KINH PHÁP CÚ (DHAMMAPADA )


Thiện Nhựt lược-dịch và tìm hiểu
08/09/2010 01:36 (GMT+7)
Số lượt xem: 33799
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

XVIII .- Phẩm Ô-UẾ

(182 ).- Tích chuyện con của người đồ-tể.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ,

trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến con của một người đồ-tể.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có người đồ-tể chuyên nghề giết thú-vật để bán thịt trong năm mươi lăm năm. Mỗi ngày, anh ta chừa một miếng thịt lớn để nấu cà-ry ăn. Hôm ấy, anh cắt một đùi thịt để dành trong bếp, định trưa sẽ đem nấu; nhưng vợ anh chẳng biết, lại đem bán cho người mua. Đến trưa, chẳng thấy đùi thịt, anh đồ-tể liền đi ra chuồng bò, lắt cái lưỡi của con bò, đem vào nấu-nướng. Rủi thay khi ăn, anh nhai mạnh quá cắn trúng lưỡi của mình, máu chảy tuôn ra chẳng dứt. Vài hôm sau, con bò và cả anh đồ-tể đều bị chết. Vì tội-ác đã sát-sanh trong suốt cuộc đời, nên anh đồ-tể phải sa vào địa-ngục.

Vợ người đồ-tể, sau khi an-táng anh ta xong, sợ căn nhà có ma-quỉ, mới bán nhà, dọn đi nơi khác. Còn người con trai được gởi đi học nghề khác ở thành Ta-xi-la. Người ấy học được nghề thợ rèn, cưới vợ và sanh được mấy người con. Sắp nhỏ sau nầy rất tôn-sùng đạo Phật, thường đến chùa nghe giảng-pháp. Chúng thấy cha mình đã già rồi mà chưa hiểu gì về Chánh-pháp, mới thỉnh Đức Phật cùng chư Tăng đến nhà cúng-dường. Sau bữa ngọ-trai, các người con qùi thưa cùng Đức Phật: "Bạch Thế-tôn, chúng con soạn lễ trai-tăng nầy, để cầu phước cho cha của chúng con. Kính mong Thế-tôn giảng một bài pháp đặc-biệt cho cha chúng con nghe." Đức Phật bảo: "Nầy thiện-nam-tử, ông nay đã già rồi mà còn chưa chuẩn-bị đầy-đủ hành-trang cho chuyến đi xa, sang cuộc đời mới. Nay ông phải tự mình làm nơi nương-tựa cho chính mình, hãy thanh-lọc thân-tâm, diệt bỏ tất cả phiền-não, để sau nầy được tái-sanh vào nhàn-cảnh."

Rồi Đức Phật nói lên các bài Kệ sau đây:

Thân người nay như lá tàn phai,
Sứ-giả Tử-thần đến bên ngoài.
Người sắp bước vào con đường chết,
Còn thiếu tư-lương dặm đường dài.
(Kệ số 235.)

Hãy đắp cho mình một hòn đảo,
Mau làm người trí-huệ tinh-chuyên,
Lọc-sạch bợn nhơ, bỏ phiền-não,
Người sẽ vào Thánh-cảnh chư Thiên.
(Kệ số 236.)

Mạng người nay sắp đến mức cùng,
Trên đường đến gặp mặt Diêm-vương,
Dọc đường chẳng có nơi ngừng-nghỉ,
Còn thiếu tư-lương dặm đường trường.
(Kệ số 237.)

Hãy đắp cho mình một hòn đảo,
Mau làm người trí-huệ tinh-chuyên,
Lọc sạch bợn nhơ, bỏ phiền-não,
Người đâu trở lại cảnh Sanh-Lão.
(Kệ số 238.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Đồ-tể: Đồ; Tể = giết thịt thú-vật để bán; kẻ hàng thịt.

- Sát-sanh: Sát = giết; sanh = sanh-mạng; Tội sát-sanh là tội giết chết các sanh-vật. Đây là giới-cấm thứ nhứt của người tu tại-gia.

- Địa-ngục: Địa = đất; Ngục = nhà tù. Theo sự tin-tưởng của người Phật-tử, kẻ làm ác, sau khi chết, phải chịu hình-phạt trong cõi u-tối.

- An-táng = làm đám ma, chôn-cất người chết.

- Ta-xi-la: tên thành nầy, tiếng Pali là Taxila.

- Cúng-dường =đọc trại chữ cung-dưỡng =cung-cấp để nuôi dưỡng.

- Ngọ-trai: Ngọ =12 giờ trưa;Trai = bữa ăn chay.Theo giáo-lý Nam-tông, sau bữa ngọ-trai, chư Tăng chẳng được phép ăn thêm suốt ngày.

- Trai-tăng: lễ dưng-cúng thực-phẩm, quần-áo cho các tỳ-kheo.

- Thiện-nam-tử: Thiện = lành; Nam-tử = đàn-ông.

- Hành-trang: Hành = đi; Trang = trang-bị, vật-dụng mang theo.

- Nhàn-cảnh = cảnh nhàn, tức là các cõi Thánh, sống an-lạc.

- Sứ-giả Tử-thần: Sứ = người mang tin-tức đến; Giả = người; Tử-thần = thần Chết. Thấy có sứ-giả Tử-thần là đang có dấu-hiệu sắp chết

- Tư-lương: vật-dụng mang theo khi đi xa; có nghĩa là hành-trang

- Thánh-cảnh: cảnh Thánh, ở đây, tức là các cõi an-nhàn trên trời.

- Diêm-vương: vua cõi âm; theo sự tin-tưởng của người Phật-tử, mọi người khi chết sẽ chịu sự phán-xét tội, phước của Diêm-vương.

- Cảnh Sanh-Lão: cảnh sanh ra rồi già đi; tức là cuộc sống ở trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi, sanh ra để lại chết đi, rồi tái-sanh nữa.

- Ô-uế: dơ-dáy, đen-đúa, bẩn-thỉu. Ở đây, Ô-uế ám chỉ các phiền-não làm cho tâm bị bợn-nhơ, phải thanh-lọc cho sạch.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện có hai phần, phần đầu nói về ông đồ-tể, vì tội-ác sát-sanh, giết thú-vật lấy thịt bán, phải sa địa-ngục; và phần thứ nhì nói về người con trai của ông, về già được nghe Đức Phật giảng Chánh-pháp, mà được tái-sanh vào nhàn-cảnh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: phải chuẩn-bị hành-trang cho chuyến đi xa, vào đời sống mới; chuẩn-bị bằng cách thanh-lọc thân-tâm khỏi các bợn-nhơ của phiền-não. Khi tâm đã thanh-tịnh, gột rửa hẳn các ô-uế của phiền-não gây ra, sẽ được tái-sanh lên cõi Trời, và nếu tiếp-tục tu-hành, sẽ thoát khỏi vòng lẩn-quẩn Sanh, Già, Bịnh, Chết trong cảnh khổ của cõi Luân-hồi lận-đận.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ số 235, 236, 237 và 238:

Bài Kệ số 235 nhắc-nhở ta, Thần Chết đang chờ mọi người, vậy phải chuẩn-bị hành-trang cho chuyến đi xa.

Bài Kệ số 236 khuyên ta phải tự mình lo-liệu lấy, nương-tựa vào chính mình bằng cách lọc-sach các bợn nhơ phiền-não ra khỏi tâm, để được tái-sanh vào cõi chư Thiên.

Bài Kệ số 237 lại nhắc nhở ta ngày trình-diện Diêm-vương sắp tới, phải mau mau chuẩn-bị hành-trang, cho chuyến đi xa, chẳng có nơi dừng chơn tạm nghỉ được ( = chẳng có ai là khỏi chết cả).

Bài Kệ số 238 cũng lại khuyên ta sớm tự mình làm nơi nương-tựa cho chính mình, cũng bằng cách lọc sạch các bợn nhơ phiền-não ra khỏi tâm, để khỏi phải trở lại cảnh Sanh, Già, Bịnh, Chết của cõi Luân-hồi khổ-đau lận-đận.

(183).- Tích chuyện người Bà-la-môn làm việc thiện.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến cách làm điều thiện của một người Ba-la-môn.

Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một người Bà-la-môn thường đứng nhìn các vị tỳ-kheo xốc áo cà-sa lại cho ngay thẳng trước khi đi vào thành khất-thực. Người ấy nhận thấy vài vị tỳ-kheo có vạt áo hơi dài, chấm đất, ướt đi vì hơi sương còn đọng trên bãi cỏ. Sau khi chư Tăng đi vào thành, người Bà-la-môn liền lấy dao ra dẩy sạch các bụi cỏ. Ngày hôm sau, chư Tăng dừng lại sửa áo cà-sa cho chỉnh-tề, thì một vài vị lại để tà áo chấm vào đất ướt vừa làm cỏ xong. Người Bà-la-môn đợi cho đoàn khất-thực vào thành, mới lấy cát khô rải lên các vũng nước đọng. Hôm sau, trời bắt đầu nắng sớm, chư Tăng có nhiều vị đổ mồ-hôi, khiến cổ áo bị đẵm ướt. Người Bà-la-môn nghĩ, nên cất một trạm nghỉ chơn bên lề đường, để chư Tăng có nơi đứng sửa-soạn y-phục lại cho chỉnh-tề. Ông ta liền thuê người cất một trạm nghỉ mát bên đường, nơi các vị tỳ-kheo thường dừng chơn, để tránh cả khi nắng nóng và lúc mưa dầm. Khi xây cất xong, người Bà-la-môn thỉnh Đức Phật cùng chư Tăng đến làm lễ khánh-thành. Được hỏi lý-do vì sao cất trạm nghỉ chơn nầy, người Bà-la-môn mới bạch với Phật, từ bước một, ông đã làm cỏ, rải cát, rồi sau đó mới cất trạm nầy, để cúng-dường chư Tăng. Đức Phật khen-ngợi: "Nầy Bà-la-môn, công-đức hành thiện của thí-chủ đã được thực-hiện từng bước một, cũng như bực hiền-trí, ngày nầy qua ngày khác, chuyên-tâm lọc-sạch các bợn-nhơ lậu-hoặc từ từ cho đến khi được hoàn-toàn giải-thoát."

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà vị Bà-la-môn chứng được quả-vị Tu-đà-huờn:

Theo thứ-tự, từ chút, từ chút,
Người hiền-trí từng lúc, từng lúc,
Gột sạch bợn nhơ ra khỏi lòng mình,
Như thợ kim-hoàn lọc vàng hết cặn.
(Kệ số 239.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-độ xưa, tiếng Pali là Brahmana

- Cà-sa: phiên-âm chữ Phạn Kasaya, áo màu vàng choàng bên ngoài của các vị tỳ-kheo.

- Khánh-thành: lễ ăn mừng vì được xây-dựng xong.

- Hành-thiện:Hành = làm;Thiện = lành.Hành-thiện là làm việc lành.

- Thí-chủ: Thí =bố-thí, đem cho; Thí-chủ là kẻ hiến-tặng; thọ-giả là người nhận của kẻ khác cho. Thí-chủ còn được gọi là đàn-việt.

- Bợn-nhơ lậu-hoặc: Lậu-hoặc là các phiền-não như tham, sân, si, mạn, nghi, từ trong tâm bộc-lộ ra (lậu = rỉ chảy ra) bằng hành-động xấu-ác, vì thế nên gọi là bợn-nhơ, chỗ dơ-dáy, bẩn-thỉu, cần gột rửa.

- Tu-đà-huờn: Xin nhắc lại, đó là quả-vị đầu-tiên, còn gọi là Nhập-Lưu hay Thất-Lai; tiếng Pali là Sotapatti.

- Hiền-trí: người tu-hành chơn-chánh, có trí-huệ rộng.

