều nầy, mà lo tu-hành.
- Sám-hối = ngỏ lời xin lỗi, ăn-năn, và hứa chừa từ rày về sau.
- Đồng-tu = người bạn cùng tu-hành với mình.
- Vung-vãi = vứt bừa-bãi lên rất dơ-dáy.
- Bất-tịnh: Bất =chẳng; Tịnh = sạch-sẽ. Thân bất-tịnh, ở đây, chỉ vào bên trong thân chứa nhiều chất dơ, thân chẳng đáng quá quí-trọng.
- Từ-bi: Từ = thương người và đem vui cho người;Bi = thương người và cứu khổ cho người. Từ-bi, ở đây, nghĩa là vì lòng thương mà tha tội.
- Sân-hận: Sân =giận; Hận = hờn. Sân, giận thì nổi nóng la quát một lúc rồi nguôi; còn hận, hờn, tuy chẳng la lối, nhưng trong lòng giữ sự phiền-trách lâu ngày hơn.
- Hiềm-hận: cũng hờn-giận, nhưng dai-dẳng hơn.
- Nhẫn-nhục = nhịn nhục, cam chịu nhịn mà chẳng buồn tức hay oán
- Trơ = trơ-trơ, chẳng có phản-ứng gì.
- Nhục Vinh: Nhục =bị nói nặng, làm mất danh-dự, bị chạm tự-ái; Vinh = vinh-quang, được khen-ngợi, đề-cao.
- La-hán, A-la-hán: tiếng Pali là arahant, quả-vị Thánh, người đã diệt xong các phiền-não, chứng được vô-sanh, chẳng còn tái-sanh trong cõi Luân-hồi nữa, sống an-nhiên trong cảnh tịch-diệt.
- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo giáo-lý nhà Phật, chúng-sanh sanh ra, lớn lên hưởng sướng thì ít mà chịu khổ thì nhiều, chết đi phải sanh trở lại nữa, tùy theo nghiệp; sự tái-sanh đó gọi là cảnh Luân-hồi. Tu-hành đến cấp La-hán, mới hết bị nghiệp ràng-buộc.
- Lận-đận = gian-nan, khốn-khó, khổ-sở, ba chìm bảy nổi.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện đề-cao thái-độ của Trưởng-lão Xá-lợi-phất: chẳng tìm cách tự bào-chữa mình khi bị vu-oan, chẳng oán-giận người vu-cáo mình. Thái-độ nầy rất khó cho ta tập-luyện được, vì thường-nhơn hay phản-ứng, ăn miếng trả miếng. Trong sáu pháp Ba-la-mật của Bồ-tát-đạo: bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-định và Bát-nhã, hạnh nhẫn-nhục là hạnh khó tập-luyện nhứt, vì phải biết quên cái Ta.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 095:
Bài Kệ dạy ta giữ tâm cho thật an-tịnh:
- Tâm an: phải trơ như đất, vững như trụ-đồng. Trơ như đất, có nghĩa là khi bị sỉ-nhục, chẳng dùng lời thô-ác chống đối lại, giữ sự im-lặng mà trong lòng chẳng giận. Vững như trụ đồng, có nghĩa là khi được khen chẳng nở mũi khoe-khoang; khi bị chê-trách chẳng xụ mặt giận-dữ.
- Tâm tịnh: Tịnh là trong sạch. Tâm thanh-tịnh chẳng chứa giữ các ý xấu-ác, chỉ nghĩ tốt cho người, chỉ nghĩ nhũn-nhặn cho mình.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ phải giữ tâm an-tịnh.
2.- Thử đề-nghị tập giữ tâm thản-nhiên:
- khi được khen, chỉ cám ơn người khen và mỉm cười.
- khi bị chê, cũng cám ơn và nhỏ-nhẹ hứa sửa đổi.
(77).- Tích chuyện vị Sa-di ở Cô-sâm-bi.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến một vị Sa-di nhỏ tuổi ở xứ Cô-sâm-bi.
