XXI.- Phẩm Tạp-lục
214) Tích chuyện công-đức xưa của Đức Phật. - Kệ số 290. 215) Tích chuyện một bà hay ăn hột gà. - Kệ số 291. 216) Tích chuyện các tỳ-kheo đan dép cỏ. - Kệ số 292 và 293. 217) Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia, người thấp-lùn - Kệ số 294 và 295. 218) Tích chuyện con của người đốn củi. - Sáu bài Kệ, từ số 296 đến số 301. 219) Tích chuyện vị tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly. - Kệ số 302. 220) Tích chuyện về vị gia-chủ Chi-ta. - Kệ số 303. 221) Tích chuyện cô Chu-la-sử. - Kệ số 304. 222) Tích chuyện Trưởng-lão độc-cư Y-kha. - Kệ số 305.
XXII.- Phẩm Địa-ngục
223) Tích chuyện bà Sơn-đà-ly. - Kệ số 306. 224) Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên thấy ngạ-quỉ. - Kệ số 307. 225) Tích chuyện các tỳ-kheo tăng-thượng-mạn. - Kệ số 308. 226) Tích chuyện thanh-niên Khê-ma-ca. - Kệ số 309 và 310. 227) Tích chuyện vị tỳ-kheo xem nhẹ giới-cấm nhỏ. - Kệ số 311, 312, 313. 228) Tích chuyện người vợ ghen-tuông. - Kệ số 314. 229) Tích chuyện các tỳ-kheo qua muà an-cư nơi biên-ải - Kệ số 315. 230) Tích chuyện nhóm loã-thể Ni-kiền-tử. - Kệ số 316 và 317. 231) Tích chuyện nhóm người dị-giáo. - Kệ số 318 và 319.
XXIII.- Phẩm Voi
232) Tích chuyện bà Mã-can-di-hoa. - Kệ số 320, 321 và 322. 233) Tích chuyện người quản-tượng. - Kệ số 323. 234) Tích chuyện người cha già bị các con ruồng-bỏ. - Kệ số 324. 235) Tích chuyện vua Ba-tư-nặc ăn quá no. - Kệ số 325. 236) Tích chuyện Sa-di Sà-nhu. - Kệ số 326. 237) Tích chuyện con voi già. - Kệ số 327. 238) Tích chuyện con voi hầu-hạ Phật. - Kệ số 328, 329 và 330. 239) Tích chuyện Ma-vương cám-dỗ Phật. - Kệ số 331, 332 và 333.
XXIV.- Phẩm Tham-ái
240) Tích chuyện con cá vàng. - Kệ số 334, 335, 336 và 337. 241) Tích chuyện con heo nái - Sáu bài Kệ từ số 339 đến số 343 242) Tích chuyện tên trộm bị xử tử. - Kệ số 344 243) Tích chuyện các người tù bị xiềng-xích - Kệ số 345 và 346 244) Tích chuyện Hoàng-hậu Khê-ma - Kệ số 347 245) Tích chuyện người diễn trò nhào lộn - Kệ số 348 246) Tích chuyện người thiện-xạ - Kệ số 349 và 350 247) Tích chuyện Tôn-giả La-hầu-la bị Ma khuấy - Kệ số 351 và 352 248) Tích chuyện ẩn-sĩ Ưu-ba-ca - Kệ số 353 249) Tích chuyện Trời Đế-Thích thưa hỏi Phật - Kệ số 354 250) Tích chuyện một người tuyệt-tự - Kệ số 355 251) Tích chuyện vị Thiên-nam An-khư-ra - Kệ số 356, 357, 358, và 359
XXV.- Phẩm Tỳ-kheo.
252) Tích chuyện năm vị Tỳ-kheo cãi nhau về năm căn - Kệ số 360 và 361 253) Tích chuyện vị Tỳ-kheo giết con thiên-nga - Kệ số 363 254) Tích chuyện Tỳ-kheo Cơ-khả-ly - Kệ số 363 253) Tích chuyện Trưởng-lão Pháp-hỉ - Kệ số 364. 256) Tích chuyện vị Tỳ-kheo muốn ngả theo Đề-bà - Kệ số 365 và 366 257) Tích chuyện người bố-thí hoa quả đầu mùa - Kệ số 367 258) Tích chuyện mẹ của Trưởng-lão Sơn-na - Chín bài Kệ từ số 368 đến 376 259) Tích chuyện Tỳ-kheo nhìn hoa lài rơi khi ngồi Thiền - Kệ số 377 260) Tích chuyện Trưởng-lão San-ta-kha - Kệ số 378 261) Tích chuyện Trưởng-lãi Nan-ga-la - Kệ số 379 và 380 262) Tích chuyện Tỳ-kheo Hoa-kha-ly - Kệ số 381 263) Tích chuyện Sa-di Sữ-mã - Kệ số 382
XXVI.- Phẩm Bà-la-môn
264) Tích chuyện vị Bà-la-môm gọi tâng cac vị Tỳ-kheo - Kệ số 383 265) Tích chuyện về hai pháp: Chỉ và Quán - Kệ số 384 266) Tích chuyện Ma-vương thưa hỏi Phật - Kệ số 385 267) Tích chuyện một vị Bà-la-môn hỏi Phật - Kệ số 386 268) Tích chuyện Tôn-giả A-nan nhìn hào-quang Phật - Kệ số 387 269) Tích chuyện một vị Bà-la-môn ẩn-sĩ - Kệ số 388 270) Tích chuyện nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất - Kệ số 389 và 390 271) Tích chuyện Ni-bà Ba-xà-ba-đề - Kệ số 391 272) Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất lạy mỗi đêm - Kệ số 392 273) Tích chuyện vị Bà-la-môn Gia-thi-la - Kệ số 393 274) Tích chuyện vị Bà-la-môn lừa gạt - Kệ số 394 275) Tích chuyện Ni-bà Kỷ-sa-cơ tu khổ-hạnh - Kệ số 395 276) Tích chuyện vị Bà-la-môn ở Xá-vệ đến hỏi Phật - Kệ số 396 277) Tích chuyện Tỳ-kheo Úc-ga - Kệ số 397 278) Tích chuyện đấu trâu - Kệ số 398 279) Tích chuyện bốn anh em lỗ-mãng - Kệ số 399 280) Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất bị mẹ nhiếc-móc - Kệ số 400 281) Tích chuyện Ni-bà Bích-Liên - Kệ số 401 282) Tích chuyện người nô-lệ đắc quả A-la-hán - Kệ số 402 283) Tích chuyện Ni-bà Khê-ma - Kệ số 403 284) Tích chuyện Trưởng-lão Thi-sa và vị thần-linh - Kệ số 404 285) Tích chuyện vị Tỳ-kheo bị đánh-đập - Kệ số 405 286) Tích chuyện bốn vị Sa-di - Kệ số 406 287) Tích chuyện Trưởng-lão Đại-Phan - Kệ số 407 288) Tích chuyện Trưởng-lão Phí-linh-đa - Kệ số 408 289) Tích chuyện vị Tỳ-kheo lượm vải - Kệ số 409 290) Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất và việc dâng y - Kệ số 410 291) Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên bị hiểu lầm - Kệ số 411 292) Tích chuyện Sa-di Lê-va-ta - Kệ số 412 293) Tích chuyện Trưởng-lão Can-đà - Kệ số 413 294) Tích chuyện Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly - Kệ số 414 295) Tích chưyện Trưởng-lão Sơn-đà - Kệ số 415 296) Tích chuyện Trưởng-lão Gia-tị-la - Kệ số 416 297) Tích chuyện Giô-thi-ca 298) Tích chuyện Trưởng-lão Na-ta-bút (1) - Kệ số 417 299) Tích chuyện Trưởng-lão Na-ta-bút (2) - Kệ số 418 300) Tích chuyện Trưởng-lão Van-di-sa - Kệ số 419 và 420 301) Tích chuyện Ni-bà Đàm-ma - Kệ số 421 302) Tích chuyện Trưởng-lão Chi-man - Kệ số 422 303) Tích chuyện ông Đề-va-hy - Kệ số 423
Xin thưa nốt vài điều. |
-ooOoo-
XXI.- Phẩm TẠP-LỤC.
(214).- Tích chuyện cômg-đức xưa của Đức Phật.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các công-đức về tiền-kiếp của Đức Phật Thích-ca.
Thuở ấy ở xứ Tỳ-da-ly, trời hạn-hán, cỏ cây khô-héo, muà-màng ruộng vườn đều hư-hỏng, gây nên nạn đói-kém nặng-nề; nhiều người chết đói. Thây người nằm ngổn-ngang chẳng được chôn-cất, khiến bịnh dịch lan-tràn. Theo mùi tử-khí, các bầy ác-quỉ đến gây thêm tác-hại. Dân chúng chẳng biết tìm đường nào để sống-sót. Họ nghe nói có Đức Phật ở nước Xá-vệ, lòng từ-bi thường hay cứu khổ, cứu nạn cho chúng-sanh, nên mới cử người đến thưa cùng các vị hoàng-tử xứ Ly-xa, đến thỉnh Đức Phật. Vương-tử Đại-ly mới cùng một phái-đoàn các người Ba-la-môn trong vùng, đến yết-kiến vua Tần-bà-sa-la nhờ nhà vua đến thỉnh Đức Phật, vì hiện Ngài đang ngụ gần thành Vương-xá, thủ-đô xứ Ma-kiệt-đà của vua Tần-bà-sa-la.
Khi vua Tần-bà-sa-la đến gặp Đức Phật, trình-bày sự thống-khổ của dân-chúng trong xứ Tỳ-da-ly, Đức Phật liền nhận lời đến viếng xứ ấy, trước là giúp đỡ các nạn-nhơn đói-khổ, sau là để tạo cơ-duyên tốt cho dân-chúng trong vùng biết đến Chánh-pháp và chứng-đắc quả-vị. Vua Tần-bà-sa-la rất vui lòng, ra lịnh sửa-sang đường-xá từ thành Vương-xá đến tận bờ sông Hằng, cứ độ vài do-tuần, cho dựng một nhà nghỉ mát, có đầy đủ tiện-nghi về thực-phẩm. Bên kia bờ sông Hằng, vương-tử Đại-ly cũng chuẩn-bị y như thế, từ bờ sông đến thành Tỳ-da-ly. Đến ngày lên đường, Đức Phật cùng với đông-đảo tỳ-kheo rời thành Vương-xá, ngày đi đêm nghỉ; vua Tần-bà-sa-la theo tiễn chơn đến bờ sông Hằng, rồi mới quay về.
Hôm Đức Phật và chư tăng vừa vượt qua khỏi sông Hằng, trời đổ mưa dầm liên-tiếp trong nhiều ngày, nước chảy tràn khắp, cuốn các tử-thi ở Tỳ-da-ly trôi theo sông ra biển cả. Nhờ đó, quang-cảnh ở Tỳ-da-ly được đổi mới, sạch-sẽ; bầu không-khí trở nên dễ chịu, uế-khí tan-rả, các loài chim kên-kên ăn xác người chết bỏ bay đi cả; bịnh dịch ngưng lan-tràn. Đức Phật lại khiến Tôn-giả A-nan cùng một số tỳ-kheo đi diễn-hành qua đường-phố trong thành, vừa đi vừa đọc tụng Kinh Tam-Bảo. Nghe tiếng tụng Kinh, các ác-quỉ hoảng-sợ, bỏ chạy cả, và các bịnh-nhơn lần lần hồi-phục, cùng rủ nhau theo sau Tôn-giả đến hầu Đức Phật . Trong bảy ngày liền, Đức Phật giảng Kinh Tam-Bảo, và Tôn-giả A-nan hằng ngày hướng-dẫn các tỳ-kheo đi vòng quanh thành tụng-đọc Kinh ấy. Thành Tỳ-da-ly trở lại bình-thường sau một tuần-lễ. Các vị hoàng-tử xứ Ly-xa rất vui mừng, mở đại-hội bố-thí và cúng-dường Đức Phật cùng chư Tăng rất là trọng-thể. Sau đó, các vị hoàng-tử và dân-chúng cùng đi tiễn Đức Phật và chư Tăng trở về, đến tận bờ sông Hằng.