- Kim-hoàn: Kim = vàng; Hoàn = vòng. Thợ Kim-hoàn thợ bạc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc vị Bà-la-môn xây cất trạm nghỉ chơn để cúng dường chư Tăng. Công-đức hành-thiện nầy được thực-hiện từ từ, từng bước một, được Đức Phật khen ngợi.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là việc thanh-lọc các phiền-não ra khỏi Tâm, phải được thực-hiện: (1) từ-từ, từng bước một; (2) bền-chí, ngày nầy qua ngày khác, chẳng ngừng-nghỉ, cho đến khi được giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 239:

Bài Kệ so-sánh việc thanh-lọc các lậu-hoặc (= điều sai lầm như tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến) ra khỏi thân-tâm của người tu-hành, cũng như người thợ bạc lọc hết chất cặn-bã trong khối vàng ròng.

Hai câu đầu nêu rõ việc thanh-lọc được tiến-hành từ bước một, ngày nầy qua ngày khác, chẳng ngừng. Nên học thuộc bài Kệ để tự nhắc-nhở mình: từ chút, từ chút từng lúc, từng lúc, chẳng phút nào lơ-là cả, cho đến khi tâm được hoàn-toàn thanh-tịnh.

(184).- Tích chuyện ham áo cà-sa của Trưởng-lão Thi-sa.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến lòng tham-muốn chiếc áo cà-sa của Trưởng-lão Thi-sa.

Thuở ấy ở nước Xá-vệ có vị Trưởng-lão tên là Thi-sa vừa nhận được một bộ áo cà-sa rất đẹp của một người thí-chủ dưng-cúng. Cả ngày, Trưởng-lão cứ rờ-rẫm chiếc áo, vuốt đi vuốt lại, trong lòng rất ham-thích. Nhưng tối hôm ấy, Trưởng-lão qua đời. Vì chẳng có ai là kẻ thừa-hưởng chánh-thức các của-cải của Trưởng-lão, nên các vị tỳ-kheo đồng-tu định đem chiếc áo ra cắt thành từng miếng nhỏ để phân chia nhau. Bấy giờ, từ trong chiếc áo, có một con rận nhỏ, chạy tới chạy lui lăng-xăng, trông bộ dáng như hoảng-hốt lắm vậy. Từ nơi hương-phòng, Đức Phật quán-thấy việc đó, Ngài ra lịnh cho các vị tỳ-kheo hãy khoan cắt tấm vải, chờ một tuần sau rồi sẽ phân-chia. Đến ngày thứ tám, các vị tỳ-kheo lấy chiếc áo cà-sa mới ra, thấy có một con rận nằm chết khô trong lằn xếp. Họ đến trình Đức Phật và thưa hỏi lý-do vì sao phải chờ đến một tuần mới cắt nhỏ chiếc áo ra. Đức Phật đáp: "Nầy chư tỳ-kheo, trước khi nhắm mắt lìa đời, tâm-niệm của tỳ-kheo Thi-sa là ham-thích chiếc áo cà-sa, cho nên tà-niệm nầy dẫn-dắt Thi-sa tái-sanh làm con rận để giữ lấy chiếc áo đó. Nhưng nhờ có công-đức tu-hành, nên bảy ngày sau mãn kiếp rận, Thi-sa được tái-sanh lên cõi Trời Đâu-suất. Vì lẽ đó, nên Như-Lai mới bảo chúng tăng hãy chờ trong một tuần-lễ rồi sẽ chia nhau chiếc áo. Nầy chư tỳ-kheo, lòng tham-ái rất là độc-hiểm, nó cũng như chất sét ( =rỉ) ăn mòn lần thanh sắt, rồi đưa ta tái-sanh vào cõi ác. Vì lẽ nầy, tỳ-kheo chớ nên tham lợi-dưỡng, mê-thích về tứ-sự cúng-dường của các thí-chủ."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Như sét từ thanh sắt sanh ra,
Rồi sét lại ăn mòn thanh sắt;
Kẻ ham lợi-dưỡng tạo điều ác,
Ác nầy trở lại hại anh ta.
(Kệ số 240.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thi-sa: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Tissa.

- Thí-chủ: Thí = bố-thí. Thí-chủ là người đem của-cải ra hiến-tặng.

- Qua đời = chết đi.

- Thừa-hưởng chánh-thức: người nhận-lãnh gia-tài.

- Con rận: loại côn-trùng, sống trong quần-áo, cắn hút máu người

- Hương-phòng: căn phòng có hương thơm dành cho Đức Phật.

- Quán-thấy: ngồi Thiền, tâm an-định, nhìn thấy rõ trong tâm.

- Tâm-niệm: ý-nghĩ trong tâm. Tà-niệm = ý-nghĩ xấu-ác.

- Mãn kiếp: hết kiếp; đời sống chấm dứt.

- Trời Đâu-suất: cõi Trời cao nhứt của Dục-giới, hiện có Đức Đại-Bồ-tát Di-Lặc đang giảng-pháp tại đó. Tiếng Pali là Tusita.

- Tham-ái = Tham =ham quá chừng; Ái =thương, thích. Chính lòng tham-ái là nguồn-gốc của khổ đau. Tiếng Pali là Tanhà.

- Lợi-dưỡng: tiện-nghi vật-chất để cho đời sống được quá sung-sướng về thể-xác.

- Tứ-sự cúng-dường: Tứ = bốn; Sự = việc; Cúng-dường: cung-cấp để nuôi-dưỡng. Tứ-sự cúng-dường là bốn thứ vật-dụng mà người tín-chủ dưng-cúng cho tỳ-kheo: (1) thực-phẩm; (2) quần-áo, (3) giường chiếu; (4) thuốc men.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện mang hai ý-nghĩa:

1) Tầm quan-trọng của tâm-niệm vào phút lâm-chung: khi gần chết, trong tâm khởi tà-niệm, sẽ bị tái-sanh vào cõi dữ.

2) Lời Phật dạy: dẹp tham-ái, chớ mê lợi-dưỡng, là lời dạy cắt-đứt nguồn-gốc của khổ-đau (Khổ-đế) dứt được vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Tham-ái (Tanhà) chính là Chơn-lý thứ hai trong Tứ-diệu-đế.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 240:

Bài Kệ so-sánh cái hại của sự tham-ái cũng như chất sét từ trong thanh sắt sanh ra, rồi lại ăn mòn thanh-sắt. Tham-ái cũng vậy, khởi từ trong tâm mà ra, vì quá ham-thích, rồi bị sự ràng-buộc nầy mà phải chịu nhiều khổ-đau sau nầy, trong cuộc sống Luân-hồi lẩn-quẩn.

(185).- Tích chuyện tỳ-kheo Lã-lưu-đà-di.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến tỳ-kheo Lã-lưu-đà-di rất lười đọc-tụng kinh kệ.

Thuở ấy, dân chúng nước Xá-vệ rất ái-mộ hai vị đại-đệ-tử của Phật Thích-ca là Tôn-giả Xá-lợi-phất và Mục kiền-liên. Tỳ-kheo Lã-lưu-đà-di, lòng hay ganh-tị, bảo với dân-chúng rằng, mình cũng thuyết-pháp chẳng thua gì hai vị Tôn-giả kia. Họ mời tỳ-kheo Lã lên nói pháp, nhưng ông ta chẳng thốt nên lời. Ông ta liền bảo, hãy mời hai vị khác lên nói trước, rồi sẽ tới phiên mình. Sau khi hai vị tỳ-kheo đăng-đàn thuyết-pháp xong, thầy Lã bước lên, nhưng miệng lại ngậm câm như hến. Dân-chúng mất cả kiên-nhẫn, quát-tháo lên. Lã hoảng-hốt, bỏ chạy; bị rượt đuổi quá, Lã lọt xuống hầm tiêu.

Khi Đức Phật được biết sự-việc đó, Ngài dạy: ‘’Nầy chư Tăng, Lã-lưu-đà-di chẳng có học-tập nhiều về Chánh-pháp. Kinh-kệ có nghe qua, y đâu chịu thường đọc-tụng, nên chẳng nhớ được gì. Chút ít gì y đã nghe, vì chẳng thường nhắc lại, nên đã rỉ-sét trong tâm của y."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Chẳng tụng-niệm là vết nhơ Kinh-kệ,
Chẳng siêng dọn là dơ-bẩn cửa nhà,
Nhác lờ-đờ là sắc-đẹp phôi-pha,
Thường bất-cẩn là sơ-hở phòng-vệ.
(Kệ số 241.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tỳ-kheo: tu-sĩ Phật-giáo, phiên-âm chữ Phạn Bhikkhu, còn đọc là Bí-sô, cũng gọi là Khất-sĩ.

- Lã-lưu-đà-di: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Làludàyi.

- Kinh-Kệ: Kinh = lời dạy đầy-đủ của Đức Phật; Kệ = bài thơ ngắn, tóm-tắt lại bài Kinh cho dễ nhớ. Thí-dụ: Kinh A-di-đà; Kệ số 241,v.v.

- Ái-mộ: Ái = thương-mến; Mộ = kính-mộ.

- Đăng-đàn: Đăng = bước lên cao; Đàn = cái đài cao, để nói pháp, hay làm lễ. Đăng-đàn là bước lên đàn, nói chuyện với công-chúng.

- Câm như hến: Hến = loài sò, hai vỏ ngậm lại kín mít.

- Rỉ-sét = chữ nầy được dùng theo nghĩa bóng là trở nên mờ-tối.

- Vết-nhơ: chỗ dơ-bẩn; dịch các chữ Hán-Việt là: ô-trược, ô-uế.

- Nhác lờ-đờ = lười-biếng, lừ-đừ, chẳng thiết làm việc chi cả.

- Sắc-đẹp phôi-pha = vẻ đẹp bị giảm đi từ từ.

- Bất-cẩn: Bất = chẳng; Cẩn = cẩn-thận. Bất-cẩn là vô-ý vô-tứ.

- Phòng-vệ = giữ-gìn. Ở đây, chữ Phòng-vệ có nghĩa là ngăn-giữ các tội-ác, chẳng cho xảy ra.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc buồn-cười của một vị tỳ-kheo, vì lười-nhác chẳng đọc-tụng Kinh-Kệ, nên khi lên pháp-đàn chẳng nói được lời nào, bị dân-chúng phản-đối, bỏ chạy, lọt xuống ... hầm phẩn!

Đức Phật dạy, phải siêng đọc-tụng Kinh-kệ, nếu lười-biếng thì bao nhiêu những đìều nghe dạy, lần lần rỉ-sét trong tâm, rồi quên mất

Siêng đọc-tụng Kinh-Kệ như thế nào? Nếu mỗi ngày, có thời-khoá tụng-niệm, thì rất tốt. Bằng chẳng đủ thì-giờ, thì mỗi tuần nên đi chùa, cùng tụng-niệm theo các bạn đồng-tu, trong khoá lễ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 241:

Trong bài Kệ nầy, Đức Phật kể ra bốn điều ô-uế ( = nhơ-bẩn):

1) Chẳng tụng-niệm là vết nhơ Kinh-Kệ: Kinh-Kệ chẳng nhơ, chỉ người tu-hành chẳng chịu đọc-tụng, đó là làm dơ-bẩn Kinh-Kệ. Có người thỉnh Kinh về, để cao trên bàn thờ Phật, mà chẳng lấy ra đọc và tìm hiểu để ứng-dụng tu-hành, đó là để Kinh đóng bụi-bặm cho...dơ!

2) Chẳng siêng dọn là dơ-bẩn cửa nhà: vì rác-rến đầy nhà.

3) Nhác lờ-đờ là sắc-đẹp phôi-pha: chẳng siêng giữ-gìn sắc-đẹp, chẳng năng trang-điểm, thì dù có đẹp cũng thiếu phần sắc-sảo.

4) Thường bất-cẩn là sơ-hở phòng-vệ: Câu nầy có hai nghĩa: (a) ai vô-ý, vô-tứ thì chẳng biết giữ-gìn cho khỏi bị tai-nạn; (b), ai lơ-là trong việc giữ giới-luật, thì tội-lỗi mới có dịp sanh ra; người siêng giữ giới, tâm sẽ sớm an-định, nhờ đó trí-huệ phát-sáng mà biết vững bước trên con đường tu-hành để sớm được giác-ngộ và giải-thoát.