Thuở ấy ở Cô-sâm-bi có một cậu bé con lên bảy tuổi được nhận vào làm Sa-di, dưới sự chỉ-dạy của Trưởng-lão Thi-sa. Trước khi làm lễ thế-phát cho cậu, Trưởng-lão dạy cho cậu một đề-tài thiền-quán. Trong khi được cạo đầu, cậu bé suy-tư về đề-tài quán-chiếu thật là chăm-chú, khiến cho đến khi các sợi tóc cuối cùng vừa được hớt xong, thì cậu bé đã chứng được quả-vị A-la-hán.
Sau đó ít lâu, Trưởng-lão Thi-sa dẫn cậu bé lên đường đi đến Xá-vệ để đảnh-lễ Đức Phật. Dọc đường, cả hai nghỉ đêm trong một ngôi chùa nhỏ trong làng. Đêm ấy, Trưởng-lão lên giường nằm ngủ, còn cậu bé lại ngồi thiền suốt cả đêm bên cạnh giường của Sư-phụ. Trời mờ mờ sáng, Trưởng-lão chỗi dậy, định đánh thức cậu Sa-di, mới dùng cán quạt lá-kè khỏ vào đầu để gọi dậy. Rủi thay, cán quạt lại đánh mạnh nhằm vào mắt cậu Sa-di. Cậu lấy tay che mắt, nhổm dậy, đi lo nấu nước nóng cho Sư-phụ rửa mặt. Khi bưng nước ấm dâng lên
cho Thầy, cậu cầm thau nước có một tay, còn một tay thì che mắt. Sư-phụ
quở, sao lại vô-lễ dùng có một tay? Cậu vội bỏ tay bụm mắt ra cầm lấy
thau nước, bấy giờ Trưởng-lão mới nhận ra là mình đã đánh trúng mắt học-trò và làm hỏng hết một con mắt. Trưởng-lão vội-vàng xin lỗi, nhưng cậu Sa-di thưa: "Bạch Thầy, đó chẳng phải là lỗi của Thầy, mà chính là vì nghiệp cũ của con, nay con phải chịu chột mắt."
Đến khi đảnh-lễ Đức Phật, Trưởng-lão bạch Phật rằng, cậu Sa-di nầy
là một bực cao-quí nhứt mà Trưởng-lão chưa từng gặp. Khi nghe kể chuyện
lại, Đức Phật mới bảo rằng: ‘Nầy chư tỳ-kheo, một vị A-la-hán chẳng hề sanh lòng tức-giận đối với một ai, bao giờ cũng điều-phục các căn và luôn luôn tỏ ra thanh-thản và hoàn-toàn trầm-tĩnh."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Tâm trầm-tĩnh, ý lời trầm-tĩnh,
Các hành-động cũng đều trầm-tĩnh.
Đó là người có chánh-biến-tri,
Giải-thoát, sống quân-bình, an-tịnh.
(Kệ số 096.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Sa-di: người mới vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ-giới tỳ-kheo. Tiếng Pali là Sàmanera.
- Cô-sâm-bi: tên xứ nầy tiếng Pali là Kosambi.
- Thi-sa: tên của Trưởng-lão tiếng Pali là Tissa.
- Thế-phát: Thế = cắt, hớt (tóc); Phát = tóc. Làm lễ thế-phát là cạo trọc đầu đi tu.
- Đề-tài thiền-quán: Đề-tài là một đầu-đề, một đề-mục; Thiền-quán là để tâm suy-nghĩ thật sâu-xa về vấn-đề gì, chẳng hề xao-lãng.
- Quả-vị A-la-hán: quả-vị Thánh, cao nhứt trong bốn quả-vị của hàng Thanh-văn( = các đệ-tử sống gần bên Phật, nghe kinh và tu-tập theo)
- Ngồi Thiền: ngồi yên trong tư-thế kiết-già( =tréo hai chơn lên hai đùi), chăm-chú suy-tư về một đề-tài, chẳng lo ra. Còn gọi là toạ-thiền.
- Sư-phụ: Sư =thầy dạy; Phụ = cha. Sư-phụ là thầy dạy. Ở chùa, các vị tu-hành thường gọi thầy hay sư-cô dạy đạo cho mình là Sư-phụ.
- Lá-kè: lá cây kè, giống như lá dừa nước.
- Vô-lễ = vô phép, thiếu lễ-độ.
