KINH PHÁP CÚ (DHAMMAPADA )


Thiện Nhựt lược-dịch và tìm hiểu
08/09/2010 01:36 (GMT+7)
Số lượt xem: 33818
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

XIV.- Phẩm PHẬT - ĐÀ.

(148).- Tích chuyện ba cô gái của Ma-vương.

(Tích chuyện nầy hơi giống Tích chuyện Hoàng-hậu Sa-mã-hoa)

Vào một thời kia, Đức Phật du-hành qua xứ Ku-ru, trong một kỳ giảng-pháp có đề-cập đến ba nàng con gái đẹp của Ma-vương.

Thuở ấy, ở xứ Ku-ru có một vị Bà-la-môn tên là Mã-can-di, thờ thần lửa. Ông có một người con gái nhan-sắc rất đẹp, tên là Mã-can-di-hoa, bao nhiêu chàng trai đến xin cưới, nhưng ông còn chưa bằng lòng vì chưa gặp người xứng-đáng với sắc đẹp của con.

Sáng sớm hôm ây, trong cơn Thiền-định, Đức Phật quán-thấy cơ-duyên đã đủ để cho vợ chồng ông Mã đắc được quả-vị A-na-hàm, nên sau đó Ngài bưng bình bát đi khất thực ngang qua xóm của Mã-can-di. Vừa trông thấy tướng-mạo trang nghiêm, đủ ba mươi vẻ đẹp của Đức Phật, ông Mã chạy vào kêu vợ ra nhìn, và có ý-định gả con cho Đức Phật. Nhưng Đức Phật từ chối, nói: "Khi Ta sắp thành Đạo dưới cội Bồ-đề, Ma-vương cho ba người con gái đẹp, nhan-sắc tuyệt-trần là các nàng Tham-ái, Ác-cảm Dục-vọng đến cám-dỗ Ta. Nhưng đối với kẻ đã dứt sạch tham-ái, tríu-mến và dục-vọng, các nàng đã dùng đủ mọi cách mà chẳng dụ-dỗ nổi. Tâm Ta chẳng hề mảy-may khởi lên sự ham-muốn nào cả. Huống chi ngày nay, tấm thân vật-chất của con gái ông, bên trong chứa đầy chất bất-tịnh, Ta cũng chẳng muốn bước chơn tới gần đụng-chạm đến."

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó mà vợ chồng ông Mã-can-di chứng được quả-vị A-na-hàm và xin gia-nhập Giáo-hội

Ngài chiến-thắng hoàn-toàn trên thế-gian,
Dục-vọng tiêu-trừ chẳng còn theo bận,
Trí-huệ Phật rộng sâu vô-cùng-tận,
Bực không dấu-vết, ai vẽ được bước chơn.
(Kệ số 179.)

Ngài đã vượt qua lưới tham rối-rắm,
Ái-dục chẳng còn tham-đắm tái-sanh,
Trí-huệ Phật rộng sâu vô-cùng-tận,
Bực không dấu-vết, ai vẽ được bước chơn.
(Kệ số 180.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phật-đà: phiên-âm chữ Phạn Buddha, Phật, có nghĩa là giác, bực đã giác-ngộ và giải-thoát hoàn-toàn.

- Ku-ru: xứ ở miền Bắc Ấn-độ xưa, tên tiếng Pali là Kuru.

- Ma-vương = Vua Ma, còn gọi là Ma Ba-tuần, tượng-trưng cho sự cám-dỗ người khác làm việc quấy; tiếng Pali là Màra.

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-độ; tiếng Pali là Brahma. Bốn giai-cấp xưa ở Ấn là (1)Bà-la-môn,tu-sĩ, (2)Sát-đế-lợi, vua quan; (3)Phệ-xá, buôn-bán; (4) Thủ-đà-la, công-nhơn, nông-phu.

- Mã-can-di: tên vị nầy tiếng Pali là Màgandiya; còn người con gái là Màgandiyà.

- A-na-hàm: quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-văn, còn gọi là Bất-Lai, nghĩa là chẳng tái-sanh trở lại cõi người nữa, sanh lên Trời, tiếp-tục tu để đắc Thánh-quả A-la-hán. A-na-hàm, tiếng Pali: Anàgàmi.

- Ba mươi hai vẻ đẹp của Phật: theo trong Kinh sách, thân-thể của Đức Phật có 32 tướng tốt, như vành tai dài, trên đầu có nhục-kế ( = cục thịt u trên đỉnh đầu), trước ngực có chữ Vạn, v.v.

- Cội Bồ-đề: cây Bồ-đề, nơi tu-sĩ Cồ-đàm ngồi Thiền 49 ngày đêm, sau đó thành Đức Phật Thích-ca.

- Nhan-sắc tuyệt-trần = sắc đẹp chẳng còn có ai hơn được.

- Cám-dỗ = dụ-dỗ, xúi-giục.

- Tham-ái = còn gọi là khát-ái, ái-dục; sự tham-lam tríu-mến;

- Ác-cảm = cảm-tình xấu-ác, như ghen ghét, oán-ghét.

- Dục-vọng = lòng ham-muốn, nhứt là về thú vui xác-thịt.

- Tríu-mến = tham-luyến, đeo chặt chẳng buông bỏ ra được.

- Bất-tịnh: Bất = chẳng; Tịnh = sạch-sẽ. Chất bất-tịnh là chất dơ.

- Tiêu-trừ = diệt bỏ mất hết, chẳng còn vết-tích gì nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc ông Mã-can-di trông thấy tướng-mạo trang-nghiêm của Đức Phật, muốn gả cô gái đẹp của ông cho Ngài. Nhưng Đức Phật từ-chối, bảo rằng trước đây ba cô gái của Ma-vương, nhan-sắc tuyệt-trần, theo cám-dỗ, tâm Ngài còn chẳng khởi lên sự ham-muốn, nữa là nay nhìn thấy tấm thân bất-tịnh của một người nữ, sao lại chẳng nhàm-chán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là người đã hoàn-toàn ly-dục ( =dứt bỏ mọi tham-luyến, mong-cầu, dục-vọng) dễ-dàng thoát khỏi sự cám-dỗ của cảnh-vật bên ngoài cùng các sự ràng-buộc lôi-kéo của các tâm-trạng bất-thiện ở bên trong. Tâm của bực ấy thật là thanh-tịnh. Đó là mục-tiêu tu-tập và kết-quả chứng-đắc của các bực A-la-hán, Phật-đà.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 179 và 180:

Thử phân-tách từng câu:

1.- Ngài chiến-thắng hoàn-toàn trên thế-gian: Ngài ở đây chỉ vào Đức Phật. Ở thế-gian nầy, Ngài đã diệt hoàn-toàn các lậu-hoặc.

2.- Dục-vọng tiêu-trừ chẳng còn theo bận: Các ham-muốn và tríu-mến dứt bỏ xong, chúng chẳng còn đeo theo làm bận Ngài nữa.

3) Trí-huệ Phật rộng sâu vô-cùng-tận: đó là nhứt-thiết chủng-trí cuả Đức Phật, cái trí thông-suốt được tất cả muôn loài.

4. Bực không dấu-vết, ai vẽ được bước chơn: Dấu-vết gì? Đó là các dấu-vết còn sót lại tức là tham-ái, dục-vọng cứ dẫn mãi chúng-sanh phải trôi lăn trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Vì chẳng có dấu-vết gì để lại, thì ai lại có thể thấy( =vẽ lại) được chỗ các Ngài tái-sanh.

5.- Ngài đã vượt qua lưới tham rối-rắm: tức là Ngài đã diệt bỏ được mọi hình-thức của sự tham-luyến đang giăng ra để lôi kéo chúng-sanh vào cảnh tái-sanh trong vòng Luân-hồi.

6.- Ái-dục chẳng còn tham-đắm tái-sanh: Tâm Ngài đã dứt tuyệt sự ham muốn được tái-sanh nữa.