Bên kia bờ sông Hằng, vua Tần-bà-sa-la cùng với quan-dân đang chờ đón Đức Phật và chư Tăng, trong khung-cảnh thật tưng-bừng và trang-nghiêm. Trên không-trung, chư Thiên nghinh đón trong tiếng nhạc trời. Long-vương, vua loài rồng, cùng quyến-thuộc cũng có mặt. Sau khi mọi người đảnh-lễ và dưng-cúng lễ-vật lên tăng-đoàn xong, Long vương thỉnh Đức Phật cùng chư tỳ-kheo ngồi lên thuyền rồng, trang-hoàng bằng các loại hoa sen màu sắc thật rực-rỡ, đi viếng Long-cung. Đức Phật muốn tỏ lòng quí-trọng Long-vương, nên nhận lời. Ngài thi-triển thần-thông, ánh-sáng năm màu chiếu rực-rỡ lên; quang-cảnh ấy giống như khi trước, lúc Đức Phật vừa từ cung Trời Đao-lợi trở lại thế-gian.
Khi cả đoàn trở về thành Vương-xá, các tỳ-kheo rất hoan-hỉ được chứng-kiến cảnh tráng-lệ vừa qua, vô cùng khen ngợi công-đức của Đức Phật trong việc cứu-độ dân-chúng ở Tỳ-da-ly. Đức Phật bảo: "Nầy chư Tăng, chẳng phải vì việc cứu-độ vừa qua, hay đã thi-triển thần-thông trên sông Hằng, mà nay Như-Lai được sự cúng-dường trọng-thể. Đó thật ra là nhờ trong đời quá-khứ, Như-Lai đã có nhiều công-đức tuy nhỏ nhưng đã đem đến các phước-báu ngày nay." Rồi Đức Phật mới kể lại tiền-kiếp, như sau:
Vào thuở xa-xưa, ở thành Ta-xi-la, có một người Bà-la-môn tên là San-kha, có được một người con trai tên Sử-sĩ-mã rất thông-minh.Ông San-kha gởi con đến học với một vị Bà-la-môn khác về khoa thiên-văn. Sử học rất tấn-bộ, chẳng bao lâu, kiến-thức đã ngang với thầy, nên được thầy giới-thiệu đến thọ-giáo với một vị Bích-chi-Phật. Vị nầy bảo Sử, phải thọ-giới làm tỳ-kheo, mới được chỉ-dạy. Sử vâng lời và từ đó giữ-gìn giới-luật rất đầy-đủ, tu-tập thiền-định rất tinh-tấn, trong một thời-gian đã tự mình chứng-ngộ được Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu và đắc quả-vị Bích-chi-Phật. Nghiệp-báo đời trước đã sớm dứt, nên Sử-sĩ-mã chẳng sống lâu thêm, liền nhập Niết-bàn. Ông San-kha tìm đến Ta-xi-la thăm con, hay tin con đã nhập-diệt, lòng rất đau-buồn, mới thiêu-xác con, lấy xá-lợi đem thờ trong ngôi tháp. Hằng ngày, ông quét dọn sạch-sẽ chung quanh tháp, trang-trí với nhiều bông hoa rừng đẹp-đẽ. Đức Phật kết-thúc câu chuiyện: "Chính nhờ công-đức dựng tháp để kính-lễ một vị Bích-chi-Phật đó mà ngày nay Như-lai hưởng được phước-báu cúng dường vừa qua của Trời và người."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Chính nhờ từ bỏ dục-lạc nhỏ,
Mà ta tìm thấy phước-lạc to.
Thú vui nhỏ-nhặt, người hiền bỏ,
Phước lớn Niết-Bàn, cố tìm lo.
(Kệ số 290.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Tạp-lục: Tạp = có nhiều thứ khác nhau, lẫn-lộn; Lục = ghi chép. Phẩm Tạp-lục ghi chung lại các bài Kệ có nhiều đề-mục khác nhau.
- Tiền-kiếp Tiền = trước; Kiếp = nhiều đời; Tiền-kiếp là các cuộc đời trước, trước đời hiện-tại nầy.
- Thành Ty-da-ly, xứ Ly-xa: tên các điạ-danh nầy, tiếng Pali là thành Vesàli, xứ Licchavi, ở miền Bắc Ấn-độ xưa.
-Hạn-hán = trời nắng lâu ngày chẳng mưa, thiếu nước nên cây cỏ khô-héo.
- Bịnh dịch = bịnh truyền-nhiễm lây nhanh sang kẻ khác, dễ chết.
- Tác-hại: Tác = làm; Hại = tổn-hại; Tác-hại là tàn-ác gây tổn-hại.
- Từ-bi: Từ = thương người mà mang lại niềm vui; Bi = xót, tội-nghiêp cho kẻ khác mà cứu khổ họ.
- Vua Tần-bà-sa-la, thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà: tiếng Pali: vua Bimbisara, thành Ràjagaha, nước Magadha, xưa ở miền Bắc Ấn.
- Chánh-pháp: giáo-lý của Đức Phật, tiếng Pali là Dhamma.
- Sông Hằng: một con sông lớn ở Ấn-độ, tiếng Pali là Gangà.
- Do-tuần: đơn-vị đo chiều dài đường-xá, hơn một cây-số; tiếng Pali là Yojana.
- Tử-thi: Tử = chết; Thi = thây ma; Tử-thi là thây chết chưa chôn cất
- Uế-khí: Uế = dơ bẩn; Khí = hơi; Uế-khí ở đây là mùi hôi-thối.
- Đi diễn-hành: Diễn = trải qua; Hành = đi; Đi diễn-hành là nhiều người đi trong trật-tự, từ-từ bước qua các đường phố lớn trong thành.
- Kinh Tam-Bảo: Tam = ba; Bảo = kho-tàng quí-báu. Trong Phật-học, chữ Tam-Bảo nói về sự quí-báu của (1) Đức Phật, (2)Chánh-pháp của Phật và (3) Tăng-già, đoàn-thể các đệ-tử tu theo giáo-lý của Phật. Tiếng Pali là Ratana Sutta (Ratana = kho báu; Sutta = Kinh). Chữ Tam Bảo thường được nói gọn là: Tam-Bảo = Phật, Pháp, Tăng.
- Đại-hội bố-thí: cuộc bố-thí, phát chẩn, tặng cơm gạo, quần-áo cho những người nghèo-khổ.
- Cúng-dường: đọc trại từ chữ Hán-Việt: cung-dưỡng; cung = cung-cấp; dưỡng = nuôi-dưỡng.
- Trọng-thể: Trọng = lớn, nặng; Thể = hình-thể; Trọng-thể là rất lớn, rất trang-trọng.
- Chư Thiên = Chư = số nhiều, số đông; Thiên = Trời.
- Long-vương: Long = rồng; Vương = vua.
- Quyến-thuộc: Quyến = gia-quyến, bà-con; Thuộc = thân-thuộc, họ-hàng.
- Long-cung: Long =rồng; Cung = cung-điện.
- Thi-triển thần-thông = biến-hoá ra các phép-tắc lạ-thường; ở đây, Đức Phật phóng hào-quang (= phát ra ánh-sáng) năm màu rực-rỡ.
- Đức Phật từ cung Trời Đao-lợi trở lại thế-gian: sau khi giảng pháp ở trên cõi Trời Đao-lợi cho mẹ nghe, Đức Phật trở lại chùa Kỳ-viên, ở thế-gian nầy. Xin xem lại Tich chuyện số 149, trang 464, Tập 3
- Tráng-lệ = thật hết là đẹp-đẽ.
- Thành Ta-xi-la: tên thành nầy ở nước Xá-vệ, tiếng Pali là Taxila
- San-kha, Sử-sĩ-mã: các tên nầy, tiếng Pali là Sankha, Susìma.
- Bà-la-môn: phiên-âm chữ Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-độ.
- Thiên-văn: khoa-học khảo-sát các vị tinh-tú trong không-gian.
- Kiến-thức: Kiến = thấy; Thức = biết; Kiến-thức là sự hiểu-biết.
- Thọ-giáo: Thọ = nhận lãnh; Giáo = chỉ dạy. Thọ-giáo = theo học.
- Bích-chi-Phật: vị tu-hành tự mình giác-ngộ và giải-thoát vào thời chẳng có Chánh-pháp của một đức Phật nào. Tiếng Pali là Pacceka-Buddha, còn được dịch là Duyên-giác. Vị Bích-chi-Phật chỉ có sự tự-giác, chẳng có sự giác-tha (giúp cho kẻ khác giác-ngộ theo).
- Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu: chữ Hán-Việt là Tứ-Diệu-Đế, gồm có: (1)Khổ-đế, đời là Khổ; (2) Tập-đế, nguyên-nhơn của Khổ là Tham-ái; (3) Diệt-đế, sự tận-diệt hết Khổ, tức là Niết-bàn; (4) Đạo-đế, con đường đưa đến cảnh hết Khổ(Niết-bàn), tức là Bát-Chánh-Đạo.
- Niết-Bàn: chữ Phạn là Nirvana, chữ Pali là Nibbana, cảnh-giới đã dứt hết mọi khổ. Người chứng Niết-Bàn đã diệt hết mọi phiền-não, lià mọi tham-dục, hằng sống tự-tại trong cảnh tịch-diệt, hết tái-sanh.
- Nhập-diệt: Nhập = vào; diệt = tiêu mất. Nhập-diệt tức là chết đi.
- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui; Dục-lạc là ham các thú vui về vật-chất, về thân-xác; vì dục-lạc chỉ là tạm-bợ.
- Phước-lạc: niềm vui chơn-thật và bền-vững về tinh-thần; Phước-lạc ở đây là hạnh-phước thoát được mọi khổ, tự-tại trong Niết-Bàn.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất dài, có thể chia ra làm ba phần: (1) nạn chết-đói vì hạn-hán ở Tỳ-da-ly; (2) Đức Phật cứu-độ dân-chúng ở Tỳ-da-ly; (3) trong một tiền-kiếp làm người Bà-la-môn, Đức Phật có công xây tháp và kính-lễ một vị Bích-chi-Phật.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là sự tiếp-đón long-trọng của Trời, Người trong dịp Đức Phật đến thành Tỳ-da-ly để cứu nạn cho dân-chúng, chẳng phải vì công-đức cứu-độ đó mà được hưởng phước-báu, mà chính là do trong một tiền-kiếp làm người Bà-la-môn, Ngài đã xây tháp thờ-cúng một vị Bích-chi-Phật, nên nay Ngài mới được sự cung-kính của Nhơn,Thiên. Ý Đức Phật muốn khuyên ta đừng bỏ qua các việc thiện nhỏ, phải dứt-bỏ các thú-vui nhỏ mà tìm phước-báu lớn là được chứng-nhập cảnh Niết-bàn.
(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 290:
Tuy bài Kệ chỉ có bốn câu ngắn, gọn, dễ hiểu, nhưng tầm quan-trọng đối với người tu tại-gia rất là to lớn. Tại sao? Vì bài Kệ vạch rõ hai con đường: một đường chạy theo các thú-vui vật-chất, thoả-mãn các nhu-cầu thể-xác, tạm thời; còn một đường nêu rõ phước-báu to lớn, được thoát khỏi vĩnh-viễn cảnh khổ-đau của cuộc đời, ra khỏi vòng sanh-tử, tử-sanh lẩn-quẩn của cõi Luân-hồi lận-đận và chứng được cảnh-giới an-vui, tự-tại của Niết-Bàn. Bài Kệ dạy rõ: từ bỏ các thú-vui nhỏ, để cố tìm lo chứng được Niết-Bàn là phước-báu to lớn, bền chặt nhứt. Bằng cách nào? Học-tập và ứng-dụng Chánh-pháp trong cuộc sống hằng ngày.