- Hỏng = hư. Làm hỏng mắt là làm hư con mắt.
- Nghiệp cũ: các hành-động của kiếp trước, nay sanh ra quả-báo.
- Chột mắt: bị hư hết một con mắt.
- Trầm-tĩnh: Trầm = chìm, lắng xuống; Tĩnh = yên-tịnh.
- Thanh-thản: nói về tâm-hồn của người cảm thấy nhẹ-nhàng, chẳng lo-lắng, chẳng phiền-muộn.
- Chánh-biến-tri: Chánh =chơn-chánh, đúng-đắn; Biến = cùng khắp tất cả, mọi việc; Tri =biết rõ. Chữ Chánh-biến-tri dùng để dịch danh-từ tiếng Phạn là Samyak-sambuddha, biết rõ được tất cả, đại-giác-ngộ.
- Quân-bình: Quân = đều nhau; Bình = ngang nhau, bằng nhau.Sống quân-bình có nghĩa là cuộc sống bình-thản, yên-ổn, chẳng náo-động, có tâm-hồn êm-ả, chẳng xao-xuyến.
- An-tịnh: An = yên-ổn; Tịnh = vắng-lặng. Chữ an-tịnh ở đây nói về tâm; tâm an-tịnh là tâm vừa trong-sạch, vừa yên-ổn, vắng-lặng, có nghĩa là lòng chẳng có ý ác, chẳng lo-sợ, chẳng phiền-muộn, luôn nhẹ-nhàng.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang hai ý-nghĩa
1) Vị Sa-di chuyên-tâm quán-chiếu trong khi làm lễ thế-phát đã chứng-đắc được quả-vị cao-quí A-la-hán. Chẳng phải ai làm theo như thế mà cũng chứng-đắc được; đây là trường-hợp hết sức đặc-biệt; vì phải tu nhiều đời kiếp, còn chưa chứng được quả-vị A-la-hán như thế.
2) Khi bị đánh hư một mắt, vị Sa-di chẳng thốt lên lời than-vãn kêu đau: đây là ý-chí hết sức mạnh-mẽ đè-nén được cơn đau khủng-khiếp. Đến khi Thầy ngõ lời xin lỗi vì lỡ tay, vị Sa-di lại cho rằng chính vì nghiệp cũ của mình mà bị chột mắt chớ chẳng phải do lỗi vô-ý của Thầy gây ra. Thái-độ chẳng oán-hờn nầy rất đáng ta nễ-phục.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 096:
Bài Kệ nêu lên đức-tánh của vị A-la-hán: Tâm an-tịnh; Trí giải-thoát. Thế nào là tâm an-tịnh? Ở đây, có ba phương-diện: (1) tâm trầm-tĩnh; (2) ý trầm-tĩnh, (3) lời trầm-tĩnh, cả ba phương-diện nói đến sự trầm-tĩnh, nghĩa là luôn luôn hiền-từ, dịu-dàng, từ-tốn, thanh-thản. Thế nào là Trí giải-thoát? Ở đây, bài Kệ nói đến Chánh-biến-tri, đó sự hiểu-biết thông-suốt được tất cả mọi sự-việc; đấy là Trí-huệ của Đức Phật. Người Phật-tử còn chưa được chánh-biến-tri, cho nên cố gắng học-tập Kinh-điển, thực-hành lời dạy của Đức Phật, dẹp bỏ các tà-kiến, sẽ đi đến gần chỗ Trí-huệ được giải-thoát.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ phải luôn tập tâm trầm-tĩnh
2.- Đề-nghị một thái-độ trầm-tĩnh: bị đứt tay chảy máu nhiều, đừng khóc lóc, chớ cuống lên, hãy lo băng-bó trong yên lặng.
(78).-Tích chuyện về một lời nói của Đại-Đức Xá-lợi-phất.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập về ý-nghĩa của một lời nói của Trưởng-lão Xá-lợi-phất.