7) Hai câu chót bài Kệ số 180 giống với hai câu chót của bài Kệ số 179: chẳng thể nào tìm thấy dấu-vết nào của bực A-la-hán, của Phật-đà, để biết các Ngài tái-sanh về đâu. Tại sao? Vì các Ngài đã chứng vô-sanh, tự-tại mãi trong cảnh tịch-diệt của Niết-bàn.

(149).- Tích chuyện Đức Phật từ cõi trời Đao-lợi trở lại thế-gian.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, trong một kỳ giảng-pháp, có nói đến chuyến đi của Ngài từ cung trời Đao-lợi trở lại cõi thế-gian.

Thuở ấy, vào đầu muà an-cư kiết-hạ, sau khi chiến-thắng các giáo-phái ngoại-đạo, Đức Phật thăng lên cung Trời Đao-lợi để giảng-pháp cho chư Thiên nghe. Mẹ Ngài là Hoàng-hậu Ma-gia trước kia, từ cung Trời Đâu-suất cũng đến cõi Trời Đao-lợi để dự-thính. Trong ba tháng, Đức Phật khai giảng Kinh Vi-diệu-pháp A-tỳ-đạt-ma cho chư Thiên, chư Phạm-Thiên, nhờ đó mà Hoàng-hậu Ma-gia chứng được quả-vị Tu-đà-huờn.

Trong thời-gian đó, Tôn-giả Xá-lợi-phất vâng lịnh Phật, đến thành San-kha, cách thành Xá-vệ ba mươi do-tuần, giảng dạy Vi-diệu-pháp cho năm trăm vị tỳ-kheo đang qua mùa an-cư tại đây. Gần mãn mùa an-cư, Tôn-giả Mục-kiền-liên dùng phép thần-thông lên cõi Trời Đao-lợi để gặp Đức Phật, Tôn-giả được cho biết Đức Phật sẽ trở lại thế-gian đúng vào đêm trăng tròn rằm tháng Tám, ngay tại thành San-kha.

Vào đêm ấy, Đức Phật hiện lên với hào-quang sáu màu rực-rỡ, theo hầu bên trái Ngài là chư Thiên, bên phải có chư Phạm-thiên. Thành San-kha bừng sáng lên trong cảnh huy-hoàng chưa từng có. Tôn-giả Xá-lợi-phất hướng-dẫn tỳ-kheo đến cung-nghinh Phật. Tôn-giả bạch Phật: "Bạch Thế-tôn, chúng con chưa từng được chiêm-ngưỡng một khung-cảnh trang-nghiêm, rực-rỡ, chói-lọi như thế nầy. Quả thật, Thế-tôn là bực được cả cõi Trời, cõi người đồng kính-mộ." Đức Phật bảo: "Đức-độ của chư Phật được Trời, Người đều mến-yêu."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Bực hiền-trí tinh-tấn hành thiền,
Vui an-tịnh trong hạnh viễn-ly,
Tỉnh-giác hoàn-toàn trong chánh-niệm,
Được sự kính-mộ của chư Thiên.
(Kệ số 181.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Cõi Trời Đao-lợi = cõi Trời thuộc về Dục-giới, tiếng Pali là Tàvatimsa, dịch là cõi Tam-thập-tam Thiên, có 33 cảnh (bốn phiá có tám cảnh, ở giữa có thành Hỷ-kiến của vua Trời Đế-thích, 4x8 +1 = 33)

- Cõi Trời Đâu-suất = cõi Trời cao hơn cõi Đao-lợi, thuộc Dục-giới, tiếng Pali là Tusita, nơi đây có Bồ-tát Di-lặc đang giảng pháp.

- Muà an-cư kiết hạ: Xin nhắc lại: an-cư = ở yên; kiết-hạ = trải qua mùa hè. Vào mùa nầy, chư Tăng-ni chẳng ra ngoài khất-thực, sợ đạp chết côn-trùng đang sanh-sản nhiều.

- Chiến-thắng các giáo-phái ngoại-đạo: theo trong kinh-sách, vào lúc đó, Đức Phật đấu phép thần-thông, thắng được phe ngoại-đạo.

- Ma-gia: tên của Hoàng-hậu, mẹ Thái-tử Tất-đạt-ta, tiếng Pali là Màyà; khi tái-sanh làm thiên-nữ có tên là Santusita.

- Dự-thính: Dự = tham-dự;Thính = nghe. Dự-thính = đến ngồi nghe

- Vi-diệu-pháp, A-tỳ-đạt-ma: Kinh nầy thuộc về Luận-tạng, tiếng Pali là Abhidhamma, phiên-âm là A-tỳ-đạt-ma, dịch là Vi-diệu-pháp.

- Thành San-kha: tên thành-phố nầy, tiếng Pali: Sankassanagara

- Do-tuần: đơn-vị đo chiều dài hơn một dặm, tiếng Pali: yojana

- Đêm trăng tròn rằm tháng Tám: theo trong Kinh-sách, đó là tháng Assayuja, vào khoảng giữa hai tháng 10, 11 của dương-lịch.

-Hào-quang = ánh-sáng chói-lọi phát ra từ thân-thể bực tu-hành cao, định-lực thật mạnh.

- Phạm-Thiên = vị Trời ở cõi Phạm, tiếng Pali là Brahmà.

- Cung-nghinh: Cung = cung-kính; Nghinh = nghinh đón.

- Chiêm-ngưỡng = ngắm nhìn với lòng đầy thán-phục.

- Hạnh viễn-ly: Hạnh =hành-động, tánh-tình; Viễn = xa; Ly = lìa ra. Hạnh viễn-ly là hạnh xa-lià, dứt-bỏ, xả-bỏ, chẳng còn tham-luyến.

- Tỉnh-giác = Tỉnh = tỉnh thức, chẳng mê; Giác = biết rõ. Chữ Tỉnh-giác là danh-từ chuyên-môn Phật-học, gần nghĩa với chú-tâm, chú-ý.

- Chánh-niệm: Chánh = chơn-chánh; Niệm = ý-nghĩ. Tâm đang ở trong chánh-niệm là tâm dứt được vọng-tưởng trở nên an-tịnh.

- Kính-mộ = kính mến và thương-yêu.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Đức Phật lên cung trời Đao-lợi giảng Vi-diệu-pháp, nhờ đó mà Hoàng-hậu Ma-gia, mẹ Ngài, chứng được quả-vị thứ nhứt là Tu-đà-huờn. Tích chuyện mô-tả cảnh huy-hoàng ở thành San-kha khi Đức Phật được chư Thiên, chư Phạm-Thiên theo hầu, trở về cõi thế-gian.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: Đức-độ cao-cả của chư Phật được cả Trời, Người đồng kính-mộ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 181:

Bài Kệ nêu ra các đức-tánh quí-báu của chư Phật đã khiến cho tất cả Trời, Người đồng kính-mộ.

Các đức-tánh đó gồm có ba, được bài Kệ kể ra là:

1) Tinh-tấn hành Thiền: Tính-tấn là cố gắng và bền-bỉ thực hành việc gì. Hành Thiền là tu Thiền, nhứt là ngồi Thiền, giữ sao cho tâm-ý được an-tịnh. Tinh-tấn hành thiền là nỗ lực tu-tập cho tâm trở nên càng ngày càng thanh-tịnh hơn.

2) Hạnh viễn-ly: Viễn-ly là xa-lià, dứt bỏ. Bỏ cái chi? Bỏ sự tham-luyến. Tham-luyến cái gì? Tham-luyến những cái của ta, bên ngoài là vật-chất, của-cải, danh-lợi; bên trong là các phiền-não. Tại sao lại tham-luyến những cái của ta? Vì trong tâm lúc nào cũng nghĩ đến cái Ta, cái Ngã. Dẹp bỏ, hay là rời xa ra, được cái Ta và những cái của Ta, là đang thực-hiện hạnh viễn-ly.