(186).- Tích chuyện ngưòi bị vợ ngoại-tình.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một người bị vợ ngoại-tình.

Thuở ấy ở thành Vương-xá, có một người đàn-ông bị vợ ngoại-tình. Anh ta rất xấu-hổ với mọi người, nên chẳng dám đến gần đám đông. Bẵng đi một thời-gian rất lâu, anh chẳng đi chùa. Một hôm vào tối ngày rằm, anh đến tịnh-xá Trúc-lâm. Đức Phật hỏi, sao lâu quá chẳng thấy anh đến nghe pháp. Anh thuật gia-cảnh của mình cho Đức Phật nghe. Đức Phật an-ủi: "Nầy thiện-nam-tử, những người đàn-bà trắc-nết cũng như dòng sông nước chảy, cũng như con đường đất để người đi qua, cũng như cửa tiệm bán rượu, cũng như một quán-trọ trong đêm tối, cũng như lu nước để ngoài sân cho khách bộ-hành đỡ khát, họ giao-du với tất cả mọi hạng người chẳng kể tốt xấu. Tà-hạnh quả thật là một nguyên-nhơn sa-đoạ của phụ-nữ."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Tà-hạnh là vết nhơ phụ-nữ,
Xan-tham là uế-trược người cho,
Điều tệ-ác quả là cấu-uế
Trong đời nầy và các đời kế.
(Kệ số 242.)

Trong các mối bẩn-nhơ vừa điểm
Vô-minh là ô-uế cực-hiểm.
Nầy nầy, hỡi các vị tỳ-kheo,
Mau rửa sạch, theo hàng Vô-nhiễm.
(Kệ số 243.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ngoại-tình: Ngoại = ngoài; Tình = ái-tình; Ngoại-tình là đã có chồng hay vợ chánh-thức mà còn dan-díu tình-ái với kẻ khác.

- Trúc-lâm: tên tịnh-xá nầy tiếng Pali là Veluvana, vườn trúc.

- Vương-xá: tên thủ-đô xứ Ma-kiệt-đà (Magadha), Pali: Ràjagaha

- Gia-cảnh: Gia = nhà;cảnh = tình-cảnh. Gia-cảnh = tình-cảnh ở nhà

- Thiện-nam-tử: Thiện =lành; Nam-tử = đàn-ông. Thiện-nam-tử là người tín-đồ đàn ông. Phái nữ gọi là Thiện-nữ-nhơn.

- Trắc nết: tánh-hạnh chẳng ra gì, chẳng trung-thành với chồng.

- Giao-du: giao-thiệp, chơi-bời với nhau.

- Tà-hạnh: Tà = tà-vạy, xiêng-xéo; Hạnh = hạnh-kiểm, tánh-tình. Tà-hạnh, Tà-dâm là chẳng trung-thành với chồng hay vợ, dan-díu tình-ái với kẻ khác; có tánh lang-chạ.

- Sa-đoạ: rơi xuống thấp, lọt vào hạng hèn-hạ.

- Xan-tham: bỏn-sẻn, rít-róng, quá hà-tiện.

- Uế-trược, ô-uế, cấu-uế = chỗ dơ-bẩn, xấu-xa.

- Vô-minh: Vô = chẳng; Minh = sáng. Vô-minh là si-mê, ngu-tối.

- Cực-hiểm: cực-kỳ độc-hiểm; hết sức nguy-hiểm.

- Vô-nhiễm: Vô = chẳng; Nhiễm = dính nhơ. Bực vô-nhiễm là bực Thánh, chẳng còn bị phiền-não làm nhiễm-ô nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tich chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một người đàn-ông bị vợ ngoại-tình, xấu-hổ với kẻ khác, nên chẳng đi chùa nữa. Đức Phật an-ủi người ấy và bảo rằng, kẻ trắc-nết chẳng trung-thành trong tình-nghĩa vợ-chồng, sẽ sa-đoạ vào cõi dữ.

Tuy Tích chuyện chỉ nói đến sự trắc-nết của đàn-bà, nhưng ta phải hiểu ý-nghĩa của lời Phật dạy, chẳng phải chỉ ứng vào người đàn-bà, mà luôn cho cả đàn-ông. Lòng trung-thành trong tình-nghĩa vợ-chồng là nền-tảng của hạnh-phước gia-đình.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 242 và 243:

Nhơn Tích chuyện nói về sự chẳng trung-thành của người đàn-bà đối với chồng là một vết nhơ về đức-hạnh của phụ-nữ, Đức Phật kể ra các điều nhơ-bẩn khác, giúp ta biết để tránh khỏi. Đó là: (1) tà-dâm, lén-lút giao-thiệp bất-chánh với người khác phái; (2)xan-tham, rít-róng chẳng chịu bố-thí; (3) hành-động tệ-ác gây thiệt-hại cho kẻ khác; và nhứt là (4) sự ngu-tối tức là vô-minh, rất nguy-hiểm, vì tâm-trí còn ngu-tối chẳng rõ được đâu là đường lành mà theo, nẻo ác để tránh.

Hai câu chót của bài Kệ 243 là lời kêu gọi khẩn-thiết của Đức Phật, dạy các tỳ-kheo nên mau mau rửa sạch tâm mình cho thật thanh-tịnh, để dấn bước theo các bực Thánh, là hàng Vô-nhiễm, chẳng hề bị các vết-nhơ tội-lỗi làm ô-uế.

(187).- Tích chuyện tỳ-kheo Chu-la-sĩ.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị tỳ-kheo Chu-la-sĩ, vi-phạm giới-luật cấm trị bịnh người để lấy công.

Thuở ấy, có vị tỳ-kheo tên là Chu-la-sĩ biết nghề làm thuốc, thường đi trị bịnh cho kẻ khác và nhận được nhiều tặng-phẩm. Một hôm, Chu đi thăm bịnh-nhơn và được biếu-tặng hậu-hĩ. Trên đường về, gặp Tôn-giả Xá-lợi-phất đang đi khất-thực, Chu liền đem các tặng-phẩm vừa nhận được ra chia-xẻ với Tôn-giả. Nhưng Tôn-giả Xá-lợi-phất lẵng-lặng đi tới, chẳng nói gì cả. Khi về đến tịnh-xá, các tỳ-kheo khác thưa-trình cùng Đức Phật về việc Tôn-gìả Xá-lợi-phất đã từ-chối quà-tặng của tỳ-kheo Chu-la-sĩ. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, Xá-lợi-phất chẳng nhận số tặng-phẩm của tỳ-kheo Chu-la-sĩ chia-xẻ, là vì Chu đã vi-phạm giới-luật, đi hành-nghề y-sĩ để được trả công. Tỳ-kheo nên biết, vi-phạm giới-luật thì rất dễ-dàng, sống buông-lung, chạy theo các lợi-dưỡng và tiện-nghi vật-chất, nào khác gì con quạ trơ-trẽn cắn lén sau lưng người, chẳng biết hổ-thẹn; tư-tưởng, lời nói cùng hành-động đều chẳng được chơn-thiện. Trái-lại, giữ giới-đức cho thanh-tịnh, khép mình trong kỷ-luật khắt-khe, biết hổ-thẹn khi lầm-lỗi, là lối sống tuy khó-khăn nhưng sớm đến nơi giác-ngộ và giải-thoát."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó một số tỳ-kheo chứng-đắc được quả-vị Tu-đà-huờn:

Dễ quá mà, sống đời không biết thẹn,
Trơ-trẽn như quạ cắn lén sau lưng,
Ham công-kích người, ngã-mạn, ngông-cuồng,
Liều-lĩnh, nhiễm-ô, tánh thường hư-đốn.
(Kệ số 244.)

Thật là khó, sống cuộc đời khiêm-tốn,
Có lòng tự-thẹn, có hạnh viễn-ly,
Biết lánh xa tất cả mọi ràng-buộc,
Tìm cầu thanh-tịnh, tâm hằng sáng-suốt.
(Kệ số 245.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Chu-la-sĩ: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Cùlasàrì.

- Hành-nghề y-sĩ: làm nghề thầy thuốc chữa bịnh cho người.

- Lợi-dưỡng: các nguồn lợi về vật-chất để nuôi sống.

- Trơ-trẽn: chẳng biết hổ-thẹn, chai-lỳ chẳng biết mắc-cỡ.

- Chơn-thiện: Chơn = chơn-chánh, đứng-đắn; Thiện = lành.

- Ngã-mạn = kiêu-căng, phách-lối, tự cho mình hơn kẻ khác.

- Ngông-cuồng: Ngông = ngông-nghênh, chẳng biết sợ ai cả; Cuồng = điên-khùng. Người ngông-cuồng là kẻ ngang-tàng, dữ-ác.

- Hư-đốn: hư-hỏng và đốn-mạt; rất tệ-hại; chẳng ra gì.

- Khiêm-tốn: biết nhũn-nhặn, chẳng hề khoe-khoang.

- Tự-thẹn: biết mắc-cỡ lấy mình.

- Hạnh viễn-ly: Hạnh = đức-hạnh; Viễn = xa; Ly = lìa. Người có hạnh viễn-ly biết xa-lìa các lợi-dưỡng, chẳng ham thú-vui vật-chất, tránh xa mọi ràng-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ-kheo vi-phạm giới-luật, hành-nghề ý-sĩ để kiếm lợi. Ta phải hiểu rõ ý-nghĩa của sự cấm-đoán nầy: Đức Phật cấm tất cả tỳ-kheo có nghề riêng để sanh-sống, đó là vì muốn các tu-sĩ diệt được lòng tham; chớ Đức Phật chẳng cấm-đoán việc trị bịnh giúp đời. Cứu người bịnh qua khỏi cơn đau là điều thiện, đáng khuyến-khích; nhưng cứu người với lòng tham muốn để được đền công, điều nầy trái với giới-luật. Tu-sĩ Phật-giáo còn được gọi là khất-sĩ, nghĩa là phải đi ăn xin, để dẹp lòng tự-ái của mình, hạ mình xuống sống nhờ sự bố-thí của kẻ khác; vả lại khi đi khất-thực, có dịp gặp dân-chúng, để chỉ-dạy Giáo-pháp cho họ. Hiểu được ý-nghĩa nầy, mới biết tại sao Tôn-giả Xá-lợi-phất chẳng chịu nhận các tặng-phẩm của tỳ-kheo Chu-la-sĩ, vì các tặng-phẩm đó do công trị-bịnh mà ra, trái với giới-luật.

Tích chuyện còn ghi lại các lời dạy của Đức Phật: (1) sống buông-lung, khinh thường giới-luật, thì quá dễ và được nhiều lợi-dưỡng, đời sống sung-túc trong tiện-nghi vật-chất. Nhưng đó chẳng phải là con đường chơn-chánh mà người tu-sĩ nên noi theo; (2) sống theo giới-luật, biết hổ-thẹn khi lầm-lỗi, tuy khó khăn hơn, nhưng đó là con đường đưa ta sớm đến nơi giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 244 và 245:

Hai bài Kệ đối-ngược nhau, một bài nói về lối sống buông-lung, quá dễ-dãi, một bài nói về lối sống khắt-khe, tuân theo giới-luật.

Thử phân-tách từng câu bài Kệ số 244:

1) Dễ quá mà, sống đời không biết thẹn: Chẳng biết thẹn là xem thường mọi tội-ác, chẳng thấy xốn-xang, thẹn-thùng trong lòng, khi làm lỗi. Danh-từ chuyên-môn chỉ sự biết hổ-thẹn là tàm, hay quí; có lòng biết thẹn là có tâm tàm, tâm quí. Trái lại, người chẳng biết thẹn với lòng mình là người có tâm vô-tàm, có tâm vô-quí.

