Bấy giờ, tôn giả
Đại Ca Diếp nói với các vị Tỳ kheo: "Này chư hiền,
trên đường tôi trở về thành Câu Thi (Kusinàrà) để đảnh
lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, khi hay tin Ngài nhập
Niết bàn, thì có một việc đáng buồn xảy ra: Trong khi các
Tỳ kheo khóc than thảm thiết, không thể kiềm chế được
lòng thương tiếc Đức Thế Tôn, có người lảo đảo trên
mặt đất, bước đi không nổi, thì Tỳ kheo Bạt Nan Đà (Upananda)
đang đi trước họ, bảo họ im lặng và nói: "Vị trưởng
lão ấy thường dạy chúng ta nên làm như thế này, không nên
làm như thế kia; nên học những điều này, không nên học
những điều kia, thật là phiền toái.Bọn chúng ta ngày nay
mới thoát được nỗi khổ ấy, tùy ý muốn làm gì làm, không
còn ai ngăn cản nữa.Vì sao các ông lại thương tiếc khóc
than?". Ta nghe lời nói ấy, cảm thấy đau đớn và lo âu.
Ngày nay, tuy Phật đã Niết bàn, nhưng giới luật vẫn còn
đó, chúng ta phải hợp sức kết tập lại giới luật chớ
để cho Bạt Nan Đà cấu kết cùng bè đảng phá hoại chánh
pháp.
Các Tỳ kheo đều tán
đồng lời nói của tôn giả Đại Ca Diếp, và thưa rằng:
"Thưa trưởng lão, A Nan thường hầu cận Thế Tôn,
Thầy ấy thông minh, nghe nhiều, gìn giữ kho tàng chánh pháp
đầy đủ, nay ta nên mời Thầy vào trong số những người
kết tập luật tạng".
Tôn giả Ca Diếp
liền bảo: "A Nan còn ở địa vị cần phải học (hữu
học),còn bị tham ái, sân hận, si mê và sợ hãi chi phối,
không nên cho tham dự".
Thế nhưng, lúc này
tôn giả A Nan đang ở tại thành Tỳ Xá Ly, ngày đêm thường
thuyết pháp cho 4 chúng.Mọi người nghe pháp đông đúc
chẳng kém gì khi Phật tại thế. Tại đây, có một Tỳ
kheo người xứ Bạt Kỳ đang ngồi thiền trên lầu, vì không
khí ồn ào không thể du hí trong tam muội giải thoát, bèn
quán chiếu xem A Nan đã giác ngộ hay chưa, thì thấy rằng A
Nan còn ở bậc hữu học, liền đến chỗ A Nan, đọc lên bài
kệ:
" Ngồi dưới
chỗ cây vắng
Tâm hướng đến Niết bàn.
Thiền định chớ phóng dật
Nói nhiều có ích chi?"
A Nan nghe vị Tỳ
kheo ấy đọc kệ như vậy, lại biết việc Ca Diếp không
cho mình tham dự kết tập luật tạng nên đầu đêm, giữa
đêm và cuối đêm đều siêng năng đi kinh hành, mong cầu
được giải thoát, nhưng vẫn chưa đạt được. Đến lúc
nửa đêm, thân thể mỏi mệt cực độ, thầy định nằm
nghĩ một chút, liền nghiêng đầu xuống gối, khi đầu
vừa chấm gối, thì bỗng dưng dứt hết lậu hoặc. Các
Tỳ kheo biết thế bèn thưa với Ca Diếp: " Đêm qua A
Nan đã được giải thoát, giờ đây nên cho thầy vào trong
số người kết tập luật tạng". Ca Diếp liền chấp
nhận đề nghị ấy. Thế rồi tôn giả chọn thành Vương Xá
làm nơi kết tập; vì ở đây có đầy đủ các phương
tiện và thực phẩm.