3) Tỉnh-giác hoàn-toàn trong chánh-niệm: Người tỉnh-giác luôn luôn giữ chánh-niệm. Người có chánh-niệm thường-xuyên là người tỉnh-giác. Bước đầu tu-luyện phải luôn luôn chú-tâm vào chính tâm mình, làm gì, nói gì, nghĩ gì bao giờ cũng biết mình đang làm việc đó, và chỉ chú-tâm vào việc đó mà thôi; đối với nói nghĩ, cũng lại chú tâm y như thế.

Tóm lại, ba đức-tánh quí ấy qui về việc tu tâm, tu sao cho tâm thanh-tịnh hoàn-toàn.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, để ghi nhớ ba đức-tánh do sự tu-tâm đem lại

(150).- Tích chuyện Long-vương Y-ra-kha.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ gần thành Ba-la-nại, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Long-vương Y-ra-kha.

Thuở ấy, có một vị Long-vương tên là Y-ra-kha, vua của loài rồng, trong một tiền-kiếp làm một tỳ-kheo, vì vô-ý dẫm lên một ngọn cỏ non, chẳng sám-hối, nên mới tái-sanh vào hàng rồng. Long-vương có một người con gái tuyệt-đẹp, muốn dùng nhan-sắc của con làm phương-tiện để biết được khi nào có một vị Phật ra đời. Long-vương tuyên-bố cho mọi người biết, ai đáp trúng các câu hỏi do công-chúa nêu ra, thì sẽ được chọn làm Phò-mã. Mỗi buổi sáng, công-chúa ra múa hát trước đền, chờ đợi người đến đối-đáp. Nhiều chàng trai say-mê sắc-đẹp đến trỗ tài, nhưng chẳng ai đáp đúng cả.

Một hôm vào sáng sớm, Đức Phật quán-thấy một chàng thanh-niên đẹp trai, sắp đủ cơ-duyên để chứng-đắc quả-vị Tu-đà-huờn. Ngài ra đi khất-thực, gặp chàng trai đang lên đường đi đến đền vua rồng, Ngài mới dừng lại dạy chàng cách trả lời các câu hỏi của công-chúa. Nghe hiểu xong lời Phật dạy, chàng trai, có tên là Ức-tha-ra, chứng ngay được quả-vị Tu-đà-huờn. Chàng chẳng còn mong-muốn làm Phò-mã nữa, nhưng chỉ vì lợi-ích cho chúng-sanh, chàng vẫn đến đền vua để trả lời.

Các câu hỏi đầu-tiên gồm có:

1) Ai là vị chủ-tể?

2) Kẻ mê-mờ vì các lậu-hoặc có làm chủ-tể được không?

3) Kẻ chủ-tể nào thoát khỏi các lậu-hoặc?

4) Hạng người nào đáng gọi là người ngu-si?

Các câu trả lời đúng-đắn là:

1) Người làm chủ sáu căn là vị chủ-tể.

2) Kẻ còn bị lậu-hoặc làm mê-mờ, sao gọi là chủ-tể được?

3) Chủ-tể nào đã thoát khỏi tham-ái, thì thoát khỏi lậu-hoặc.

4) Hạng người nào còn tham-đắm các thú-vui thể-xác là hạng người ngu-si.

Sau khi nghe đáp đúng các câu hỏi sơ-khởi, công chúa lại nêu lên các vấn-đề: sự tràn-ngập của các dục-vọng, cuộc tái-sanh lẩn-quẩn trong vòng Luân-hồi, các tà-thuyết ngoại-đạo, cùng cách giải-quyết các vấn-đề đó. Ức-tha-ra đều giải-đáp thoả-đáng cả, dựa theo lời chỉ-dạy của Đức Phật. Long-vương nghe qua, lòng rất mừng rỡ, biết chắc là có Phật ra đời, mới ưng gả con cho chàng trai. Ức tha-ra từ chối, nói mình sẽ đến gặp Phật để xin làm tỳ-kheo. Long-vương ngỏ lời xin đi theo. Khi vào yết-kiến Đức Phật, Long-vương thuật lại vì sao mình phải thác-sanh vào hàng rồng. Đức Phật bảo: "Được sanh vào cõi người, rất khó. Gặp được chư Phật ra đời, lại khó hơn. Được nghe Chánh-pháp của chư Phật, càng khó-khăn hơn nữa."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Khó thay, sanh được làm người!
Khó thay, giữ toàn mạng sống!
Khó thay, được nghe Chánh-pháp!
Khó thay, thấy Phật ra đời!
(Kệ số 182.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Long-vương: Long = rồng;Vương = vua. Long-vương là vua rồng

- Y-ra-kha: tên vị vua rồng nầy, tiếng Pali là Erakapatta.

- Thành Ba-la-nại = thành-phố Bénarès ở Ấn-độ, nay là Vàranasì, trước đây Đức Phật khi thành Đạo giảng bài pháp đầu-tiên là "Tứ-diệu-đế" cho năm anh em ông Kiều-trần-như nghe.

- Tiền-kiếp = một đời sống trước đời sống hiện nay. (Tiền = trước)

- Sám-hối: tỏ vẻ ăn-năn tội-lỗi và nguyện xin chẳng tái-phạm.

- Tái-sanh: Tái = một lần nữa; Sanh = sanh ra, chào đời. Tái-sanh là sau khi chết ở đời nầy, lại sanh ra ở đời sau, theo thuyết Luân-hồi.

- Phò-mã = chồng của công-chúa, rể của Vua.

- Quán-thấy = trong cơn Thiền-định, nhìn thấy rõ trong tâm.

- Cơ-duyên: Cơ = cơ-hội; Duyên = duyên-cớ. Đủ cơ-duyên là gặp đủ cơ-hội tốt, dịp may-mắn.

- Quả-vị Tu-đà-huờn = quả-vị thứ nhứt; người chứng quả Tu-đà-huờn (1) chẳng chấp thân nầy là Ta; (2) chẳng nghi-ngờ Chánh-pháp; (3) chẳng theo các nghi-thức cúng-tế của tà-giáo.

- Khất-thực = mang bình bát đi xin ăn. (Khất = xin; Thực = ăn).

- Ức-tha-ra: tên chàng trai nầy, tiếng Pali là Uttara.

- Chủ-tể = người làm chủ; (tể = cầm đầu.)

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai-lầm, tội-lỗi. Danh-từ chuyên-môn nầy, Lậu-hoặc, trỏ vào các mối phiền-não, như tham, sân, si, kiêu-căng, nghi-ngờ,v.v. từ bên trong tâm, lộ ra ngoài bằng các hành-động xấu hay lời nói ác.

- Sáu căn: Căn = nơi phát-sanh ra, tức là các giác-quan. Ta có tất cả sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, da trên thân ( = đó là năm giác-quan) và ý-căn ở trong tâm.

- Tham-ái: ham-mê, tham-luyến, tríu-mến, bấu-víu vào.

- Sơ-khởi: mới bắt đầu.

- Dục-vọng = ham-muốn sai. (Dục = muốn;vọng = giả-dối, sai-lầm)

- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo thuyết Luân-hồi, chúng-sanh chết đời nầy, sẽ sanh lại đời sau, cứ sống sống chết chết mãi, như bánh xe cứ quay hết một vòng lại quay tiếp, chẳng ngừng.

- Tà-thuyết ngoại-đạo = các lý-thuyết tôn-giáo sai lầm, mê-tín, dị-đoan. (Tà = xiêng-xéo, cong-vạy, chẳng thẳng, chẳng đúng)

- Thác-sanh = tái-sanh, sanh lại; nói tiếng thường là đầu thai.

- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh; Pháp = pháp-tu. Trong Phật-học, Chánh-pháp là giáo-lý của Đức Phật, tiếng Pali là Dhamma.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, nhưng các câu hỏi công-chúa nêu ra rất thâm-sâu, chỉ có Đức Phật bấy giờ mới đáp rõ-ràng được. Vì thế, khi nghe đáp đúng, vua Rồng biết ngay là có Phật ra đời.

(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 182:

Bài Kệ nêu ra bốn điều khó được, trong đó có việc sanh ra làm người. Vậy nay được làm người, ta phải quí sanh-mạng và lo tu-hành.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ: được sanh làm người, gặp Phật, nghe Pháp là ba việc quí-báu, ba cơ-hội hiếm-có.

(151).- Tích chuyện về lời thưa hỏi của Tôn-giả A-nan.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến câu hỏi của Tôn-giả A-nan.

Thuở ấy, một hôm Tôn-giả A-nan bạch Phật: "Bạch Thế-tôn, con chẳng biết các giáo-lý căn bản của chư Phật ngày xưa có giống với giáo-lý của Thế-tôn ngày nay chăng?"

Đức Phật đáp: "Nầy A-nan, tóm-lược tất cả giáo-lý của chư Phật trong quá-khứ, để chỉ-dạy các tỳ-kheo tu-tập, đều được ghi trong các bài Kệ sau đây."

Rồi Đức Phật đọc các bài Kệ ấy như sau:

Việc ác chẳng làm,
Điều lành siêng tu,
Tâm-ý trong-sạch,
Lời chư Phật dạy.
(Kệ số 183.)

Phật dạy, nhẫn-nhục, khổ-hạnh quí,
Quả-vị tối-cao là Niết-Bàn.
Tỳ-kheo chẳng hại chúng-sanh;
Áp-bức người lành, chẳng phải Sa-môn.
(Kệ số 184.)

Chẳng lăng-mạ, chẳng gây thương-tổn,
Chế-phục mình tuân theo Giới-bổn,
Ăn uống điều-hoà, sống ẩn-cư,
Và thiền-định, là lời Phật dạy.
(Kệ số 185.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tôn-giả A-nan: Tôn-giả = người đáng tôn-kính; A-nan = tên vị thị-giả hầu bên cạnh Đức Phật, tiếng Pali là Ànanda.

- Giáo-lý: Giáo = tôn-giáo; Lý = lý-thuyết. Giáo-lý là các lời dạy căn-bản trong một tôn-giáo.

- Quá-khứ: Quá = đã qua; Khứ = đi. Quá-khứ là thời-gian đã qua.

-Nhẫn-nhục = cam chịu khổ-sở, chẳng oán-giận, chẳng than-van.

- Khổ-hạnh = chịu cực-khổ về thân-xác để tu-hành.

- Niết-bàn: tiếng Phạn là Nirvana, có nghĩa là ra khỏi rừng u-tối, tức là thoát khỏi sự mê-mờ của các phiền-não, lậu-hoặc. Niết-bàn chẳng phải là một nơi trong không-gian, mà là tâm-trạng của người tu-hành đã dứt được hết các phiền-não, và chứng được vô-sanh, nghĩa là chẳng còn phải bị tái-sanh mãi trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Tiếng Hán-Việt dịch chữ Nirvana, Niết-bàn cõi Tịch-diệt, vắng-lặng.

-Sa-môn: tiếng Phạn là Sramana, có ba nghĩa; (1)cần-giả ( = siêng làm điều thiện); (2)tức-giả ( = ngưng bỏ điều ác); bần-giả ( = cam chịu nghèo-nàn), danh-từ nầy chỉ các tu-sĩ Phật-giáo.

- Lăng-mạ: Lăng: xâm-phạm;Mạ = chửi mắng. Lăng-mạ = chửi bới

- Thương-tổn = bị hại, hay gây hại cho kẻ khác.

- Chế-phục = đè-nén, khép vào kỷ-luật.

- Giới-bổn: tiếng Phạn là Patimokka, phiên-âm: Ba-la-đề-mộc-xoa, là bản kết-tập các giới-luật chung lại, bản ghi các điều răn-cấm.

- Ẩn-cư: Ẩn = dấu kín; Cư = ở. Ẩn-cư = ở riêng một mình nơi vắng

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện chẳng có ý-nghĩa chi đặc-biệt.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ số 183, 184 vá 185:

Bài Kệ số 183 dạy ba điều (1) tránh điều ác, (2) siêng làm điều lành; (3) giữ tâm-ý cho trong-sạch. Bài Kệ nầy quan-trọng bực nhứt.

Bài Kệ số 184 dạy: ba điều nên làm:(1) nhẫn-nhục; (2) chịu khổ-hạnh, (3) theo mục-tiêu: đắc Niết-bàn; đồng thời, dạy tránh hai điều: (1) chẳng hại chúng-sanh; (2) chẳng áp-bức người hiền-lành.

Bài Kệ số 185 dạy tránh hai điều: (1) chẳng chửi-bới; (2) chẳng gây tổn-hại; và phải làm bốn điều: (1) tuân theo Giới-luật, (2) ăn-uống điều-độ, (3) sống ẩn-cư và (4) tu-tập Thiền-định.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng cả ba bài Kệ, riêng bài Kệ số 183 ghi vắn-tắt ba điều quan-trọng mà người tu chẳng được phép có lúc nào quên đi.

(152).- Tích chuyện vị tỳ-kheo bất-mãn.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị tỳ-kheo trẻ bất-mãn.

Thuở ấy, có một người tỳ-kheo trẻ tuổi tu-tập tại chùa Kỳ-viên. Một hôm, vị giáo-thọ bảo chàng nên đến một tu-viện khác để học thêm giáo-lý. Trong khi đi xa, người cha của vị tỳ-kheo ấy ở nhà, mắc bịnh nặng, qua đời, để lại một gia-tài cho con lên đến trăm đồng tiền vàng, giao cho người chú giữ tạm. Sau khoá học, vị tỳ-kheo trở lại chùa, người chú đến báo tin cha chết, và muốn giao lại số tiền cho cháu. Lúc đầu, vị tỳ-kheo bảo, nay đi tu chẳng cần đến tiền-bạc. Nhưng sau đó, chàng ta lại suy-nghĩ, có lẽ tốt hơn nên quay về với đời sống thế-tục, dùng gia-tài của cha cho mà xây-dựng lại cuộc đời. Vì tâm-tư bị giằng-co giữa hai ý-định, tiếp-tục tu-hành hay hoàn-tục, nên vị tỳ-kheo trẻ tuổi sanh ra bất-mãn, chẳng còn thấy thích-thú trong việc học-tập kinh-kệ, biếng ăn biếng uống, thành ra gầy-yếu. Các bạn đồng-tu nhận thấy thế, mới dẫn vị tỳ-kheo trẻ tuổi đến yết-kiến Đức Phật.

Đức Phật hỏi duyên-cớ, vị tỳ-kheo trình-bày nỗi phân-vân trong lòng, nửa muốn quay về với đời sống thế-tục, dùng gia-tài của cha để lại mà sanh-sống, nửa muốn tiếp-tục tu-hành, nên sanh ra mất cả sự hăng-hái học-tập. Đức Phật bảo, trở lại sống trong gia-đình, cần phải mua sắm nào là vật-thực, quần-áo, chén bát, bàn ghế, tậu trâu bò để cầy cấy, thuê người làm vườn-tược, thì một trăm đồng tiền kia cũng chẳng đủ cho các chi-phí đó. Thường-nhơn chẳng có ai mà biết đủ, ngay cả vị Chuyển-Luân Thánh-vương, ngự-trị trên hoàn-cầu kia, vàng bạc nhiều như mưa rào, cũng còn chưa thoả-mãn. Như vị Chuyển Luân Thánh-vương Mãn-đà-tu xưa kia sống vinh-quang trên cõi Trời Tứ-đại-thiên-vương và cõi Trời Đao-lợi, còn chẳng muốn chia-xẻ quyền thống-trị chung với vua Trời Đế-thích, cho nên phải suy-thoái mà rơi xuống cõi người, chẳng bao lâu phải già ốm mà chết.