2) Trơ-trẽn như quạ cắn lén sau lưng: so-sánh người có tâm vô-tàm thì trơ-trẽn, chai-lỳ như một con quạ đen-đúa, lén mổ kẻ khác.

3) Ham công-kích người, ngã-mạn, ngông-cuồng: đây là ba vết nhơ cùng bắt nguồn từ tánh chấp-ngã (tự xem mình là hơn). Ham công-kích người, ham làm hại người, vì chẳng muốn người hơn mình; ngã-mạn là phách-lối, kiêu-căng, chẳng muốn ai bằng hay hơn mình; ngông-cuồng là chẳng sợ tội-ác gây ra quả-báo dữ-xấu, cứ hành-động ngang-tàng để tranh phần hơn với kẻ khác

4) Liều-lĩnh, nhiễm-ô, tánh thường hư-đốn: vì ỷ mình giỏi nên sanh ra liều-lĩnh; vì chẳng biết giữ-gìn, nên bị tội-ác làm nhiễm-ô; do đấy mà tánh-tình trở nên hư-đốn, mãi trôi-lăn trong cõi Luân-hồi.

Phân-tách bài Kệ số 245, ta thấy có hai đức-tánh quí-báu:

(1) sự khiêm-tốn, do lòng biết tự-thẹn sanh ra, biết nhũn-nhặn;

(2) hạnh viễn-ly, biết lánh xa mọi ràng-buộc. (Cái chi ràng-buộc? Các tội-lỗi ràng-buộc ta theo nghiệp xấu, nên phải trôi lăn mãi trong cõi Luân-hồi khổ-đau lận-đận).

Đường nầy khó, nhưng nhờ đó sớm được giác-ngộ và giải-thoát.

(188).- Tích chuyện năm người cãi nhau về ngũ-giới.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc năm người Phật-tử cãi nhau về ngũ-giới.

Thuở ấy vào dịp lễ thọ Bát-quan-trai-giới, có năm vị Phật-tử cãi nhau về cách giữ đúng ngũ-giới cho người tu-hành tại-gia. Một vị nói: "Tôi cố giữ giới chẳng sát-sanh, nhưng thấy giới nầy là khó nhứt trong ngũ-giới". ’Một vị khác cãi, giới tà-dâm là khó giữ nhứt. Còn một vị khác lại bảo, giới cấm uống rượu mới là khó giữ, trong năm giới. Vì sự bất-đồng-ý nầy, họ đến yết-kiến Đức Phật. Đức Phật: "Nầy chư thiện-nam-tử, chẳng nên xem bất cứ một giới-luật nào là quan-trọng nhứt hay ít quan-trọng hơn các giới kia. Giới nào cũng khó giữ cả, nhưng phải cố giữ sao cho trọn-vẹn cả năm giới mới được."

Rồi Đức Phật mới nói lên các bài Kệ sau đây, nhờ đó mà cả năm vị Phật-tử chứng được quả-vị Tu-đà-huờn:

Kẻ nào sát-hại mạng chúng-sanh,
Của không cho mà cứ lấy giành,
Tiết trinh kẻ khác lại xâm-phạm,
Nói lời dối-trá, chẳng chánh-chơn,
Chất say, rượu mạnh dùng luôn,
Đó là đào lỗ tự chôn đời nầy.
(Kệ số 246, 247.)

Nên biết điều nầy, hỡi các người hiền!
Tự-chế chẳng làm ác, đâu phải dễ,
Tham-lam và tội-lỗi, chẳng nên để
Chúng lôi kéo vào cảnh khổ triền-miên.
(Kệ số 248.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phật-tử: Phật = giác, hiểu biết rõ; Tử = con. Phật-tử là người theo đạo Phật, tự xem mình là đứa con tinh-thần của Đức Phật.

- Ngũ-giới: Ngũ = năm; Giới = điều răn-cấm trong đạo. Với người tu tại-gia, ngũ-giới gồm có: (1) cấm sát-sanh; (2) cấm trộm-cướp; (3) cấm tà-dâm; (4) cấm nói dối; (5) cấm uống rượu. Tiếng Pali về ngũ-giới pancasila.

- Lễ thọ Bát-quan-trai-giới: Theo lễ nầy, người Phật-tử vào chùa tu-hành trong 24 tiếng đồng-hồ, tuân giữ tám điều răn-cấm gồm có năm giới của người tu tại-gia cộng thêm ba giới nữa là: chẳng nằm giường cao; chẳng trang-điểm vòng-vàng, thoa dầu thơm; chẳng ăn phi-thời ( = chẳng ăn sái-giờ, ngoài bữa ăn trưa ra). Đức Phật hứa, ai thọ Bát-quan-trai-giới đàng-hoàng, thì chẳng hề bị sa vào địa-ngục.

- Tu tại-gia: tu-hành tại nhà. Đức Phật Thích-ca có bốn hạng đệ-tử, gọi là tứ-chúng. Tỳ-kheotỳ-kheo-ni là hai hạng xuất-gia, rời bỏ cuộc sống thế-tục, vào chùa tu-hành; ưu-bà-tắc với ưu-bà-di là hai hạng tại-gia, đàn-ông và đàn-bà, vẫn giữ đời sống có gia-đình.

- Sát-sanh: Sát = giết; Sanh = sanh-mạng chúng-sanh.

- Tà-dâm = đã có vợ, chồng chánh-thức rồi mà còn dan-díu tình-ái với kẻ khác.

- Tiết trinh: sự trong-sạch, trung-thành của phụ-nữ đối với chồng.

- Tự-chế: tự mình răn-cấm, tự mình giữ-gìn lấy mình chẳng gây tội-lỗi.

- Triền-miên = lâu-dài chẳng dứt.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại sự bất-đồng-ý của năm người về ngũ-giới. Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của Đức Phật: giới nào cũng quan-trọng như nhau, phải giữ cho thật đầy-đủ thì mới được giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của các bài Kệ số 246, 247 và 248:

Hai bài Kệ 246 và 247 kể lại năm giới của người tu tại-gia, rất dễ hiểu, mỗi câu là một giới. Nên học thuộc để nhớ đủ năm giới. Lời răn-dạy rất khẩn-thiết là câu chót: hễ ai phạm các giới đó là đào lỗ tự chôn đời mình.

Bài Kệ số 248 khuyên ta nên biết tự-chế, chống lại sự tham-lam và tội-lỗi; đừng để chúng lôi-kéo ta vào cảnh khổ triền-miên của Luân-hồi.

(189).- Tích chuyện vị tỳ-kheo ganh-tị.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến thái-độ ganh-tị của một vị tỳ-kheo trẻ tuổi tên là Thi-sa.

Thuở ấy có một tỳ-kheo trẻ tuổi tên là Thi-sa, tánh hay ganh-tị, thường chê-bai sự bố-thí cúng-dường của người khác. Thậm-chí, Thi-sa cũng chẳng hề khen ngợi công-đức của hai vị đại-thí-chủ nổi tiếng đương-thời là cư-sĩ Cấp-cô-độc và nữ-cư-sĩ Vi-sa-kha. Hơn nữa, Thi-sa lại thường khoe-khoang, tự-hào rằng gia-đình mình rất giàu-có, tiền-bạc nhiều như nước trong giếng, ai muốn đến xin, cứ việc múc lấy mà dùng.

Nghe lời khoác-lác nầy, các vị tỳ-kheo khác rất nghi-ngờ mới tìm về làng của Thi-sa; họ khám-phá ra rằng, nhà-cửa của Thi-sa rất là bần-cùng, các thân-nhơn họ hàng của Thi-sa bữa đói, bữa no. Các vị tỳ-kheo mới trình lên Đức Phật sự-việc đó. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, tu-sĩ nào chẳng hoan-hỉ khi thấy các vị tỳ-kheo khác nhận được sự cúng-dường, và tỏ lòng ganh-tị, thì chẳng bao giờ chứng-đắc được Đạo Quả cả."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Do niềm tin và tâm hoan-hỉ,
Con người mới sanh lòng bố-thí.
Thấy người khác nhận được cúng-dường
Đồ ăn, thức uống, mà đố-kỵ,
Cả ngày lẫn đêm, kẻ ganh-tị
Chẳng thể nào đắc được định-tâm.
(Kệ số 249.)

Ai cắt được ganh-tị trong lòng,
Bứng tận rễ và dẹp bỏ xong,
Định-tâm người ấy thường chứng được
Đêm cũng như ngày, nếu ra công.
(Kệ số 250.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ganh-tị: đố-kỵ, ghen-ghét, cà-nanh, đòi cho hơn kẻ khác.

- Đại-thí-chủ: Đại = lớn; Thí-chủ = người bố-thí, còn gọi là thí-giả

- Cư-sĩ: Cư = ở; ở tại nhà; Sĩ = người. Cư-sĩ là người tu tại-gia.

- Cấp-cô-độc: tên của vị cư-sĩ xây cất chùa Kỳ-viên, tiếng Pali là Anàthapindika.

- Vi-sa-kha: tên của vị nữ-cư-sĩ xây cất nữ-tu-viện Đông-viên (Pubbàràma), ở phía Đông chùa Kỳ-viên, tiếng Pali là Visakha.

- Khoác-lác = láo-toét, khoe láo.

- Bần-cùng:Bần = nghèo;Cùng = cùng-khổ.Bần-cùng là nghèo-khổ.

-Hoan-hỉ = vui-mừng, hân-hoan.

- Đạo, Quả: Đạo = con đường, đường-lối tu-hành (Pali: Magga); Quả = kết-quả, sự tu-hành đã thành-công tốt-đẹp (Pali: Phala). Danh-từ chuyên-môn trong Bắc-tông, gọi là hướng và quả, như Tu-đà-huờn hướng Tu-đà-huờn quả.

- Định-tâm: Định = đứng yên lại, chẳng xao-động; Tâm = lòng. Đắc được định-tâm là ngồi Thiền, tâm vắng-lặng, chuyên-chú vào một đề-mục duy-nhứt, chẳng hề xao-lãng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, kể lại tánh xấu hay ganh-tị của một vị tỳ-kheo. Đức Phật dạy, kẻ nào biết diệt lòng ganh-tị, hoan-hỉ khi thấy người khác được cúng-dường, thì khi ngồi Thiền sẽ sớm đắc định-tâm.

(2) Ý-nghĩa hai bài Kệ số 249 và 250:

1) Hai câu đầu của bài Kệ số 249: Do đâu mà sanh lòng bố-thí? Do niềm tin vào phước-báo, và lòng hoan-hỉ, vui-mừng thấy người nhận của bố-thí được vui. Thấy người vui mà vui theo gọi là Tuỳ-hỉ.

2) Bốn câu sau của bài Kệ số 249: vì trong tâm sanh ra ganh-tị, cú lo ganh-ghét mãi, nên ngồi Thiền chẳng đắc được định-tâm.

3) Hai câu đầu của bài Kệ số 250: phải bứng tận gốc-rễ lòng ganh-tị. Gốc-rễ đó ở đâu? Chính ngay trong tâm mình, nên dẹp bỏ đi

4) Hai câu chót của bài Kệ số 250: tại sao đắc được định-tâm? Vì nếu ra công dọn dẹp cõi lòng cho trong-sạch, thì tâm định ngay.

(190).- Tích chuyện năm người ngồi nghe pháp.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến thái-độ ngồi nghe kinh của năm người tín-đồ.

