KINH PHÁP CÚ (DHAMMAPADA )


Thiện Nhựt lược-dịch và tìm hiểu
08/09/2010 01:36 (GMT+7)
Số lượt xem: 33807
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

III.- Phẩm Tâm.

(24).- Tích chuyện Trưởng-lão Mễ-ghi-Dạ.

Vào một thời kia, Đức Phật trú tại núi Ca-la-ca, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Mễ-ghi-Dạ và cách điều-phục tâm.

Thuở ấy, Trưởng-lão Mễ-ghi-Dạ làm thị-giả hầu-cận bên Đức Phật. Sáng hôm ấy, trong khi đi khất-thực, trưởng-lão nhận thấy có một khu vườn xoài rất xinh-xắn và thanh-nhã, liền khởi lên ý-nghĩ muốn được đến đấy để toạ-thiền. Về đến tịnh-xá, Trưởng-lão bèn thưa với Phật, xin phép được đến hành-thiền tại vườn xoài. Bấy giờ, các tỳ-kheo còn đi vắng, nhưng thấy trưởng-lão muốn đi quá, nên Đức Phật đồng-ý cho đi.

Trưởng-lão ra đi, đến vườn xoài, ngồi bên gốc cây to và bắt đầu hành-thiền. Nhưng cả ngày hôm ấy, tâm của trưởng-lão cứ lang-thang chạy đi đó đây và trưởng-lão cảm thấy chẳng có chút tiến-bộ nào về định-tâm. Chiều về, trưởng-lão vào trình Phật, thưa với Đức Phật rằng, suốt thời-gian ngồi thiền, tâm của trưởng-lão bị các tư-tưởng tham-dục, sân-hận và bạo-hành xâm-lấn, khiến trưởng-lão chẳng định-tâm được.

Đức Phật mới dạy rằng, tâm rất dễ bị kích-thích, hay thay-đổi, biến-chuyển rất nhanh-chóng; vì thế, ta phải biết cách điều-phục tâm. Rồi Đức Phật nói lên hai bài kệ sau đây:

Tâm giao-động, tâm hay cảm-nhiễm;
Khó giữ tâm, khó kiểm-soát tâm.
Như thợ khéo vót tên thẳng-tắp,
Bực hiền-lương khéo tập
trực-tâm.
(Kệ số 033.)
Như con cá bắt lià khỏi nước,
Thoi-thóp nằm sóng-sượt bên đàng,
Tâm kia rung-động bàng-hoàng,
Khi lià cảnh-giới giác-quan bên ngoài;
Cám-dỗ ác-ma thoát được ngay!
(Kệ số 034.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa CHỮ:

- Mễ-ghi-Dạ: tên thật bằng tiếng Pali là Meghiya.

-- Thị-giả: thị = hầu-cận; phục-thị; ở bên cạnh để nghe lịnh sai-khiến; giả = người. Vị thị-giả nổi-tiếng của Phật Thích-ca là Ngài A-nan.

- Thanh-nhã: thanh = thanh-tú, đẹp-đẽ; nhã = văn-nhã, u-nhã; đẹp mà dịu-hiền.

- Toạ-thiền: toạ = ngồi; thiền = tâm lắng-yên, vắng-vẻ. Thiền, tiếng Phạn đủ chữ là thiền-na (Dhyana). Trước, dịch là suy-tư; sau, dịch là tĩnh-lự, suy-nghĩ trong yên-lặng. Thiền là đường-lối tu-hành khiến cho tâm được an-tịnh.

- Định-tâm: định = dừng lại, đứng yên, chẳng thay đổi; tâm = lòng

- Bạo-hành: bạo = hung-bạo, dữ-tợn; hành = hành-động.

- Kích-thích: nghĩa gốc là lấy gươm đâm vào; nghĩa rộng và thông-thường là dễ bị ảnh-hưởng, dễ bị làm cảm-động, hay thay đổi.

- Điều-phục: điều = điều-khiển, sai khiến; phục = hàng-phục, bắt phải tuân theo. Điều-phục Tâm là buộc Tâm phải ở yên, chẳng được chạy lung-tung, giữ cho có định-tâm, có sự chú-tâm, sự chú-ý.

- Giao-động: động-đậy mãi, chẳng ở yên, hay lo-lắng, bối-rối.

- Cảm-nhiễm: cảm =cảm-động; nhiễm = dính theo, lây.

- Vót tên: chuốt mũi tên cho trơn láng, sắc-bén.

- Hiền-lương: người hiền và tốt. Ở đây có nghĩa là hiền-trí, người có trí-huệ làm điều phải, điều lành.

- Trực-tâm: trực = thẳng. Trực-tâm là tâm ngay-thẳng, chẳng cong-queo, chẳng dấu-diếm, chẳng giả-dối.

- Thoi-thóp: thở hơi yếu-ớt, sắp chết đến nơi.

- Nằm sóng-sượt: nằm chẳng cựa quậy, như sắp chết.

-Bàng-hoàng: lo-lắng, khắc-khoải.

- Cảnh-giới: môi-trường, nơi sanh-sống, chỗ đang ở.

- Giác-quan: giác = biết; quan = cơ-quan, bộ-phận. Ta có năm giác-quan: mắt, tai, mũi, lưỡi và da.

- Cám-dỗ: dụ-dỗ.

- Ác-ma: ác = xấu-ác; ma = kẻ vô-hình dụ-dỗ, gạt-gẫm, hại người.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tich chuyện thuật lại việc Trưởng-lão Mễ-ghi-Dạ ngồi Thiền mà chẳng đác định-tâm và được Đức Phật chỉ dạy cách điều-phục Tâm.

Lời chỉ dạy của Đức Phật nằm gọn trong hai bài Kệ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 033 và 034:

1.- Bài Kệ số 033: Đức Phật dạy, Tâm rất khó giữ, rất khó kiểm-soát. Tại sao? Vì tâm (1) hay giao-động, (2) dễ cảm-nhiễm. Cũng như người thợ làm tên khéo vót mũi tên cho thật thẳng, thật bén, người hiền-trí khéo tập cho Tâm thật ngay-thẳng, gọi là trực-tâm. Nói cách khác, việc tu-hành quan-trọng là biết điều-phục tâm, biết kiểm-soát tâm, biết làm chủ lấy tâm. Bằng cách nào? Phật chỉ cách đó trong bài Kệ sau.

2.- Bài Kệ số 034: Đức Phật chỉ cách hàng-phục tâm, nghĩa là cách làm chủ lấy tâm mình, điều-khiển, chấn-chỉnh, sửa đổi tâm cho ngay-thẳng, để được trực tâm. Phật đưa ra thí-dụ: con cá bị bắt ra khỏi nước, hết vùng-vẫy được, nằm sóng-sượt đó, tùy ý người bắt, muốn làm sao thì làm. Cùng thế ấy, nếu biết lìa cảnh-giới của các giác-quan, tức là chẳng chạy theo cảnh-vật bên ngoài (như mắt chớ nhìn, tai chớ nghe, mũi chớ ngữi, trong khi ngồi thiền), thì tâm phải dừng lại, đứng yên, quay vào bên trong: đó là cách cột con vượn Tâm lại, chẳng cho nó chuyền cành nữa. Lại còn một ích-lợi to-lớn nữa là tránh cho tâm khỏi bị cảm-nhiễm, khỏi bị lôi-kéo, khỏi bị cám-dỗ. Ai cám-dỗ tâm? Bài kệ nói là ác-ma cám-dỗ. Đó là một cách nói, vậy thôi; chớ thật ra, vì mắt có nhìn, thì tâm mới bị lôi-kéo; tai có nghe, thì tâm mới bị trì-níu. Có ma hay không chẳng cần biết, chỉ cần biết: (1) mắt nhìn mà chẳng thấy; (2) tai nghe tiếng mà chẳng để tâm vào, thì chắc-chắn tâm thoát được cám-dỗ ngay, để được lắng yên.

Ý-nghĩa quan-trọng của hai bài Kệ: muốn hàng-phục Tâm, trước hết phải biết giữ-gìn các giác-quan, trong khi toạ-Thiền.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng ngay hai bài Kệ và thử tập chế-phục các giác-quan như được nói trong Phần Ý-Nghĩa của hai bài Kệ. Trong bài tới, sẽ xin đề-nghị vài cách nho-nhỏ, dễ làm, để hàng-phục tâm.

(25).- Tích chuyện bà tín-nữ Mã-thị-Kha.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Tỳ-kheo tu Thiền, nhờ sự hỗ-trợ của một tín-nữ là bà Mã-thị-Kha mà chứng-đắc được quả-vị A-la-hán.

Thuở ấy, có sáu mươi vị tỳ-kheo, sau khi nhận được đề-tài quán-tưởng của Đức Phật chỉ-dạy, liền đến ngôi làng dưới chơn núi mà hành-thiền, trong suốt mùa mưa. Thân-mẫu của vị chủ làng là bà Mã-thị-Kha hằng ngày dưng cúng thực-phẩm lên các vị tỳ-kheo. Bà cho xây cất tịnh-xá để các vị tu-hành có nơi trú mưa ẩn gió, khiến các vị có thể qua được mùa mưa trong tiện-nghi. Một hôm, bà Mã đến thưa hỏi một nhóm tỳ-kheo về đường-lối tu-tập. Họ chỉ-dạy bà cách quán-tưởng ba mươi hai chỗ dở-bẩn trong thân-thể con người; đó là phép quán thân bất-tịnh, dẫn đến sự thông-hiểu thấu-đáo về cảnh già-lão suy-yếu và huỷ-diệt của tấm thân. Bà Mã theo đó mà thực-hành thật tinh-cần, và chẳng bao lâu bà chứng-đắc được Đạo và Quả của ba ngôi-vị đầu-tiên của hàng Thanh-văn, ngay trước cả một số vị tỳ-kheo khác còn đang tu-tập.

Với đạo-lực đã chứng-đắc, bà Mã mở được thiên-nhãn nhìn thấy tâm-trạng của các vị tỳ-kheo còn chưa chứng-đắc. Bà nhận thấy rằng, nếu được nuôi-dưỡng bằng các thực-phẩm thanh-khiết và bổ-dưỡng, các vị tỳ-kheo tinh-tấn hành-thiền sẽ chóng chứng được đạo-quả. Bà Mã liền chọn và chuẩn-bị thức ăn rất tốt đem dưng-cứng, khiến cho phần lớn các vị siêng-năng hành-thiền nhờ đó mà sớm đắc được đạo-quả A-la-hán.

Đến cuối mùa an-cư, các vị tỳ-kheo quay trở về Kỳ-viên-tự, thưa trình lên Đức Phật, nhờ sự hỗ-trợ đắc-lực của bà Mã-thị-Kha mà tất cả tỳ-kheo an-cư được đầy-đủ sức-khoẻ, thoải-mái, chẳng phải lo-lắng chi đến thực-phẩm, nhờ đó mà nỗ-lực dễ-dàng để tiến tu. Các vị tỳ-kheo còn trình rằng, bà Mã còn có khả-năng biết được tư-tưởng của họ, nên bà đã hiến-tặng đúng các món ăn mà mỗi người riêng mong muốn có được.