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó mà vị tỳ-kheo trẻ tuổi thức-tỉnh và chứng được quả-vị Tu-đà-huờn:

Dầu cho vàng bạc như mưa,
Người còn dục-lạc cũng chưa vừa lòng.
Thú vật-chất đắng trong, ngoài ngọt,
Bực hiền-trí rành-rọt điều nầy.
(Kệ số 186.)

Biết rõ thế, người đệ-tử Phật
Chẳng thích tìm thú vui vật-chất,
Dầu đó là lạc-thú cõi Trời.
Người hiền-thích diệt ái-dục mất.
(Kệ số 187.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bất-mãn = chẳng vừa lòng.

- Giáo-thọ = vị tỳ-kheo dạy giáo-lý cho các tỳ-kheo mới vào tu.

- Hoàn-tục: Hoàn = trở lại; Tục = thế-tục, đời sống trong xã-hội của người có vợ-con, nghề-nghiệp.Hoàn-tục là trở về nhà thôi tu-hành

- Yết-kiến = đến gặp người trên.

- Phân-vân = trong lòng chưa dứt-khoát, nửa tin nửa ngờ.

- Vật-thực = thức ăn vật uống (Thực = ăn.)

-Tậu = mua sắm.

- Chuyển-Luân Thánh-vương: Chuyển-Luân = quay bánh xe; Thánh-vương = vị vua Thánh, cai-trị khắp hoàn-cầu. Theo giáo-lý, vị Chuyển-Luân Thánh-vương là bực mà thân có đủ 32 tướng tốt như Đức Phật, thống-trị hoàn-cầu, cởi các chiếc xe bằng vàng ( = Kim-luân thánh-vương), bằng bạc ( =Ngân-luân thánh-vương), bằng sắt ( = Thiết- luân thánh-vương), bằng đồng ( = Đồng-luân thánh-vương), đi bốn phương trong thiên-hạ. Chuyển-Luân Thánh-vương khi hưởng hết phước phải bị suy-thoái, trở lại cõi người, rồi chết và tái-sanh theo vòng Luân-hồi. Tiếng Phạn là Tchakravartin.

- Mãn-đà-tu: tên vị thánh-vương nầy, tiếng Pali là Mandàtu.

- Cõi Trời Tứ-đại-thiên-vương: bốn cõi Trời do bốn vị Thiên-vương thống-trị, ở bốn phiá của cõi Trời Đao-lợi. Bốn cõi đó, tiếng Pali là Càtumahàràjila.

- Cõi Trời Đao-lợi: cõi Trời ở giữa bốn cõi Tứ Thiên-vương, có vua Trời Đế-thích ngự-trị; tiếng Pali là Tàvatimsa. (Xin xem lại Bài Tích chuyện Đức Phật từ cõi Trời Đao-lợi trở về thế-gian, trang 469 và kế.)

- Suy-thoái: Suy = suy-yếu; Thoái = trở lùi lại. Bị suy-thoái là trở lại sự thiếu-kém lúc trước. Trái nghĩa với: tiến-bộ, tinh-tấn.

- Dục-lạc: Dục = ham muốn; Lạc = thú-vui. Người còn dục-lạc là kẻ chạy theo các thú-vui thể-xác, vật-chất tạm-bợ.

- Thú vật-chất = thú-vui vật chất tạm-bợ.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành; Trí = trí-huệ. Bậc hiền-trí là người tu-hành cao, hiền-lành và có trí-huệ. Còn gọi là bực thiện-tri-thức.

- Diệt ái-dục mất: Ái-dục = thích ham-muốn nhiều. Bốn chữ Diệt ái-dục mất, đọc nghe trục-trặc, viết lại: diệt sự ái-dục cho mất tiêu đi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ-kheo thừa hưởng gia-tài của cha, nảy ra ý-muốn hoàn-tục, phân-vân chẳng biết nên tiếp-tục tu-hành nữa hay không, nên trở thành bất-mãn. Được Phật chỉ-dạy, chẳng nên chạy theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ, vị tỳ-kheo ấy chứng được quả-vị Tu-đà-huờn, tiếp-tục tu-hành để thành chánh-quả.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: khi xuất-gia, phải dứt-khoát với đời sống thế-tục: xuất là ra khỏi, chẳng những thân ra khỏi nhà, mà tâm cũng phải ra khỏi các phiền-não, ràng-buộc và ham-muốn nữa.

(2) Ý-nghĩa của hai Bài Kệ số 186 và 187:

Hai bài Kệ hợp chung lại thành một bài dạy ta chớ theo các thú-vui dục-lạc, dầu đó là cảnh vui-sướng thần-tiên ở cõi Trời đi nữa.

Ý-nghĩa quan-trọng của hai bài Kệ nằm trong câu: Thú vui vật-chất đắng trong, ngoài ngọt. Câu nầy có nghĩa, thú-vui vật-chất tuy thấy bề ngoài sung-sướng, nhưng bên trong chứa sự khổ-đau. Sung-sướng gì? Sung-sướng tấm thân trong một lúc, hễ hết sướng thì sao, đó là ngoài ngọt. Chứa sự khổ-đau nào? Khổ-đau vì phải tái-sanh mãi trong cõi Luân-hồi, sướng ít mà khổ nhiều nầy; đó là bên trong đắng.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng hai bài Kệ, ghi nhớ sự tạm-bợ của thú vui vật-chất.

(153).- Tích chuyện vị Bà-la-môn Ất-ghi-đạt.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Bà-la-môn tên Ất-ghi-đạt.

Thuở ấy ở xứ Câu-tát-la, có vị quốc-sư là Ất-ghi-đạt, sau khi vua mất, ông liền từ-chức, đem hết tài-sản ra bố-thí và trở thành một tu-sĩ khổ-hạnh ngoại-đạo đến ẩn-cư ở vùng ba biên-giới giữa các xứ An-gia, Ma-kiệt-đà và Ku-ru. Đồ-đệ theo học rất đông-đảo. Tu-sĩ Ất dạy họ nên tôn-thờ núi-non, rừng-rú, cây-cối ở công-viên và vườn-tược, để được giải-thoát mọi khổ-đau của cuộc đời.

Vào sáng sớm hôm ấy, Đức Phật quán-thấy đã đến cơ-duyên cho Ất-ghi-đạt và một số đồ-đệ của ông ta được chứng-quả, nên Ngài mới sai Tôn-giả Mục-kiền-liên đi đến nơi cư-trú của Ất trước, rồi Ngài sẽ đến sau. Tôn-giả Mục-kiền-liên vâng lịnh, đến khu rừng của tu-sĩ Ất, và xin cho mình được trú-ngụ một đêm. Bọn đồ-đệ biết Tôn-giả là đại-đệ-tử của Đức Phật, nên tỏ ra chẳng bằng lòng, và chỉ cho Tôn-giả một mô đất cao ở chơn núi gần đó, đến đấy mà nghỉ. Tôn-giả liền đến đó ngồi Thiền nhập-định. Nguyên, bên dưới mô đất là hang-ổ của một con điạ-long rất hung-ác. Nửa đêm, nó bò ra cắn Tôn-giả Mục-kiền-liên, nhưng Tôn-giả cùng nó chiến-đấu một hồi lâu, rồi khuất-phục được nó. Để tỏ lòng hàng-phục, điạ-long liền khoanh tròn, đầu ngẩng cao lên thành cái lọng, che bên trên Tôn-giả. Sáng ra, các đồ-đệ của tu-sĩ Ất ra mô đất xem, những tưởng con điạ-long đã cắn chết người khách ban đêm, nào ngờ thấy điạ-long đang thần-phục Tôn-giả, mới biết được Tôn-giả là bực thần-thông cao-cường. Họ qùi xuống đảnh-lễ. Vừa lúc ấy, Đức Phật đi tới. Tôn-giả Mục-kiền-liên nói với các đồ-đệ ấy rằng: "Đây là Đức Phật, thầy của ta, các người chớ nên lạy ta, mà phải nên mau đến đảnh-lễ Ngài." Bấy giờ, Ất-ghi-đạt cùng các học-trò mới biết Đức Phật là ai, cùng nhau qùi xuống xin quy-y Phật.