Thuở ấy, có năm người tín-đồ tu tại-gia đến chùa Kỳ-viên, nghe Đức Phật giảng-pháp. Trong khi Đức Phật nói pháp, một người ngồi ngủ gục; một người lấy ngón tay vẽ-vạch xuống đất. Người thứ ba, ngồi phía sau, gần gốc cây, lắc nhẹ vào cành lá. Người thứ tư ngẩng đầu nhìn lên trời xanh. Còn người thứ năm, ngồi gần bên Đức Phật, chăm-chỉ nghe lời giảng, chẳng bỏ sót câu nào. Tôn-giả A-nan, đứng hầu bên cạnh Phật, nhìn thấy rõ năm người đó, đến khi Đức Phật giảng xong, mới thưa trình riêng cùng Đức Phật thái-độ ngồi nghe kinh của họ. Đức Phật bảo: "Nầy A-nan, năm người cư-sĩ nầy còn chưa dẹp bỏ xong các thói-quen của họ trong tiền-kiếp. Người ngồi ngủ gục, kiếp trước, vốn là con rắn, thường khoanh mình trong xó, ngủ liên-miên. Kiếp trước của người thứ hai là con trùn thường chui qua chui lại trong đất. Người thứ ba vốn là con khỉ trong đời trước, cứ mãi chuyền từ cành nầy sang nhánh nọ trên cây. Còn người thứ tư, đời trước là một chiêm-tinh-gia, cứ ngẩng đầu lên xem các ngôi sao trên trời. Riêng người thứ năm, biết chăm-chỉ nghe pháp, kiếp trước là nhà thiên-văn-học. Nầy A-nan, cần phải chú-tâm, chăm-chỉ, mới biết nghe Chánh-pháp. Vẫn còn có rất nhiều người chẳng biết chú-ý lắng nghe."

Tôn-giả A-nan bạch Phật: "Bạch thế-tôn, có sự ngăn-cản nào khiến cho người ta chẳng nghe hiểu được Chánh-pháp đang giảng?" Đức Phật đáp: "Có ba mối lậu-hoặc lớn ngăn cản người nghe chẳng thấu-hiểu rõ Chánh-pháp: tham, sân si; nhứt là lửa tham nó đốt cháy tất cả cõi lòng mà chẳng hề ngưng-nghỉ."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Lửa nào bằng với lửa tham,
Chấp nào hơn được chấp tâm giận-thù.
Lưới nào như lưới khờ-ngu,
Sông nào sánh được sông sâu ái-hà.
(Kệ số 251.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tín đồ: Tín = tin-tưởng; Đồ = đồ-đệ, học-trò.Tín-đồ là người theo Đạo; trong Phật-giáo, còn gọi là thiện-nam, tín-nữ.

- Tu tại-gia: tu-hành tại nhà. Đối nghĩa với xuất-gia, rời nhà đi tu.

- Cư-sĩ: Cư = ở; Sĩ = người. Cư-sĩ là người theo đạo Phật, tu tại-gia

- Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = đời sống. Theo sự tin-tưởng trong Phật-giáo, chúng-sanh có nhiều đời, đời trước đời hiện nay là tiền-kiếp

- Chiêm-tinh-gia = Chiêm =xem xét; Tinh = ngôi sao; Gia = nhà, người. Chiêm-tinh-gia xem sao trên trời mà đoán số-mạng con người.

- Thiên-văn-học: khoa-học về vũ-trụ, không-gian, các hành-tinh, các ngôi sao, v.v.

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ-chảy; Hoặc = điều sai-lầm. Lậu-hoặc là các lỗi-lầm từ bên trong tâm rỉ-chảy, biểu-lộ ra bằng hành-động, lời nói xấu-ác. Có ba lậu-hoặc chánh: tham, sân, si; còn gọi là phiền-não.

- Lửa tham: ví sự tham-lam như lửa, nó nung-nấu, thúc-dục lòng mình phải dành cho được, được rồi lại muốn thêm nữa, chẳng nguôi.

- Chấp tâm giận-thù: Chấp là sự bám-chặt trong lòng, chẳng lúc nào chịu rời ra; như giận ai thì giận mãi tới già, chết xuống tuyền-đài cơn giận vẫn chưa tan.

- Lưới khờ-ngu: nghĩa bóng của sự si-mê, nó bao trùm tâm-trí kín-mít chẳng thấy được lẽ phải và điều lành.

- Sông sâu ái-hà: Ái = thương; Hà = sông. Sông ái tức là lòng tham-ái, đắm-say, vừa sâu vừa nguy-hiểm, kéo ta trôi lăn mãi trong vòng sanh-tử khổ-đau của Luân-hồi lẩn-quẩn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Nhơn thái-độ ngồi nghe pháp, chẳng đúng-đắn của bốn người tín-đồ, Đức Phật dạy, chỉ vì lòng còn tham, sân, si nên người nghe pháp, chẳng hiểu-thấu cho rõ-ràng được Chánh-pháp.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 251:

Bài kệ nầy kể rõ các sự ngăn-trở khiến ta chẳng thông-hiểu được Chánh-pháp: (1) lửa tham; (2) tâm cố-chấp sân-hận; (3) lưới si-mê; (4) sông ái-hà. Bốn điều ô-uế đó, ta phải cố rửa cho sạch khỏi lòng ta.

(191).- Tích chuyện vị hào-phú Mẫn-đà-kha.

Vào một thời kia, Đức Phật du-hành đến xứ An-già, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị hào-phú tên là Mẫn-đà-kha.

Thuở ấy, ở thành Bá-đi-gia, xứ An-già, có một vị hào-phú tên là Mẫn-đà-kha, của-cải rất nhiều mà cũng có lòng bố-thí thật rộng-rãi. Thiên-hạ đồn rằng, ông Mẫn đã đào lên phiá sau vườn nhà mình được nhiều pho-tượng chạm hình con dê, bằng vàng ròng. Lại cũng có lời đồn rằng, trong nhiều kiếp trước, vào thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, ông Mẫn đã xây cất một tu-viện trang-nghiêm, với đầy-đủ phòng-ốc, điện-sảnh; rồi dưng-cúng thực-phẩm lên chư Tăng trong hơn bốn tháng. Trong một kiếp sau nữa, ông Mẫn tái-sanh vào thành Ba-la-nại, gặp nạn đói-kém, liền xuất tiền ra sắm-sửa thức ăn bố-thí cho dân-chúng. Trong số những người đến khất-thực, có một vị Bích-chi-Phật, ông Mẫn đều cúng-dường đầy-đủ. Nhờ phước-báo đó mà ngày nay, ông Mẫn trở nên rất giàu-có.

Hay tin Đức Phật du-hành đến thành Bá-đi-gia, ông Mẫn cùng với cả gia-đình gồm có sáu người, đồng đi đến nơi, nghe Đức Phật thuyết-giảng. Sau khi cúng-dường Đức Phật và chư Tăng xong, ông Mẫn bạch với Phật: "Bạch Thế-tôn, trên đường con đi đến đây, con có gặp vài người ẩn-tu khổ-hạnh đã nói xấu Thế-tôn, và bảo con đừng đến đây nghe pháp." Đức Phật đáp: "Nầy đại-thí-chủ, thật chẳng khó-khăn gì đi vạch lỗi của kẻ khác mà lại cố dấu-diếm tật xấu của chính mình."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà mọi người trong gia-đình ông Mẫn đều chứng-đắc được quả-vị Tu-đà-huờn:

Dễ thay, thấy lỗi người ta,
Lỗi mình thấy được, thật là khó thay!
Phanh-phui vạch lỗi của ai
Như đang quạt gạo, trấu bay ra ngoài.
Lỗi mình che kín chẳng khai,
Như cờ-bạc lận, quân bài dấu trong.
(Kệ số 252.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Hào-phú: Hào = có quyền-thế; Phú = giàu. Hào-phú là giàu và có nhiều quyền-thế.

- Mẫn-đà-kha: tên vị hào-phú nầy, tiếng Pali là Mendaka.

- Xứ An-già, thành Bá-đi-gia, thành Ba-la-nại: tên các địa-danh nầy, tiếng Pali là: Anga, Baddiya, Bénarès hay Vàrànasì.

- Tỳ-bà-thi: tên một vị Phật giáng-sanh năm kiếp trước Đức Phật Thích-ca; tiếng Pali là Vipassì.

- Điện-sảnh: Điện = căn phòng lớn trang-nghiêm; Sảnh = phòng.

- Bích-chi-Phật: một vị Phật tự-mình giác-ngộ và giải-thoát, vào thời chẳng có giáo-pháp của một đức Phật nào; tiếng Pali là Paccekabuddha. Bích chi-Phật còn gọi là Độc-giác, tự mình giác-ngộ lấy, nhưng chẳng đi giáo-hoá kẻ khác để họ được giác-ngộ theo.

- Ẩn-tu khổ-hạnh: Ẩn-tu = tu một mình nơi xa-vắng; Khổ-hạnh = tu ép xác với hi-vọng mau được giác-ngộ và giải-thoát.

- Đại-thí-chủ: Đại = lớn, Thí-chủ = người bố-thí; còn gọi là thí-giả.

- Tu-đà-huờn: quả-vị đầu-tiên trong hàng Thanh-văn ( =đệ-tử sống gần Phật, nghe kinh mà tu-tập); tiếng Pali là Sotapatti, dịch là Nhập-Lưu ( =vào dòng Thánh) hay Thất-Lai ( = chỉ còn tái-sanh bảy lần)

- Cờ-bạc lận: cờ gian bạc lận; đánh bài ăn gian.

- Quân bài = lá bài, con-bài.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện có hai phần: phần đầu thuật lại công-đức bố-thí của ông Mẫn trải qua nhiều đời; phần sau, nhận-xét của Đức Phật về tánh hay vạch lỗi của kẻ khác và che dấu lỗi của mình. Ý-nghĩa của nhận-xét nầy là chẳng nên vạch lỗi kẻ khác, trái lại phải biết tự-xét lấy lỗi mình mà tránh đi, để thân-tâm trở nên trong-sạch, khỏi các cấu-uế.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 252:

Bài Kệ đưa ra hai hình-ảnh rất sống động: (1)vạch lỗi của người như đang quạt gạo, trấu bay ra, dễ thấy; (2) che-dấu lỗi mình kỹ-lưỡng cũng như đứa cờ-bạc gian-lận dấu con-bài bên trong, chẳng cho ai thấy cả. Ý-nghĩa của bài Kệ dĩ-nhiên khuyên ta chớ vạch lỗi kẻ khác.

(192).- Tích chuyện tỳ-kheo Úc-gia.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị tỳ-kheo tên Úc-gia.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo tên Úc-gia, tánh hay kẽ-vạch lỗi-lầm của người khác, và thường hay nói xấu các bạn đồng-tu. Các vị tỳ-kheo khác mới thưa-trình cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, nếu có ai nói rõ lỗi-lầm của người khác và chỉ-dạy cho họ cách sửa-chữa lại, thì đó là chẳng phải là một hành-động xấu-ác, đáng chê-trách đâu. Trái lại, nếu có kẻ nào luôn luôn chỉ-trích chỗ sai-lầm của người khác với ý-định hiểm-độc để nói xấu, thì người nầy chẳng thể nào chứng-đắc được định-tâm. Y lại chẳng bao giờ thông-hiểu được Chánh-pháp, và các mối lậu-hoặc nơi người ấy ngày càng gia-tăng."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Kẻ nào cứ thấy lỗi của ai,
Thường sanh lòng chỉ-trích chê-bai,
Lậu-hoặc người đó tăng hoài,
Tiêu-trừ cho sạch, biết ngày nào xong.
(Kệ số 253.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Úc-gia: tên của vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Ujjhànasanni.

- Kẽ-vạch = moi-móc, cố tìm chỗ sơ-hở của kẻ khác để nói ra.

- Chỉ-trích: phê-bình, khen hay chê, thường là có ý chê hơn khen

- Hiểm-độc: Hiểm = nguy-hiểm; Độc = độc-ác. Hiểm-độc là làm việc ác ngầm, dấu ác-ý chẳng cho lộ rõ ra, nên nguy-hiểm lắm.

- Định-tâm: Định = dừng lại, đứng yên; Tâm = lòng. Khi ngồi Thiền, tâm chẳng xao-động, chỉ chú-ý vào đề-mục duy-nhứt là đang có định-tâm.

- Chánh-pháp = Chánh = chơn-chánh, đúng-đắn; Pháp = pháp-tu. Chữ Chánh-pháp ( = Dhamma) được hiểu là giáo-pháp của Đức Phật.