Bấy giờ có một vị tỳ-kheo nghe các vị khác khen-ngợi bà Mã, mới thỉnh-cầu Đức Phật chỉ-dạy cho một đề-tài quán-tưởng và đến tịnh-xá ở làng của bà Mã mà hành-thiền. Tại đây, vị ấy được bà Mã cung-cấp cho đầy-đủ thực-phẩm và các tiện-nghi khác. Khi vị ấy có ý muốn gặp bà Mã, bà liền đi đến, mang theo đúng các món ăn mà vị ấy mong muốn. Sau khi thọ-thực xong, vị tỳ-kheo mới hỏi bà Mã, có đúng chăng bà đọc được tư-tưởng của người khác. Bà Mã lẫn tránh câu trả lời trực-tiếp, bảo rằng, các bực đã chứng được tha-tâm-thông thì hành-động như thế nầy, thế nọ. Vị tỳ-kheo liền ngẫm-nghĩ: "Nếu mình còn giữ những tư-tưởng chẳng tinh-khiết của phàm-phu, thế nào bà Mã cũng nhận thấy được." Rồi, vị ấy khởi tâm lo-sợ xấu-hổ với vị tín-nữ, mới bỏ quay về Kỳ-viên-tự, để thưa trình lại với Đức Phật. Nghe vị tỳ-kheo ấy bạch sự lo-lắng ấy, Đức Phật bảo ông cứ trở lại làng của bà Mã mà hành-thiền, chỉ cần thực-hành cho thật đúng mỗi một việc nầy: kiểm-soát kỹ-lưỡng tất cả tư-tưởng mình trong lúc hành thiền. Vị tỳ-kheo vâng lời trở lại tịnh-xá trong làng, ông tiếp-tục được bà Mã cung-cấp thực-phẩm ngon như trước. Nhờ chẳng còn lo-lắng như trước nữa, vị tỳ-kheo tinh-cần tu-tập, chẳng bao lâu chứng được đạo-quả A-la-hán.

Khi nhắc đến vị tỳ-kheo nói trên, nhờ sự hỗ-trợ của bà Mã về thực-phẩm, trong thời-gian tu thiền, Đức Phật có đọc lên bài Kệ sau đây:

Tâm rất khó cho ta nắm giữ,
Nhẹ-nhàng, nhanh-nhẹn, nó bay cao;
Rồi đáp xuống chỗ nào nó thích.
Hàng-phục được tâm là tuyệt-đích,
Chế-ngự tâm thuần, hạnh-phước cao!
(Kệ số 035.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa CHỮ:

- Tín-nữ: tín = tin-tưởng; nữ = phụ-nữ, đàn-bà, cô gái. Tín-nữ là người phụ-nữ tu tại-gia, tin-tưởng nơi Đức Phật và Chánh-pháp. Còn gọi là ưu-bà-di (Upasikà) hay cận-sự-nữ.

- Mã-thị-Kha: tên thật bằng tiếng Pali là Màtikamàtà.

- Thân-mẫu: người mẹ của mình.

- Chủ làng: người đứng đầu trong làng, như Ông Cả.

- Tiện-nghi: tiện = tiện-lợi; nghi = đúng chỗ. Tiện-nghi là những việc thích-đáng, vừa phải, khiến cho thân-tâm được thoải-mái.

- Quán thân bất-tịnh: quán = suy-tưởng sâu-xa; bất-tịnh = chẳng sạch-sẽ. Đây là phép quán đầu-tiên trong phép Quán Tứ-niệm-xứ. Người thực-hành phép quán thân bất-tịnh, xem xét kỹ-lưỡng bên trong thân-thể mình chứa đầy các chất dơ-bẩn. Có tất cả 32 chỗ bất-tịnh trong thân, xin kể ra một số chánh là: máu, mủ, đờm, dãi, nước tiểu, phẩn, ghèn, cứt ráy, v.v. Biết quán thân bất-tịnh đúng cách tâm sẽ sanh ra nhàm-chán thân-thể bất-tịnh mà dứt được sự luyến-ái vào thân, thấy được sự suy-giảm từ-từ của thân đi đến sự huỷ-diệt; nhờ đó mà tâm hướng về sự giải-thoát khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi.

- Suy-yếu: suy = giảm mất sức-lực. Muôn vật, với thời-gian đều bị suy-yếu lần lần, đó là sư-thật mà người thường hay quên, cứ lo theo đuổi các thú-vui vật-chất tạm-thời.

- Ba ngôi-vị đầu-tiên của hàng Thanh-văn: đó là Tu-đà-huờn (Nhập-Lưu), Tư-đà-hàm (Nhứt-Lai), và A-na-hàm (Bất-Lai).

-Đạo-lực: đạo = con đường tu-tập; lực = sức mạnh. Người có đạo-lực cao chứng được các quyền-năng tâm-linh mà người chẳng tu chẳng thể có được.

- Thiên-nhãn: thiên = Trời; nhãn = mắt. Người đắc được thiên-nhãn, tâm nhìn thấy các vật ở xa, chẳng bị ngăn-cách. Chẳng phải là được thêm một cặp mắt nào mới, đấy chỉ là tâm thanh-tịnh nhìn được xa.

- Thanh-khiết: thanh = trong, sạch; khiết = sạch.

- Đắc-lực: đắc = được; lực = sức. Đắc-lực là vừa giỏi, khéo vừa thành-công.

- Câu trả lời trực-tiếp: lời đáp thẳng. Bà Mã chẳng đáp thẳng là bà có được tha-tâm-thông, nhưng lời nói của Bà khiến cho vị tỳ-kheo đoán được là bà có khả-năng đọc được tư-tưởng người khác.

- Tha-tâm-thông: tha = kẻ khác; tâm = lòng; thông = biết rõ.

- Tuyệt-đích: tuyệt = hơn tất cả; đích = nơi nhìn vào; cái ấy. Theo nghĩa thông-thường, tuyệt-đích là hay, giỏi, khéo hơn hết. Theo nghĩa ở đây, đó là cái mục-đích cao nhứt mà mình nhắm vào khi tu: giữ tâm.

- Chế-ngự: chế = chế-phục, điều-khiển, làm chủ được; phục = hàng-phục, khiến phải tuân theo lịnh, chẳng cho chống-cãi . Chế-ngự Tâm là nắm giữ tâm, làm chủ được tâm.

- Tâm thuần: tâm thuần-thục, chẳng còn bay nhảy, biết đứng yên, chẳng sanh vọng-tưởng, chứng được định-tâm và phát-sanh huệ.

- Hạnh-phước cao: ở đây, ý bài Kệ muốn nói đến hạnh-phước cao nhứt là chứng được quả-vị vô-sanh của cảnh-giới Niết-bàn thường vui.

- Hỗ-trợ: hỗ = đắp đổi bên nầy qua bên kia; trợ = giúp-đỡ. Hỗ-trợ là giúp-đỡ lẫn nhau.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện mang hai ý-nghĩa:

a.- Bà Mã giúp thực-phẩm cho các vị tỳ-kheo; các vị nầy chỉ-dạy giúp Bà cách tu-hành: đây là ý-nghĩa quan-trrọng của việc cúng-dường chư Tăng. Đem dâng-cúng lễ-vật cho người tu-hành chơn-chánh là việc quí vì đem lại phước-đức lớn cho người thí-giả. Nhưng chưa đủ! Chưa đủ, vì người thí-giả chẳng những tạo phước bằng cách dâng-cúng, mà còn phải biết thưa hỏi về cách tu-tập riêng cho mình. Vị tỳ-kheo biết cách chỉ-dạy đúng đường cho các thiện-nam, tín-nữ, là đang bố-thí ngược lại cho người giúp mình: bố-thí pháp-tu ( =pháp-thí). Đấy mới thật là sự hỗ-trợ: hai bên giúp-đỡ lẫn nhau, tiến tu để cùng được giải-thoát.

b.- Lời dạy của Đức Phật: giữ tâm mình thật kỹ-lưỡng, đã khiến cho vị tỳ-kheo biết cách TU TÂM. Nói tu-hành, nghĩa là sao? Tu là sửa lại cho đúng. Sửa cái chi? Sửa cái tâm cho thanh-tịnh và giữ tâm ấy trong-sạch luôn. Như thế, sớm chứng được định-tâm, sớm phát được huệ. Đường-tu giản-dị chỉ có thế, nhưng phải cố gắng giữ tâm thanh-tịnh suốt đời. Giúp vào việc giữ tâm nầy là (1)phải giữ năm giới-tu cho thật cẩn-thận, chẳng hề lơ-là; (2)phải siêng bố-thí.

Ngoài ra, Tích chuyện còn dạy ta một điều khá quan-trọng: ăn-uống phải đầy-đủ thì việc tu-hành mới mau tấn-tới. Đây là điều mà một số người tại-gia thường lãng quên: hôm nào ăn chay thì ăn sơ-sịa, quấy-quá cho qua bữa, thiếu chất bỗ-dưỡng, xem việc ăn chay như trả nợ!

Phải chuẩn-bị bữa cơm chay thật tươm-tất, khiến cho con cháu trong nhà thích ăn chay và mong đến ngày ăn chay.

B.- Ý-nghĩa của bài Kệ số 035:

Bài kệ nầy mang một ý-nghĩa rất quan-trọng, gói gọn trong hai chữ TÂM THUẦN. Như đã biết, tu là tu Tâm. Tu tâm đến mức tâm được thuần, là thành-công viên-mãn. Tâm thuần là sao? Người luyện được tâm thuần cũng như người luyện tập ngựa cho thuần. Ngựa thuần khéo biết ý của chủ, theo lịnh của chủ, chạy êm, chạy nhanh. Tâm thuần cũng thế, biết dừng lại, biết quay vào trong, biết theo đúng con đường tu-hành, lúc nào cũng trong-sạch và an-tịnh. Làm sao cho tâm thuần? Đây là một nỗ-lực khó, phải bền-chí: kiểm-soát tâm ở mỗi biến-chuyển của tâm.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ và xin thường đọc lại ít nhứt một lần mỗi ngày.

2.- Xin đọc lại bài Kệ số 034 ở bài trước và phối-hợp với bài nầy để tự mình đặt ra cách TU TÂM cho chính mình. Xin đề-nghị vài cách nho-nhỏ, dễ làm, mà có hiệu-quả lớn:

- kiểm-soát các giác-quan: khi làm việc gì, chú-ý vào việc ấy, đừng nghe, đừng thấy các việc khác. Thí-dụ, đang ăn, thì chỉ lo ăn, mà chẳng vừa ăn vừa xem Ti-vi. Thí-dụ khác, đang đọc sách, thì chỉ đọc sách, chẳng nghe nhạc; hay xem xong một đoạn cho kỹ rồi hãy nghe nhạc sau.

- giữ tâm trong khi ăn: trong khi ăn, thường nói chuyện với nhau mới vui. Đành là thế! Nhưng người siêng tu thì tạm hy-sinh cái vui nói chuyện trong khi ăn, để, tay gắp thức ăn, trong tâm niệm thầm: tay gắp; đưa thức ăn vào miệng nhai, tâm niệm thầm: nhai. Đến khi nuốt, cũng niệm: nuốt. Như thế, cho hết một chén cơm. Thử tập như thế thì ăn lâu hơn, người ta ăn xong hết, mình còn ngồi lại, coi cũng kỳ-kỳ, thành ra ăn ít đi; nhờ đó mà ... sụt cân, bớt .. phì!

- khi mình cau-có giận ai: nếu kịp thời biết được mình đang giận, thì hãy quay vào trong, nghe coi hơi thở mình như thế nào, tim mình đập nhanh như thế nào, rồi lấy tay vuốt mặt ba cái, để vuốt cái giận mất đi!

(26).- Tích chuyện về một Tỳ-kheo bất-mãn.

Vào một thời kia, Đức Phật trú tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một tỳ-kheo bất-mãn.

Thuở ấy, có một chàng thanh-niên, con của một chủ ngân-hàng, sống tại nước Xá-vệ. Người thanh-niên ấy thưa hỏi vị ty-kheo thường đến khất-thực tại nhà anh, anh phải làm gì để tránh mọi khổ-đau cho đời anh. Vị tỳ-kheo liền bảo, hãy chia tài-sản của anh ra làm ba phần: một phần để kinh-doanh, một phần để nuôi gia-đình, còn một phần thì đem ra bố-thí. Người thanh-niên làm y theo lời dạy đó. Một thời-gian sau, thanh-niên ấy lại hỏi vị tỳ-kheo, nên tiếp-tục làm những gì nữa. Vị tỳ-kheo bảo, trước hết là quy-y Tam-Bảo và giữ đúng năm giới tại-gia; kế đó sẽ thực-hành Thập Thiện-nghiệp-đạo, rồi sau cùng khước-từ đời sống thế-tục và gia-nhập Tăng-đoàn để đi tu. Chàng thanh-niên thi-hành theo thứ-lớp, đúng lời dạy và trở thành một vị tỳ-kheo.