Nói cách khác, bài Kệ chỉ ra hai con đường: sống buông-trôi theo thú-vui vật-chất tạm-bợ, để phải chịu khổ triền-miên trong cảnh tái-sanh, và lối sống tu-hành, biết khước-từ các dục-lạc (ham-muốn về thể-xác), tìm theo các lạc-thú tinh-thần, dẹp hết phiền-não, dứt mọi lậu-hoặc, để sớm chứng-đắc cảnh an-nhiên, tự-tại của Niết-Bàn. Con đường nào đưa tới Niết-Bàn? Đó là con đường thánh-đạo, tức là Bát-Chánh-Đạo.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ sự so-sánh giữa hai việc: dục-lạc nhỏ và phước-báu lớn.
2.- Tập dứt bỏ các thói-quen nhỏ mà xấu, như: mỗi sáng, khi tỉnh-giấc, hay "nằm nướng" trên giường; nay hăng-hái ngồi dậy rửa mặt, lo đi ngồi thiền hay niệm Phật ngay.
3) Tập khước-từ vài thú-vui nhỏ như ngồi nán xem thêm phim Chưởng, nên tắt sớm Tivi, lên giường xem qua vài đoạn Kinh rồi dỗ giấc ngủ.
4) Chứng được Niết-Bàn là điều cao-xa đối với người tu tại-gia, nhưng nhường-nhịn nhau một câu khiến cho gia-đình khỏi rầy lộn, từ-chối lời mời của bạn ghé quán rượu "nhậu sơ ba sợi", để về nhà sớm phụ vợ dọn cơm cho vui, thì sẽ khỏi bị ... cằn-nhằn, lỗ tai khỏi phải "nhức-nhối", tâm khỏi hờn mát, tránh được những cái khổ... nho-nhỏ đó, đấy là đang bước đến ngưỡng cửa của Niết-Bàn ở thế-gian!
(215).- Tích chuyện một bà hay ăn hột gà.
Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện Nữ-quái Kha-ly, số (4),trang 17, Tăp 1.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến người đàn-bà hay ăn hột gà.
Thuở ấy, ở một làng gần thành Xá-vệ, có một người đàn-bà nuôi một con gà mái đẻ trứng; mỗi ngày, gà vừa đẻ xong, bà lượm trứng đem vào bếp, luộc ăn. Con gà mái lòng đau-khổ vì mất trứng chẳng nở gà con, nên phát lời nguyền sẽ trả mối thù đó. Trong kiếp tới, gà mái đầu-thai làm mèo, còn người đàn-bà lại thành gà mái, bao nhiêu gà con sanh ra lần-lượt bị mèo cắn chết hết. Đến kiếp tới, một đàng sanh làm beo gấm ăn thịt nai con của nai-mẹ. Cứ thế mà mối thù truyền kiếp kéo dài hết đời nầy sang đời khác. Cho đến khi Đức Phật thị-hiện ở nước Xá-vệ, thì một đàng sanh ra làm đàn-bà, còn một đàng làm ngạ-quỉ.
Một hôm, người đàn-bà cùng chồng, bồng con về thăm quê mẹ. Dọc đường, trời nóng, người chồng xuống ao tắm; người đàn-bà bỗng trông thấy ngạ-quỉ đi tới, chực bắt con mình, mới lật-đật bồng con, chạy vào chùa Kỳ-viên, đặt con dưới chơn Đức Phật nhờ che-chở. Ngạ-quỉ rượt theo đến cổng chùa, bị ngăn lại. Đức Phật nhìn thấy, bảo cứ cho vào, để Ngài phán dạy. Sau khi nghe hai bên trình-bày mối thù truyền-kiếp, Đức Phật bảo: ‘Nầy hai tín-nữ, nếu hai bà chẳng đến đây gặp Như-Lai, thì mối thù truyền-kiếp giữa hai bà chẳng bao giờ chấm-dứt. Hận-thù đâu dập-tắt được hận-thù. Chỉ có lòng từ-bi mới khiến hận-thù được giải-kết."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà người đàn-bà chứng được sơ-quả Tu-đà-huờn và ngạ-quỉ xin quy-y Tam-Bảo:
Ai gieo đau-khổ cho người,
Để tìm hạnh-phước vui-tươi cho mình;
Kẻ ấy bị hận-tình ràng-buộc
Biết bao giờ thoát được oán-thù.
(Kệ số 291.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Đầu-thai: Theo giáo-lý nhà Phật, mỗi chúng-sanh mãn đời nầy được tái-sanh vào đời sau; khi nhập vào thai mẹ, gọi là đầu-thai.
- Truyền-kiếp = kéo dài từ đời nầy sang nhiều đời khác.
- Thị-hiện: Thị = bày tỏ ra; Hiện = nổi lên, cho thấy rõ; chữ Thị-hiện ở đây muốn nói Đức Phật giáng-sanh ở cõi đời nầy, hiện lên cho thấy.
- Ngạ-quỉ: quỉ đói; một hạng chúng-sanh thuộc đường dữ, bụng to, cổ nhỏ, thường bị đói-khát. Tiếng Pali là Peta.
- Giải-kết: Giải = mở ra; Kết = buộc lại. Giải-kết là mở chỗ buộc ra
- Sơ-quả Tu-đà-huờn: Sơ = đầu-tiên; Quả = quả-vị, kết-quả tu-hành thành-công. Tu-đà-huờn là quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-lưu, được vào dòng Thánh, hoặc Thất-Lai, chỉ còn tái-sanh cõi người bảy lần nữa; tiếng Pali là Sotàpatti.
- Quy-y Tam-Bảo: Quy = trở về; Y = nương-tựa; Tam = ba; Bảo = ngôi báu; Quy-y Tam-Bảo là nương-tựa tinh thần vào ba ngôi báu; tức là tin-tưởng vào Phật, Pháp và Tăng.
- Hận-tình = tình-cảm thù-oán; như chữ Hận-thù.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện Nữ-quái Kha-ly, có ý-nghĩa dạy ta, thù-oán chỉ nên cởi mở ra, chớ đừng đem thù trả oán; thù-oán vì thế cứ kéo dài mãi chẳng thôi, ràng-buộc cả hai bên, chẳng bao giờ được giác-ngộ và giải-thoát.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 291:
Ý-nghĩa của bài Kệ rất rõ-ràng, khuyên ta chớ nên vì hạnh-phước của
mình, gây thù-oán với kẻ khác. Vì thù-oán gây ra ràng-buộc, khiến ta
phải mắc vòng Luân-hồi mãi, chẳng giải-thoát được.
HỌC TẬP:
1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để dạy trẻ, anh chị em trong nhà chớ giận nhau, chẳng chịu nhìn mặt, hay nói chuyện cùng nhau.
2.- Ăn hột gà, có tội sát-sanh không? Hột gà có "trống", có mầm-mống của gà-con sẽ nở ra. Nếu không, chẳng có tội sát-sanh.
(216).- Tích chuyện các tỳ-kheo đan dép cỏ.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại thành Bá-đi-gia, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị tỳ-kheo lo đan dép cỏ để mang.
Thuở ấy, tại một tu-viện ở thành Bá-đi-gia, có một số tỳ-kheo để công ra tìm cỏ lau, đan thành dép và dùng hoa khô trang-trí lên quai dép. Đức Phật biết được sự-việc đó, mới quở rằng: "Nầy các tỳ-kheo, các ông đã từ-bỏ đời sống thế-tục, gia-nhập Tăng-đoàn là để lo tu-hành cho sớm được giác-ngộ và giải-thoát. Cớ sao lại lãng-phí thì-giờ, lo đan dép cỏ, kết hoa khô vào quai, mang đi để khoe đẹp?"
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó mà một số tỳ-kheo biết nỗ-lực hành-thiền, sớm chứng được quả-vị A-la-hán:
Chẳng làm điều đáng làm,
Chẳng nên làm, lại làm.
Thiếu tỉnh-giác, kiêu-căng,
Lậu-hoặc ắt gia-tăng.
(Kệ số 292.)
Năng quán thân bất-tịnh,
Siêng làm điều đáng làm,
Tránh điều chẳng nên làm,
Thông-suốt và giác-tỉnh,
Lậu-hoặc ắt tiêu-trừ.
(Kệ số 293.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Bá-đi-gia: tên thành-phố nầy tiếng Pali là Baddiya.
- Thế-tục: Thế = đời; Tục = thường; Đời sống thế-tục là đời sống thường, có gia-đình, trong xã-hội.
- Tăng-đoàn: Tăng = tu-sĩ Phật-giáo. Cứ bốn vị tăng trở lên tu chung với nhau, thành một Tăng-đoàn. Tiếng Pali là Sangha, Tăng-già
- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, dứt hết phiền-não, lìa bỏ mọi ham-muốn, thoát khỏi cảnh khổ Luân-hồi, chứng được Niết-Bàn an-vui, tự-tại. Tiếng Pali là Arahant.
- Tỉnh-giác: Tỉnh = chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác khi làm, nói, nghĩ điều gì thì trong tâm biết rõ mình đang làm, nói hay nghĩ về đìều ấy, và chỉ điều ấy mà thôi, chẳng hề lo ra, luôn luôn chú-ý.
- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sái-quấy. Chữ Lậu-hoặc chỉ các điều sái-quấy khởi lên trong lòng, bộc-lộ ra ( =rỉ-chảy) bằng hành-động xấu, hay lời nói thô-ác. Cùng nghĩa với chữ phiền-não.
- Kiêu-căng = làm phách, tự-cao và khoe-khoang.
- Quán = ngồi Thiền, tâm yên-tịnh và suy-nghĩ sâu-xa về một đề-tài; thường nói là quán-tưởng hay quán-chiếu.
- Quán Thân bất-tịnh: Bất = chẳng; Tịnh = sạch. Quán Thân bất-tịnh là suy-nghi sâu-xa về tấm thân vật-chất nầy, bề ngoài xem là đẹp mà
bên trong chứa nhiều chất dơ-dáy, như máu, mủ, ghèn, nước tiểu, phẩn,
v.v. Do quán thấy chỗ dơ trong thân mà sanh ra nhàm-chán thân, chẳng
chạy theo sắc đẹp nữa; nhờ đó mà biết thân nầy sẽ tan-rả theo lẽ Vô-thường. - Phép qán Thân bất-tịnh là một trong bốn phép quán của Tứ-niệm-xứ: (1) quán Thân bất-tịnh; (2) quán Thọ ( = cảm-giác) là khổ; (3) Tâm là vô-thường; (4) Pháp ( = muôn sự-vật) là vô-ngã Tu theo phép quán Tứ-niệm-xứ được thuần-thục, thông-suốt được ba lẽ: Khổ, Vô-thường, Vô-ngã thì sẽ chứng được quả-vị A-la-hán.
- Gia-tăng, Tiêu-trừ: Gia = thêm lên; Tăng = hơn lên; Tiêu = mất; Trừ = bớt. Hai chữ Gia-tăng và Tiêu-trừ nầy đối-nghịch nhau, một đàng thì thêm lên, còn một đằng mất đi hết.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị, Đức Phật quở các tỳ-kheo đan dép, chẳng lo hành Thiền, cho chóng được giác-ngộ và giải-thoát.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 292 và 293:
Bài Kệ trước nói khi nào lậu-hoặc gia-tăng; bài Kệ sau chỉ cách tiêu-trừ lậu-hoặc. Cách nào? Phải luôn luôn tỉnh-giác, nỗ-lực tu-tập quán-chiếu về thân bất-tịnh.