- Lậu-hoặc = các phiền-não trong tâm lộ ra bằng hành-động hoặc bằng lời nói. Có ba mối lậu-hoặc chánh: tham, sân, si và các món phụ- thuộc như nghi-ngờ, ngã-mạn, tà-kiến. (Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai-lầm, lỗi-lầm, phiền-não.)

- Gia-tăng: càng ngày càng nhiều.

- Tiêu-trừ: dẹp bỏ cho tan mất hết.

B.- Nghĩa Ý:

(1)Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ-kheo có thói xấu hay kẽ-vạch lỗi-lầm của người khác để chê-bai. Việc đó đến tai Đức Phật, Ngài dạy rằng: "Chỉ-dạy lỗi-lầm của kẻ khác và cách sửa-chữa lại cho tốt, là điều đáng làm; nhưng nếu vạch lỗi của kẻ khác để chê-bai, chỉ-trích với ý-định nói xấu, đó là điều nên tránh." Đức Phật lại bảo: "Người hay moi-móc lỗi của kẻ khác để nói xấu, khi tu thiền, chẳng những chẳng thể đắc được định-tâm, mà nơi tâm người ấy, lậu-hoặc sẽ gia-tăng hoài, chẳng gột rửa hết được."

Ý-nghĩa của Tích chuyện là phải thường thường xét đến chính lòng mình, thấy những lỗi-lầm, thiếu-sót của chính mình, hơn là quay sang người đồng-tu, tìm lỗi của họ, để che dấu lỗi của mình. Có như thế mới khiến cho tâm mình dễ an-định, các lậu-hoặc như sân, si, ngã-mạn, ganh-tị lần lần được dũa mòn mà tiêu-tan đi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 253:

Bài Kệ rất rõ nghĩa, chỉ dạy ta phải dẹp bỏ thói xấu chỉ-trích lỗi kẻ khác để che dấu lỗi của mình.

Thử phân-tách ý-nghĩa bài Kệ để tìm các sự ô-uế, các lậu-hoặc xảy ra trong tâm người hay kẽ-vạch:

1) Thấy lỗi kẻ khác, chỉ-trích chê-bai: đây là ác-ý muốn hạ kẻ khác, để ngầm tôn mình lên, đó là một hình-thức của sự ngã-mạn.

2) Lậu-hoặc người đó tăng hoài: Lậu-hoặc nào? Đó là sự ganh-tị, ghen-ghét kẻ khác, thấy ai hơn mình thì chẳng ưa. Người hay ganh-tị lo binh-vực cái Ta của mình, khiến cho cái Ta ấy càng ngày càng to-lớn thêm, chẳng thấy được các lỗi-lầm đầy-dẫy nơi tâm mình. Vì lẽ nầy, bài Kệ mới nói: Tiêu-trừ cho sạch, biết ngày nào xong.

(193).- Tích chuyện ông Tu-bạt-đà-la, vị đệ-tử chót của Đức Phật.

Vào một thời kia, Đức Phật đến rừng Ta-la, xứ Câu-thi-na, trước khi nhập Niết-bàn, có đề-cập đến vị đệ-tử cuối-cùng của Đức Phật là ông Tu-bạt-đà-la.

Thuở ấy, ở xứ Câu-thi-na có một người Bà-la-môn, sống trên trăm tuổi, thường theo học các vị sư ngoại-đạo, nhưng còn chưa vừa lòng. Khi nghe tin Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, trong rừng Sa-la ở Câu-thi-na, ông Tu-bạt-đà-la mới đến xin yết-kiến Đức Phật, để thưa hỏi về ba câu hỏi mà lòng ông còn thắc-mắc, chưa được ai giải-đáp thoả-đáng cả. Tôn-giả A-nan bấy giờ hầu-cận bên Đức Phật, thấy Phật đang mệt, mới từ-chối chẳng để ông Tu-bạt-đà-la vào gặp Phật. Đức Phật nằm trên giường, giữa hai cây Ta-la, nghe tiếng năn-nỉ của ông Tu-bạt-đà-la, mới gọi Tôn-giả A-nan, bảo hãy đưa ông ấy vào.

Ông Tu-bạt-đà-la, sau khi thăm hỏi Đức Phật, liền nêu lên ba câu hỏi mà từ lâu ông thắc-mắc tìm chưa được lời giải-đáp:

1) Giữa hư-không, có dấu-tích gì chăng?

2) Có vị sa-môn nào đứng bên ngoài Chánh-pháp của Như-lai chăng?

3) Có sự-vật hữu-vi nào mà thường-hằng mãi chăng?

Cả ba câu hỏi, Đức Phật đều đáp là không, và Ngài nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó mà ông Tu-bạt-đà-la, vị đệ-tử cuối cùng của Đức Phật, chứng đắc được quả-vị A-la-hán:

Chẳng vết-tích gì giữa hư-không,
Bên ngoài Chánh-pháp, không Sa-môn.
Phàm-phu thoả-thích trong chướng-ngại,
Chướng-ngại, Như Lai trải qua xong.
(Kệ số 254.)

Chẳng vết-tích gì giữa hư-lhông,
Bên ngoài Chánh-pháp, không Sa-môn.
Các hành hữu-vi chẳng thường-trụ,
Chư Phật Như-lai ổn-cố xong.
(Kệ số 255.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tu-bạt-đà-la: tên vị đệ-tử chót của Phật, tiếng Pali là Subhadda

- Rừng Ta-la, xứ Câu-thi-na: rừng cây Ta-la, thân cây cao lớn, cành lá xanh-tươi, trong xứ Câu-thi-na, nơi Đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn ( = mất). Tiếng Pali là cây Sala, xứ Kusinàrà.

- Các sư ngoại-đạo: các giáo-chủ các môn-phái tu khác chống đối với đạo Phật, như nhóm ông Phú-lan-na Ca-diếp (Purana Kassapa, chẳng tin lý-thuyết nghiệp-báo), như nhóm loã-thể Ni-liền-tử ( = nhóm Nigandha, tu khổ-hạnh, chẳng mặc quần-áo), v.v.

- Nhập Niết-bàn: vào cảnh-giới Tịch-diệt. Trong Phật-học, chữ Nhập Niết-bàn dùng để chỉ khi các bực Thánh lià thân-xác nầy (tức là chết đi), được tin là vào cõi vắng-lặng, an-nhiên, tự-tại của Niết-bàn.

- Hư-không: khoảng trống-không bao-trùm tất cả vạn-vật, vũ-trụ. Vì chẳng có bờ-bến, vì chẳng có hình-sắc, nên gọi là hư, tức là chẳng phải có thật để dùng giác-quan mà biết được, nhưng thật có, vì hư-không thì thường-hằng, tồn-tại mãi.

- Dấu-tích, vết-tích: chỗ còn sót lại.

- Sa-môn = tu-sĩ Phật-giáo. Xin nhắc lại: Sa-môn ( Pali: Samana) có ba nghĩa: (1) cần-giả ( = siêng làm điều thiện), (2) tức-giả ( = ngưng dứt làm việc ác), (3) bần-giả ( = cam chịu sự nghèo khó để tu-hành); ở đây chữ Sa-môn có thêm một nghĩa nữa là bực Thánh, đã diệt hết các phiền-não, chẳng còn tái-sanh nữa.

- Chánh-pháp của Như-Lai = giáo-pháp do các Đức Phật đã chỉ-dạy. Như-lai ( Tathàgata ) chỉ pháp-thân của Phật.

- Chướng-ngại: điều ngăn-trở. Ở đây chữ chướng-ngại trỏ vào các lậu-hoặc, phiền-não, như tham-ái, sân-si, ngã-mạn, v.v.

- Hữu-vi: Hữu = có; Vi = làm, tạo-tác ra. Sự-vật hữu-vi là những sự-vật do sự tạo-tác ra mà có, vì thế bị điều-kiện-hoá, nghĩa là do một nguyên-nhơn nào đó mà sanh ra, rồi cũng bị một nguyên-nhơn nào đó làm cho tiêu-diệt đi. Sự-vật hữu-vi, còn gọi là các hành hữu-vi (hành, tiếng Pali là sankhàra) ngày nay ta gọi là các sự-vật bị điều-kiện-hoá, nghĩa là chẳng phải tự-nhiên mà có, mà do nhơn-duyên mà thành, rồi cũng do nhơn-duyên mà diệt đi mất.

- Thường-hằng: thường còn mãi-mãi; trái với chơn-lý vô-thường, theo đó, muôn vật có hình-tướng đều thay đổi, biến-dạng, tiêu-mòn rồi diệt đi, chớ chẳng còn mãi được. Vô-thường, Pali gọi là Anicca.

- Thường-trụ: Thường = luôn luôn, trụ = ở yên mãi một chỗ, chẳng mất. Cùng nghĩa với: thường-hằng, thường-trú, thường-còn.

- Ổn-cố: Ổn = yên-ổn; Cố = cố- =định; Ổn-cố là làm cho yên-ổn, cố-định, chẳng phải thay-đổi, biến-hoại nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện lâm-ly thuật lại việc Đức Phật vào giờ phút chót trước khi lià đời còn thâu-nhận đệ-tử và chỉ-dạy giáo-lý.

Ông Tu-bạt-đà-la, tin theo ngoại-đạo, đến thưa hỏi Đức Phật ba câu hỏi về Giáo-pháp: (1) Giữa hư-không, có vết-tích gì không? Có lẽ ông muốn biết, ngoài hư-không còn có một cảnh-giới nào khác hơn là các cõi Người và các bực Thánh nữa không?; (2)Bên ngoài Chánh-pháp có Sa-môn không? Có lẽ ông muốn biết, ngoài các vị được chứng-đắc theo Giáo-pháp của các Đức Phật, còn có kẻ nào tu theo ngoại-đạo được thành bực Thánh không?; (3) Các sự-vật hữu-vi có thường-hằng mãi không? Có lẽ ông muốn biết tấm thân năm-uẩn hữu-vi hữu-lậu nầy, có được thường-còn mãi không?

Trong Kinh Pháp-Cú nầy, Đức Phật trả lời rất vắn-tắt là "Không"; nhưng khi thuật lại việc thưa-hỏi của ông Tu-bạt-đà-la, trong Kinh Đại-Niết-bàn (Đại-bản), phẩm 40, Đức Phật giải-đáp rất cặn-kẽ, nhứt là về cái "Không" và trong Kinh Đại-Niết-Bàn (Tiểu-bản), phẩm 15, kể ra đầy-đủ các bực Thánh, hiền tu theo Bát-chánh-đạo, trong Tứ-diệu-đế.

[ Vì vấn-đề nầy rất thâm-sâu, Thiện-Nhựt xin thưa thêm ba đìều:

(1) Muốn quán-sát về Không, về Hư-không, phải biết nhìn vào thực-tướng ( = tướng thật-sự) của muôn pháp. Thực-tướng nầy là tướng diệt của muôn pháp hữu-vi; thí-dụ, ngọn đèn dầu đang cháy, hết dầu, lửa tắt, thì lửa đi về đâu? Nhìn lửa, trước thì cháy, nay tắt mất đi, đó là tướng diệt, đó là thực-tướng. Hư-không cũng thế, ở cùng khắp nơi, mà ta chưa biết rõ chỗ nào xác-định. Cái Không chính là đó. Vì Hư-không chưa xác-định, làm sao biết có vết-tích gì ở đó cho được.