Vào chùa, vị tân tỳ-kheo được một vị giáo-thọ dạy cho Chánh-pháp trong Tam-Tạng kinh-điển, và một vị giáo-thọ khác dạy Luật-Tạng. Bấy giờ, vị ấy cảm thấy có quá nhiều điều để học-hỏi và phải nhớ kỹ để thi-hành. Có nhiều giới-cấm thật nghiêm-nhặt đến nổi lắm lúc chẳng còn chút tự-do cá-nhơn để duỗi cánh tay nữa! Vị tỳ-kheo ấy sanh ra bất-mãn, nghĩ rằng có lẽ tốt hơn quay về với cuộc sống thế-tục trong gia-đình. Hậu-quả của sự bất-mãn rất nặng khiến cho vị ấy xao-lãng các bổn-phận của tỳ-kheo, thân-thể trở nên gầy-ốm. Khi Đức Phật được biết đến tình-trạng của vị tỳ-kheo ấy, Ngài dạy rằng: "Này tỳ-kheo, con chỉ cần giữ gìn tâm con cho thật kỹ-lưỡng, ngoài ra chẳng cần kiểm-soát thêm gì nữa cả." Rồi Đức Phật liền đọc lên bài Kệ sau đây:

Tâm rất khó cho ta nhìn thấy,
Mỏng-manh, tế-nhị, chạy khắp nơi;
Rồi ngừng lại chẳng rời nơi thích.
Người hiền kềm-thúc tâm mình,
Tâm khéo giữ-gìn, được hạnh-phước cao.

(Kệ số 036.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa CHỮ:

- Bất-mãn: bất = chẳng có; mãn = đầy; vừa ý, mãn nguyện, thoả-mãn. Bất-mãn là chẳng bằng lòng, chẳng vừa ý.

- Tài-sản: tiền-của.

- Kinh-doanh: làm ăn, dùng vào nghề-nghiệp sanh-sống; trù-hoạch công việc làm ăn.

- Quy-y Tam-Bảo: tìm về nương-tựa nơi Phật, Pháp và Tăng.

- Năm giới tại-gia: thường gọi là ngũ-giới: chẳng sát-sanh, chẳng trộm-cắp, chẳng tà-dâm, chẳng nói dối và chẳng uống rượu.

- Thập Thiện-nghiệp đạo: thập = mười; thiện = lành; nghiệp = hành-động; đạo = đường-tu. Mười điều Thiện: chẳng sát-sanh, chẳng trộm-cắp, chẳng tà-dâm. chẳng nói dối, chẳng nói lưỡi hai chiều, chẳng nói lời thô-ác, chẳng nói lời vô-nghĩa, chẳng tham, chẳng giận, chẳng có tà-kiến.

- Kềm-thúc: giữ-gìn chặt-chẽ, bó-buộc phải theo.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyên:

Tích chuyện thuật lại cuộc đời đi tu của một tỳ-kheo. Trước, khi còn ở nhà, được chỉ dạy chia tài-sản ra ba phần, lấy một phần để bố-thí: đó là để tạo phước cho đời sau được giàu-có. Kế đó được chỉ-dạy nên giữ gìn năm giới của người tu tại-gia: đó tu theo nhơn-thừa, nghĩa là để đời sau được tái-sanh lại làm người. Sau, lại được dạy thi-hành Thập-thiện: đó là đường-tu Thiên-thừa, nghĩa là đời sau sẽ được sanh lên cõi Trời sung-sướng. Sau cùng được bảo nên xuất-gia làm tỳ-kheo: đó là đường-tu giải-thoát khỏi cảnh Luân-hồi. Ba đường trước còn dễ nhớ, dễ làm vì chỉ có một điều: bố-thí; chỉ có năm điều: ngũ giới; chỉ có mười điều: thập-thiện. Đến khi học giới tỳ-kheo: 250 điều và Tam-tạng Kinh-điển thì nhiều quá, học chẳng xuễ. Đức Phật tóm lại cho gọn thành ra có một điều duy-nhứt: giữ gìn tâm cho kỹ-lưỡng. Đó là con đường tu tâm để được giải-thoát. Xem thế thì biết, thiên kinh vạn quyển ( = ngàn cuốn kinh, vạn cuốn sách), chỉ tóm lại có một điều: Tu Tâm!

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ:

Bài Kệ số 036, giống bài Kệ số 035, ở lời văn và ý-nghĩa; cả hai mô-tả tâm nơi ba câu đầu, và khuyên ta nên tu tâm ở hai câu sau.

Tu Tâm như thế nào, trong bài trước đã nói qua, xin khỏi nhắc lại. Chỉ xin nhấn mạnh một điều: Kinh Phật, giới-luật, có rất nhiều, nhưng chỉ cần hiểu, nhớ và thi-hành đúng một điều duy-nhứt:TU TÂM. Ta hãy thán-phục cách dạy của Đức Phật: dạy rất giản-dị, ít mà đủ, lại có hiệu-quả. Xin xem lại Tích chuyện của Tỳ-kheo Tiểu Phan-tha-ka, trang 69, và so-sánh với mẩu chuyện ở đây thì thấy rõ tài dạy-dỗ khéo-léo của Đức Phật.

Học-tập

1. Học thuộc lònh bài Kệ nầy. Hãy nhớ lại cả hai bài trước đó. Trọn ba bài đ ều nói về việc tu-tâm. Học thuộc lòng rất tốt, nhưng chưa đủ, phải thực-hành mới có hiệu-quả.

2.- Có một cách để nhớ đủ mười điều thiện: chia ra,

- ba điều nói về thân: (1) chẳng sát-sanh, (2) chẳng trộm-cắp, (3) chẳng tà-dâm;

- bốn điều nói về miệng: (1) chẳng nói dối, (2) chẳng nói lưỡi đôi chiều, (3) chẳng nói lời thô-ác, (4) chẳng nói lời vô-nghĩa;

- ba điều nói về ý: (1) chẳng tham, (2) chẳng giận, (3) chẳng có tà-kiến.

Giữ được ba nơi thân, miệng, ý đều lành,là giữ cho ba nghiệp được thanh-tịnh. Đó là căn-bản cho mọi đường-tu, chẳng chỉ riêng Thiên-thừa.

Xin giải-thích thêm vài điều trong Thập-Thiện:

- tà-dâm có nghĩa là đã có vợ-chồng mà còn lang-chạ, xâm-phạm tiết-hạnh của người khác. Đối với tỳ-kheo, cấm hẳn việc dâm-dục, phải theo hạnh độc-thân.

- nói lưỡi đôi chiều là nói đâm thọc, gặp người nầy nói vầy, gặp người kia nói khác, cố ý gây chia rẽ, gieo thêm giận-hờn.

- nói lời vô-nghĩa là nói chuyện tầm-phào, ngồi lê đôi mách.

- tà-kiến: có nhiều tà-kiến, nhưng cần nhớ biết ba tà-kiến nầy để tránh: thân-kiến, chấp lấy thân làm ta; thường-kiến, cho rằng có linh-hồn bất-diệt, đoạn-kiến, cho rằng chết là hết, chẳng có Luân-hồi.

(27).- Tích chuyện Sa-di Tha-di-nê.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Sa-di Tha-di-nê và Trưởng-lão Tăng-ga-ra.

Thuở ấy, có một vị Trưởng-lão ở nước Xá-vệ, tên là Tăng-ga-ra, có người cháu gọi mình bằng cậu, tên là Tha-di-nê. Tha-di-nê còn nhỏ tuổi, được thâu-nhận vào chùa, làm Sa-di. Bấy giờ, Sa-di Tha-di-nê nhận được hai bộ cà-sa cúng-dường; sau mùa an-cư kiết-hạ, mới đến gặp Trưởng-lão Tăng-ga-ra, để chia lại cho cậu mình một bộ áo. Nhưng Trưởng-lão từ-chối chẳng nhận, bảo rằng Trưởng-lão đã có đủ ba bộ y rồi. Sa-di Tha-di-nê rất buồn lòng, thấy cậu chẳng chịu chia-xẻ phước-báu cùng mình.

Hôm ấy, Sa-di Tha-di-nê đang đứng hầu, quạt mát cho Trưởng-lão. Trong đầu chú Sa-di liền khởi lên ý-nghĩ, mình cúng-dường cho cậu mình, mà cậu chẳng nhận, thôi thì mình còn ở lại chùa làm chi nữa, hãy cứ quay về sống đời sống thế-tục. Rồi mình đem bán bớt một chiếc áo, lấy tiền mua một con dê-cái để nuôi. Chẳng bao lâu, dê đẻ con, mình sẽ có một đàn dê, đủ tiền để cưới một cô vợ. Năm sau, vợ mình sanh một đứa con, mình sẽ dẫn vợ con để đảnh-lễ cậu mình ở tu-viện. Mình dùng một chiếc xe nhỏ để đưa vợ con đi. Dọc đường, mình muốn bồng con lên, nhưng vợ mình cãi lại, bảo để con cho nàng bồng, còn mình hãy cứ đẩy xe đi. Mình chẳng chịu, vói tay bồng con, vợ mình giựt lại, khiến con té xuống đất. Mình tức quá, mới lấy cây gậy đuổi dê, gõ mạnh vào đầu vợ mấy cái...

Suy-nghĩ miên-man như thế, Sa-di Tha-di-nê trở cán quạt khỏ vào đầu Trưởng-lão một cái đau-điếng. Trưởng-lão ngẩng lên nhìn chú Sa-di, đọc được tư-tưởng của chú, liền nói: "Cháu muốn đánh vợ cháu, sao lại nhè cái đầu trọc của nhà sư già nầy mà đập, đau thế!" Tha-di-nê mới bừng tỉnh cơn mộng, sợ quá sợ, vì cậu mình đã biết được ý-nghĩ trong đầu mình. Vừa xấu-hổ, vừa lo-lắng, Sa-di Tha-di-nê vụt bỏ chạy ra khỏi chùa. Các vị tăng trẻ tuổi và mấy chú tiểu trong chùa vội rượt theo bắt lại và dẫn Sa-di Tha-di-nê đến trước mặt Đức Phật.

Khi nghe kể lại câu chuyện, Đức Phật mới bảo rằng, tâm có khả-năng nghĩ đến một việc ở xa, thật xa, và mọi người tu-hành chăm-chỉ phải biết cách gìn-giữ tâm, phải khiến cho tâm rửa sạch được ba món độc tham, sân, si. Bấy giờ, Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Tâm lang-thang đi xa,
Nó chạy rong một mình;
Nó chẳng hình, chẳng sắc,
Ẩn trong hang động sâu.
Ai điều-phục tâm nầy,
Thoát vòng vây bọn ma.
(Kệ số 037.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa CHỮ:

- Sa-di: tiếng Phạn phiên-âm, Sramanera, người còn trẻ tuổi vào chùa tập-sự tu, chưa thọ-giới Tỳ-kheo.

- Tha-di-nê: tên thật bằng tiếng Pali rất dài: Sangharakkhita Bhàgineyya, Thiện-Nhựt lấy chữ sau để đặt tên tiếng Việt cho dễ đọc.

- Tăng-ga-ra: tên thật bằng tiếng Pali là Sangharakkhita.

- Ba bộ y: theo giới-luật tỳ-kheo, mỗi người chỉ giữ lại cho mình có ba bộ áo. Mục-đích của giới nầy là để diệt lòng tham tích-trữ của cải và tránh sự khoe-khoang về cách ăn-mặc.

- Cơn mộng: mộng = chiêm-bao; ngủ mê, trong đầu mơ nghĩ đến chuyện chẳng thật. Ở đây, chú Sa-di đang ngủ đứng!

- Chú tiểu: tiếng thông-thường để gọi các vị Sa-di.

- Chạy rong: chạy đi chơi lang-thang chẳng có mục-đích gì.

- Ở trong hang động sâu: ở đây, ý muốn nói đến trái tim ở trong buồng ngực. Thông-thường, người ta cho rằng tâm là trái tim; nhưng như bài Kệ nói rõ, nó vô-hình, nó là phần tâm-linh ở bên trong, chẳng có nơi xác-định trên thân-thể.