(217).- Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia, người thấp-lùn.
Tích chuyện nầy hơi giống các Tích chuyện: số (65) và số (197).
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Trưởng-lão Phát-di-gia, người thấp-lùn.
Thuở ấy, có một nhóm tỳ-kheo từ phương xa đến yết-kiến Đức Phật. Lúc bấy giờ, có Trưởng-lão Phát-di-gia dáng người thấp-lùn, đang đứng ở cuối phòng. Đức Phật hướng về phía Trưởng-lão, bảo các vị tỳ-kheo rằng: ‘Nầy chư tỳ-kheo, các ông có trông thấy vị Tăng đang đứng phía kia không? Đó là người đã giết xong cha cùng mẹ, nay ra đi nhẹ-nhàng, chẳng còn chút khổ-đau nào cả." Vừa nghe xong lời nói của Đức Phật, chúng tỳ-kheo rất ngạc-nhiên, chẳng hiểu được thâm-ý của Đức Phật, mới xin Đức Phật giải-thích thêm.
Đức Phật liền đọc hai bài Kệ sau đây để giải-thích lời ẩn-dụ:
Giết cha NGÃ-MẠN, mẹ ÁI-DỤC,
Diệt ĐOẠN-KIẾN,THƯỜNG-KIẾN hai vua,
Tổng-Tài ÁI-LUYẾN vừa thu-phục,
Vương-quốc MƯỜI HAI XỨ đánh thua,
Phạm-Chí ra đi chẳng sầu-muộn.
(Kệ số 294.)
Giết cha, giết mẹ vừa xong,
Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn.
Ngũ hổ-tướng NGHI-NAN diệt hẳn,
Phạm-Chí ra đi chẳng ưu-phiền.
(Kệ số 295.)
Xin lưu-ý: Tích chuyện và Bài Kệ mới đọc qua, thấy khó hiểu, vì ý của Đức Phật được nói ra thành lời ẩn-dụ, nghĩa là nói thí-dụ một cách thầm-kín; vì thế mà khó hiểu được ngay. Xin chịu khó đọc qua PHẦN TÌM HIỂU, rồi trở lại đọc Tích chuyện và hai bài Kệ, sẽ rõ hơn.
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Phát-di-gia: tên vị Trưởng-lão thấp-lùn nầy, tiếng Pali là Bhaddiya
- Thâm-ý: Thâm = sâu-kín; Ý = ý-tưởng; Thâm-ý là ý sâu bên trong, tuy khó hiểu liền, nhưng đó mới thật là ý của người muốn nói.
- Lời ẩn-dụ: Ẩn = dấu kín; Dụ = thí-dụ. Lời ẩn-dụ là lời nói thí-dụ một cách bóng-bảy, ý sâu dấu-kín trong sự so-sánh của thí-dụ. Như muốn nói, tôi đói bụng, mà lại nói, trong bụng tôi có kiến cắn, vì bụng đói cồn-cào, tựa như bị con kiến cắn vậy. Ở đây, Đức Phật nói giết cha, giết mẹ, là ý Ngài muốn nói, đã diệt xong các nguyên-nhơn khiến ta phải tái-sanh ra lại; vì các nguyên-nhơn đó làm cho ta tái-sanh, thì chúng cũng như là cha, là mẹ đã sanh ra ta vậy. Hễ diệt được các nguyên-nhơn gây tái-sanh nầy xong, thì thoát khỏi vòng Luân-hồi, tức là đâu còn phải sanh lại để chịu đau-khổ nữa. Nguyên-nhơn nào gây ra sự tái-sanh? Đó là ngã-mạn và ái-dục.
- Ngã-mạn: Ngã = ta; Mạn = kiêu-mạn, tự-cao. Ngã-mạn, tiếng thường là làm phách, coi Ta là hơn cả, chẳng muốn Ta bị thua thiệt, bị hao-mòn, bị chết mất. Vì còn quá trọng cái Ta như thế, nên khi lìa đời, chẳng muốn cái Ta mất đi, cho nên phải tái-sanh để cái Ta tiếp-tục sống nữa, đó là nguyên-nhơn gây ra tái-sanh vậy. Vì thế, Đức Phật gọi ngã-mạn là "cha". Tiếng Pali gọi ngã-mạn là Mana.
- Ái-dục: Ái = thương, thích; Dục = ham-muốn. Ái-dục là một tình-cảm sâu-đậm nhứt của con người, thúc-dục ta phải khao-khát, đòi hỏi chiếm cho được điều mình
thương, việc mình thích; như thèm-khát các thú-vui vật-chất, thoả-mãn
các giác-quan, hưởng-thọ khoái-lạc giữa nam-nữ, tất cả những dục-lạc do
cuộc sống mang lại. Vì sự khao-khát đó, nên sanh ra sự cố bám chặt vào đời sống sướng thì ít mà khổ lại nhiều nầy; do đó, ái-dục được Đức Phật xem là nguyên-nhơn gây ra Khổ, trong Chơn-lý thứ hai của Tứ Diệu-đế, tức là Tập-đế. Vì ái-dục là nguyên-nhơn gây ra cảnh Khổ trong cuộc tái-sanh trong vòng Luân-hồi, cho nên Đức Phật mới ví như bà mẹ sanh con vậy. Tiếng Pali gọi ái-dục là Tanhà.
- Đoạn-kiến: Đoạn = cắt rời, làm đứt đoạn; Kiến = ý-kiến. Đoạn-kiến là một tà-kiến, một tư-tưởng sai-lầm, cho rằng con người khi chết đi là hết, chẳng còn gì nữa, chẳng có đời sau, cũng như chẳng có đời trước; đó là "cắt đứt" cuộc sống vốn vô-thủy, vô-chung ( = chẳng biết lúc bắt đầu, cũng chẳng biết khi nào chấm dứt), chẳng có quả-báo chi cả. Người chấp vào đoạn-kiến chỉ biết làm sao để hưởng-thụ thật nhiều ngay trong hiện-tại, chẳng kể chi thiện-ác, vì họ đâu có tin vào Luật Nhơn-quả, chết đi là hết cả kia mà. Vì đoạn-kiến khiến họ có lối sống như thế, nên đoạn-kiến được xem như một ông vua đã
sai-khiến dân chúng trong nước phải mang tà-kiến sai-lầm nặng-nề đó, bị
ràng-buộc mãi trong kiếp sống trầm-luân, khổ-ách của Luân-hồi, chẳng
thấy biết được ánh-sáng của sự tự-do giải-thoát . Tiếng Pali gọi đoạn-kiến là Ucchedaditthi.
- Thường-kiến: Thường = thường còn, chẳng hề mất đi; Kiến = ý-kiến. Thường-kiến cũng là một tà-kiến, một tư-tưởng sai-lầm, cho rằng con người có sẵn một linh-hồn bất-diệt, nay sống đây, dầu có phạm vào điều gì sái-quấy, hay thực-hiện được việc gì đạo-đức đi nữa, cũng chẳng có ảnh-hưởng chi đến linh-hồn bất-diệt kia cả, một mai thân nầy chết đi, linh-hồn đó vẫn tiếp-tục mãi trong một thế-giới thường-hằng, chẳng biến-diệt. Người vướng vào thường-kiến cũng phủ-nhận luật Nhơn-quả, lý Luân-hồi, chỉ tin vào cuộc sống ở cõi đời hiện-tại nầy, chẳng hề lo nghĩ đến các cõi ác khác, mà cái "linh-hồn" kia sẽ phải sa-đoạ. Vì thường-kiến thúc-dục con người cứ đinh-ninh sẽ giữ mãi được hiện-trạng, nên được ví như một ông vua đã
khiến dân chúng cứ vui sống mãi trong thân-phận khổ nhiều sướng ít nầy,
cứ bị trôi lăn trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi mà chẳng hề nghĩ đến
việc giải-thoát khỏi, để được tự-do, tự-tại. Tiếng Pali gọi Thường-kiến là Sassataditthi.
- Tổng-Tài: đây là dịch rất gượng chữ Pali sànucaram, vị quan trông coi kho bạc của nhà vua; Tổng-Tài ở đây muốn nói đến vị tổng-trưởng tài-chánh, người chịu trách nhiệm về tiền-bạc trong nước.
- Ái-luyến: Ái = thương, thích; Luyến = mê-luyến, say-đắm, đeo chặt. Ái-luyến là thái-độ bám-viú vào, ôm chặt lấy vào điều mình thương, vào việc mình thích, chẳng thể rời ra được, vì thế mà bị ràng-buộc nặng-nề. Sự ái-luyến sanh ra từ lòng ái-dục, vì thèm-khát mà trở nên bám chặt vào sự ước-muốn được có mãi, chẳng cho mất đi. Đây là sự thương-mến đi quá mức, trở nên một nết xấu, ràng-buộc nhiều.
Tiếng Pali gọi sự Ái-luyến là Nandiràga.
- Thu-phục: Thu = thâu giữ; Phục = làm cho phải tuân theo lịnh mình; Thu-phục là đã thắng và buộc kẻ kia phải phục-tùng mình.
- Vương-quốc: Vương = vua; Quốc = đất nước; Vương-quốc là cõi đất nước của một vị vua cai-trị; ở đây chữ Vương-quốc dùng theo nghĩa bóng, chỉ đến thân-tâm con người cùng hoàn-cảnh chung quanh
- Mười hai xứ: chữ Xứ ở đây dùng theo nghĩa bóng, chỉ vào sáu căn ( = mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và sáu trần ( = sáu hình-thể của cảnh-vật: màu-sắc, âm-thanh, mùi, vị, cảm-xúc và tư-tưởng); đó là chỉ sáu nội-nhập ( = các cơ-quan thâu nhận cảnh-vật bên ngoài đem vào tâm; nội = trong; nhập = đưa vào) và sáu ngoại-nhập ( = các hình-thái từ bên ngoài xuyên qua các giác-quan đi vào tâm; ngoại = bên ngoài). Ở đây, nói đánh thua Mười hai xứ Vương-quốc, có nghĩa là đã làm chủ được các giác-quan, biết tự-kềm-chề, khiến cho thân-tâm chẳng bị cảnh-vật bên ngoài lôi cuốn nữa. Tiếng Pali gọi các Căn là Indriya và các Trần là Dhàtu, sáu nội-nhập là Ajjhatta àyatana, sáu ngoại-nhập là Bahiddha àyatana.
- Phạm-Chí: cùng nghĩa với chữ Bà-la-môn (Brahmana), là bực tu-sĩ, đạo-đức cao. Ở đây, chữ Phạm-chí chỉ bực tu-sĩ đã đắc được quả-vị A-la-hán, diệt hết phiền-não, lìa mọi dục-vọng, chứng được vô-sanh ( = chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi), an-vui và tự-tại.
- Bà-la-môn dòng hai chúa: câu văn nầy khúc-mắc, nếu nói cho xuôi lại thì: hai chúa dòng Bà-la-môn. Hai chuá dòng Bà-la-môn ở đây nhắc lại hai Vua là Đoạn-kiến và Thường-kiến, được nói đến ở bài Kệ trước, số 194. Câu "Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn" có nghĩa là đã diệt bỏ hẳn hai tà-kiến về đoạn-kiến và thường-kiến xong rồi.