Thuở ấy có ba mươi vị tỳ-kheo từ một làng nọ đi đến tịnh-xá Kỳ-viên để đảnh-lễ Đức Phật. Đức Phật quán-thấy trong số đó sẽ có người sắp chứng-đắc được quả-vị A-la-hán, mới cho mời Trưởng-lão Xá-lợi-phất đến và hỏi rằng: "Nầy Xá-lợi-phất, ông có nghĩ rằng khi quán-chiếu thâm-sâu về các căn, hành-giả có thể chứng-đắc được Niết-bàn chăng?" Trưởng-lão Xá-lợi-phất bạch Phật: "Bạch Thế-tôn, về vấn-đề chứng-đắc được Niết-bàn nhờ quán-chiếu thâm-sâu về các căn, chẳng phải vì con đây đã nghe lời dạy của Thế-tôn, rồi tin-tưởng nơi Thế-tôn mà con tin theo đó; chỉ có những kẻ còn chưa tự mình chứng-đắc mới đi tin lời của người khác nói mà thôi." Nghe nói thế, một số tỳ-kheo hiểu-lầm và cho rằng Trưởng-lão chưa dứt sạch các tà-kiến và thiếu niềm tin nơi Đức Phật.
Đoán biết tâm-trạng nghi-ngờ nầy của các tỳ-kheo kia, Đức Phật liền
giải-thích thêm: ‘Này các tỳ-kheo, lời nói của Xá-lợi-phất chỉ có nghĩa
giản-dị như thế nầy: Xá-lợi-phất có tin rằng, nhờ quán-chiếu thâm-sâu các căn, hành-giả sẽ chứng-đắc Niết-bàn; nhưng Xá-lợi-phất chỉ tin như thế, sau khi chính mình đã thực-sự chứng-đắc Niết-bàn,
chớ chẳng phải chỉ tin vì nhẹ dạ nghe theo lời dạy của kẻ khác.
Xá-lợi-phất luôn luôn tin-tưởng vào Phật, tin-tưởng vào các hậu-quả của
các hành-động thiện và bất-thiện."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Người chẳng dễ tin vì nhẹ dạ,
Thông-đạt pháp vô-vi Niết-bàn,
Cắt mọi hệ-lụy gây tái-sanh,
Diệt mọi duyên tạo nên nhơn-quả,
Bao tham-ái cũng đều bỏ cả,
Quả thật là vô-thượng Thánh-nhơn.
(Kệ số 097.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Đại-đức: Đại = lớn; Đức = đức-hạnh. Đại-đức là tiếng nhà chùa gọi các vị Tỳ-kheo; được trên ba mươi tuổi đạo thì gọi là Thượng-Toạ (thượng = trên; toạ = chỗ ngồi.), trên bốn mươi tuổi đạo là Hoà-thượng.
- Quả-vị A-la-hán, Xá-lợi-phất, Niết-bàn: xin xem lại bài trước.
- Quán-chiếu thâm-sâu: suy-nghĩ thật sâu-xa, chẳng xao-lãng.
- Các căn: Căn =gốc, nơi phát-sanh. Chữ các căn trong Phật-học chỉ vào năm giác-quan: mắt, tai, mũi, lưỡi và da; nhưng trong Phật-học có sáu căn, thêm ý-căn trong tâm.
- Tà-kiến: Tà =xiêng-xéo, sai lầm; Kiến = ý-kiến. Tà-kiến là ý sai-lầm.
- Nhẹ dạ = nghe ai nói cũng liền tin theo, chẳng suy-xét cặn-kẽ.
- Hậu-quả: Hậu = sau;Quả = kết-quả. Hậu-quả của một hành-động là những gì xảy ra do hành-động đó gây nên. Hậu-quả =/ = nguyên-nhơn.
- Thiện và Bất-thiện: Thiện =lành; Bất-thiện = chẳng lành.
- Thông-đạt = hiểu rõ thật tường-tận.
- Pháp vô-vi: các sự-việc chẳng bị điều-kiện-hoá, chẳng bị biến-đổi, luôn-luôn thường-còn, được gọi là pháp vô-vi, thí-dụ như Chơn-lý, Hư-không là các pháp vô-vi. Niết-bàn cũng thế.
- Hệ-lụy: Hệ = liên-hệ, dính mắc vào; Lụy = bó-buộc.