Đức Phật vui-vẻ chấp-nhận và nói: "Nầy Ất-ghi-đạt, thờ kính núi rừng, cỏ cây chẳng đem lại nương-tựa bền-vững cho mình. Chỉ những kẻ biết quy-y Phật, Pháp và Tăng, mới có được nơi nương-tựa vững-chắc, và sẽ được chỉ-dạy phương-cách giải-thoát khỏi vòng sanh-tử khổ-đau của Luân-hồi lận-đận."

Rồi đó Đức Phật nói lên năm bài Kệ sau đây, nhờ đó mà Ất-ghi đạt và một số tu-sĩ khác chứng được đạo-quả A-la-hán:

Trong cơn nguy-khốn bàng-hoàng,
Con người tìm trú dưới hàng cây thiêng.
Hoặc vào đền miếu, chùa chiền,
Hoặc lên đồi núi, hoặc miền rừng hoang.
(Kệ số 188.)

Trú thân như thế, thiếu an-toàn,
Vì chưa tựa vào hàng tối-thượng.
Ẩn-náu nơi đấy vẫn bất-an,
Vì các khổ-đau còn bận vướng.
(Kệ số 189.)

Người tìm về nương-tựa nơi Phật,
Nơi Giáo-pháp và nơi Tăng-đoàn,
Với chánh-trí, thông-hiểu rõ-ràng
Lẽ nhiệm-mầu của Bốn Sự-Thật.
(Kệ số 190.)

Thấy KHỔ, TẬP là nguồn-gốc khổ,
Thấy DIÊT là khi khổ vượt qua.
Thấy Bát-chánh-ĐAO là thánh-lộ,
Dẫn đến việc diệt khổ nơi ta.
(Kệ sdố 191.)

Đấy là nơi nương-tựa an-toàn,
Đấy là chỗ qui-y vô-thượng.
Hãy tìm về đấy mà nương thân,
Thoát khỏi mọi khổ đau, hết vướng.
(Kệ số 192.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ất-ghi-đạt: tên vị tu-sĩ nầy, tiếng Pali là Aggidatta.

- Bà-la-môn: Xin nhắc lại: đó là giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-độ xưa.

- Quốc-sư: Quốc = nước, Sư = thầy. Quốc-sư là vị tu-sĩ cao nhứt trong nước, được vua xem như thầy dạy đạo cho cả nước.

- An-gia: tên xứ nầy, tiếng Pali là Anga.

- Ma-kiệt-đà: tên xứ nầy, tiếng Pali là Magadha.

- Ku-ru: tên xứ nầy, tiếng Pali là Kuru.

- Mục-kiền-liên: tên của vị đại-đệ-tử của Phật, có thần-thông vào bực nhứt, tiếng Pali là Moggallàna.

- Điạ-long: Điạ = đất; Long = rồng. Điạ-long là rồng đất.

- Khất-phục, Hàng-phục = thắng được và buộc phải theo lịnh.

- Thần-phục = hoàn-toàn chịu vâng theo lịnh.

- Thần-thông cao-cường = có pháp-lực, phép-thuật, thật mạnh.

- Đảnh-lễ = cúi đầu xuống làm lễ lạy ra mắt.

- Quy-y: Quy = quay về; Y = nương-tựa. Quy-y là quay về tìm nơi để nương-tựa; tìm chỗ an-toàn mà trú-ẩn.

- Quy-y Phật, Pháp, Tăng, hay Quy-y Tam-Bảo = buổi lễ long-trọng trong chùa, người đệ-tử Phật xin nguyện nương-tựa vào Đức Phật, tu-tập theo Chánh-pháp của Phật và nghe theo lời dạy của chư Tăng, là những người đang tu theo đường lối của Đức Phật.

- Đạo-quả A-la-hán: Đạo = con đường tu-tập; Quả = kết-quả của việc tu-tập; A-la-hán = quả-vị thứ tư, cao nhứt của bực tu-hành đã dứt sạch phiền-não và hết bị tái-sanh nữa. Tiếng Pali: Magga = đạo; Phala = quả; Arahant = A-la-hán.

- Bàng-hoàng = lo-sợ nhiều, mất sự bình-tỉnh.

- Cây thiêng = cây có thần-linh trú-ngụ, cây linh-thiêng.

- Tối-thượng = Tối = hết sức; Thượng = cao. Tối-thượng là cao nhứt.

- Tăng-đoàn, hay Tăng-già: một nhóm tỳ-kheo tu chung với nhau, từ bốn người trở lên. Tăng-gìà, tiếng Pali là Sangha.

- Chánh-trí: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn nhứt; Trí = trí-huệ.

- Bốn Sự-Thật = Tứ Diệu-đế, gồm có (1) Khổ-đế, sự đau-khổ; (2)Tập-đế, nguyên-nhơn, nguồn-gốc của sự Khổ; (3) Diệt-đế, tận-diệt sự Khổ, tức là đắc được cảnh-giới Niết-bàn; (4) Đạo-đế, con đường tu-tập để thoát Khổ. Riêng về Đạo-đế, gồm tám ngành, gọi là Bát-Chánh-Đạo ( = chánh-kiến, chánh tư-duy, chánh-ngữ, chánh mạng, chánh-nghiệp, chánh tinh-tấn, chánh niệm và chánh-định.)

- Thánh-lộ:Thánh = bực Thánh; Lộ = đường. Thánh-lộ là con đường đưa đến ngôi-vị Thánh ( = A-la-hán, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật.)

- Vô-thượng: Vô =chẳng; Thượng = trên. Vô-thượng là cao-cả nhứt, trên đó chẳng còn gì cao hơn nữa được.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc quy-y của Ất-ghi-đạt và đồ-đệ: trước nương-tựa tinh-thần vào việc thờ-kính núi rừng, cây cối, sau họ gặp Tôn-giả Mục-kiền-liên, mới quay về quy-y với Phật, Pháp, và Tăng.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của Đức Phật: quy-y Tam-Bảo là tìm nơi nương-tựa an-toàn và vững-chắc nhứt, vì được học-hỏi về cách tu-tập sao cho được giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ từ số 188 đến số 192:

Năm bài Kệ hợp lại thành một bài, dạy ta ý-nghĩa cao-cả của việc quy-y Tam-Bảo: Phật, Pháp và Tăng.

Hai bài số 188 và 189 cho rằng tìm vào ẩn-núp ở các hàng cây, đền miếu, chùa chiền hay núi rừng, chẳng phải là nơi an-toàn, vì vẫn còn vướng-bận khổ-đau. Tại sao? Vì các nơi nầy chỉ tạm-thời che-chở thân ta tránh được mưa, gió mà chẳng giúp ta vượt qua được sự đau-khổ của cuộc đời.

Bài Kệ số 190 chỉ rõ nơi an-toàn nhứt để ta tìm về nương-tựa; đó là quy-y Tam-Bảo: Phật, Pháp và Tăng, được chỉ-dạy để mở-mang chánh-trí mà thông-hiểu lẽ nhiệm-mầu của Tứ-Diệu-Đế, Khổ-đế, Tập-đế, Diệt-đế và Đạo-đế, nhờ đó mà ta có đủ khả-năng vượt qua mọi khổ-đau của cuộc đời.