- Ngũ-hổ-tướng NGHI-NAN: Ngũ-hổ-tướng là năm vị tướng mạnh-mẽ như cọp; Nghi-nan = nghi-ngờ, ở đây là nghi-ngờ, chẳng chịu tin theo Chánh-pháp của Đức Phật. Sao lại gọi là ngũ-hổ-tướng? Ba chữ nầy dùng theo nghĩa bóng, để chỉ năm điều ngăn-che, danh-từ Hán-Việt gọi là ngũ-cái, năm cái nấp-vung che đậy, dấu kín bên trong, chẳng thấy được Sự-Thật; đó là: (1) tham, (2) sân, (3) thùy-miên ( = mê ngủ nhiều), (4) trạo-hối ( = quá xao-động) và nghi-nan. Vì nghi-nan là vị "tướng" thứ năm trong ngũ-cái, nên mới gọi là ngũ-hổ-tướng.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc một nhóm tỳ-kheo từ phương xa đến yết-kiến Đức Phật. Họ được Đức Phật chỉ cho thấy Trưởng-lão Phát-di-gia, và nói cho họ biết, đó là người đã giết cha, giết mẹ, nay ra đi một cách tự-tại. Các vị tỳ-kheo rất ngạc-nhiên khi nghe nói như thế. Họ được Đức Phật đọc hai bài Kệ giải-thích, mới hiểu thâm-ý Đức Phật là muốn nói đến một vị tỳ-kheo đã chứng được quả-vị A-la-hán.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là: muốn chứng được quả-vị A-la-hán, cần phải diệt xong các phiền-não, dứt các tà-kiến, kềm-chế các giác-quan, giữ tâm an-tịnh trước hoàn-cảnh chung quanh; các điều nầy được Đức Phật kể tiếp ra trong hai bài Kệ.
(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 294 và 295:
Ý-nghĩa của hai bài Kệ là: con đường tu-tập để đi đến quả-vị A-la-hán gồm có những bước nào? Xin phân-tách từng câu và giải nghĩa thêm về các lời ẩn-dụ của Phật đã nói trong hai bài Kệ:
1) Giết cha NGÃ-MAN, mẹ ÁI-DUC: chẳng phải là giết cha-mẹ thật của mình, mà giết hay là diệt bỏ các nguyên-nhơn gây nên sự tái-sanh trong cõi đời nầy. Cha Ngã-mạn, Mẹ Ái-dục mới thật-sự khiến ta phải tái-sanh để mang lấy thân-tâm nầy sống trong cuộc Luân-hồi.
2) Diệt ĐOAN-KIẾN, THƯžNG-KIẾN hai vua: hai tà-kiến Đoạn và Thường nầy thúc-đẩy ta sống cuộc đời chẳng đúng theo đạo-đức, cũng tựa như hai Vua buộc ta phải sống theo luật-lệ trong nước của các vị ấy. Diệt hai vua đó là lìa bỏ hai tà-kiến ấy.
3) Tổng-tài ÁI-LUYẾN vừa thu-phục: Tổng-tài là Tổng-trưởng Tài-chánh, vị cầm giữ kho bạc trong nước; ý so-sánh ở đây là gọi sự say-đắm của Ái-luyến như sẵn có tiền, có bạc, dễ xài-phí để chạy theo các sự ham-muốn. Thu-phục được vị nầy, sự ái-luyến nầy, tức là nắm lại được quyền tự làm chủ lấy mình, tự biết kềm-chế lấy mình.
4) Vương-quốc MƯžI HAI XỨ đánh thua: thắng được nước kia gồm có mười hai xứ. Xứ nào? Đó là sáu căn cộng với sáu trần. Tâm bên trong yên-tĩnh được là nhờ khéo biết lúc nào nên đóng, lúc nào nên mở, sáu cánh cửa nhìn ra ngoài, chận được sáu hình-thể của cảnh-vật bên ngoài chẳng len vào được khuấy rối tâm. Đánh thua ở đây là biết điều-phục các căn vậy.
5) Phạm-Chí ra đi chẳng sầu-muộn: Phạm-Chí tức là Bà-la-môn, ở đây chỉ vị tu-sĩ Phật-giáo, đó là vị Trưởng-lão Phát-di-gia đã chứng được quả-vị A-la-hán. Vị Phạm-Chí đắc quả đó từ nay sống cuộc đời tự-tại, an-vui trong cảnh Niết-bàn, nên khi ra đi chẳng còn sầu-muộn.
Về bài Kệ thứ nhì, số 295:
1) Giết cha, giết mẹ vừa xong: diệt xong Ngã-mạn là cha, Ái-dục là mẹ, hai đấng sanh-thành đã đưa ta tái-sanh vào cõi đời nầy.
2) Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn: nói lại cho xuôi câu: giết luôn cả hai vua dòng Bà-la-môn. Hai vua đó là hai tà-kiến: đoạn-kiến và thường-kiến, đã nói qua trong bài Kệ trước.
3) Ngũ-hổ-tướng NGHI-NAN diệt hẳn: ông tướng-lãnh thứ năm, mạnh như cọp nầy chỉ vào sự Nghi-ngờ, thiếu tin-tưởng vào Chánh-pháp của Đức Phật. Sao lại gọi là ông tướng thứ năm? Vì ông ấy đứng hàng thứ năm trong năm "ông" trong ngũ-cái, là năm điều ngăn-che, chẳng cho ta thấy được Chơn-lý. (Năm ông nào vậy? Xin xem lại Phần Nghĩa Chữ ở trên.)Hễ diệt được sự Nghi-nan, bắt đầu tin-hiểu Chánh-pháp, thì vững bước trên con đường tiến đến đạo-quả.
4)Phạm-Chí ra đi chẳng ưu-phiền: Vị Phạm-Chí nầy, đắc quả A-la-hán, chính là Trưởng-lão Phát-di-gia, mà Đức Phật muốn giới-thiệu với các tỳ-kheo khi họ đến đảnh-lễ Đức Phật, nói trong Tích chuyện.
HỌC TẬP:
1.- Nếu bỏ công ra học thuộc lòng hai Bài Kệ, mà chẳng tìm hiểu hết ý-nghĩa ẩn-kín, thì
chẳng có ích-lợi chi nhiều cho việc tu-tập. Vì hai bài Kệ chứa nhiều
danh-từ chuyên-môn trong Phật-học, nên Phần Tìm Hiểu cũng giúp ích được đôi chút, nhưng phần quan-trọng chính là ở chỗ người tu-hành, phải tự-mình thực-hành, bằng không đó chỉ là sự hiểu-biết về danh-từ suông mà thôi.
2) Hai tà-kiến: đoạn-kiến và thường-kiến, sở dĩ ta vướng phải, là vì: hoặc vì chưa hiểu thấu các hình-thức và sự nguy-hiểm của hai tà-kiến đó; hoặc đã biết nhưng vì tự-cao, chẳng chịu tin theo Chánh-pháp, cứ ngoan-cố giữ mãi tà-kiến. Bỏ được không, chỉ do quyết-tâm.
3) Xin để dịp khác sẽ bàn thêm về cách dứt được Ái-Dục.
(218).- Tích chuyện con của người đốn củi.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến người con của kẻ đốn củi.
Thuở ấy, ở thành Vương-xá có một người tiều-phu hằng ngày thường cùng với đứa con trai vào rừng đốn củi. Hôm ấy, trời xế chiều, họ đốn được một xe củi, mới quay về. Dọc đường, hai cha con dừng lại bên nghĩa-địa, lấy cơm ra ăn. Họ cởi cái ách khỏi cổ của đôi bò, thả cho chúng đi ăn cỏ. Hai con bò đi từ bụi cỏ nầy sang bãi cỏ khác, chẳng mấy chốc đã đi xa; đến khi người tiều-phu sực nhớ, nhìn lại chẳng thấy đôi bò đâu cả. Ông liền dặn con cứ ngồi lại bên xe, chờ ông chạy đi kiếm. Theo dấu chơn bò, người cha đi mãi vào thành. Đến khi tìm được hai con thú, thì trời đã tối mò, cửa thành đã đóng lại, ông chẳng trở ra được để tìm con. Đứa con chờ cha mãi chẳng thấy trở lại, đành nằm xuống dưới gầm xe, đánh một giấc ngủ ngon.
Trời càng về khuya, theo cơn gió lộng, có hai hồn ma đi lang-thang, nhìn thấy đứa bé nằm ngủ dưới gầm xe, mới dừng lại khuấy rối. Nào kéo chơn, kéo tay, nào hù doạ; nhưng đứa trẻ vốn là một Phật-tử thuần-thành, chẳng sợ-hãi, chấp tay, miệng niệm "Mô Phật" vang lên, lòng tưởng đến công-đức của Phật-đà. Nghe tiếng niệm Phật, hai hồn ma hoảng sợ, định bỏ chạy, nhưng nhìn thấy đứa trẻ thơ-ngây đang nằm một mình, e nó bị hại, mới sanh lòng thương. Rồi một hồn ma ở lại bên xe, canh chừng, còn hồn ma kia đi tìm thức ăn cho nó. Vào đền vua, hồn ma ấy thấy trong nhà bếp có dọn sẵn một mâm cơm, liền bưng đi, để lại một miếng giấy làm tin.
Sáng hôm sau, người nhà bếp thấy mất mâm cơm, có tờ giấy trên bàn, mới đem trình Vua Tần-bà-sa-la. Vua đọc mảnh giấy xong, biết nơi tìm, mới sai người ra nghĩa-địa. Được hạch hỏi, đứa bé chỉ trả lời là đêm qua bị ma nhát, nó liền niệm Phật được bình-yên, rồi sau đó, cha mẹ nó dọn cơm cho nó ăn, ăn xong nó nằm xuống ngủ, nó chỉ biết có thế mà thôi. Vua ra lịnh dẫn cha con người tiều-phu đến chùa, trình lên Đức Phật sự-việc đêm qua. Nhà vua hỏi: "Bạch Thế-tôn, lòng tưởng-niệm đến công-đức của Phật-đà, chí thành niệm "Mô Phật" như thế, có đủ năng-lực tránh được các tai-hoạ chăng?" Đức Phật bảo: "Nầy Đại-vương, tâm hằng tỉnh-giác tưởng-niệm đến sáu việc nầy, sẽ giúp ta tránh khỏi tội-ác và tai-hoạ."
Rồi Đức Phật đọc lên sáu bài Kệ sau đây, kể rõ sáu việc đó:
Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công-đức Phật-đà luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 296.)
Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công đức Chánh-pháp luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 297.)
Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Công-đức Tăng-già luôn tưởng-niệm.
(Kệ số 298.)
Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần tinh-tấn,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Sắc-thân bất-tịnh luôn tưởng-quán.
(Kệ số 299.)
Chuyên-cần tinh-tấn, hằng tỉnh-giác,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Luôn vui với đức vô-hại-tác.
(Kệ số 300.)
Chuyên-cần tinh-tấn, hằng giác-tỉnh,
Các đệ-tử Phật Gotama,
Chẳng kể ngày ngày, đêm đêm qua,
Luôn vui thoả-thích tu thiền-định.
(Kệ số 301)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Tiều-phu = người đốn củi trong rừng để đem bán.
- Vương-xá: tên thủ-đô xứ Ma-kiệt-đà (Magadha), tiếng Pali là Ràjagaha. Gần thành Vương-xá, vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) có xây tịnh-xá Trúc-lâm (Veluvana), trong vườn trúc, để dưng-cúng Đức Phật.
- Ách: thanh gỗ cứng, đè lên cổ trâu, bò, để buộc chúng vào xe.
- Gầm xe = bên dưới chiếc xe, khoảng giữa hai bánh xe.
- Gió lộng = gió thổi lồng-lộng, gió thổi mạnh.
- Hồn ma = theo sự tin-tưởng trong Phật-học, đây là một hạng chúng-sanh vô-hình, đi lang thang, vất-vưởng, thuộc vào đường dữ, thường gọi là ngạ-quỉ hay là quỉ đói.
- Hù-doạ = doạ nạt, khiến cho sợ-hãi.