- Tái-sanh: Tái = một lần nữa; sanh = sanh ra. Tái-sanh là sau khi chết đi ở cõi đời nầy lại sanh ra một đời khác, theo luật Luân-hồi.
- Duyên = cơ-duyên, những gì khiến cho một sự-việc xảy ra.
- Nhơn-Quả: nguyên-nhơn và hậu-quả.
- Tham-ái = sự tham-muốn thái-quá. Chính vì tham-ái (tiếng Pali là Tanha) mà con người phải tái-sanh mãi trong cõi Luân-hồi.
- Vô-thượng: Vô = chẳng có; Thượng = trên. Vô-thượng là bực mà trên đó chẳng còn ai hơn nữa.
- Thánh-nhơn: Thánh = theo giáo-lý nhà Phật, bực đã dứt được tái-sanh trong vòng Luân-hồi. Tu-hành đến bực A-la-hán là chứng bực Thánh; còn ba quả-vị kia: Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, vì còn tái-sanh, nên được gọi là bực Hiền. Đó là bốn quả-vị, ba hiền, một thánh của hàng Thanh-văn
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại việc hiểu-lầm về một lời nói của Trưởng-lão Xá-lợi-phất: "Chẳng phải vì con nghe lời dạy của Thế-tôn mà con tin theo..." rồi cho rằng Trưởng-lão thiếu lòng tin-tưởng nơi Đức Phật. Đâu phải vậy! Ý Trưởng-lão muốn nói, chỉ tin vào Phật, sau khi đem lời dạy của Phật ra thi-hành thấy đúng và có lợi-ích. Nếu ta vừa nghe xong, đã tin ngay, đó có thể là vì nhẹ dạ mà tin, niềm tin đó còn lỏng-lẻo; chỉ khi nào ta thực-hành theo lời dạy, thấy rõ kết-quả mong-muốn, bấy giờ niềm tin mới vững-chắc.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 097:
Xin phân-tách các đức-tánh của Thánh-nhơn, nêu trong bài Kệ:
1) Người chẳng dễ tin vì nhẹ dạ: đây là lòng tin-tưởng thật vững-chắc vào Tam-Bảo: Phật, Pháp và Tăng.
2) Thông-đạt pháp vô-vi Niết-bàn: chẳng những hiểu rõ rành-rẽ về các pháp vô-vi ( = thường-hằng, chẳng bị điều-kiện-hoá, chẳng bị thay đổi) mà còn thực-hành, chứng-đắc về Niết-bàn ( = tâm-trạng người đã dứt hết các phiền-não, chẳng còn phải tái-sanh nữa.)
3) Cắt mọi hệ-luỵ gây tái-sanh: có nghĩa là dứt được mọi ràng-buộc trong cảnh Luân-hồi; nói cách khác, khiến cho sạch được nghiệp, chẳng còn tạo nhơn ác để phải tái-sanh lại nữa.
4) Diệt mọi duyên tạo nên nhơn-quả: tức là bỏ dứt việc làm ác tạo nên ác-báo sau nầy, chỉ chuyên hành thiện để mong được giải-thoát.
5) Bao tham-ái cũng đều bỏ cả: dứt mọi tham-luyến vào cuộc sống sướng ít khổ nhiều nầy, chỉ chuyên-tâm tu để được giải-thoát. Nhắm mục-tiêu Niết-Bàn, mà chẳng mong-cầu sớm đắc Niêt-bàn, vì còn mong-cầu là còn tham-ái.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ về lòng tin vững-chắc vào Phật-pháp, sau khi đã biết thực-hành theo giáo-pháp.
2.- Đề-nghị bỏ thái-độ nghe đồn ở đâu có chùa linh-thiêng, có thầy đắc-đạo, liền vội chạy đi theo. Đừng chê ngay, xét cho kỹ mới tin.
(79).- Tích chuyện Trưởng-lão Lê-va-ta.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Lê-va-ta, tu ẩn-cư trong rừng keo.