Bấy giờ, 500 vị La
Hán liền đến thành Vương Xá. Trong tháng đầu mùa hạ,
họ lo sửa chữa phòng ốc và chuẩn bị ngọa cụ; tháng
thứ hai tọa thiền để hưởng pháp vị giải thoát; đến
tháng thứ ba mới tập họp lại một chỗ. Thế rồi, tôn
giả Ca Diếp đề cử tôn giả Ưu Ba Ly kết tập Luật
tạng, và được đại chúng chấp thuận.Ca Diếp bắt đầu
hỏi Ưu Ba Ly: Giới nào Phật chế trước nhất, chế tại
đâu, người nào sai phạm, phạm về tội gì v.v... Ưu Ba Ly
trình bày rằng: Phật chế giới dâm trước nhất, do Tu Đề
Na (Sudinna) vi phạm đầu tiên v.v...Một người hỏi, một người
đáp và cuối cùng hỏi lại đại chúng, đại chúng cũng hoàn
toàn nhất trí với sự trình bày của tôn giả Ưu Ba Ly. Công
việc này kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất gồm đủ cả
giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và được đặt tên là Bát thập
tụng luật (Bộ luật được đọc đến 80 lần).
Tiếp theo, tôn giả
Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan kết tập kinh tạng và được
đại chúng nhất trí.Tôn giả A Nan lần lượt kết tập các
kinh sau đây:Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng
Kỳ Đà, Sa môn quả, Phạm Động và những kinh Phật
thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di,
chư Thiên và nhân loại. Những kinh dài kiết tập thành
một bộ gọi là Trường A Hàm, những kinh trung bình kết
tập lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói
cho nhiều đối tượng như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp
A Hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến
mười một pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất
A Hàm. ngoài ra tập họp các kinh nói bao quát nhiều vấn đề
thành một bộ gọi là Tạp Tạng. Thế rồi,tôn giả Ca
Diếp tuyên bố: "Từ nay chúng ta đã kết tập giáo pháp
hoàn tất. Từ nay trở đi, những gì Phật không chế định
thì không được tùy tiện chế định, những gì Phật đã
chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính
cẩn học tập những gì Phật đã chế định".
Tôn giả A Nan bấy
giờ thưa với tôn giả Ca Diếp: "Chính bản thân tôi
từng nghe Phật dạy rằng: "Sau khi ta Niết bàn, nếu
thấy những giới nào có tính cách nhỏ nhặt, các ngươi có
thể loại bỏ".
Ca Diếp liền hỏi:
"Thầy cho những giới nào là nhỏ nhặt?".
A Nan đáp: "Không
biết".
- Vì sao không biết?
- Vì tôi không hỏi
Thế Tôn.
- Vì sao không hỏi?
- Vì bấy giờ thân
Phật đang bất an, sợ làm não loạn Ngài.
- Vì thầy không
hỏi ý nghĩa những vấn đề ấy, nên phạm tội Đột cát
la, phải tự mình nhận tội và sám hối.
- Thưa Đại đức,
không phải là tôi không tôn kính giới mà không hỏi ý nghĩa
những vấn đề ấy nhưng vì sợ làm phiền Đức Thế Tôn,
nên không hỏi. Trong vấn đề này, tôi không thấy mình
phạm tội, nhưng vì kính trọng và tin tưởng Đại đức, nên
tôi xin sám hối.
- Khi thầy vá y Tăng
già lê cho Thế Tôn, thầy đã dùng chân đạp lên y, do đó,
phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức,
không phải là tôi không kính trọng Phật, nhưng vì lúc đó
không có ai cầm y,nên tôi phải dùng chân đạp lên y để vá...(nt).
- Thầy đã ba lần
cầu xin Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia trong chánh pháp,
nên phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức,
không phải là tôi không tôn kính pháp, nhưng vì bà Ma Ha Ba
Xà Ba Đề Cù Đàm Di từng nuôi dưỡng Thế Tôn đến trưởng
thành, rồi Ngài đi xuất gia mà thành Chánh giác. Công ơn
ấy cần phải báo đáp, nên tôi mới ba lần cầu thỉnh
Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia...(nt).
- Khi Phật sắp
nhập Niết bàn đã hiện tướng nói với Thầy rằng: Nếu
người nào đạt được bốn thần túc, muốn giữ thọ
mạng một kiếp hoặc hơn một kiếp đều có thể làm được,
Đức Như Lai đã thành tựu vô lượng thiền định, và đã
ba lần hiện tướng nói với thầy như thế mà thầy không
cung thỉnh Phật trụ thế một kiếp, hoặc hơn một kiếp,
nên phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức,
không phải tôi không muốn thỉnh Phật trụ thế lâu dài,
nhưng vì ác ma Ba Tuần che mờ tâm trí của tôi, nên tôi không
thưa thỉnh... (nt).