- Điều-phục: điều = điều-khiển, nắm lấy quyền làm chủ để sai-khiến; phục = hàng-phục, khuất-phục, bắt buộc phải theo lịnh của người chủ. Ở đây, điều-phục tâm là biết kềm-giữ tâm, chẳng cho nó chạy rong.

- Bọn ma: ở đây, ý muốn nói: thoát được sự cám-dỗ.

B.- Nghĩa Ý:

(1).- Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một chú Sa-di đang quạt hầu một vị Trưởng-lão, vì đang mơ-mộng, nên chú trở cán quạt, khỏ vào đầu vị Trưởng-lão. Khi biết tư-tưởng trong đầu mình bị người khác đọc thấy được, chú xấu-hổ chạy đi, nhưng sau đó, được Đức Phật chỉ-dạy cách kềm tâm lại, chẳng cho nó chạy rong nữa.

Ý-nghĩa quan-trọng nầy: kềm-giữ tâm, đã được nói rõ trong ba bài Kệ trước.

(2).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 037:

Bài Kệ có hai phần chánh:

a.- Ba câu đầu mô-tả Tâm:

1) Tâm chẳng có hình-sắc. Tại sao? Vì tâm chỉ vào phần tâm-linh, chẳng phải là vật-chất mà có hình-dáng và màu sắc.

2) Tâm ẩn trong hang động sâu: Câu nầy có thể hiểu Tâm là trái tim, ở sâu trong buồng ngực. Nhưng hiểu như thế, tuy cũng đúng, nhưng chưa đầy-đủ, vì ta chẳng thể xác-định phần vô-hình của Tâm ở vào chỗ nào nhứt-định trong thân-thể ta cả. Ở đầu chăng? Không, trong đầu chỉ có óc, tuy rằng nhờ óc mà ta suy-nghĩ được, nhưng đó còn chưa hẳn là Tâm. Ở trong bụng chăng? Không, trong bụng chỉ có dạ-dày ( =bao-tử), ruột và các bộ-phận khác của bộ tiêu-hoá. Ở trong ngực chăng? Không, ở trong ngực có phổi để thở, và tim để đưa máu đi khắp châu-thân) Có lẽ nên hiểu chữ hang động sâu, như là một nơi kín đáo nào đó bên trong ta. Tuy chẳng biết rõ đích-xác chỗ nào, nhưng ta có thể nắm-bắt được Tâm, bằng cách hễ Tâm đang nghĩ gì, mình biết ngay là Tâm đang nghĩ điều đó. Vậy, cần chi xác-định Tâm ở đâu, chỉ cần biết nắm-giữ Tâm lại là đủ.

3) Nó chạy rong một mình, đi lang-thang rất xa: đó là hai đặc-tánh của cái Tâm chưa được điều-phục. Nó chạy rong một mình, bỏ thân-thể đang đứng hay nằm, ngồi, ở đây. Nó lang-thang đi thật xa, theo sự tưởng-tượng của nó. Chẳng những đi xa, nó còn quay về dĩ-vãng, hướng về tương-lai, lại thêm tạo ra những việc giả-tưởng nữa.

b.- Hai câu chót: ích lợi của sự điều-phục Tâm. Biết nắm-giữ Tâm, biết kiểm-soát Tâm, biết điều-phục Tâm, thì thoát khỏi sự cám-dỗ, mà bài Kệ gọi là vòng vây bọn Ma. Tại sao lại bị cám-dỗ? Trong hai bài Kệ trước, số 035 và 036, có nói: nó bay cao rồi đáp xuống nơi nào nó thích; nó chạy khắp nơi, rồi ngừng lại chẳng rời nơi thích. Tại nó thích, cho nên nó mới bị cám-dỗ.

Chung qui, vấn-đề đặt ra là làm cách nào để điều-phục tâm cho có hiệu-quả; xin xét đến vấn-đề nầy ở Phần Học-Tập.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ.

2.- Đã biết Tâm rất khó nắm-giữ, rất khó kiểm-soát, muốn điều-phục Tâm, cần phải kiên-nhẫn, thực-hành luôn luôn, mới có hiệu-quả. Xin đề-nghị vài cách để biết nắm-giữ Tâm trước đã.

1) Khi rỗi-rảnh chẳng có việc gì cần làm, chính lúc đó là Tâm hay đi lang-thang: muốn giữ-gìn Tâm lúc nầy, cần phải niệm thầm trong đầu một bài Kệ. Bất cứ bài Kệ nào mình nhớ, phải đọc thầm trong đầu trọn bài, chỗ nào quên, lấy sách ra đọc lại, kỳ đến thuộc làu mới thôi. Trong thời-gian nầy, đang giữ Tâm một cách hữu-hiệu. Xin nhớ, phải đọc thầm cả bài Kệ, chẳng thiếu chữ nào. Khi thiếu, Tâm thường hẹn, để lúc nào đó sẽ giở sách ra xem lại. Nếu chiều theo ý-nghĩ lười nầy, Tâm sẽ đi lang-thang ngay.

2) Trong khi tụng kinh ở Chánh-điện, thường hay lo ra, nghĩ đến việc sẽ làm sau thời kinh. Đó là: cái miệng đọc tụng mà cái bụng đi chợ! Trong lúc bụng đi chợ như thế, nếu nghe tiếng chuông mà sực-tỉnh, nên sửa lại cặp kiếng, hay vuốt mặt một cái, rồi chăm-chú vào lời Kinh, dầu có hiểu hay chẳng hiểu cũng chẳng sao, miễn là mình biết mình đang đọc chữ gì, câu gì. Đấy là kéo Tâm về với hiện-tại và tại đây đó.

(28).- Tích chuyện Trưởng-lão Chí-ta-hạt.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến trường-hợp của Trưởng-lão Chí-ta-hạt, bảy lần thọ-giới Tỳ-kheo.

Thuở ấy, có một người ở nước Xá-vệ, vì đi tìm một con bò đi lạc suốt buổi sáng trong rừng sâu, nên đói quá. Anh liền ghé vào một ngôi chùa, xin cơm ăn. Trong khi ăn, anh ngẫm-nghĩ, mình làm việc vất-vả cả ngày mà chẳng có được thức ăn ngon như vầy, chi bằng mình cứ xin vào chùa tu thì sướng hơn. Sau bữa ăn, anh ta liền xin phép được xuất-gia, và được thu-nhận vào Tăng-đoàn. Tại tu-viện, anh thi-hành đầy-đủ bổn-phận của một vị rỳ-kheo và nhờ có thực-phẩm đầy-đủ, nên anh béo mập ra. Sau một thời-gian, anh cảm thấy buồn chán, mỗi ngày phải mang bình-bát đi khất-thực, nên xin quay về nhà, trở lại đời sống thế-tục. Về nhà được mấy hôm, anh lại cảm thấy cuộc sống nơi đây cực-khổ quá, nên trở lại chùa, xin được đi tu lại, và được chấp-nhận. Cứ thế, cả thảy, sáu bận thọ giới Tỳ-kheo, sáu lần hoàn-tục. Các vị tăng-nhơn trong chùa gọi chàng ta là tỳ-kheo Tâm-bất-định.

Đến lần thứ bảy trở về nhà, vợ anh mang bầu. Một đêm, anh ta đi vào phòng vợ, thấy vợ nằm ngủ, bụng phình to, hơi thở ngáy ồ-ồ, nước dãi chảy thòng xuống mép. Trông thấy cảnh-tượng đó, trong tâm anh khởi lên sự nhàm-chán thân-xác nầy, vừa dơ-bẩn, lại vừa vô-thường. Anh lẩm-bẩm: "Bất-tịnh! Vô-thường!", rồi quay ra ngoài, lẳng lặng thay y-phục trở lại chùa. Bấy giờ, chư Tăng từ-khước chẳng cho anh xuất-gia nữa. Năn-nỉ hồi lâu, bảo đây là lần chót, nhứt-định đi tu luôn, anh mới được thâu-nhận lại. Bẵng đi một thời-gian khá lâu, thấy anh chẳng xin trở về thăm nhà, các bạn đồng tu mới hỏi anh lý-do. Anh bảo: "Tôi đã xuất-gia nhiều lần mà chẳng được, đó là vì còn nhớ tưởng đến người đàn-bà, vợ tôi. Nay tôi nhận thấy thân con người là bất-tịnh và cơn vô-thường chợt đến, nên tôi nhứt quyết rời hẳn đời sống thế-tục." Các vị tỳ-kheo nghe nói thế, chưa cho đó là sự-thật, nên đến thưa trình cùng Đức Phật.

Đức Phật bảo: "Tỳ-kheo Chí-ta-hạt nay đã đắc đạo-quả A-la-hán, tâm trở nên kiên-cố rồi. Trước kia, đi đi lại lại là vì tâm ông ta chưa ổn-định và chưa hiểu thấu Chánh-pháp. Nay với quả-vị A-la-hán, ông ta đã vượt qua cả điều thiện lẫn điều ác." Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Tâm người còn lao-chao,
Chánh-pháp chửa thấm vào,
Niềm tin còn lỏng-lẻo
Bao giờ đạt trí cao?
(Kệ số 038.)

Tâm người lià tham-ái,
Hận-thù đều đã giải,
Vượt trên điều thiện, ác,
Đấy là bực Đại-giác.
(Kệ số 039.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa CHỮ:

- Chí-ta-hạt: tên thật bằng tiếng Pali là Cittahattha.

- Thọ-giới Tỳ-kheo: còn gọi là thọ Cụ-túc-giới, nghĩa là làm lễ hứa nhận sẽ tuân theo 250 giới-điều của Tỳ-kheo.(Cụ-túc = đầy-đủ)

- Xuất-gia: xuất = ra khỏi; gia = nhà. Xuất-gia là rời nhà vào chùa đi tu. Những người còn sống đời thế-tục mà tu-hành theo Chánh-pháp, gọi là tu tại-gia.

- Bình-bát: cái chén to như cái tô; bằng gỗ hay bằng đồng, các vị khất-sĩ dùng đựng thức-ăn vừa đi xin được.

- Hoàn-tục: hoàn = trở lại, trở về; tục = thế-tục, đời sống thường- nhơn, có gia-đình.

- Tâm bất-định: Tâm = lòng; bất = chẳng; định = yên. Thầy tỳ-kheo Chí-ta-hạt cứ nay ở chùa mai về nhà, lúc tu lúc không, tấm lòng cứ thay đổi luôn, nay vầy mai khác, đó là tâm bất-định, chẳng kiên-cố.

- Mang bầu: tiếng bình-dân, có nghĩa là mang thai, có con trong bụng.

- Vô-thường: vô = chẳng; thường = luôn luôn. Vô-thường, danh-từ chuyên-môn về Phật-học nầy có nghĩa là muôn sự-vật có hình-tướng đều chẳng bền-vững, nay tuy thấy có đó, nhưng rồi sẽ bị tiêu-huỷ vào một ngày nào đó. Còn một nghĩa nữa, cơn vô-thường chợt đến, có nghĩa là cái chết đến bất-chợt, chẳng biết chắc được trước vào lúc nào.

- Bất-tịnh: bất = chẳng; tịnh = sạch. Xin xem lại bài Bà Mã thi-Kha, các trang 93 đến 97, về phép Quán thân bất-tịnh (trang 95).

- Kiên-cố: kiên = cứng; cố = vững, yên. Tâm kiên-cố nhứt quyết theo điều gì, thì theo luôn, chẳng đổi bụng, hay thối-chí.

- Vượt qua cả điều thiện và điều ác: vì đã thông-suốt Chánh-pháp, tâm trở nên thanh-tịnh, cho nên lúc nào cũng nghĩ đến việc lành; đối với thái-độ thiện-ác của người khác, cũng chẳng chỉ-trích, phê-bình. Đó là tâm vô-phân-biệt, rất khó tập, vì thông-thường ai cũng khen điều thiện mà chê điều ác. Hễ còn khen chê là tâm còn xao-động; vì thế, phải giữ cho bình-thản, thì tâm mới kiên-cố.

- Lao-chao: xao-động, nghiêng-ngửa, thay-đổi lung-tung.

- Chửa thấm vào: chưa thông-hiểu được rõ.