(2) Trong Tứ-diệu-Đế, chơn-lý thứ tư là Đạo-đế, chỉ rõ con đường thánh-đạo, gồm có tám ngành: Chánh-kiến, Chánh-tư-duy, Chánh-ngữ, Chánh-mạng, Chánh-nghiệp, Chánh tinh-tấn, Chánh-niệm và Chánh-định. Ai theo con đường nầy mà tu-tập, lần-lượt chứng đắc các quả-vị: (a) Tu-đà-huờn, (b) Tư-đà-hàm, (c ) A-na-hàm, là ba quả-vị hiền, còn phải tái-sanh, và (d) A-la-hán là quả-vị Thánh, thoát khỏi Luân-hồi. Các vị tu-hành chứng-đắc đó, theo Tích chuyện nầy gọi là Sa-môn. Xét qua sáu phái ngoại-đạo vào thời ông Tu-bạt-đà-la, chẳng có giáo-lý của phái nào có được con đường Thánh-đạo như trong Phật-giáo, vì thế Đức Phật mới bảo: "Ngoài Chánh-pháp của các Đức Phật, chẳng có Sa-môn."

(3)) Chữ Pali Sankhàrà, nghĩa vừa rộng, vừa chẳng được xác-định rõ, thường được dịch tiếng Hán-Việt là Hành.

Nghĩa rộng của chữ Sankhàrà, Hành, là sự kết-hợp và biến-chuyển của một sự-vật gồm có hai phần, phần có hình-sắc và phần vô-hình. Vì là sự kết-hợp và đang biến-chuyển, nên sự-vật ấy được gọi là sự-vật hữu-vi, do các nhơn-duyên trong quá-khứ và hiện-tại mà thành, rồi lại biến-chuyển theo các điều-kiện của các nhơn-duyên hiện-tại và tương-lai mà thay-đổi, hao-mòn rồi biến-diệt mất. Như thế, nghĩa rộng của chữ Sankhàrà, Hành, là tất cả sự-vật trong thế-giới hiện-tượng, thấy được tạo-tác ra, có sự biến-chuyển từ bên trong rồi thay-đổi và diệt mất theo các điều-kiện gọi là các nhơn-duyên. Hữu-vi chính là tánh-cách kết-hợp tạm-thời đó, vì thế nên chẳng thể nào thường-hằng được.

Trong số các nghĩa chẳng xác-định rõ, chữ Sankhàrà, Hành, lại riêng chỉ đến các hiện-tượng tâm-linh, vô-hình nhưng có tướng, nhận thấy rõ trong tâm. Các hiện-tượng tâm-linh đó kết-hợp lại tạm-thời, được gọi là hành-uẩn, thường được giải-thích, một cách vắn-tắt, là các hành-động, lộ ra bên ngoài bằng lời nói hay việc làm. Nhưng các hiện-tượng trong hành-uẩn thường là những ý-tưởng đang biến-chuyển, di-động, nên các dịch-giả Tây-phương thường gọi hành-uẩn mental formations ( = những sự kết-thành của phần tâm-linh đang biến-chuyển). Vì hành-uẩn uẩn thứ tư trong ngũ-uẩn, nên một nghĩa nữa của chữ Sankhàrà, Hành, lại chỉ đến thân-tâm ngũ-uẩn đang tạm-thời hiện có đây, nhưng rồi sẽ tan-rả mà trở về Không. (Đấy là điều căn-bản trong Tâm-kinh mà Bồ-tát Quán-tự-tại nói rõ, khi Ngài chuyển pháp Bát-nhã Ba-la-mật, soi thấy thực-tướng của thân-tâm ngũ-uẩn Không, nên mới vượt qua mọi khổ-nạn được.)

Để tóm-tắt, Thiện-Nhựt xin nhắc lại về ba câu hỏi của ông Tu-bạt-đà-la: (1) về Hư-không, đó tướng diệt của muôn sự-vật, chẳng còn vết-tích gì, nên mới gọi là Không; (2) chẳng hề có bực Sa-môn, hay Thánh-hiền nào cả, trong giới ngoại-đạo, vì họ chẳng biết theo con đường thánh Bát-Chánh-đạo; (3) trong các hành hữu-vi, tức là các hiện-tượng bị điều-kiện-hoá, thân-tâm ngũ-uẩn nầy là vô-thường.

Kính xin người đọc vui lòng chỉ dạy thêm cho Thiện-Nhựt.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 254 và 255:

Đây là hai bài Kệ rất khó, hai câu khởi đầu giống nhau, hai câu chót của mỗi bài đưa đến hai kết-luận khác nhau:

1) Chẳng vết-tích gì giữa hư-không: những sự-vật có hình-tướng, khi tiêu-diệt, trở về với thực-tướng ( =tướng chơn-thật) thì nằm trong Hư-không, chẳng để lại dấu-vết chi. Nhưng nên hiểu ngầm thêm, là bên trong cái Không đã có sẵn cái Có, chỉ chờ hội đủ mọi nhơn-duyên để lại hiện lên.

2) Bên ngoài Chánh-pháp, chẳng Sa-môn: chẳng ai chứng được bực Thánh, gọi là Sa-môn, mà chẳng tu theo Bát-chánh-đạo trong Chánh-pháp của các Đức Phật cả. Nên hiểu ngầm thêm, giáo-lý của bất cứ phái-tu nào thiếu Bát-Chánh-đạo, thì đó là tà-đạo, chớ tin theo.

3) Phàm-phu thoả-thích trong chướng-ngại; Chướng-ngại Như-lai trải qua xong: Chướng-ngại đây là các phiền-não, lậu-hoặc như tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến, phàm-phu chẳng biết sự độc-hại, nên thoả-thích trong đó; còn các Đức Như-lai đã dứt trừ chúng xong.

4) Các hành hữu-vi chẳng thường-trụ, Chư Phật Như-Lai ổn-cố xong: Các hành hữu-vi, ở đây, trỏ vào năm uẩn của thân-tâm. Phàm-phu chẳng biết, cho đó là thường còn; còn chư Phật Như-lai, dùng Trí-huệ Bát-nhã quán-chiếu thấy thân-tâm năm uẩn thấy vừa rỗng-rang, lại vừa giả-tạm, nên đạt đến giác-ngộ và giải-thoát, được tự-tại trong cảnh an-nhiên, tịch-diệt, đó tức là các bực Đại-giác đã ổn-cố xong.

-ooOoo-

XIX.- Phẩm PHÁP-TRU.

(194).- Tích chuyện các vị thẩm-phán.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị thẩm-phán xét-xử chẳng đúng theo luật-pháp.

Một hôm, có các vị tỳ-kheo đi khất-thực xong, trở về tịnh-xá, gặp cơn mưa to, mớí đến tạm trú ngoài hàng hiên của một toà-án. Trong khi đó, bên trong phòng án, các vị thẩm-phán đang phân-xử các vụ kiện. Các vị tỳ-kheo nhận thấy rằng, khi phán-quyết, có vị thẩm-phán lại định-đoạt một cách chuyên-chế, xử chẳng công-bằng, vì đã trót nhận tiền hối-lộ của những người kiện-tụng. Khi ra về đến tịnh-xá, các vị tỳ-kheo thưa trình cùng Đức Phật những điều đã nghe thấy tại toà-án. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, khi phân-xử các mối tranh-chấp, nếu để cho tình-cảm hay tiền-bạc lôi-cuốn, thì đó chẳng phải là những vị thẩm-phán công-minh chánh-trực, chẳng phải là người tuân-phục vào luật-lệ. Chỉ khi nào xét-xử vô-tư, dùng trí thông-minh quyết-đoán đúng theo luật-lệ, bấy giờ mới xứng danh là một vị thẩm-phán công-bằng, an-trú nơi luật-pháp."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Chẳng phải là người an-trụ pháp,
Kẻ nào chuyên-chế phán-xét ai.
Chánh-tà, đen-trắng, cả hai,
Xử-phân rành-rẽ, người tài-trí cao.
(Kệ số 256.)

Chẳng chuyên-chế, thật công-bằng
Đúng theo luật-pháp dẫn đường dân đen.
Hộ-trì sáng-suốt nền luật-pháp,
Đấy mới xứng-danh bực Pháp-trụ.
(Kệ số 257.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Pháp-Trụ: Pháp = có hai nghĩa: luật-pháp và giáo-pháp; Trụ = ở yên nơi đó. Người trụ-pháp luôn tuân-phục luật-pháp và giáo-pháp.

- Thẩm-phán: quan Toà, người phân-xử các sự tranh-chấp.

- Toà-án: nơi xét-xử các cuộc tranh-chấp, ấn-định hình-phạt.

- Phán-quyết = quyết-định về phải, quấy, của quan Toà.

- Chuyên-chế: Chuyên = nghiêng riêng về một phía; Chế = bó-buộc. Người chuyên-chế bắt kẻ khác phải theo ý riêng của mình.

- Kiện-tụng = tranh-cãi nhau phải nhờ Toà-án phân-xử.

- Công-minh chánh-trực: Công = ngay-thẳng; Minh = sáng-suốt; Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Trực = thẳng. Quan Toà công-minh chánh-trực thì xử-đoán công-bằng, phải quấy, chánh tà thật rõ-ràng.

- Vô-tư: Vô = chẳng; Tư = riêng, thiên-vị. Người vô-tư là người công-bình, chẳng riêng vị bụng người nào mà bẻ vẹo công-lý.

- An-trụ pháp: có hai nghĩa: (1) lúc nào cũng giữ đúng theo luật-pháp trong xã-hội; (2) luôn tuân theo đầy-đủ các giới-luật trong Đạo.

- Hộ-trì: Hộ = bảo-vệ; Trì = giữ-gìn. Hộ-trì luật-pháp là giữ cho nền luật-pháp được sáng-tỏ và được mọi người biết tuân-theo.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn-sơ: một nhóm tỳ-kheo nhận-xét cách xét-xử thiếu công-bằng của thẩm-phán nơi toà-án, mớí thưa trình cùng Đức Phật. Đức Phật nhơn đó mới chỉ dạy thế nào là người trụ-pháp. Đức Phật bảo: "Người có nhiệm-vụ phân-xử phải thật công-bằng, chớ nên vì tình-cảm hay vì tiền bạc mà xét đoán thiếu vô-tư. Bực pháp-trụ là người xét-xử đúng theo luật-pháp, chẳng chút nào thiên-vị."

Ý-nghĩa của Tích chuyện là ngoài việc tuân-hành các luật-lệ trong xã-hội, còn có việc tuân-phục các giới-luật trong Đạo, các lời chỉ-dạy trong Chánh-pháp nữa. Kẻ tuân theo đầy-đủ, giới-đức thanh-tịnh, mới được gọi là bực pháp-trụ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 256 và 257:

Cả hai bài Kệ, ý-nghĩa rất sáng-tỏ rõ-ràng, nói đến những bực tuân-trì luật-pháp trong xã-hội, để phân-xử các mối tranh-chấp của người dân. Đấy là những người xét-xử vô-tư, chẳng thiên-vị, xứng-đáng với danh-nghĩa là bực Pháp-trụ.

(195).- Tích chuyện sáu vị tỳ-kheo ba-hoa.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến thái-độ ăn nói ba-hoa của sáu vị tỳ-kheo.

Thuở ấy, có sáu vị tỳ-kheo thường hay gây nên sự xáo-trộn nơi phòng ăn trong tu-viện hay ở làng-mạc. Một hôm, trong khi các vị Sa-di đang thọ-thực, nhóm sáu vị tỳ-kheo đó bước vào trai-đường, nói vang lên: "Nầy các chú Sa-di, các chú phải biết chúng ta đây là bực hiền-trí." Rồi họ lại đẩy bàn, kéo ghế, tranh nhau chỗ ngồi cao, làm mất cả trật-tự và sự yên-lặng nơi phòng ăn. Khi Đức Phật biết được sự-việc ấy, Ngài bảo rằng: ‘Nầy chư tỳ-kheo, Như-Lai chẳng gọi là bực hiền-trí, những kẻ hay ăn nói ba-hoa, chẳng nể-nang kẻ khác, làm mất lòng người chung-quanh. Chỉ những người chẳng đem lòng thù-hận kẻ khác, chẳng hại người, mới xứng-danh là bực hiền-trí."