- Ngày xưa, Phật đã
ba lần nhờ thầy đi lấy nước cho Phật uống, mà rốt
cuộc thầy không dâng nước cho Phật, nên phạm tội Đột
cát la...(nt).
- Thưa Đại đức,
không phải là tôi không dâng nước cho Phật, nhưng vì bấy
giờ có 500 chiếc xe vừa đi qua phía trên dòng sông khiến
cho nước đục sợ uống vào sinh bệnh, nên tôi không lấy
nước cho Thế Tôn...(nt).
- Thầy đã cho phép
nữ giới lễ Xá lợi Phật trước mọi người, nên phạm
tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức,
không phải tôi muốn cho phép nữ giới lễ Xá lợi Phật trước
nhưng vì trời sắp tối,họ vào thành không kịp, nên tôi
mới cho phép...(nt).
Tiếp theo, đại
hội cứu xét những giới nào có thể loại bỏ,tôn giả Ca
Diếp trình bày: " Nếu chúng ta xem chúng học pháp (những
pháp cần phải học) là những giới nhỏ nhặt có thể
loại bỏ thì các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Bốn giới Ba la đề
đề xá ni cũng là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ.
Nếu chúng ta bảo bốn giới Ba la đề đề xá ni là những
giới nhỏ nhặt, thì các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Các giới
Ba dật đề cũng là những giới nhỏ nhặt v.v... giờ đây,
chúng ta không thể khẳng định giới nào là giới nhỏ
nhặt mà loại bỏ một cách tùy tiện thì bọn ngoại đạo
sẽ bảo: "Pháp của sa môn Thích tử giống như mây khói,
khi thầy còn sống thì những pháp do thầy chế định các
đệ tử tuân thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy
nhập Niết bàn, họ không chịu thực hành nữa". Do
vậy, tôi xin khẳng định lại: "Những gì không do
Phật chế thì không được tự ý chế định, và những gì
do Phật chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải
kính cẩn học tập những gì mà Phật đã truyền dạy".
Sau khi nghe trình bày,
tất cả đại chúng đồng thanh nhất trí với lời tuyên
bố của tôn giả Ca Diếp.
Lúc này trưởng lão
Phú Lâu Na đang ở phương Nam, nghe Phật Niết bàn tại thành
Câu Thi, và các trưởng lão Tỳ kheo đang kết tập Tỳ Ni pháp
tạng tại thành Vương Xá, liền dẫn đồ chúng đến đó
tham dự. Nhưng khi đến nơi, đại hội kết tập vừa
xong.Do đó, trưởng lão yêu cầu đại hội đọc tụng lại
một lần nữa để trưởng lão và đồ chúng cùng nghe. Đại
hội đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu ấy.
Trong đại hội kết
tập này, được các trưởng lão sau đây chủ trì:
1. trưởng lão A Nhã
Kiều Trần Như làm đệ nhất Thượng tọa
2. Phú Lâu Na làm đệ nhị Thượng tọa
3. Đàm Di làm đệ tam thượng tọa
4. Đà Bà Ca Diếp làm đệ tứ Thượng tọa
5. Bạt Đà Ca Diếp làm đệ ngũ Thượng tọa
6. Đại Ca Diếp làm đệ lục Thượng tọa
7. Ưu Ba Ly làm đệ thất Thượng tọa
8. A Na Luật làm đệ bát Thượng tọa.
Vì cuộc kết tập này
vừa đúng 500 vị La hán, không nhiều, không ít, nên được
gọi là cuộc kết tập giáo pháp của 500 vị La hán (ngũ
phần luật, ĐTK.1421, tr 190b- 192a).
- So sánh
và nhận xét
- 1.
Nhận xét tổng quát
- Luật ngũ
phần trình bày tóm tắt, cô đọng, và chỉ trình bày về
sự kết tập.
- Luật tứ phần,
ngoài phần trình bày sự kiện kết tập, còn nói thêm đôi
nét về lúc Phật Niết bàn.
- Luật Thập tụng
trình bày tương đối phong phú nhất, vì còn thêm nhiều chi
tiết lúc Phật Niết bàn.