- Đạt Trí cao: Trí cao ở đây muốn nói đến Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, cái Trí-huệ đưa người tu-hành đến bờ giác-ngộ và giải-thoát. Đạo Phật chủ trương Từ-bi Trí-huệ; Trí-huệ đây là Trí cao nói trong bài Kệ.

- Tham-ái: tham = ham muốn quá; ái = thích, tríu-mến. Sự tham-ái là sự ham-muốn bám vào các thú vui vật-chất tạm-thời, để phải sống trong sự đau-khổ triền-miên của cảnh sanh-tử Luân-hồi. Muốn diệt Khổ, phải bỏ tiệt sự tham-ái, đừng tríu-mến gì nữa.

- Giải: mở ra. Hận thù đều đã giải, là đã buông-bỏ mọi thù-giận.

- Đại-Giác: đại = lớn; giác = hiểu rõ. Bực Đại-Giác có nghĩa là Đức Phật. (Phật = giác). Hiểu rõ gì? Hiểu rõ lẽ sống chết của mọi chúng-sanh. Nói cách khác, đã thông-hiểu hoàn-toàn về Bốn Chơn-Lý Nhiệm-mầu. Tu đến cấp A-la-hán cũng gọi là bực Đại-giác.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại một vị tỳ-kheo tâm chẳng kiên-cố, đến lần thứ bảy thọ-giới tỳ-kheo mới tu thành-công. Tại sao? Vì độ trước, vị ấy cứ nhớ nhà, bỏ chùa quay về với vợ. Đến lần thứ sáu về nhà, nhơn khi nhìn thấy người vợ nằm ngủ trong tư-thế chẳng được đẹp-đẽ, thầy Chí-ta-hạt sực nhớ đến phép quán thân bất-tịnh, ngộ được lẽ Vô-thường, mới quyết-chí trở lại chùa, tu-hành cho đến ngày thành-công viên-mãn.

Đức Phật cho rằng trước kia tâm của thầy Chí-ta-hạt còn chưa ổn-định, sau nhờ thấu-hiểu Chánh-pháp, vượt qua được mọi điều thiện, ác, nên chứng-đắc được quả-vị A-la-hán.

(2).- Ý-nghĩa hai bài Kệ số 038 và 039:

a.- Bài Kệ 038 nói đến Tâm tu-hành chưa kiên-cố:

- Tâm người còn lao-chao: đó là tâm hay xao-động, hay thay đổi, thiếu kiên-quyết, gặp khó thì lùi, chẳng bền-chí;

- Chánh-pháp chửa thấm vào: chưa thật-sự đem Chánh-pháp ra thi-hành trên bản-thân mình một cách chuyên-cần;

- Niềm tin còn lỏng-lẻo: chưa vững tin nơi Tam-Bảo vì còn bị cám-dỗ, vì còn hoài-nghi;

Hậu-quả: việc tu-hành lơ-là, chẳng thể nào đạt được Trí-Huệ để đi đến mục-tiêu giác-ngộ và giải-thoát.

b.- Bài Kệ 039 nói đến Tâm và Tuệ đều được giải-thoát:

- Tâm người lià tham-ái: bỏ được sự tham-ái là dứt được mối độc lớn, hết bấu-víu vào các thú-vui của đời sống thế-tục;

- Hận-thù đều đã giải: Tâm diệt bỏ được mối độc to lớn thứ hai là sân-hận, chẳng còn bị nghịch-cảnh trì-níu;

- Vượt lên trên các điều thiện, ác: Tâm hoàn-toàn quân-bình, an-nhiên, chẳng xao-động trước cảnh thuận, nghịch, nhờ đó Trí-huệ phát-sanh, kiên-cố theo con đường giải-thoát.

Kết-quả: tu-hành tinh-tấn, đạt mục-tiêu giác-ngộ và giải-thoát.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng hai bài Kệ, và nhớ cho THẤM vào Tâm mình bằng cách giữ đúng giới-luật, tinh-tấn hành-thiền, theo đúng Chánh-pháp

2.- Muốn cho Tâm tu-hành kiên-cố, cần nhớ đến mục-tiêu:

- giải-thoát Tâm khỏi hai mối độc: tham sân;

- giải-thoát Trí khỏi mối độc: si-mê.

(29).- Tích chuyện Năm trăm vị Tỳ-kheo tu Thiền.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc năm trăm vị tỳ-kheo vào rừng sâu để thực-tập thiền-định.

Thuở ấy, có năm trăm vị tỳ-kheo được Đức Phật chỉ-dạy cho đề-tài quán-chiếu, cùng nhau vào rừng sâu, cách thành Xá-vệ hơn một trăm do-tuần. Nơi đây, các vị ấy tìm thấy một điạ-điểm u-nhã rất thích hợp cho việc hành-thiền. Bấy giờ, các vị thọ-thần canh giữ khu rừng, nghĩ rằng có các tu-sĩ đến ngụ trong rừng, thì nên đem hết quyến-thuộc của họ xuống ở dưới đất, để tỏ lòng kính-trọng. Họ những tưởng đoàn tỳ-kheo đến tạm-trú một vài đêm rồi sẽ di-chuyển đi nơi khác. Nào dè, các vị ty-kheo vẫn lưu lại suốt hai tuần-lễ rồi mà chưa dời gót. Các thọ-thần thấy như thế thì quyến-thuộc của họ phải chịu thiếu-thốn tiện-nghi lâu ngày, mới bàn cùng nhau tìm cách doạ-nhát các tu-sĩ để phải sợ mà sớm bỏ đi. Họ liền cùng nhau phát ra những tiếng ma kêu quỉ hú, biến thành những thi-ma chẳng có đầu, hoặc có đầu mà chẳng có thân, v.v. Quả thật, các vị tỳ-kheo nhát gan, sợ cuống lên, mới quay về trình với Đức Phật. Đức Phật bảo: "Đó là tại các ông còn chưa mang võ-khí khi vào rừng. Đây, Như-Lai chỉ-dạy cho võ-khí đó: các ông hãy học thuộc bài Kệ về Tâm Từ nầy, và khi trở lại chỗ cũ, tới ven rừng, nên thành-tâm đọc tụng và rải Tâm Từ đến mọi chúng-sanh."

Bài Kệ "Rải Tâm Từ" như sau:

"Hướng về cảnh Niết-bàn an-tịnh,
Tạo phước lành cho cõi nhơn-thiên,
Người rải Tâm Từ khắp mọi miền,
Hiền-hoà, khiêm-nhường và trực-tính."

Sau khi học thuộc bài Kệ, các vị tỳ-kheo trở lại khu rừng. Vừa đến bià rừng, tất cả thành-tâm đọc-tụng vang lên bài Kệ và tâm hướng về các chúng-sanh trong rừng mà rải lòng Từ. Các vị thọ-thần nghe thấy, nhận được làn sóng tư-tưởng hiền-hoà của Tâm Đại-từ rộng lớn tràn ngập, mới phát lòng Từ hướng về các vị tỳ-kheo, chào mừng và hết lòng ủng-hộ. Nhờ đó, trong mùa an-cư tại khu rừng, các vị tỳ-kheo đã tinh-tấn hành-thiền, đắc được định-tâm.

Bấy giờ, Đức Phật từ Kỳ-viên-tự, quán thấy cảnh tu-hành tinh-tấn của các vị tỳ-kheo, Ngài mới phóng hào-quang đến khu rừng, khiến cho tâm các vị tỳ-kheo trông thấy được Đức Phật và nghe Ngài dạy thêm: "Này các vị tỳ-kheo! Như các ông đã nhận thấy, tấm thân thể-chất nầy cũng như cái hủ bằng sành dễ bể, nó chẳng thường còn và rất mong-manh..." Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Biết thân nầy như hủ sành dễ vỡ,
Phòng-hộ tâm như củng-cố thành-trì.
Vung gươm trí dẹp tan Ma cám-dỗ.
Chiến-thắng rồi vẫn trụ chỗ giác-tâm,
Chẳng tham-đắm trong vinh-quang thắng-lợi.
(Kệ số 040.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa CHỮ:

- Do-tuần: đơn-vị đo chiều dài, vào khoảng 12 dặm; tiếng Pali là yojana.

- U-nhã: u = thanh-u, êm-ả; nhã = đẹp.

- Thọ-thần: thọ = cây to lớn, lâu năm; thần: thần-linh, một hạng chúng-sanh vô-hình-sắc, có thần-thông, Phật-học xếp vào hạng giữa cõi người và cõi Trời.

- Quyến-thuộc: quyến = gia-quyến; thuộc = thuộc về. Quyến-thuộc kể cả con cái, họ-hàng và các tôi-tớ.

- Thi-ma: thây ma; thây người chết.

- Tâm Từ: lòng thương rộng lớn, chẳng phân-biệt thân sơ, muốn cho mọi người được yên-vui.

- Như-Lai: Đức Phật thường tự-xưng là Như-Lai. Như là như thế; Lai là đến, Ngài đến cõi nầy như thế. Tiếng Pali là Tathàgata.

- Rải Tâm Từ: trong Tâm chỉ nghĩ về sự thương-mến và đem nguồn an-vui đến cho người mà mình đang nghĩ tới. Muốn rải tâm Từ có hiệu-quả, phải thật thành-tâm.

- Cõi nhơn-thiên: cõi Trời và cõi người.

- Trực-tính: trực = ngay-thẳng; tính = tánh.

- Ủng-hộ: giúp-đỡ.

- Dễ vỡ: dễ bể.

- Phòng-hộ: giữ-gìn cẩn-thận.

- Củng-cố: làm cho bền-vững thêm lên.

- Gươm Trí: Trí-huệ được ví như cây gươm cắt bỏ được các sự ràng-buộc của các cám-dỗ, các phiền-não và các tà-kiến.

- Giác-tâm: giác = biết thấu-đáo; chẳng còn mê-muội, chẳng bị phiền-não, chẳng bị cám-dỗ; thấy rõ con đường giải-thoát.

- Vinh-quang thắng-lợi: thành-công rực-rỡ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích-chuyện:

Tích chuyện kể lại việc các vị Tỳ-kheo vào rừng tu Thiền, sợ ma. Đức Phật dạy cho võ-khí chống lại: đem Tâm Từ rải lên khắp chúng-sanh. Võ-khí nầy chẳng phải chống lại ma, đàn-áp ma, mà chính là để cảm-hoá mọi chúng-sanh bằng tình thương rộng-rãi. Nó hữu-hiệu nhờ sự thành-tâm của mình, sẽ được sự cảm-ứng của kẻ khác.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ "Rải Tâm Từ":

Đây là bài Kệ quan-trọng (Rất tiếc, Thiện Nhựt chẳng đủ sức để diễn lại cho đầy-đủ ý-nghĩa ra tiếng Việt, xin sám-hối!). Từ-Bi là điều thứ nhứt phải tu-tập trong Đạo Phật.

a.- Hai câu đầu: Hướng về cõi Niết-Bàn an-tịnh. Đây là mục-đích ban vui của lòng Từ, muốn mọi chúng-sanh được yên-vui, chẳng phải là thú-vui thường-tình của thế-tục, mà là niềm vui được giải-thoát, tự-tại.

b.- Hai câu chót: các đức-tánh của người có tâm Từ.

- khắp mọi miền: ý muốn nói, đem an-vui lại cho tất cả, chẳng phân-biệt thân hay sơ, bạn hay thù.

- Hiền-hoà, khiêm-nhường và trực-tánh: sự hiền-hoà đí trước, bỏ mọi sự bạo-động, lấy tình-thương xoá bỏ hận-thù; sự khiêm-nhường, chẳng kiêu-căng, chẳng tự xem mình hơn kẻ khác, chịu sự thua-lỗ cho mình để giúp kẻ khác mà chẳng tự-hào; trực-tánh là tâm ngay-thẳng, chẳng che-dấu, chẳng giả-vờ. Còn hai đức-tánh nữa, Thiện Nhựt dịch chẳng hết trong bài Kệ: đó là sự đắc-lực, giúp người cho thật có hiệu-quả, chẳng chỉ dùng lời nói suông, hay an-ủi bằng miệng mà thôi; và sự cẩn-mật, luôn luôn canh-phòng tâm mình chẳng cho khởi lên một ý ác nào đối với bất cứ mọi chúng-sanh và sẵn-sàng ra tay giúp-đỡ tất cả.