Thuở ấy gia-đình của Trưởng-lão Xá-lợi-phất có nhiều người đi xuất-gia, trong nhà chỉ còn một cậu trai nhỏ bảy tuổi. Cha mẹ lo-lắng rồi đây chẳng còn ai ở bên cạnh lúc tuổi già, nên đã sớm nhờ mối-lái tìm vợ cho cậu Lê-va-ta, theo phong-tục tảo-hôn ở Ấn-độ. Đến ngày đám cưới của mình, cậu Lê bỗng gặp một bà cụ già, hơn trăm tuổi; nhìn thấy cụ già lụm-cụm, cậu liền nghĩ đến cảnh khổ của con người trong kiếp sống, rồi đây ai cũng phải trải qua sự suy-nhược của tuổi già. Nghĩ đến đấy, cậu liền bỏ buổi lễ, trốn đi, chạy vào ngụ trong một tu-viện. Bấy giờ, các vị tỳ-kheo trong tu-viện, trước đây có được lời dặn của Trưởng-lão Xá-lợi-phất, hễ em của Ngài muốn đi tu, thì cứ nhận ngay cho làm Sa-di. Sau lễ thế-phát, các tỳ-kheo liền thông-báo cho Trưởng-lão Xá-lợi-phất hay tin rằng Lê-va-ta đã xuất-gia.
Sa-di Lê-va-ta được các tỳ-kheo chỉ-dạy cho một đề-tài thiền-quán, liền xin phép lên đường vào khu rừng cây keo, cách tu-viện hơn ba mươi do-tuần để tu-hành ẩn-cư. Chẳng bao lâu, chứng đươc quả-vị A-la-hán. Sau mùa an-cư kiết-hạ, Trưởng lão Xá-lợi-phất xin phép Đức Phật để vào khu rừng keo thăm em. Đức Phật bảo, Ngài và chúng Tăng sẽ cùng đi để viếng nơi cư-ngụ của Sa-di Lê-va-ta.
Đường đi đến rừng keo khá xa, quanh-co, gồ-ghề, lại vắng người,
nhưng chư Thiên đã dựng lên ở mỗi do-tuần một trạm nghỉ chơn, có đầy-đủ
thức-ăn vật-uống để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Khi hay tin
Tăng-đoàn sắp đến, Sa-di Lê-va-ta nỗ-lực dựng thêm lều để tiếp-đón. Và trong thời gian lưu lại tại rừng keo, mọi người đều được đủ tiện-nghi.
Khi trở về, Đức Phật và chúng Tăng ghé qua tu-viện Đông-viên ở phiá đông thành Xá-vệ. Bà Vi-sa-kha ra nghinh-đón, dâng-cúng thực-phẩm lên Đức Phật. Sau buổi ngọ-trai, bà Vi-sa-kha thưa hỏi Đức Phật về nơi cư-trú trong rừng keo của Sa-di Lê-va-ta như thế nào, Đức Phật liền đáp bằng bài Kệ, như sau đây:
Dù tại trong làng mạc,
Hay ở chốn rừng sâu,
Vực thẩm hay đồi cao,
Nơi La-hán toạ-lạc,
Vùng đất lành khả-ái.
(Kệ số 098.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Lê-va-ta: tên của Trưởng-lão, tiếng Pali là Revata.
- Rừng keo = rừng nầy có nhiều cây keo (tên cây nầy là Acacia)
- Ẩn-cư: Ẩn = ẩn-núp, ở chỗ kín-đáo; Cư = ở, cư-ngụ. Tu ẩn-cư là ở nơi vắng-vẻ, một mình, để chuyên-tâm tu-hành.
- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Xuất-gia là rời nhà đi tu.
- Mối-lái = người ở giữa, giúp cho hai người lạ, tính xong công-việc. Trong đám cưới, ta thường gọi người mối-lái là ông mai, bà mai.
- Tảo-hôn: Tảo = quá sớm; hôn =cưới vợ. Theo tục tảo-hôn, cha me lo cưới vợ cho con trai còn nhỏ tuổi. Tục nầy ở Việt-nam xưa kia cũng có.
- Suy-nhược: Suy = suy-sụp; Nhược = yếu-ớt. Trong bốn cảnh Khổ, được nói trong giáo-lý nhà Phật: sanh, lão, bịnh, tử thì lão ( =già)chỉ vào sự suy-nhược. Chẳng có ai tránh khỏi sự suy-nhược khi về già cả.