Bài Kệ số 191 ghi lại vắn-tắt ý-nghĩa của Tứ-Diệu-đế, thế nào là Khổ, thế nào là Tập, thế nào là Diệt, thế nào là Đạo. Bài Kệ còn nhấn mạnh, Đạo-đế tức là Bát-Chánh-Đạo, tức là con đường Thánh-lộ, đưa ta đến ngôi-vị Thánh, dẹp hết phiền-não, khỏi bị tái-sanh để chịu đau-khổ mãi trong cõi Luân-hồi lận-đận.

Bài Kệ số 192 quả-quyết việc quy-y Tam-Bảo là biết tìm về nơi nương-tựa an-toàn, cao-thượng nhứt, vì nhờ đó mà vĩnh-viễn dứt khổ.

HỌC TẬP:

- Học kỹ năm bài Kệ, ghi nhớ rõ thế nào là quy-y Tam-Bảo, Tứ-Diệu-Đế và nhứt là Bát-Chánh-Đạo. Còn thắc-mắc, phải hỏi lại Thầy.

(154).- Tích chuyện về nơi đản-sanh của bực Thánh.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến câu hỏi của Tôn-giả A-nan về nơi đản-sanh của bực Thánh.

Một hôm, Tôn-giả A-nan ngẫm-nghĩ: "Đức Phật có nói, loài voi rặc-giống chỉ thấy ở xứ Chất-đăng-ta, loài ngưạ rặc-giống chỉ có ở xứ Sinh, còn loài trâu-bò rặc-giống thì xứ U-sa-tha mới có được. Nhưng Đức Phật còn chưa nói, các bực Thánh đản-sanh ở nơi nào." Sau đó, Tôn-giả mới đến bạch Phật để xin giải mối nghi-nan trong lòng. Đức Phật bảo: "Nầy A-nan, chẳng biết chắc được nơi đản-sanh của bực Thánh, vì các Ngài chỉ sanh vào hai giai-cấp Sát-đế-lợi Bà-la-môn."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Khó tìm gặp được bực Thánh-trí cao.
Người chẳng sanh ra bất cứ nơi nào.
Ở chốn nào đản-sanh người hiền-trí
Gia-tộc nơi nầy hạnh-phước dồi-dào.
(Kệ số 193.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Đản-sanh: sanh-đẻ, tiếng tôn-trọng dành cho bực cao-quí.

-Bực Thánh: theo giáo-lý nhà Phật, bực Thánh là những người tu-hành đã chứng được vô-sanh, nghĩa là chẳng còn phải tái-sanh trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Trong bốn quả-vị: Tu-đà-huờn (chỉ tái-sanh bảy lần nữa), Tư-đà-hàm (chỉ còn tái-sanh một lần nữa), A-na-hàm (chẳng sanh lại cõi người nữa, sanh lên Trời), là ba quả-vị còn sanh lại nên được gọi là bực Hiền. Đến quả-vị A-la-hán, diệt được hết các phiền-não, chứng Niết-bàn, mới gọi là bực Thánh. Như thế, chẳng phải khi sanh ra đã là bực Thánh, mà nhờ tu-hành tinh-tấn mới trở thành bực Thánh. Vì lẽ nầy, Đức Phật mới nói chẳng biết chắc được nơi đản-sanh của bực Thánh.

- Tôn-giả A-nan: Tôn-giả = bực đáng tôn-trọng; A-nan = tên Tôn-giả tiếng Pali:Ànanda. Tôn-giả là em họ của Đức Phật, đa-văn( =nghe nhiều, nhớ lắm), làm thị-giả ( = hầu bên cạnh) cho Đức Phật Thích-ca.

- Rặc-giống = giống thật tốt, chẳng lai giống khác.

- Chất-đăng-ta: tên xứ nầy, tiếng Pali là Chaddanta.

- Sinh: tên xứ nầy, tiếng Pali là Sindh.

- U-sa-tha: tên xứ nầy, tiếng Pali là Usabha.

- Nghi-nan = nghi-ngờ vì chưa hiểu rõ cho thấu-đáo.

- Sát-đế-lợi, Bà-la-môn: hai giai-cấp trong xã-hội xưa ở Ấn-độ. Theo thứ-tự từ cao đến thấp: (1) Bà-la-môn (Pali: Brahmanà, tu-sĩ); (2)Sát-đế-lợi (Pali: Khattiyà, vua quan); (3) Phệ-xá (Pali: Vessà, buôn-bán); (4) Thủ-đà-là (Pali: suddà, nông-phu, thợ-thuyền). Còn hạng Chiên-đà-la (Pali: Candala) là cấp hạ-tiện, nô-lệ, làm các nghề dơ-dáy như hốt phân chẳng hạn, chẳng ai muốn đến gần.

- Thánh-trí: bực Thánh có trí-huệ thật sáng-suốt.

- Hiền-trí: hiền-lành và có trí-huệ.

- Gia-tộc: Gia = nhà; Tộc = họ. Gia-tộc là những nhà cùng một họ, sống gần nhau trong một vùng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn-sơ, kể lại sự thắc-mắc của Tôn-giả A-nan về nơi đản-sanh các bực Thánh. Đức Phật dạy, chẳng thể biết chắc được nơi nào có bực Thánh đản-sanh, vì chẳng ai sanh ra là Thánh cả; muốn thành bực Thánh, phải tu-tập tinh-chuyên mới được.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 193:

Hai câu đầu của bài Kệ dạy, bực Thánh chẳng dễ gặp, chẳng có nơi nào sanh ra bực Thánh cả.

Hai câu sau của bài Kệ cho biết, nơi nào có bực Thánh, tu-hành đắc quả, là nơi đó được nhiều hạnh-phước. Tại sao? Vì nhờ đức-độ cao-cả của bực Thánh, phong-tục của dân trong vùng được cải-thiện.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ, chẳng ai sanh ra đã là Thánh, muốn thành bực Thánh, phải tu-học tinh-cần.

(155).- Tích chuyện các tỳ-kheo bàn về hạnh-phước.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các tỳ-kheo bàn-luận về hạnh-phước.

Thuở ấy, vào một buổi chiều, các vị tỳ-kheo ngồi tại nhà mát, cùng nhau bàn-luận về vấn-đề hạnh-phước. Một vị nói: "Hạnh-phước là có được thật nhiều tiền-của, quyền-thế như đức Vua." Một vị khác bảo: "Đủ cơm ăn ngon, thức uống ngọt là đã có nhiều hạnh-phước rồi." Một vị khác lại đưa ra ý-kiến: "Thoả-mãn được các giác-quan, sống đầy-đủ với các thú-vui, đó là hạnh-phước." Trong khi họ đang bàn-luận, thì Đức Phật đi đến. Ngài bảo: "Thú-vui vật-chất, tiền-của, quyền-thế, ăn ngon mặc đẹp đó chưa hẳn là hạnh-phước, vì các điều đó giữ ta mãi trong vòng tái-sanh của Luân-hồi khổ-đau lận-đận. Trên thế-gian nầy, hạnh-phước là gặp được Đức Phật ra đời, có được cơ-duyên nghe lời Ngài giảng-dạy về Sự-Thật cao-quí, và sống trong sự hoà-hợp của Tăng-đoàn."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Vui thay Đức Phật ra đời!
Vui thay Chánh-pháp với lời cao-xa!
Vui thay hoà-hợpTăng-già!
Vui thay hoà-hợp mọi nhà đồng tu!
(Kệ số 194.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Giác-quan: các bộ-phận trên thân như mắt, tai, mũi, lưỡi và da

- Vòng tái-sanh của Luân-hồi khổ đau lận-đận = thân-phận của chúng-sanh phải chết đi sanh lại mãi ở cuộc đời sướng ít khổ nhiều nầy là cõi Luân-hồi.(Lận-đận = gặp việc chẳng vui, chẳng may.)