(3).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 040:

Đây là bài Kệ cũng quan-trọng chẳng kém bài Kệ "Rải Tâm Từ", vì đây là bài dạy về Trí-Huệ, điểm quan-trọng thứ hai của Đạo Phật: Từ-bi và Trí-huệ. Xin phân-tách từng câu:

a.- Biết thân nầy như hủ sành dễ vỡ: "Biết" được như thế là đã có Trí-huệ rồi, vì người thường si-mê, chấp thân nầy còn hoài, lo bồi-đắp cho thân béo-mập ra, chẳng lo tu-hành để giải-thoát khỏi khổ-đau của Luân-hồi sanh-tử triền-miên.

b.- Phòng-hộ Tâm như củng-cố thành-trì: "Biết" phòng-hộ Tâm là biết điều-phục Tâm, giữ-gìn Tâm, kiểm-soát Tâm, khiến cho ba nghiệp được thanh-tịnh, đó là con đường giải-thoát. Cái biết nầy rất quí.

c.- Vung gươm Trí dẹp tan Ma cám-dỗ: "Biết" dẹp tan sự cám-dỗ thì chẳng sa-đoạ. Nhờ đâu? Nhờ Trí-huệ sáng-suốt, bén như gươm, nên chặt bỏ được sự quyến-rũ, khỏi phải sa vào tội-lỗi, thẳng đến mục-tiêu giải-thoát.

d.- Chiến-thắng rồi vẫn trụ chỗ giác-tâm: "Biết" như thế là biết khiêm-nhường, chẳng tự-mãn, chẳng tự-cao: thắng mà chẳng kiêu! Thắng cái gì? - Tự thắng lấy mình, mình thắng tật xấu của mình, đó là chiến-thắng vẻ-vang nhứt. Trụ chỗ giác-tâm là trụ thế nào? Lúc nào cũng phải theo dõi từng biến-chuyển trong tâm mình: nay vừa thắng đây, hãy coi chừng, đừng quá tự-hào, kẻo lại rơi vào vết xấu cũ. Trụ vào giác-tâm luôn luôn, đó là điều khó, chính nó mới đánh-giá đạo-hạnh kẻ tu-hành.

e.- Chẳng tham-đắm trong vinh-quang thắng-lợi: Đây là lời khuyên mà có rất nhiều vị tu-hành ngày nay quên mất: tự xem mình như bực ... Tổ-sư, nhìn mọi người như còn đang thấp-kém, và đòi hỏi được sự kính-nễ, tôn-sùng của kẻ khác. Mặc dầu có được thành-công, ta cứ nên âm-thầm giữ sự khiêm-nhường như buổi ban đầu, mới quí.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng hai bài Kệ, ráng tìm cách ứng-dụng trong cuộc sống hằng ngày.

2.- TỪ-BI và TRÍ-HUÊ là hai khẩu-hiệu căn bản của Đạo Phật. Muốn tập Tâm từ-bi và luyện Trí-huệ, cần hiểu rõ hai nguyên-tắc chánh nầy:

- Từ-bi là ban vui, cứu khổ cho mọi chúng-sanh; nên bắt đầu nơi các người thân trước dễ làm hơn, và phải biết quên mình.

- Trí-huệ là thông-suốt được Chánh-pháp; phải bắt đầu học ít mà hiểu chắc.

3.- Xin đề-nghị vài việc làm nho-nhỏ, có thể giúp ta phát-triển lòng Từ sau nầy:

- Ngăn-cấm sắp nhỏ chẳng được bắt bướm, chuồn-chuồn chơi, rồi bứt cánh, bẻ cẳng. Hãy dạy chúng, nếu chúng đứt tay chảy máu, sao lại khóc, còn con côn-trùng bị bứt cẳng, bộ chẳng biết đau sao?

- Hễ trẻ xin phép đi bắn chim, bắt cá thia-thia, đừng cho phép: giải-thích cho chúng hiểu sự đau-đớn của loài chim, loài cá, khi phải lià nơi chúng quen sanh-sống. Đề-nghị với chúng các thú tiêu-khiển khác, lành-mạnh hơn, hiền-hoà hơn.

- Trong số các món đồ-chơi của trẻ em ở Âu-Mỹ, có nhiều món gợi lên sự bạo-động. Nếu có thể, khuyên chúng đừng quá mê mà đòi mua, giải-thích cho chúng biết thế nào là lòng nhơn-từ.

- Đối với người lớn, thi-hành tâm Từ dễ nhứt là bố-thí. Hiến-tặng tiền-của xây cất các cơ-sở xã-hội, y-tế, tôn-giáo là điều quí, nhưng chẳng phải mọi người đều có thể làm nổi; nhưng để ra một vài đồng tặng người hành-khất, đâu có khó. Lợi trước mắt cho người cho là dẹp được lòng bỏn-xẻn, kế đó tập cho mình có thói quen của lòng Từ.

- Hãy tập ăn chay ít nhứt mỗi tháng một lần, ăn đầy đủ chất bổ, rau cải thanh-khiết. Đó là giữ giới sát-sanh trong ngày ấy. Nếu đang ngồi đọc sách, bị muỗi cắn, đừng đập mạnh cho chết, rồi lấy tay chà ... cho đã ngứa và đã ... giận. Hãy chịu khó thổi vào nó để nó bay đi, tha cho nó sống thêm một ngày, ngày mà mình ... ăn chay!

- Đừng dùng thuốc giết sâu bọ để xịt sân cỏ, vườn rau. Muốn trị sâu ở rau cải trong vườn, pha loảng xà-bông với nước, tưới lên.

(30).- Tích chuyện vị Tỳ-kheo Phù-ti-Cát.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Tỳ-kheo mắc bịnh ghẻ lở, thân-thể hôi-hám, có biệt-hiệu là Phù-ti-Cát.

Sau khi được Đức Phật chỉ-dạy cho một đề-tài thiền-quán, Tỳ-kheo Phù-ti-Cát liền tinh-tấn thực-hành thiền-định, cho đến khi ông vướng phải bịnh ghẻ lở. Nhiều mụn nhỏ nổi lên khắp mình, chẳng bao lâu mụn vỡ, mủ máu chảy lan, bốc mùi hôi-hám. Áo cà-sa bị dính, đóng cứng những máu và mủ. Các vị tăng-nhơn đồng-tu đều lánh xa; cả các người đệ-tử của tỳ-kheo Phù-ti-Cát cũng chẳng dám đến gần.

Bấy giờ, trong cơn thiền-định, Đức Phật quán thấy tình-cảnh đáng thương của Tỳ-kheo Phù-ti-Cát, Ngài soi thấy và biết rằng chẳng bao lâu vị tỳ-kheo nầy sẽ chứng-đắc được đạo-quả A-la-hán. Ngài liền đi đến cốc của tỳ-kheo Phù-ti-Cát, ra ngoài căn nhà chứa củi, nhúm lửa lên và nấu nước nóng. Kế đến, Đức Phật bước vào thăm Tỳ-kheo Phù-ti-Cát, hiện đang nằm trên giường bệnh có một mình. Đức Phật liền giơ tay nhắc đầu giường lên, định đem tỳ-kheo ra sau để tắm. Lúc ấy, các người đệ-tử của Phù-ti-Cát bước vào phụ khiêng thầy đi tắm rửa. Một người giặt sạch bộ cà-sa và sấy khô. Sau khi tắm rửa sạch-sẽ, ăn mặc tươm-tất xong, Tỳ-kheo Phù-ti-Cát được nghe Phật giảng. Đức Phật đứng ở đầu giường, nói rằng, thân-thể con người chẳng bao lâu cũng mất đi sự sống; thân ấy trở nên vô-dụng đâu khác chi khúc gỗ bỏ nằm dài trên mặt đất bên đường.

Lúc bấy giờ, tỳ-kheo Phù-ti-Cát cảm thấy khoẻ-khoắn, dễ chịu, liền nhập-định và chứng được quả A-la-hán, kế đó thở hơi cuối cùng.

Đức Phật kết thúc thời pháp bằng bài kệ sau đây:

Chẳng bao lâu, thân nầy
Nằm dài trên mặt đất;
Hởi ôi! Thần-thức mất,
Như khúc cây vô-dụng.
(Kệ số 041.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa CHỮ:

- Phù-ti-Cát: tên thật bằng tiếng Pali là Tissa, có biệt-hiệu là Pùtigattatissa.

- Biệt-hiệu: biệt = riêng biệt; hiệu = tên. Biệt-hiệu là tên riêng, hoặc tự mình đặt ra cho mình, hay do các người khác đặt ra gán cho mình.

- Nhập-định: nhập = vào; định = tình-trạng của tâm vắng-vẻ, yên-tịnh, chẳng có vọng-tưởng, chẳng bị cảnh-vật trì níu, chẳng bị ý bên trong lôi cuốn.

- Thần-thức: thần = thuộc về tinh-thần, phần tâm-linh; thức = biết. Chữ thần-thức là danh-từ chuyên-môn trong Phật-học, chỉ đến phần tâm-linh sâu-kín bên trong, gọi là thức a-lại-da (tiếng Phạn là alaya), có nghĩa là kho-tàng chứa những chủng-tử của những việc đã làm qua. (Chủng-tử: chủng = trồng; tử = hột; chủng-tử có nghĩa là hột giống sanh ra nghiệp-báo; tức là đã làm việc ác, được ghi lại thành chủng-tử, về sau nẩy mầm sanh ra hậu-quả xấu, phải chịu; cũng như đã làm việc lành, có chủng-tử lành, về sau sẽ hưởng được thành-quả tốt. Vì thế, thức a-lại-da còn được gọi là nghiệp-thức, cái thức tàng-trử và sanh ra nghiệp-báo. )

Theo sự tin-tưởng trong Phật-học, tâm con người có tám thức: (1)nhãn-thức (cái biết do nơi mắt), (2) nhĩ-thức (do tai), (3)tị-thức (do mũi), (4) thiệt-thức (do lưỡi), (5)thân-thức (do thân hay do da), (6)ý-thức (do tâm), (7)mạt-na-thức (tiếng Phạn là màna, gợi lên ý-nghĩ) và (8) a-lại-da thức (phần thật sâu-kín trong tâm). Theo thuyết Luân-hồi, khi con người chết, thân và tâm tan rả, chỉ có thần-thức hay a-lại-da-thức là còn, và thoát ra khỏi thân-tâm để đi tìm nơi nhập vào thai mẹ mà tái-sanh, sống đời sống kế-tiếp.

Ở trong bài Kệ, nói thần-thức mất, có nghĩa là thần-thức đã lìa khỏi thể-xác; thân-thể lúc chết đã mất thần-thức, chớ chính thần-thức vẫn còn. Thông-thường người ta bảo, sau khi chết thì hồn-viá đi đầu thai; Phật-học chẳng tin có linh-hồn nào cả, chỉ có thần-thức lià khỏi xác mà thôi.

- Vô-dụng: vô = chẳng; dụng = dùng. Vô-dụng là chẳng dùng được vào việc gì cả.