- Thế-phát: Thế = cắt (tóc); Phát = tóc. Lễ thế-phát là lễ cạo trọc đầu để thọ-giới Sa-di ( =người mới vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ giới tỳ-kheo. Sa-di, tiếng Pali là Sàmanera.)
- Đề-tài thiền-quán: xin nhắc lại, đó là một đầu-đề để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền.
- Do-tuần: dài khoảng một dặm (km, cây số), tiếng Pali là yojana.
- Quả-vị A-la-hán, An-cư kiết-hạ: xin xem lại nghĩa ở hai bài trước.
- Chư Thiên = các vị Trời.
- Tu-viện Đông-viên = tu-viện nầy, tiếng Pali là Pubbàràma, do bà cư-sĩ Vi-sa-kha xây cất, nằm về phiá Đông của chùa Kỳ-viên.
- Toạ-lạc: Toạ = ngồi; Lạc = chỗ tụ-hội. Ở đây, toạ-lạc = ở, cư-trú.
- Khả-ái = đáng yêu.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện mang hai ý-nghĩa:
1) Bỏ trốn vào ngày đám cưới: đây là trường-hợp rất đặc-biệt của một cậu bé bảy tuổi rời cuộc sống trong gia-đình để đi tu. Tích chuyện thuật lại vì cậu Lê trông-thấy cảnh già-suy nơi bà lão lụm-cụm hơn trăm tuổi mà quyết-định xuất-gia, tìm đường giải-thoát khỏi cảnh Khổ của sanh-già-bịnh-chết. Quyết-định xuất-gia nầy xảy ra vào ngày đám cưới rất kịp thời vì ngăn chặn được sự tạo thêm các mối ràng-buộc về vợ con sau nầy. Ta có thể thắc-mắc tại sao một cậu bé mới bảy tuổi mà có được một quyết-định quan-trọng như thế; nhưng xét lại, trong nhà cậu, các anh chị em đều đã xuất-gia, đó cũng là một nguyên-nhơn đã thúc-đẩy cậu noi theo con đường mà anh chị đã chọn. Nếu ta tin vào tiền-kiếp, có lẽ trong các đời trước, cậu đã tu-hành nhiều, nên kiếp nầy mới sớm cắt-đứt được mọi luyến-ái trong gia-đình mà đi xuất-gia.
2) Vùng đất lành khả-ái nơi vị A-la-hán ẩn-tu: Tích chuyện thuật lại Đức Phật đến Rừng Keo thăm-viếng nơi Sa-di Lê-va-ta ở, với mục-đích đề-cao cảnh-trí ẩn-tu thanh-tịnh. Tại sao nơi có vị A-la-hán ở lại là vùng đất khả-ái, đáng yêu? Đó là một nơi vắng-vẻ, xa hẳn chốn xôn-xao, đua chen của đời sống xã-hội ồn-ào. Đó là một nơi mà đức-hạnh cao-cả của người tu-hành có thể làm biến-đổi được phong-tục của những người sống chung-quanh, bằng lối sống giản-dị, an-nhiên, tự-tại.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 098:
Trong bài Kệ nầy, Đức Phật bảo, bất cứ nơi nào có vị A-la-hán đang tu-hành, dầu ngay trong làng-mạc, hay ở chốn vắng-vẻ, nhờ đức-hạnh cao-cả và sáng-chói của bực Thánh, đã trở thành một vùng đất an-lành, khả-ái. Tại sao? Lý-do vừa được nêu lên ở mục 2, bên trên.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để biết mến nơi tu-hành thanh-vắng.
2.- Để giải-trí vào dịp cuối tuần, xin đề-nghị đưa gia-đình đi viếng thăm một ngôi chùa trên núi.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến việc một tỳ-kheo bị một người đàn-bà quyến-rũ.