- Phật-tử thuần-thành: người tin theo đạo Phật, tuân theo Chánh-pháp, siêng-năng đi chùa nghe giảng pháp, sống có đạo-đức. (Thuần = chuyên-cần, đứng-đắn, tốt; Thành = nhiệt-thành, thành-thật.)
- Mô Phật: nói tắt bốn chữ Nam-mô Phật-đà, tiếng Pali là Namo Buddhassa, có nghĩa là Chí-tâm đảnh-lễ Đức Phật, kính lạy Đức Phật.
- Nghĩa-địa = bãi tha-ma, nơi chôn cất người chết.
- Hạch hỏi = tra hỏi, hỏi cho kỹ để biết Sự-thật; điều-tra.
- Tỉnh-giác: Tỉnh = tỉnh-táo, chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác là người luôn luôn chú-ý, đang làm, nói hay nghĩ điều gì, trong tâm biết rõ mình đang làm, nói hay nghĩ về điều đó và chỉ điều đó thôi.
- Thúc-liễm: Thúc = bó-buộc; Liễm = gom-góp lại; Thúc-liễm là giữ mình cẩn-thận, chẳng lơ-là, chẳng phóng-túng, tự canh-chừng lấy mình, ráng giữ để tránh các lỗi-lầm, tội-ác.
- Phật Gotama = Đức Phật Thích-ca; Gotama là họ, đọc là Gô-ta-ma, phiên-âm Hán-Việt là Cồ-đàm.
- Tưởng-niệm: luôn luôn ghi nhớ trong lòng, chẳng hề quên.
- Tăng-già: phiên-âm chữ Pali Sangha, đoàn-thể tu-sĩ Phật-giáo có từ bốn vị tu chung với nhau trở lên; dịch là Giáo-hội Phật-giáo.
- Tưởng-quán Sắc-thân bất-tịnh: Tưởng-quán = tâm an-định suy-nghĩ sâu-xa về một đề-tài thiền-quán. Sắc-thân: tấm thân vật-chất; Bất-tịnh: Bất = chẳng; Tịnh = trong-sạch. Quán-tưởng sắc-thân bất-tịnh là một phép quán, trong Kinh Tứ-niệm-xứ, riêng quán về tấm thân con người, bề ngoài xem đẹp-đẽ, mà bên trong chứa ba-mươi-hai chỗ dơ-dáy, đáng gớm-ghiếc; hễ siêng tu-tập về đề-tài thiền-quán nầy sẽ dứt bỏ được sự say-mê theo các thú-vui xác-thịt, từ từ diệt bỏ được cái Ngã, thấy rõ tấm thân nầy hay biến-đổi rồi sẽ hoại-diệt, gây ra đau-khổ, nhờ đó mà thấu-hiểu được các lẽ Vô-thường, Khổ và Vô-ngã.
- Vô-hại-tác: dịch gượng chữ Pali Ahimsa, đức-tánh chẳng hề làm tổn-hại ai, ngay cả đối với kẻ thù, đối với loài côn-trùng nhỏ-nhít đi nữa. (Vô = chẳng; Hại = gây sự tổn-hại; Tác = làm.)Danh-từ vô-tác-hại còn được dịch là Vô-não (Não = não-hại, gây sự phiền-não, tổn-hại.)
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện tuy dài, có thể tóm-tắt lại như sau: một đứa bé bị ma nhát, liền niệm Phật thật to, nhờ đó mà chẳng bị hại.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là nhờ tâm hằng tỉnh-giác, luôn luôn tưởng-niệm đến lời Phật dạy, nên tránh được tai-hoạ và tội-ác.
(2) Ý-nghĩa của sáu bài Kệ từ số 296 đến số 301:
Đọc kỹ sáu bài Kệ, ta thấy chúng giống nhau gần hết, chỉ trừ ở mỗi bài, nơi câu chót, có bốn chữ khác nhau:
1) Phần giống nhau giữa sáu bài Kệ: Các đệ-tử Phật luôn luôn tỉnh-giác, tâm hằng tưởng-niệm hoặc đến
công-đức Phật, Pháp, Tăng, hoặc quán-tưởng sắc-thân bất-tịnh, hoặc vui
trong tánh vô-hại-tác, hoặc thoả-thích trong Thiền-định.
2) Phần khác nhau về đề-mục tưởng-niệm hay quán-tưởng:
a)Bài Kệ số 296 nói về sự Tưởng-niệm công-đức Phật: đó là tưởng-niệm về sự tự-giác, giác-tha và giác-hành viên-mãn của Đức Phật. Nói cách khác, Đức Phật là bực tự mình giác-ngộ lấy, đi dạy kẻ khác giác ngộ theo, và công-cuộc dạy-dỗ kẻ khác của Ngài đã được hoàn-thành tốt-đẹp.
b) Bài Kệ số 297 nói về Tưởng-niệm công-đức Chánh-pháp: đó là tưởng-niệm về Giáo-pháp của Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy được con đường giác-ngộ và giải-thoát khỏi mọi khổ-đau.
c) Bài Kệ số 298 nói về Tưởng-niệm công-đức Tăng-già: đó là dạy ta biết noi theo tấm gương tốt tu-hành của các vị đệ-tử của Đức Phật, lìa bỏ mọi ham muốn ràng-buộc, giữ giới-luật nghiêm-minh.
d) Bài Kệ số 299 nói về Quán-tưởng về sắc-thân bất-tịnh: nhờ đó mà lìa bỏ được các thú-vui thể-xác, thấu-hiểu rõ được các lý-lẽ vô-thường, khổ và vô-ngã, để tiến lần đến sự giác-ngộ.
e) Bài Kệ số 300 nói về Quán-tưởng về đức vô-hại-tác: nhờ chẳng làm hại ai, biết đem ơn ra báo oán, diệt được sân-hận, rải Tâm Từ-bi rộng đến muôn loài, khiến cho cuộc sống chung trở nên hài-hoà
f) Bài Kệ số 301 nói về sự Thoả-thích tu Thiền-định: nhờ đó sớm đắc định-tâm, khiến cho Trí-huệ Bát-nhã được phát-sáng, sớm đến nơi giác-ngộ và giải-thoát.
Tóm lại sáu bài Kệ là sáu đề-tài Thiền-quán, dùng để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền, và để áp-dụng trong đời sống đạo-đức.
HỌC TẬP:
1.- Sáu bài Kệ tuy dài, nhưng cũng dễ nhớ; nếu muốn học thuộc lòng, chỉ cần học thuộc bài thứ nhứt; đến các bài kế, nhớ đổi bốn chữ đầu-tiên của câu chót.
2.- Học-tập về sáu bài Kệ, chẳng phải cố học sao thuộc nằm lòng, ngâm-nga lên cho thú-vị, mà phải đem các lời Phật dạy ra thi-hành trong đời sống hằng ngày, như:
- Tưởng-niệm công-đức Tam-Bảo, Phật, Pháp, Tăng: trong các khoá lễ, miệng đọc Quy-y Phật, thân cúi xuống lạy, thì trong tâm phải nhớ đến các công-đức của Phật; Quy-y Pháp và Tăng cũng vậy;
- Khi Quán thân bất-tịnh, nên soát lại ngày hôm nay, có bớt các đòi hỏi về ăn mặc được phần nào chưa, bụng còn muốn các món trang-sức đắt tiền không, soát lại để bỏ bớt từ từ, đó là làm thanh-tịnh cho phần tinh-thần của thân-tâm.
- Học đức vô-hại-tác bằng các hành-vi nhỏ-nhặt trước, vứt bỏ mấy chai thuốc giết sâu-bọ ngoài vườn; rồi đến thái-độ hoà nhã, bị đạp chơn nơi đông người, biết vui nhường bước chẳng hề cãi-vã.
- Tập thoả-thích tu Thiền-định, bằng cách tự-kiểm lại tâm mình, trước khóa Thiền, bụng có viện cớ nầy, cớ nọ để bỏ qua không, trong khi ngồi, có bực mình khi nghe tiếng động không, sau khi ngồi, lòng mình có thanh-thản nhẹ-nhàng hơn trước khi ngồi thiền không?
(219).- Tích chuyện vị tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly chẳng thấy thoả-thích trong nếp sống xuất-gia.
Thuở ấy, vào một đêm rằm, trời trong sáng, dân-chúng trong thành Tỳ-da-ly mở hội hoa-đăng, vui đùa, ca múa thật tưng-bừng rộn-rịp, để mừng trăng-sao. Tại nơi tu-viện, một vị tỳ-kheo đứng dưới gốc cây cổ-thọ, lặng-lẽ nhìn ánh-sáng rực-rỡ nơi kinh-thành, lòng chán-nản, chép miệng than: "Trên cõi đời nầy, chẳng ai có thân-phận buồn-khổ hơn thân-phận tỳ-kheo của ta nữa!" Vào lúc ấy, vị thọ-thần trên cây cổ-thọ nghe thấy, mới hiện lên đứng bên cạnh và nói: "Nầy thầy tỳ-kheo, các kẻ bị đoạ trong địa-ngục rất thèm-khát cuộc sống trên các cõi Trời. Các người lao-động trong thành cũng ước mong được tự-tại trong cảnh rừng vắng-vẻ nơi tu-viện nầy." Nghe nói thế, vị tỳ-kheo liền tỉnh-ngộ, hiểu được lời khuyên kín-đáo và tỏ ra hối-tiếc đã có ý-nghĩ chẳng tốt đối với đời sống xuất-gia.
Sáng hôm sau, vị tỳ-kheo ấy đến yết-kiến Đức Phật, trình lại lời nói của vị thọ-thần. Đức Phật dạy thêm: "Nầy tỳ-kheo, cuộc sống của chúng-sanh trong cõi Luân-hồi, đều mang sẵn nỗi-niềm đau-khổ cả."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó vị tỳ-kheo giác-ngộ, nỗ lực tu-tập, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán:
Rời khỏi nhà, đi tu là khó,
Vui hạnh tỳ-kheo, khó lắm thay!
Chủ gia-đình hằng ngày chịu khổ;
Gần người chẳng hợp, khổ nào tày?
Luân-hồi trôi lặn đắng cay,
Chớ theo khổ, phải dứt ngay Luân-hồi.
(Kệ số 302.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Tỳ-da-ly: tên thành nầy, tiếng Pali là Vesàli.
- Tịnh-xá Trúc-lâm = tu-viện cất trong vườn Trúc, tiếng Pali là Veluvana, do vua Tần-bà-sa-la dưng-cúng Phật, gần thành Vương-xá.
- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Trong Phật-học, chữ xuất-gia có nghĩa là rời khỏi nhà, lìa cuộc sống trong gia-đình, đi tu. Đối-nghĩa với xuất-gia là tại-gia, người tu-hành còn sống trong gia-đình.
- Hoa-đăng: Hoa = bông-hoa; Đăng = đèn; Hội hoa-đăng là buổi lễ vui treo đèn, kết hoa.
- Cổ-thọ: Cổ = xưa; Thọ = cây to lớn; Cổ-thọ là cây lâu năm, to lớn
-Thân-phận: cảnh-ngộ; vận-mạng, hoàn-cảnh đời sống của mình.
- Thọ-thần: Thọ = cây cổ-thọ; Thần = thần-linh. Thọ-thần là một vị thần-linh, thuộc hạng A-tu-la, sống trên cây cối.
- Tự-tại = tự-do, chẳng bị ràng-buộc.
- Tỉnh-ngộ: Tỉnh = hết mê, thức-tỉnh; Ngộ = hiểu; Tỉnh-ngộ là biết rõ trước mình đã lầm, nay theo điều đúng.
- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Phật-học tin rằng, chúng-sanh sau cuộc sống nầy sẽ sanh trở lại, vào một cuộc sống mới, để phải chết đi rồi tái-sanh mãi, như bánh xe cứ quay tròn. Tiếng Pali là Samsàra.