B.- Nghĩa Ý:

(1).- Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, kể lại việc một tỳ-kheo chuyên-tâm tu Thiền-định, chẳng may vướng phải bịnh ghẻ lở, thân-thể hôi-hám. Nhờ Đức Phật giúp cho tắm rửa sạch-sẽ, thân trở nên thoải-mái, nhập-định được chứng quả A-la-hán và thở hơi cuối cùng sau đó.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là khi chết, phần thể-xác tan rả, phần tâm-linh là thần-thức vẫn còn, sẽ theo nghiệp-báo mà tái-sanh. Ở đây, vị tỳ-kheo đắc A-la-hán, chứng được cảnh vô-sanh (vô = chẳng; sanh = sống trở lại ở cõi nhơn-gian), nên thoát khỏi vòng tái-sanh của Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 041:

Bài Kệ nhấn mạnh đến sự vô-thường của thân-tâm; thân nầy chẳng bao lâu cũng phải chết, nằm bất-động như một khúc gỗ, vô-dụng chẳng dùng vào việc chi được. Vậy, chớ nên quyến-luyến thân quá lắm. Còn phần tâm-linh, chỉ riêng có thần-thức còn tồn-tại, lià khỏi xác mà đi tái-sanh theo nghiệp-báo. Nếu tu chứng được quả A-la-hán, sẽ khỏi phải tái-sanh, từ đây sống vĩnh-viễn trong cảnh an-lạc của Niết-bàn.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, thường nhắc đi nhắc lại trong đầu, để nhớ rằng, đến ngày nào đó, thân-thể nầy chẳng còn nữa. Hiện nay, phải lo cho thân nầy được đầy-đủ tiện-nghi, nhưng chớ nên quá quyến-luyến.

2.- Xin nhắc lại: thân-tâm con người do năm uẩn kết thành trong lúc sống, khi lià đời, thân tan rả, chỉ có thần-thức theo nghiệp-báo mà tái-sanh. Để nhớ: năm uẩn gồm có (1)sắc-uẩn (thân-thể vật-chất), (2)thọ-uẩn (các tình-cảm), (3)tưởng-uẩn (các tư-tưởng), (4) hành-uẩn (các hành-động), (5)thức-uẩn (các sự hiểu-biết). Muốn nhớ tám thức trong thức-uẩn cần nhớ: năm thức trước (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân) liên-quan đến năm giác-quan; còn ba thức sau: ý-thức, mạt-na-thức và a-lại-da-thức là phần tâm-linh nằm trong Tâm. Ý-thức nằm lộ, dễ nhận thấy; mạt-na-thức, ẩn tiềm-tàng đâu đây trong tâm, còn thức a-lại-da là kho chứa chủng-tử, sâu-kín chẳng thể dùng Tâm để biết đến được. Muốn biết rõ về các thức, phải học thêm về Duy-Thức-học, cũng gần giống với Tâm-lý-học.

(31).- Tích chuyện về Nan-đà, người chăn bò.

Vào một thời kia, Đức Phật và các tỳ-kheo đi qua một làng, nước Câu-tát-la, trong một kỳ giảng-pháp, có nói đến Nan-đà là một người chăn bò.

Thuở ấy có một người tên là Nan-đà, làm nghề chăn bò, gia-đình cũng khá-giả, thường đến nhà người chủ là ông Cấp-cô-độc, để nghe Đức Phật giảng pháp. Một hôm, sau khi nghe Đức Phật giảng, Nan-đà bạch với Phật xin thỉnh Phật và chư Tăng về nhà để cúng-dường. Đức Phật bảo, nay chưa phải thời, để khi khác.

Sau đó, cùng với chư Tăng có dịp đi qua làng Nan-đà trú-ngụ, Đức Phật quán thấy đã đến lúc nên giảng-dạy giáo-pháp cho Nan-đà, nên Ngài cùng các tăng-nhơn ghé vào. Nan-đà cung-kính dâng thực-phẩm cúng-dường, đủ cả năm món ngưu-vị thật là tinh-khiết. Sau khi được nghe Đức Phật giảng-dạy, Nan-đà chứng được đạo-quả Tu-đà-huờn. Khi Đức Phật và chư Tăng ra về, Nan-đà mang bình-bát của Đức Phật, theo tiễn chơn một quảng đường, rồi mới trở lại nhà.

Vào lúc đó, có một người thợ-săn là kẻ thù cũ của Nan-đà, dùng cung bắn chết Nan-đà ở dọc đường. Các vị tỳ-kheo đi sau, thấy thân-thể Nan-đà nằm sóng-sượt bên vệ đường, mới đến trình Đức Phật. Họ bạch: "Bạch Thế-tôn, chỉ vì Nan-đà đã mời Phật đến cúng-dường và theo tiễn chơn Phật mà bị bắn chết." Đức Phật đáp: "Dầu cho Như-Lai có đến nhà Nan-đà hay chẳng đến đi nữa, thì Nan-đà cũng chẳng thể nào tránh được sự chết-chóc, vì chẳng ai mà chẳng chết cả. Này các tỳ-kheo! Nếu tâm-ý mà tà-ác thì sẽ gây tai-hại cho mình còn hơn là một kẻ thù hay một tên trộm, cướp gây ra cho ta nữa."

Rồi, Đức Phật nói lên bài kệ sau đây:

Kẻ địch-thủ hại người địch-thủ,
Lũ oan-gia hại lũ oan-gia,
Chưa hại bằng tâm tà, ý ác
Đẩy thân nầy đọa-lạc trầm-luân.
(Kệ số 042.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chư:

- Câu-tát-la: tên nước nầy bằng tiếng Pali là Kosala.

- Nan-đà: tên bằng tiếng Pali là Nanda. Đừng lầm người chăn bò nầy với vị đại-đệ-tử của Phật là Nanda, vốn là vị hoàng-tử dòng họ Thích.

- Cấp-cô-độc: tên thật của vị đại-trưởng-giả nầy bằng tiếng Pali là Anàthapindika. Nhà rất giàu, ông mua khu vườn của Thái-tử Kỳ-đà cất tịnh-xá Kỳ-viên, dưng cúng Đức Phật và chư Tăng. Ông hay bố-thí, cứu-giúp kẻ bần-cùng, cô-đơn, nên được biệt-hiệu là Cấp-cô-độc (cấp = cung-cấp, giúp đỡ; cô-độc = ở một mình, đơn-côi.)

- Chưa phải thời: chưa phải đúng lúc thuận-tiện.

- Năm món ngưu-vị: ngưu = con bò (thuỷ-ngưu mới là con trâu); vị = mùi-vị của món ăn. Năm món ngưu-vị lấy từ sữa bò chế ra: sữa, kem, bơ sống, bơ chín và đề-hồ (đề-hồ ngày nay ta gọi là phô-mai, fromage.)

- Tinh-khiết: trong-sạch.

-Tu-đà-huờn: quả-vị thứ nhứt của hàng Thanh-văn. Tiếng Pali là Sotàpatti có nghĩa là bước vào giòng nước Thánh, nên còn được dịch là Nhập-Lưu. Lại có nghĩa là chỉ còn phải tái-sanh lại cõi người bảy lần nữa, nên được gọi là Thất-Lai. Tu-hành khi diệt được trong tâm các mối kết-sử nầy thì chứng được đạo-quả Tu-đà-huờn: (1) thân-kiến, xem tấm thân nầy là Ta, của Ta, lo bồi-bổ, gìn-giữ nó mãi cho còn hoài-hoài; bỏ được thân-kiến, bằng cách quán thân bất-tịnh, biết thân bên trong dơ-bẩn, biết thân vô-thường, nên sanh ra nhàm-chán các thú-vui vật-chất về thân-thể; (2) Nghi-hoặc, chẳng tin-tưởng vào Chánh-pháp; (3) giới-cấm-thủ, mê-tín tin vào các sự cúng-kiến theo tà-đạo, như cúng Ông Địa, Ông Bình-vôi, Bà Chuối-Sứ, v.v.

- Một quảng đường: một khúc đường ngắn.

- Bên vệ đường: bên lề đường.

- Địch thủ: địch = chống-cự nhau; thủ = tay. Địch-thủ là người chống-đối, thù-nghịch với mình.

- Oan-gia: oan = thù-oán, oan-trái; gia = nhà. Oan-gia là kẻ thù lâu đời với nhau.

- Đoạ-lạc: đoạ = rơi xuống thấp; lạc = rớt xuống. Đoạ-lạc là phải sa vào chỗ thấp-kém, đê-hèn, khổ-sở.

- Trầm-luân: trầm = chìm, luân = giợn sóng trên mặt nước. Trầm-luân có nghĩa bóng là bị chìm đắm trong biển khổ; ở đây, có nghĩa là phải trôi lăn trong các cõi ác của Luân-hồi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một gia-chủ thỉnh Phật và chư Tăng đến nhà để cúng-dường, được nghe pháp và chứng quả-vị Tu-đà-huờn. Sau khi tiễn chơn Đức Phật, trên đường trở về nhà, gia-chủ bị người thợ-săn là kẻ thù cũ bắn chết. Nhơn cái chết do kẻ thù gây ra nầy, Đức Phật dạy, cái hại do tâm tà ý ác còn lớn hơn cái chết do kẻ thù gây ra, vì tâm tà ý ác lôi kéo ta trôi lăn mãi trong các cõi ác của Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài kệ số 042:

- Cái hại do kẻ địch-thủ, kẻ oán-thù gây ra: Cái hại nầy dầu lớn mấy đi nữa cũng hạn-chế trong một đời người. Kẻ địch-thủ có thể gây hại về tài-sản, danh-dự; kẻ oan-gia có thể gây hại về tánh-mạng. Nhưng họ chỉ hại được trong một đời mà thôi.

- Cái hại do tâm tà ý ác kéo dài nhiều đời, vì tạo nên nghiệp-báo: Tâm tà, ý ác tạo nên hành-động xấu-dữ làm nguyên-nhơn khiến cho hậu-quả trong tương-lai là phải sa vào ba đường dữ của Luân-hồi: (1) địa-ngục, chịu hình-phạt chẳng gián-đoạn qua nhiều đời-kiếp; (2) ngạ-quỉ, làm thân quỉ đói, khổ-sở; (3) súc-sanh, trong thân-hình thú-vật, thiếu trí thông-minh, chẳng biết bao giờ thoát khỏi cảnh si-mê.

- Ý-nghĩa chánh-yếu của bài Kệ là khuyên ta nên gìn-giữ Tâm, điều-phục Tâm sao cho được thanh-tịnh, biết theo đường lành nẻo phải.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ.

2.- Xem lại Phần HọcTập ở các Bài trước về cách giữ-gìn Tâm-ý cho trong-sạch.

(32).- Tích chuyện về Sở-rị-Gia.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến chuyện chàng thanh-niên Sở-rị-Gia, bị thay đổi phái tính, trở thành phụ-nữ.

Thuở ấy, ở thành-phố Sở-rị-Gia có một chàng thanh-niên giàu có, cũng tên là Sở-rị-Gia, một hôm cùng với các bạn, ngồi trên chiếc xe lộng-lẫy, đi tắm. Dọc đường, gặp một vị Trưởng-lão tên là Khắc-ca-gia, tướng-mạo trang-nghiêm, đang sửa lại áo cà-sa cho ngay-ngắn để vào thành-phố khất-thực. Nhìn thấy nước da vàng ánh, đẹp-đẽ của vị Trưởng-lão, chàng thanh-niên Sở-rị-Gia bỗng nổi lên ý-nghĩ trong đầu: "— kià! Ta muốn "cưới" vị tỳ-kheo nầy làm vợ! Hay là, vợ ta ở nhà phải có được một làn da đẹp-đẽ như vị Trưởng-lão nầy!" Tư-tưởng bất-chánh nầy vừa khởi lên, thì lạ thay, Sở-tị-Gia lại biến thành một cô gái, đẹp với làn da óng-ánh vàng chói. Sở-rị-Gia cảm thấy xấu-hổ, ngồi chung xe với các thanh-niên khác, nên bỏ xuống và trốn đi xa.

Trên đường đi trốn, thiếu-nữ Sở-rị-Gia bán chiếc nhẫn đeo tay để có tiền quá-giang xe đi đến thị-trấn Tắc-xi-la. Một người khách đồng-hành vào thị-trấn, gặp một vị công-tử giàu-có đang kén vợ, liền mách có một thiếu-nữ rất đẹp đã ngồi cùng xe với mình. Vị công-tử tìm đến gặp cô Sở-rị-Gia và xin cưới cô ngay. Và trong cuộc sống mới, "bà" Sở-rị-Gia sanh được hai đứa con trai, cùng với hai người con trai trước, khi "bà" còn là thanh-niên.