Thuở ấy có một vị tỳ-kheo, sau khi được Đức Phật chỉ-dạy cho một đề-tài thiền-quán, liền đến một khu vườn để thực-tập toạ Thiền. Bấy giờ, có một người đàn-bà đi ngang qua trông-thấy trang-mạo tuấn-tú của vị tu-sĩ mới sanh lòng quyến-luyến, và đến bên cạnh tìm cách dụ-dỗ. Vị tỳ-kheo vừa sợ-hãi, vừa cảm thấy toàn thân được một sự thoả-thích lâng-lâng tràn-ngập. Từ nơi hương-phòng ở chùa Kỳ-viên, Đức Phật quán-thấy cảnh-tượng ấy, ngại cho vị tỳ-kheo sa-ngã, Ngài dùng thần-thông, chiếu hào-quang đến khu vườn và bảo vị Tỳ-kheo rằng: ‘Nầy Tỳ-kheo, bọn phàm-phu thường hay chạy theo các dục-lạc về thể-chất; đây chẳng phải là nơi thuận-tiện cho việc toạ-thiền. Nên chọn nơi vắng-vẻ trong rừng sâu, vì phàm-phu chẳng tìm thấy thoả-thích ở các nơi ấy."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Rừng-rú đầy thích-thú,
Người đời ít ai chuộng.
Bực đã dứt dục-vọng,
Mến sống cảnh rừng hoang.
(Kệ số 099.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Tỳ-kheo: tiếng Pali là Bhikkhu, phiên-âm là bí-sô, dịch nghĩa là khất-sĩ, là tu-sĩ theo Phật-giáo, giữ giới khất-thực ( =đi xin ăn).
- Quyến-rũ = theo rủ-rê khiến cho người phải ngã theo điều xấu.
- Đề-tài thiền-quán: xin nhắc lại, một đầu-đề hay là đề-mục để suy-nghĩ thật sâu-xa, tâm chẳng xao-động, trong khi ngồi Thiền.
- Toạ Thiền = ngồi Thiền.
- Trang-mạo = hình-dung, dung-nhan, gương mặt, dáng-vóc.
- Tuấn-tú: đẹp trai, hiên-ngang, khôi-ngô.
- Hương-phòng = căn phòng có hương thơm, nơi dành riêng cho Đức Phật; tiếng Pali là Gandhakuti.
- Quán-thấy: trong cơn Thiền-định, thấy được nơi tâm.
- Thần-thông = phép-lực cao-cường như có thể bay trên không.
- Hào-quang = ánh-sáng chói lọi và rực-rỡ.
- Phàm-phu: Phàm =tầm-thường; phu = người. Phàm-phu là người thường, chưa tu; trái nghĩa với bực Thánh-hiền.
- Dục-lạc: Dục =ham-muốn; lạc =thú vui. Chữ dục-lạc thường trỏ vào các thú-vui thể-chất, thoả-mãn các giác-quan, nên thấp-kém.
- Dục-vọng = ham-muốn, giống nghĩa với chữ dục-lạc.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể việc một tỳ-kheo ngồi Thiền trong vườn bị một người đàn-bà đi ngang qua quyến-rũ; nhưng nhờ Đức Phật chỉ dạy nên chọn nơi rừng sâu vắng-vẻ, mới khỏi bị sa-ngã.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là khi ngồi Thiền, ta phải chọn một nơi thích-hợp, vắng-vẻ, mới có thể chuyên-tâm tu-hành.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 099:
Bài Kệ rất giản-dị, chẳng chữ nào khó cả, đề-cao cảnh thanh-vắng của rừng-rú, dễ cho việc tu-hành tinh-tấn. Người thường chẳng thích nơi rừng-rú vì họ còn ham-mê các thú-vui nhục-dục, rộn-ràng; còn người đã dứt bỏ mọi dục-vọng (tức là bực A-la-hán), dẹp bỏ mọi ham-muốn, thì thấy thoả-thích khi sống trong cảnh núi rừng xa vắng.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để biết mến chuộng cảnh núi rừng.
2.- Thử đề-nghị một cách nghỉ hè: tham-dự một khoá tu Thiền tại vùng núi rừng. Đây là một lối thay đổi không-khí rất thoải-mái, đi du-lịch rất thích-thú, chẳng phải chỉ để ngoạn cảnh núi non hùng-vĩ, mà còn có dịp ngồi dưới gốc cây khô, trên tảng đá mòn, tĩnh-tâm xét lại lòng mình.
-ooOoo-