- Giác-ngộ: Giác = biết rõ; Ngộ = hiểu thấu. Người giác-ngộ là người đã hiểu rõ Chơn-lý, biết đúng lẽ sống chết của chúng-sanh. Đức Phật là bực đại-giác.
- Quả-vị: kết-quả của việc tu-hành đã thành-công. Có bốn quả-vị trong hàng Thanh-văn là các đệ-tử sống gần bên Phật, nghe kinh mà tu-tập (Thanh = tiếng nói; Văn = nghe; tiếng Pali là Sàvaka); đó là (1) Tu-đà-huờn (Sotàpatti) hay Nhập-lưu, hay Thất-Lai, còn bảy lần tái-sanh; (2) Tư-đà-hàm (Sakadàgamì) hay Nhứt-Lai, còn một lần tái-sanh; (3) A-na-hàm (Anàgami) hay Bất-Lai, chẳng sanh lại cõi người; (4) A-la-hán (Arahant), chứng được vô-sanh, hết phải tái-sanh.
- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt trong hàng Thanh-văn. Bực A-la-hán đã diệt xong các phiền-não, lià bỏ mọi ham-muốn, chẳng phải tái-sanh nữa (gọi là chứng vô-sanh), sống an-vui, tự-tại trong cảnh Hữu-dư Niết-bàn, đến khi tịch-diệt ( = chết), thì vào Vô-dư Niết-bàn.
- Hạnh Tỳ-kheo: Hạnh = hạnh-kiểm, đức-hạnh; Tỳ-kheo phiên-âm tiếng Pali là Bhikkhu, hay Bí-sô hoặc Tỳ-khưu, còn dịch là Khất-sĩ, tức là tu-sĩ Phật-giáo phải đi xin ăn, tuân theo 250 điều giới-luật, sống xa gia-đình thế-tục. Phái nữ là tỳ-kheo-ni (Bhikkhuni) thọ 348 giới-luật.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại một vị tỳ-kheo đứng nơi tu-viện vắng-vẻ, hướng nhìn về cảnh vui nhộn của hội hoa-đăng trong thành
Tỳ-da-ly, cảm thấy buồn-tẻ, mới than-thở về thân-phận tỳ-kheo của mình.
Một vị thọ-thần nghe thấy hiện lên bảo cho biết, ở dưới địa-ngục có kẻ còn đang đau-khổ, ở trong thành còn có người lao-động thiếu tự-do. Vị tỳ-kheo sực-tỉnh, hối-tiếc đã nghĩ chẳng tốt về nếp sống xuất-gia. Hôm sau, vị ấy được Đức Phật dạy thêm, chúng-sanh phải chịu khổ đau nhiều trong ba đường dữ, vậy nên phải cố-gắng tu-tập để ra khỏi cảnh tái-sanh của vòng Luân-hồi lẩn-quẩn.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là: xuất-gia đi tu được là đang có phước lớn, vì đã chọn đúng con đường giải-thoát dứt khoát mọi khổ-đau.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 302:
Bài Kệ chẳng có chữ chi khó hiểu cả, nhưng ý-nghĩa rất thâm-sâu, xin phân-tách từng câu:
1) Rời khỏi nhà, đi tu là khó: Tại sao khó? Vì trong lòng còn bận-bịu, quyến-luyến đời sống ở nhà. "Rời khỏi nhà" nghĩa sâu ở đây là lìa bỏ "nhà phiền-não", tức là thân-tâm còn đeo nặng tham, sân, si.
2) Vui hạnh tỳ-kheo, khó lắm thay: Tại sao khó? Vì phải tuân giới-luật đã nhiều, lại nghiêm-khắc; nhưng tự khép mình trong kỷ-luật, đó lại chính là đang tự giải-thoát mình ra khỏi phiền-não và tội-ác, nên đấy mới là niềm vui của hạnh tỳ-kheo mà ít người biết đến.
3) Chủ gia-đình hằng ngày chịu khổ: Tại sao khổ? Vì phải vật lộn với đời để mưu-sanh, tranh sống cho mình và cho gia-đình mình.
4) Gần người chẳng hợp, khổ nào tày: Tại sao gần người chẳng hợp lại chẳng khổ nào bằng? Vì trái ý nhau, chống-đối nhau luôn, sanh ra khó chịu, khổ-sở. Nhưng câu nầy còn nhắc đến bảy nỗi khổ khác nữa: sanh, già, bịnh, chết, thương mà xa nhau, cầu mà chẳng được, thân-tâm chẳng thăng-bằng.
5. Luân-hồi trôi lặn đắng cay: Tại sao đắng cay? Vì sẽ phải đoạ vào các đường dữ: điạ-ngục, quỉ đói và thú-vật.
6) Chớ theo khổ, phải dứt ngay Luân-hồi: Dứt bằng cách nào? Chỉ có cách duy-nhứt là tu-hành theo Chánh-pháp, và con đường nhanh và chắc nhứt là "vui theo hạnh tỳ-kheo" đó.
(220).- Tích chuyện về vị gia-chủ Chi-ta.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị gia-chủ tên là Chi-ta.
Thuở ấy ở thành Mã-chi-kha, có một người gia-chủ tên Chi-ta, rất giàu-có, được nghe Tôn-giả Xá-lợi-phất giảng pháp, nên chứng được đạo-quả A-na-hàm. Chi-ta dùng năm trăm xe bò chở đầy thực-phẩm và lễ vật, cùng với cả ngàn bạn đạo, lên đường đến chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, để đảnh-lễ Đức Phật. Sau hơn một tháng, cả đoàn đến nơi. Trong khi Chi-ta và các bạn đạo đang yết-kiến Đức Phật thì trên không-trung chư Thiên rải hoa trời xuống như mưa. Chi-ta và cả ngàn bạn đạo lưu lại chùa Kỳ-viên trọn tháng, hằng ngày dâng cúng thực-phẩm lên Đức Phật và chư Tăng và nghe giảng Chánh-pháp.
Đến gần ngày từ-giả, Chi-ta đem tất cả những bảo-vật còn lại trong
các xe, chất hết vào kho chùa; nhưng lạ thay, đến lúc quay về, các xe
bò đều đầy vật quí như cũ. Tôn-giả A-nan biết chư Thiên đã ban-cấp cho Chi-ta, mới vào trình Đức Phật: "Bạch Thế-tôn, vì Chi-ta đã dưng-cúng lên Đức Phật và chúng tăng nên được chư Thiên hiến- tặng lại các quí-vật; chẳng biết khi Chi-ta đi bố-thí ở những nơi khác, có được khen-ngợi và ban-tặng của-cải như thế không?" Đức Phật bảo: "Nầy A-nan, một người tin-tưởng vào Phật-pháp như Chi-ta, đức-hạnh đầy-đủ, rộng lòng bố-thí như thế, đi đâu lại chẳng được cung-kính và dâng-hiến của cải."
Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
Niềm tin đủ, vẹn-toàn giới-hạnh,
Danh-tiếng cao, tài-sản dồi-dào,
Dù cho đi đến nơi nào,
Vị nầy cũng được kính chào, tôn-vinh.
(Kệ số 303.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Chi-ta: tên người chủ gia-đình nầy, tiếng Pali là Citta ( = tâm.)
- Mã-chi-kha: tên thành-phố nầy, tiếng Pali là Macchikàsanda.
- Tôn-giả Xá-lợi-phất: Tôn-giả = người đáng tôn-trọng; Xá-lợi-phất = tên tiếng Pali Sariputta, vị đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, được nổi tiếng là thông-minh bực nhứt.
- Đạo-quả A-na-hàm: Đạo = đường-lối, cách thức tu-hành, tiếng Pali là Magga; Quả = kết-quả tu-hành thành-công, tiếng Pali là Phala; A-na-hàm tiếng Pali là Anàgàmi, là quả-vị thứ ba, dịch là Bất-Lai, chẳng trở lại cõi người nữa, sanh lên Trời, tu tiếp sẽ chứng A-la-hán.
- Đảnh-lễ = cúi đầu lạy để làm lễ ra mắt bực trưởng-thượng.
- Chư Thiên = các vị Trời.
- Chánh-Pháp: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Pháp = phép tu. Chánh-pháp là lời Phật dạy cách tu-hành để giác-ngộ và giải-thoát.
- Bảo-vật: Bảo = quí-báu. Các bảo-vật như là vàng bạc, ngọc-ngà.
- Thế-tôn: Thế = thế-gian; Tôn = tôn-kính; Thế-tôn là bực được cả thế-gian tôn-kính. Các đệ-tử thưa với Phật bằng Thế-tôn; Phật tự xưng là Như-lai.
- Bố-thí: Bố = rộng khắp; Thí = tặng,. Bố-thí là hiến-tặng tiền-của, phẩm-vật, hoặc công-sức, hay lời khuyên, an-ủi, cho người cần đến.
- Tôn-vinh = kính trọng và khen ngợi với mọi người.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện kể lại việc một gia-chủ giàu-có tên là Chi-ta, cùng với đông-đảo các bạn-đạo, đi cả tháng, chở thực-phẩm và bảo-vật đến cúng-dường Đức Phật và chư Tăng ở chùa Kỳ-viên. Khi họ đảnh-lễ Đức Phật, chư Thiên trên Trời rải hoa xuống khen ngợi. Họ ở lại trọn tháng để cúng-dường thực-phẩm và nghe Phật giảng Chánh-pháp. Trước khi ra về, Chi-ta đem tặng hết các quí-vật trong xe, cất vào kho trong chùa; nhưng chư Thiên đã khiến cho các xe đầy trân-bảo như cũ.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là công-đức bố-thí chẳng hề mất, người bố-thí được mọi người kính-trọng và giúp-đỡ của-cải thêm để bố-thí.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 303:
Bài Kệ kể ra bốn điều-kiện để được mọi người kính-trọng: (1) đầy đủ niềm tin vào Phật-pháp, (2) giữ vẹn giới-luật, (3) có tiếng tốt, (4) của-cải nhiều, sẵn lòng bố-thí.
( 221).- Tích chuyện cô Chu-la-sử.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến cô Chu-la-sử, con gái của đại-cư-sĩ Cấp-cô-độc.
Ông Cấp-cô-độc vốn là một Phật-tử rất thuần-thành, mua khu vườn của Thái-tử Kỳ-đà để xây cất chùa Kỳ-viên dưng cúng Đức Phật và Tăng-đoàn. Thuở nhỏ, ông cùng học một trường với ông Úc-gia, một người theo phái ngoại-đạo. Hai người thân nhau, nên ông Cấp-cô-độc gả con gái là Chu-la-sử cho con trai ông Úc, ở xa cách đó hơn một trăm hai mươi do-tuần. Từ khi về làm dâu nhà ông Úc, cô Chu thường khen ngợi công-đức của Đức Phật. Bà mẹ chồng mong-mỏi có dịp được yết-kiến Đức Phật.
Một hôm, bà mẹ chồng bảo con dâu, bà muốn cung-thỉnh Đức Phật và chư Tăng về nhà để cúng-dường. Cô Chu rất mừng, đem hương-hoa lên
trên từng gác thượng, hướng về chùa Kỳ-viên, cầu nguyện rằng: "Bạch
Thế-tôn, con là Chu-la-sử thành-tâm phụng-thỉnh Thế-tôn và chư Tăng ngày mai đến nhà con, để mẹ con kính dâng lễ-vật cúng-dường trai-tăng." Nguyện xong, cô Chu tung các cành hoa lên không-trung, lạ thay, hoa bay theo gió thổi đến chùa Kỳ-viên, kết thành tràng, lơ-lửng giữa chánh-điện, nơi Đức Phật đang thuyết-pháp. Sau thời pháp, cư-sĩ Cấp-cô-độc đứng lên thỉnh Phật ngày mai đến thọ-thực tại nhà mình. Đức Phật từ-chối, bảo rằng Ngài vừa nhận lời đến thọ-trai ở nhà cô Chu-la-sử. Ông Cấp-cô-độc rất ngạc-nhiên, bạch với Đức Phật: "Bạch Thế-tôn, nhà của Chu ở cách thành Xá-vệ nầy hơn trăm do-tuần." Nhưng Đức Phật bảo: "Nầy thiện-nam-tử, đúng vậy, nhưng một việc thiện dầu cách xa hàng trăm do-tuần, cũng vẫn sáng rõ lồ-lộ." Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Người lành dầu ở thật xa,
Sáng lồ-lộ giống như toà Tuyết-sơn.