- Cơ-duyên: Cơ =cơ-hội; Duyên = duyên-cớ. Cơ-duyên là cơ-hội tốt

- Sự-Thật cao-quí: đó là bốn Sư-thật nhiệm-mầu, thường gọi là Tứ Diệu-đế: Khổ-đế, Tập-đế, Diệt-đế và Đạo-đế.

- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn. Chánh-pháp là giáo-lý của Đức Phật giảng dạy các phép tu-hành để được giác-ngộ và giải-thoát.

- Hoà-hợp = cùng chung một chí-hướng, chẳng có sự tranh-cãi.

- Tăng-già, Tăng-đoàn: Tăng-già = tiếng Pali là Sangha, có nghĩa một đoàn-thể tỳ-kheo, từ bốn người trở lên, tu theo cùng một giới-luật và giáo-pháp. Đồng-nghĩa với:Tăng-đoàn, Ni-đoàn ( = các ni-cô.)

- Đồng tu = hoà-hợp nhau, cùng tu chung với nhau.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại việc bàn-luận của các tỳ-kheo trong giờ nghỉ, về vấn-đề hạnh-phước ở đời. Ý-kiến các tỳ-kheo đưa ra đều dựa trên sự thoả-mãn đầy-đủ các các giác-quan, về tiền-của, danh-lợi và quyền-thế, đó chỉ là các điều sung-sướng ở thế-gian.

Đức Phật dạy, hạnh-phước thật-sự là gặp được Phật ra đời, được nghe Chánh-pháp và mọi nhà được đồng-tu trong sự hoà-hợp của Tăng-già. Tại sao? Vì đó là đường-lối tu-tập để được giải-thoát mọi khổ-đau trong cảnh Luân-hồi lẩn-quẩn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 194:

Có bốn sự "Vui thay!" được nêu trong bài Kệ:

1) Vui thay Đức Phật ra đời: Vui, vì Ngài dẫn-dắt chúng-sanh trên con đường giác-ngộ và giải-thoát mọi khổ-đau của Luân-hồi.

2) Vui thay Chánh-pháp với lời cao-xa: Vui, vì Chánh-pháp với lời-lẽ cao-xa về Sự-Thật, là chìa khoá mở cửa cho hạnh-phước được giác-ngộ và giải-thoát.

3) Vui thay hoà-hợp Tăng-già: Vui, vì được nương-tựa vào các tỳ-kheo đồng một chí-hướng, hoà-hợp nhau, cùng nỗ-lực giúp đỡ mọi người tu-tập theo Chánh-pháp.

4) Vui thay hoà-hợp mọi nhà đồng tu: Vui, vì mọi nhà đều biết tu-hành theo Chánh-pháp, chẳng có sự đấu-tranh với nhau, sống trong sự hoà-bình, an-lạc.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ: điều quí-báu nhứt là nghe Chánh-pháp.

(156).- Tích chuyện về tượng Phật Ca-diếp.

Vào một thời kia, Đức Phật và các tỳ-kheo du-hành từ nước Xá-vệ đến thành Ba-la-nại, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bức tượng bằng vàng, tạc hình Đức Phật Ca-diếp.

Thuở ấy, Đức Phật và các tỳ-kheo, trên đường tới thành Ba-la-nại, đi ngang qua một cánh đồng lúa. Bên lề đường, có một ngọn tháp nhỏ thờ thần-linh. Bấy giờ có một người Bà-la-môn đang cầy ruộng. Người ấy bước lên bờ, cung-kính đến đảnh-lễ ngôi tháp mà chẳng chào hỏi Đức Phật. Đức Phật nói: "Nầy Bà-la-môn, đảnh-lễ tháp-miếu như thế đem lại nhiều phước-báo." Nghe Đức Phật nói thế, người Bà-la-môn rất hài lòng. Bấy gìờ Đức Phật mới dùng sức thần-thông, tạo ra một tượng Phật bằng vàng, tạc hình Đức Phật Ca-diếp đang ngồi lơ-lửng trên không-trung. Tất cả ngẩng lên trông thấy, và khen-ngợi vẻ đẹp trang nghiêm của tượng Phật. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, có bốn hạng nhơn-vật cần phải đảnh-lễ: (1) chư Phật Như-lai, (2) các vị Bích-chi-Phật, (3)chư vị Thánh Thanh-văn đệ-tử, và (4) Chuyển-Luân thánh-vương. Có ba thứ tháp-miếu cần đảnh-lễ: (1)tháp thờ nhục-thân các vị kể trước; (2) tháp thờ hình-tượng tạc giống hình các vị ấy; (3)tháp thờ các vật-dụng cá-nhơn của các vị ấy, như áo cà-sa, bình bát, thiền-truợng, v.v. Thành-tâm đảnh-lễ các ngôi-tháp thờ các vị đã hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát như thế, đem lại vô-lượng công-đức, và phước-báu, chẳng thể nghĩ bàn được."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Người kính-mộ bực đáng tôn-trọng,
Chư Phật cùng Thanh-văn đệ-tử,
Những bực chướng-ngại đã dẹp xong,
Phiền-não, sầu-bi cũng chẳng giữ.
(Kệ số 195.)

Công-đức cúng-dường các bực trước,
Bực an-tịnh, tự-tại,
Bực chẳng hề sợ-hãi,
Công-đức nầy chẳng ước-lượng được.
(Kệ số 196.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Xá-vệ: quê-hương của Đức Phật Thích-ca, nay thuộc phần đất của vương-quốc Népal; tiếng Pali là Sàvatthi.

- Ba-la-nại: tên thành-phố Bénarès của Ấn-độ, ngày nay là Vàrànasì. Tại vườn Lộc-uyển, gần thành nầy, Đức Phật giảng Kinh Chuyển-Pháp-Luân lần đầu cho năm anh em ông Kiều-trần-như nghe.

- Phật Ca-diếp: Đức Phật thuộc về Hiền-kiếp, giáng trần trước Đức Phật Thích-ca; tiếng Pali là Kassapa Buddha.

- Tháp: ngôi đền, nóc nhọn, bên trong thờ hình-tượng hay hài-cốt của một bực tôn-quí.

- Miếu: miễu thờ; ngôi đền nhỏ để thờ thần-linh.

- Bích-chi-Phật: phiên -âm tiếng Pali là Paccekabuddha, vị tu-hành theo thuyết Thập-Nhị Nhơn-Duyên, chứng đạo vào thời chẳng có đức Phật nào ra đời. Vị Bích-chi-Phật chẳng đi giáo-hóa chúng-sanh.

- Chư Thánh Thanh-văn: Thanh-văn là hàng đệ-tử sống gần bên Phật,nhờ nghe Kinh( =Thanh-văn,Sàvaka,Pali) mà tu-chứng quả Thánh.

- Chướng-ngại: các trở-ngại trên đường tu. Thường được phân-biệt có tam chướng (ba chướng-ngại): (1) phiền-não-chướng gồm có tham, sân, si v.v. (2) sở-tri-chướng gồm các sự hiểu-biết sai lầm như tà-kiến, định-kiến, v.v. và (3) báo-chướng, tức là tấm thân còn chịu nghiệp-báo nầy.

- Tự-tại = chẳng bị ràng-buộc. Ở đời, nói tự-do; đạo gọi là tự-tại.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị thuật lại việc Đức Phật nhơn thấy một người đảnh-lễ ngôi tháp, mới chỉ-dạy các tỳ-kheo nên lễ-lạy những bực hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát và các ngôi tháp thờ các vị ấy.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 195 và 196:

Hai bài Kệ nói đến phước-báu của người biết kính-lễ các bực đại-giác và tháp thờ các Ngài. Xin xem lại Tích chuyện để biết các vị ấy.

HỌC TẬP:

- Học kỹ hai bài Kệ, ghi nhớ: đừng mê-tín mà lễ-lạy các cục đá "ông Tà", bình vôi, các miếu thờ các tà-thần.

-ooOoo-

Âm lịch

Ảnh đẹp