Một hôm, có người khách-thương từ thành Sở-rị-gia đến thị-trấn Tắc-xi-la buôn bán. "Bà" Sở-rị-Gia nhận ra được người quen cũ, mới cho mời về nhà đãi-đằng. Vị khách-thương rất ngạc-nhiên, thấy bà chủ nhà là người lạ với mình, sao tỏ ra thân-mật. "Bà" Sở liền hỏi thăm tin-tức ở thành-phố cũ, về gia-cảnh của người khách-thương cùng các nhà láng-diềng; sau đó, bà mới kể lại câu chuyện mình bị biến-đổi phái-tính như thế nào. Bấy giờ vị khách thương mới tin và khuyên, bà nên đến gặp vị Trưởng-lão Khắc-ca-gia ngỏ lời xin sám-hối. Bà Sở làm y theo lời khuyên, thỉnh Trưởng-lão về nhà cúng-dường thực-phẩm, nghe giảng-pháp, xong rồi ra qùi trước Trưởng-lão mà tỏ lời hối-tiếc. Vị Trưởng-lão bảo:

"Xin nữ-thí-chủ đứng dậy, bần-tăng xin chấp-nhận lời sám-hối của bà!" Tức thì, "bà" Sở liền biến trở lại thành "ông" Sở-rị-Gia như khi trước.

Kể từ khi trở lại thành đàn-ông, Sở-rị-Gia thường suy-gẫm về sự biến-đổi vô-thường của cuộc sống, sao trong một đời mà mình vừa làm cha hai đứa con trai trước, lại vừa làm mẹ hai đứa sau. Chẳng bao lâu, Sở-rị-Gia nhàm-chán cuộc sống thế-tục, liền xin xuất-gia và được Trưởng-lão Khắc-ca-gia thâu-nhận làm đệ-tử. Nơi tu-viện, các bạn đồng-tu thường hỏi tỳ-kheo Sở-rị-Gia, trong lòng thương con nào nhiều nhứt, con gọi mình bằng cha, hay con gọi mình bằng mẹ? Thật-tình, tỳ-kheo Sở-rị-Gia đáp, con mình sanh từ bụng mình thì thương hơn. Sau đó, thường bị theo hỏi mãi điều đó, ty-kheo Sở-rị-Gia buồn-chán, mới xin ẩn-cư, sống riêng một mình trong cốc vắng, để chuyên-tâm tu-tập thiền-định. Chẳng bao lâu, chứng-đắc quả-vị A-la-hán. Các vị tỳ-kheo đồng-tu lại hỏi về câu hỏi cũ nữa. Tỳ-kheo Sở-rị-Gia đáp: "Trước kia, tôi tríu-mến các con do tôi sanh ra; nay tôi xem tất cả bốn đứa đều như nhau, chẳng quyến-luyến đứa nào cả." Các vị tỳ-kheo tưởng rằng Sở-rị-Gia chẳng nói lên Sự-thật, mới đến bạch với Đức Phật.

Đức Phật bảo: "Tỳ-kheo Sở-rị-Gia đã nói lên Sự-Thật; tâm của vị A-la-hán đã cắt đứt sự luyến-ái, đem tình-thương mà trải rộng ra đến mọi người, chẳng có sự phân-biệt, kỳ-thị. Tỳ-kheo Sở-rị-Gia, với tâm-ý thiện-lành đã thực-hiện được niềm an-lạc cao-thượng, mà cha hay mẹ của mình, dầu có thương mình đến đâu đi nữa, cũng chẳng ban-cấp được niềm an-lạc đó cho mình."

Bấy giờ, Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Cha mẹ, họ-hàng làm chửa được
Sao cho mình hưởng phước dài lâu.
Tâm thành, ý thiện, riêng làm được,
Tự tạo cho mình phước-lạc cao.
(Kệ số 043.)

TÌM HIỂU:

Xin Chú-ý:

Trước khi Tìm Hiểu và Học-Tập bài nầy, Thiện-Nhựt xin có vài lời lưu-ý người đọc:

1.- Thiện-Nhựt do-dự rất nhiều chẳng biết có nên dịch Tích-chuyện nầy hay không, vì câu chuyện nhuốm vẻ hoang-đường: chỉ một ý-nghĩ xấu đã biến-đổi tức-khắc phái-tính của một người, từ người nam ra thành người nữ.

2.- Tuy nhiên, suy-nghĩ kỹ về việc học-tập Kinh-Kệ, chúng ta chẳng nên quá chú-trọng đến sự chính-xác của sự-tích do người kết-tập viết lại, để tìm cách kiểm-nhận theo lối khoa-học ngày nay tìm bằng-chứng, mà nên tìm hiểu và học-tập Ý-nghĩa chánh-yếu, nằm ẩn bên dưới Tích chuyện. Tích-chuyện có thể chẳng đúng một trăm phần trăm với thực-tế của đời sống thế-tục mà chúng ta đang sống, nhưng Sự-thật chứa trong lời dạy của Đức Phật đúng cả muôn đời. Sự-thật đó, trong bài nầy, là sự thương-yêu, quyến-luyến có tánh-cách thiên-vị: thương con mình đẻ ra hơn là con ghẻ, con nuôi, con riêng của chồng hay vợ. Tình thương mà Đức Phật dạy là Tình thương rộng-lớn, bao la, trải khắp mọi loài chúng-sanh, chẳng cứ gì riêng thương con cháu của mình, đó là Tâm Từ, mà mọi người Phật-tử phải cố luyện-tập.

3.- Vì lẽ trên đây, Thiện-Nhựt mong-mỏi người đọc nên tìm thấy lời dạy chơn-thật và quí-báu của Đức Phật trong Kinh-Kệ, và dẹp bỏ qua ý-định tìm cách kiểm-chứng sự xác-thực của các sự-kiện được kể lại. Chuyện có thể khó cho ta, vào thời-đại nầy, trong hoàn-cảnh sanh-sống nầy, hiểu được và dễ tin được. Nhưng đó chẳng phải là điều chánh-yếu. Điều chánh-yếu là phải biết tìm hiểu và học-tập lời dạy của Đức Phật.

A.- Nghĩa CHỮ:

- Sở-rị-Gia: tên thật của thành-phố và đồng thời tên của nhơn-vật chánh trong Tích-chuyện, bằng tiếng Pali là Soreyya.

- Phái-tính: chỗ khác nhau giữa người nam và người nữ.

- Nước da, màu da: màu-sắc của làn da trên thân-thể.

-Bất-chánh: bất = chẳng; chánh = ngay-thẳng.

- Khắc-ca-gia: tên thật của Trưởng-lão bằng tiếng Pali là Mahàkaccàyana. Mahà là lớn, thường được dịch là Đại.

- Quá-giang: quá = đi qua; giang = sông. Ở đây, chữ quá-giang có nghĩa là đi nhờ xe. Thường hay nói có giang.

- Tắc-xi-la: tên thật của thị-trấn nầy bằng tiếng Pali là Taxila.

- Đồng-hành: đồng = cùng, chung; hành = đi. Bạn đồng-hành là người cùng đi chung với nhau.

- Gia-cảnh: gia = nhà; cảnh = tình-cảnh. Gia-cảnh là tình-cảnh ở nhà mạnh-giỏi ra sao.

- Sám-hối: nghĩa thông-thường là xin lỗi. Nghĩa chuyên-môn trong Phật-học, sám là tiếng Phạn ksamayati, có nghĩa hối-tiếc về lỗi-lầm đã lỡ làm qua; hối là tiếng Hán-Việt, có nghĩa là hối-tiếc. Ráp hai chữ lại, thường được dùng để chỉ hai việc phải có, khi mình thật-sự thành-tâm xin sám-hối: (1) nhìn-nhận lỗi-lầm mình đã làm và xin nhận tội; (2) hứa từ rày về sau, chẳng hề tái-phạm nữa.

- Nữ-thí-chủ: nữ = người đàn-bà, phụ-nữ; thí = bố-thí; chủ = chủ. Thí-chủ, Thí-giả là người bố-thí, dưng-cúng lễ-vật cho người tu-hành.

- Bần-tăng: bần = nghèo; tăng = tu-sĩ. Bần-tăng là tiếng tự-xưng của người tu-sĩ nghèo.

- Vô-thường: vô = chẳng; thường = thường còn; Vô-thường là chẳng bền-vững, có đó rồi mất đó.

- Cốc: căn nhà nhỏ, chỉ có một phòng, dành cho tu-sĩ tu ẩn-cư.

- Quyến-luyến, Tríu-mến, Luyến-ái: thương nhiều và bám-víu vào, rời ra chẳng được. Tình thương quyến-luyến, tríu-mến, luyến-ái nầy, Đức Phật dạy phải dẹp bỏ, vì nó chính là lòng tham-ái, nguyên-nhơn gây ra khổ-đau, khiến ta bám vào đời sống thế-tục mà chẳng đi tìm giải-thoát khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi.

- Kỳ-thị: đối-đãi cách khác nhau vì chẳng đồng giai-cấp, màu da, v.v.; có tánh thiên-vị, thương kẻ nầy lại ghét bỏ kẻ khác.

- Niềm an-lạc cao-thượng: niềm vui cao-cả, bền-vững; ở đây có nghĩa là niềm vui được giải-thoát, sống trong cảnh-giới Niết-Bàn an-lạc.

- Ban-cấp: đem cho.

- Phước-lạc cao: đó chính là niềm vui được hưởng trong cảnh-giới an-lạc, trường-cửu của Niết-Bàn.

B.- Nghĩa Ý:

(1).- Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện có hai phần: phần đầu kể lại việc vì sao Sở-rị-Gia bị biến-đổi từ người nam ra người nữ; phần sau thuật lại việc tu-hành của Sở-rị-Gia được thành-công, chứng quả-vị A-la-hán. Ta nên lướt qua phần thứ nhứt và tìm hiểu kỹ ở phần thứ nhì, nhứt là lời Phật dạy về sự dứt bỏ niềm luyến-ái trong tâm.

a.- Việc thay đổi phái-tính: theo Tích-chuyện, chỉ vì trong tâm khởi lên ý-nghĩ bất-chánh đối với vị trưởng-lão mà Sở-rị-Gia phải thành người nữ. Sự thay đổi phái-tính, trong hiện-trạng của y-khoa, chẳng phải là chẳng có: với thuật giải-phẫu y-khoa ngày nay đã có nhiều người nam được đổi thành người nữ về thể-xác và ngược lại. Nhưng Tích-chuyện nhấn mạnh ở điểm: chỉ vì ý-định bất-chánh trong tâm mà bị biến thành người nữ. Chuyện đúng hay sai sự-thực, ngày nay chúng ta khó lòng kiểm-chứng. Nhưng điều quan-trọng, chẳng phải là sự biến-đổi phái-tính, mà sự quyết-tâm tu-hành sau nầy của Sở-rị-Gia. Chỗ thành-công của Sở-rị-Gia là do việc dứt bỏ sự luyến-ái thiên-vị, thương con chính mình đẻ ra, để có được một tấm lòng thương-yêu tất cả đồng-đều nhau của tâm Từ.

b.- Lời Phật dạy ở phần cuối Tích-chuyện: cha, mẹ dầu có thương con, để tiền-của cho con hưởng, cũng chỉ đem hạnh-phước một đời mà thôi. Còn hạnh-phước chơn-thật, lâu-bền là hạnh-phước sống trong cảnh Niết-bàn, phải do mình tự-tạo lấy, hạnh-phước nầy sanh ra do tâm thành, ý-thiện, nói cách khác, là do biết tu-hành đúng cách để được giải-thoát.

(2).- Ý-nghĩa bài Kệ số 043:

Ý-nghĩa bài Kệ được tóm gọn trong lời Phật dạy ở đoạn cuối của Tích chuyện: bỏ lòng luyến-ái, để Tâm được thanh-tịnh.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng cả hai bài Kệ số 042 và 043, để biết nên giữ-gìn Tâm-ý cho thanh-tịnh.

2.- Ứng-dụng: Con cái trong nhà, chẳng nên có con cưng, con ghét, nên thương chúng đồng-đều, đừng dành món ngon nầy cho một đứa, các đứa khác phải nhịn; đừng bắt chỉ một đứa làm nặng làm luôn, còn các đứa khác thì khỏi.

Âm lịch

Ảnh đẹp