Chẳng ai nhìn kẻ ác, gần hơn,
Như mũi tên bay trong đêm tối.
(Kệ số 304.)
Sáng hôm sau, Đức Phật cùng chư Tăng ngồi trên nhiều chiếc thiên-xa, trang hoàng rực-rỡ, giữa tiếng nhạc trời, bay đi trong giây phút đã đến nhà ông Úc-gia. Toàn thể gia-đình ra nghinh-tiếp, ông Úc rất đổi tán-thán vẻ trang-nghiêm của Tăng-đoàn, nên thành-tâm dưng-cúng lễ-vật lên Đức Phật. Sau đó, cả nhà được ngồi nghe Đức Phật giảng Chánh-pháp. Đức Phật lưu lại đây trong bảy ngày dạy đạo, khiến cho cả nhà ông Úc đều quy-y Tam-Bảo.
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Chu-la-sử: tên người con gái của ông Cấp-cô-độc, tiếng Pali là Cùlasubhaddà.
- Cấp-cô-độc: danh-hiệu người đời tặng ông Anàthapindika, vì ông xuất nhiều tiền-bạc ra bố-thí, cứu-giúp người đơn-côi, nghèo-khổ
- Úc-gia: tên người ngoại-đạo nầy, tiếng Pali là Ugga.
- Do-tuần: đơn-vị đo chiếu dài đường-xá ở Ấn-độ xưa, vào khoảng hơn một cây-số. Tiếng Pali là yojana.
- Ngoại-đạo: Ngoại = ngoài. Ngoại-đạo là các môn-phái tu-hành chẳng theo đạo Phật. Vào thời Đức Phật, ở Ấn có sáu phái ngoại-đạo.
- Từng gác thượng = sân thượng, từng cao nhứt trong nhà.
- Phụng-thỉnh: thành-tâm kính mời.
- Trai-tăng: Trai = bữa ăn chay; Tăng = tu-sĩ Phật-giáo. Trai-tăng là dâng cúng thực-phẩm lên các tu-sĩ Phật-giáo.
- Tràng = các bông-hoa được xâu lại thành vòng hoa lớn.
- Chánh-điện: căn phòng lớn thờ Phật tại chùa.
- Cư-sĩ: Cư = ở, ở nhà; Sĩ = người. Cư-sĩ là người tu tại-gia theo đạo Phật, có đạo-đức cao và danh-tiếng lớn.
- Thọ-thực, Thọ-trai: ăn cơm chay.
- Thiện-nam-tử: Thiện = lành; Nam = đàn-ông; Tử = con trai. Thiện-nam-tử là người đàn-ông có lòng làm lành. Phái nữ gọi thiện-nữ-nhơn.
- Tuyết-sơn: dãy núi Hi-mã-lạp-sơn, Himalaya, cao nhứt thế-giới.
- Thiên-xa = chiếc xe trên trời. (Thiên = trời; Xa = xe.)
- Tán-thán: khen-ngợi.
- Tam-Bảo: Tam = ba; Bảo = quí-báu. Tam-Bảo là ba ngôi quí-báu: Phật, Pháp và Tăng ( = Đức Phật, Giáo-pháp và các đệ-tử của Phật.)
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc cô Chu-la-sử đem hương-hoa lên sân thượng, hướng về chùa Kỳ-viên cầu-nguyện, cung thỉnh Đức Phật đến nhà để cúng-dường trai-tăng. Truyện kể hai việc nhiệm-mầu: thứ nhứt là lời cầu-nguyện của cô Chu cảm-ứng đến Đức Phật ở xa, cách đó hơn trăm dặm; thứ hai là hôm sau, Đức Phật cùng chúng Tăng ngồi trên thiên-xa bay từ chùa Kỳ-viên đến nhà cô Chu. Hai việc lạ thường nầy có thể gây thắc-mắc, khiến nhiều người chẳng tin. Nhưng sự cầu-nguyện được cảm-ứng chính do tâm thành-khẩn của người cầu đã phát ra những luồng sóng tư-tưởng chuyển-động đến tâm thanh-tịnh của Đức Phật. Và sự di-chuyển trên không-trung là do sức thần-thông của Đức Phật. Ngày nay, hai việc đó dễ-dàng xảy ra nhờ ở vô-tuyến-điện truyền-tin và phi-cơ hàng-không, cũng chẳng có chi là mê-tín.
Tuy nhiên ý-nghĩa của Tích chuyện chẳng phải ở hai việc nhiệm-mầu đó, mà chính là lời đáp của Đức Phật với ông Cấp-cô-độc:
"Việc thiện dầu ở xa cũng vẫn sáng rõ lồ-lộ."Tại sao? Vì việc lành cũng
như hương bay theo chiều gió, toả rộng khắp nơi, mọi người đều nhìn thấy; đấy là lời khuyên ta nên theo con đường lành.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 304:
Khác với Tích chuyện, bài Kệ chẳng chứa một sự nhiệm-mầu nào cả, mà lại nói lên một sự-thật mọi người đều biết: người lành dầu ở thật xa cũng vẫn sáng rõ được mọi người đều trông vào; còn kẻ dữ dầu có ở gần đi nữa, ai cũng lánh xa như tránh mũi tên độc.
HỌC TẬP:
1) Có mấy thái-độ cầu-nguyện sai-lầm cần nên tránh:
- đem hương-hoa, lễ-vật vào chùa, cầu cho con thi đậu, mình được buôn may bán đắt, đó chẳng khác gì đi lo-lót đấng thiêng-liêng.
- trong lời khấn, thường hứa sẽ ăn chay mấy tháng, hoặc phóng-sanh chim, cá, để tạ ơn, đó nào khác gì trả tiền công cho sự linh-ứng.
2) Cầu-nguyện đứng-đắn là tâm thành-khẩn hướng về người thân, rải lòng Từ đến người ấy, có nhiệt-thành mới có hiệu-quả: kẻ đang cầu thì an-tâm; thân-nhơn hưởng điển lành do tâm từ mang đến.
(222).- Tích chuyện Trưởng-lão độc-cư Y-kha.
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Tỳ-kheo thường sống một mình là Trưởng-lão Y-kha.
Trưởng-lão Y-kha rất ít khi gia-nhập vào các nhóm tỳ-kheo thảo-luận hay trò chuyện. Trưởng-lão thường im-lặng, đứng riêng một mình nơi vắng-vẻ. Trưởng-lão sống một mình, đi một mình, đứng một mình, mà ngồi, nằm cũng một mình. Nhiều vị tỳ-kheo khác chẳng thích thái-độ độc-cư đó, cho rằng Trưởng-lão chẳng có tinh-thần hoà-hợp, mới đến trình với Đức Phật. Đức Phật chẳng những chẳng hề quở-trách Trưởng-lão Y-kha, trái lại Ngài còn khen thái-độ sống một mình đó và bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, biết sống một mình mà không buồn chán như tỳ-kheo Y-kha là điều đáng nên bắt chước!"
Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
Ngồi một mình, nằm cũng một mình,
Đi một mình, lòng không buồn chán.
Tự mình điều-phục chính mình,
Sống vui thoải-mái cảnh rừng xanh.
(Kệ số 305.)
TÌM HIỂU:
A.- Nghĩa Chữ:
- Trưởng-lão: Trưởng = lớn; Lão = già. Chữ Trưởng-lão dành cho vị tu-hành đã lâu năm, chứng-đắc quả-vị. Tiếng Pali là Thera.
- Độc-cư: Độc = cô-độc, riêng một mình; Cư = ở. Độc-cư là lối sống riêng một mình nơi vắng-vẻ.
- Y-kha: đây là danh-hiệu mà các vị tỳ-kheo khác đặt cho Trưởng-lão độc-cư; tiếng Pali là Ekavìhàri (Eka = một; vihàri = đang cư-trú.)
- Hoà-hợp = có tinh-thần hoà-hợp thì thường tham-gia vào đời sống chung, sanh-hoạt chung, chẳng có sự tranh-cãi.
- Điều-phục = sửa đổi lại cho đúng, giữ đúng trong vòng kỷ-luật. Tự điều-phục là tự mình kềm chế lấy mình trong kỷ-luật tu-hành.
B.- Nghĩa Ý:
(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại việc một vị Trưởng-lão sống độc-cư ngay trong chùa, giữa những bạn đồng-tu. Trưởng-lão đi một mình, đứng một mình, ngồi một mình, nằm cũng một mình, tâm luôn tỉnh-giác, lòng chẳng buồn chán. Các vị tỳ-kheo khác hiểu lầm cho đó là thái-độ thiếu hoà-hợp trong Tăng-đoàn, nhưng Đức Phật lại khen lối vui sống trong cảnh độc-cư đó và khuyên các tỳ-kheo nên bắt chước.
Ý-nghĩa của Tích chuyện là nhờ biết luôn luôn quay vào bên trong,
lòng hằng tỉnh-giác, người tu-hành theo dõi mọi biến-chuyển của tâm,
khiến các vọng-tưởng thưa dần, sớm chứng được định-tâm.
(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 305:
Bài Kệ cũng rất giản-dị nhưng ý-nghĩa lại rất thâm-trầm, xin phân-tách từng câu:
1) Ngồi một mình, nằm cũng một mình: thông thường, ngồi một mình hay nhớ chuyện cũ, tưởng việc sắp đến; nằm một mình thì thả hồn mơ-mộng; đó chưa hẳn là đang sống một mình, còn đang "làm bạn" với các ý-nghĩ vẩn-vơ đó. Người biết sống một mình, khi ngồi, khi nằm, tâm giữ chánh-niệm, theo dõi nhịp thở ra vào đều-đặn, cùng với sức sống bên trong nhập lại "làm một", đấy mới thật-sự là đang sống một mình.
2) Đi một mình, lòng không buồn chán: thông thường khi đi một mình, hay trông cho mau đến, dọc đường bị cảnh-vật bên ngoài lôi-cuốn, đó chưa hẳn là đi một mình, vì còn có nơi sắp đến, có cảnh-vật dọc đường, đi theo làm bạn đồng-hành. Chỉ khi bước chơn lên, đặt chơn xuống, tâm biết rõ mình đang đi, bao giờ đến, cảnh gì vui, chẳng màng đến, chỉ nương theo nhịp thở ra vào của chính mình mà di-chuyển, mới sớm đắc được định-tâm trong việc thiền-hành.
3) Tự mình điều-phục chính mình: tâm theo dõi mỗi cử-động trên thân, mỗi biến chuyển trong tâm, đó là tự-điều-phục, làm sao vọng-tưởng có dịp khởi lên được để đánh mất định-tâm.
4) Sống vui thoải-mái cảnh rừng xanh: tâm an-định trong cảnh sống một mình, đó là niềm vui nhẹ-nhàng, thoải-mái, kéo dài mãi, bất cứ ở nơi đâu, thì "cảnh rừng xanh, cảnh-giới Niết-bàn" chắc cũng chẳng hơn nhiều cảnh độc-cư thật-sự đó bao nhiêu đâu.
-ooOoo-