Rồi Đức Phật mơí nói lên bài Kệ sau đây:

Chẳng phải trở thành người hiền-trí,
Kẻ đã lắm lời nói ba-hoa.
Chẳng thù, chẳng sợ, an-hoà,
Bực hiền-trí đó mới là xứng-danh.
(Kệ số 258.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ba-hoa: ăn nói xấc-xược, lia lia cái miệng chẳng ngừng.

- Sa-di: người mới vào tập-sự tu-hành trong chùa, chưa thọ-giới tỳ-kheo; tiếng Pali là Sàmanera.

- Thọ-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Tiếng nhà chùa nghĩa là ăn cơm

- Trai-đường: Trai = bữa ăn chay: Đường: nhà. Trai-đường là phòng ăn trong chùa.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành; Trí = trí-huệ. Hiền-trí là người hiền-lành, có trí thông-minh; theo nghĩa trong Phật-học, đó là người có giới-đức thanh-tịnh, thông-hiểu Chánh-pháp, còn gọi là thiện-tri-thức.

- Như-Lai: tiếng Đức Phật tự-xưng khi nói với đệ-tử. Pali là Tathàgata. (Như = như thế, Lai = đến; bực đã đến đây như thế)

- An-hoà: An = an-ổn; Hoà = hoà-thuận. Người an-hoà sống yên-ổn, hiền-lành, chẳng gây sự chống-đối với kẻ khác.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại thái-độ ba-hoa của sáu vị tỳ-kheo gây xáo-trộn trong phòng ăn. Đức Phật dạy, muốn xứng-danh là bực hiền-trí, phải là người chẳng thù-hận, an-hoà, chẳng làm hại đến kẻ khác.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 258:

Bài Kệ chê thái-độ ba-hoa của kẻ lắm lời và nêu ra ba đức-tánh tốt của bực hiền-trí: chẳng hận-thù, chẳng sợ-hãi và sống an-hoà với mọi người.

(196).- Tích chuyện Trưởng-lão Nhứt-Kệ-tụng.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Trưởng-lão chỉ thuộc lòng có mỗi một bài Kệ, nên được biệt-hiệu là tỳ-kheo Nhứt-Kệ-tụng.

Thuở ấy, có một vị Tỳ-kheo sống ẩn-cư trong một khu rừng ở xứ Xá-vệ. Vào ngày rằm, vị ấy thường đọc-tụng bài Kệ duy-nhứt mà vị ấy thuộc, cho dân-chúng nghe. Hôm ấy, có hai vị Trưởng-lão rất thông-thạo Chánh-pháp, dẫn một nhóm đông tỳ-kheo vào rừng, để thực-tập Thiền-định. Tỳ-kheo Nhứt-Kệ-tụng mới thỉnh hai vị ấy đăng-đàn thuyết-pháp. Hai vị hỏi, có nhiều người đến nghe chăng; vị tỳ-kheo ẩn-cư đáp, dân-chúng đến nghe cũng khá đông, mà các vị thọ-thần trong khu rừng cũng nhiệt-liệt tán-thưởng nữa. Hai vị liền nhận lời nói pháp. Sau thời pháp, dân-chúng ngồi nghe, giữ im-lặng, còn các thọ-thần trong rừng cũng chẳng thấy tán-thán như thường-lệ. Hai vị Trưởng-lão rất ngạc-nhiên, và mời tỳ-kheo Nhứt-Kệ-tụng thử lên nói pháp xem sao. Vị tỳ-kheo vâng lời, lấy cây quạt che mặt lại và tụng-đọc bài Kệ quen thuộc rồi giảng nghĩa rành-rẽ. Dân-chúng tỏ vẽ rất hài lòng, các thọ-thần cũng tán-thưởng nhiệt-liệt.

Khi trở về tịnh-xá, các vị tỳ-kheo mới thưa trình sự-việc cùng Đức Phật: "Bạch Thế-tôn, dân-chúng và các thọ-thần trong rừng đã tỏ ra thiên-vị trong việc tán-thán Tỳ-kheo Nhứt-kệ-tụng, mà họ chẳng biết khen-tặng hai vị Trưởng-lão của chúng con là những người rất thông-thạo Chánh-pháp." Đức Phật đáp: ‘Nầy chư tỳ-kheo, Như-Lai chẳng gọi là thông-thạo Chánh-pháp, kẻ nào đã học nhiều và nói lắm về Chánh-pháp. Người thông-thạo Chánh-pháp, mặc dầu chỉ thuộc một bài Kệ duy-nhứt, nhưng thấu-hiểu tường-tận về Tứ-Diệu-đế, luôn luôn tỉnh-thức, đó mới là người trì-pháp thật cao."

Rồi Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

Chẳng phải trở thành người trì-pháp,
Kẻ đã lắm lời nói ba-hoa.
Tuy nghe ít nhưng mà trực-chứng,
Chẳng lảng-xao Giáo-pháp chút nào,
Đấy là người trì-pháp thật cao.
(Kệ số 259.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Nhứt-Kệ-tụng: biệt-hiệu nầy, tiếng Pali là Ekudàna (Eka = một; Udàna = bài Kệ nói lên cảm-hứng của Đức Phật, trong Tiểu-Bộ-Kinh)

- Ẩn-cư = ở ẩn, sống riêng một mình nơi vắng-vẻ.

- Duy-nhứt: chỉ riêng có một mà thôi.(Nhứt = một.)

- Thực-tập Thiền-định = tập-luyện việc ngồi Thiền, nhập định.

- Đăng-đàn: Đăng = leo lên; Đàn = cái đài cao để làm lễ, hay để nói chuyện với công-chúng. Đăng-đàn là bước lên đài để nói pháp.

- Thọ-thần: Thọ = cây to sống lâu năm; Thần = thần-linh. Thọ-thần là thần-linh sống dựa trên cây cổ-thọ.

- Tán-thán, tán-thưởng = khen-ngợi.

- Hài-lòng = vui lòng, mừng-rỡ.

- Thiên-vị = Thiên = nghiêng qua một bên; Vị = vì-nể. Thiên-vị là thiếu sự công-bằng, trọng người nầy hơn người kia.

- Tứ-Diệu-Đế: Tứ =bốn; Diệu = nhiệm-mầu; Đế = Chơn-lý. Bốn Chơn-lý nhiệm-mầu: (1)Khổ-đế, đời là khổ; (2) Tập-đế, nguyên-nhơn của Khổ là tham-ái; (3) Diệt-đế, sự chấm-dứt Khổ, tức là Niết-bàn; ...

(4) Đạo-đế, con đường Thánh-đạo đưa ta ra khỏi cảnh khổ của cuộc tái-sanh trong Luân-hồi. Con đường đó là Bát-Chánh-đạo.

- Tỉnh-thức: Tỉnh = tỉnh-táo, chẳng mê; Thức = biết rõ. Người tỉnh-thức là người luôn luôn chú-tâm, đang làm, nói, nghĩ gì, thì trong tâm biết rõ mình đang làm, nói, nghĩ về điều đó, và chỉ điều đó mà thôi.

- Trì-pháp: Trì = giữ-gìn, hộ-trì; Pháp = Chánh-pháp. Trì-pháp ở đây cùng một nghĩa với chữ Pháp-trụ, an-trụ nơi Chánh-pháp.

- Trực-chứng: Trực = thẳng, chẳng qua trung-gian của ai hay vật gì; Chứng = chính mình thấy, nghe và biết rõ, chớ chẳng phải chỉ nghe kẻ khác nói rồi tin theo.

- Giáo-pháp = giáo-lý, Chánh-pháp, lời giảng-dạy trong Đạo.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo chỉ học thuộc có một bài Kệ duy-nhứt, nhưng rất thông-thạo Chánh-pháp, nên được Đức Phật khen là người biết trì-pháp.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: về Chánh-pháp, chỉ cần hiểu thật thấu đáo nghĩa Tứ-diệu-đế, lòng luôn luôn tỉnh-thức, đó mới thật là người đang trụ-pháp.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 259:

Thử phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Chẳng phải trở thành người trì-pháp, Kẻ đã lắm lời nói ba-hoa: Mặc dầu thông-hiểu Chánh-pháp, nếu nói quá nhiều, để tỏ ra mình hiểu rõ giáo-lý; đó chẳng phải là người trì-pháp mà là người khoe-khoang sự hiểu-biết.

2) Tuy nghe ít nhưng mà trực-chứng: nghe ít mà hiểu thấu-đáo, chính mình nhận thấy được sự tu-hành có hiệu-quả tốt đến bổn-thân mình, đó gọi là trực-chứng, tu mà biết mình đang tu thật-sự.

3) Chẳng lảng-xao Giáo-pháp chút nào: tâm luôn luôn nhớ đến Chánh-pháp, biết giữ thân, miệng, ý theo đúng giới-luật, đó mới thật là trì-pháp, giữ-gìn pháp mãi trong tâm.

4) Đấy là người trì-pháp thật cao: Cao, vì chẳng có lúc nào sơ-hở hay quên Chánh-pháp cả.

(197).- Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia

Tích Chuyện nầy hơi giống Tích chuyện số (65).

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị Trưởng-lão Phát-di-gia.

Thuở ấy, có Trưởng-lão Phát-di-gia tu-hành rất tinh-tấn, chứng-đắc được quả-vị A-la-hán. Vì Trưởng-lão người thấp-lùn, nên thường bị các tỳ-kheo trẻ tuổi gán cho biệt-hiệu là Lakundaka, có nghĩa là người lùn-tịt. Một hôm có ba mươi vị tỳ-kheo ở phương xa đến yết-kiến Đức Phật. Đức Phật quán-thấy đã đủ cơ-duyên cho các vị ấy chứng-đắc được đạo-quả, nên khi họ vừa ngồi xuống bên cạnh, Đức Phật liền hỏi: "Nầy chư tỳ-kheo, khi quí-vị bước vào đại-sảnh, quí-vị có thấy một vị Trưởng-lão nào chăng?" Các vị tỳ-kheo thưa: "Bạch Thế-tôn, khi bước vào đại-sảnh, chúng con chẳng thấy có vị Trưởng-lão nào cả, chỉ thấy một chú Sa-di thấp-lùn mà thôi." Đức Phật bảo: "Nầy chư Tỳ-kheo, vị đó chẳng phải là Sa-di, tuy người thấp-lùn và rất khiêm-tốn, nhưng tu-hành thật tinh-tấn, chứng-đắc quả-vị A-la-hán rồi. Như-Lai chẳng gọi là Trưởng-lão, những ai vì đầu bạc, đạo-mạo trông như một Trưởng-lão; chỉ bực nào thông-suốt Tứ-Diệu-Đế, chẳng hề sanh tâm làm não-hại đến chúng-sanh, Như-Lai mới gọi đó là bực Trưởng-lão".

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó mà các vị tỳ-kheo du-phương chứng được quả-vị A-la-hán:

Đâu thành vị tăng Trưởng-Lão,
Chỉ nhờ nay đã bạc đầu.
Dầu cho tuổi hạc đã cao,
Chỉ đáng sắp vào hàng Lão-ngu-tăng.
(Kệ số 260.)

Ai thông Chơn-lý Tứ-Diệu-Đế,
Sống theo chánh-hạnh, chẳng hại người
Các căn điều-phục, biết tự-chế,
Lậu-hoặc dứt, trí-huệ sáng ngời,
Mới xứng-danh là bực Trưởng-lão.
(Kệ số 261.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phát-di-gia: tên của vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Bhaddiya.

- Tính-tấn: Tinh = tinh-tuý, đẹp-đẽ, trong-sạch; Tấn = tấn-bộ, đi tới. Tu-hành tinh-tấn là tu-hành có tấn-bộ, ngày càng tốt-đẹp hơn.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, vào hàng Thánh, dứt hết các phiền-não, lìa mọi tham-muốn, khỏi phải tái-sanh trong vòng Luân-hồi nữa. Tiếng Pali là Arahant con người tự-tại.

- Biệt-hiệu: Biệt = riêng; Hiệu = tên đặt thêm, gán cho ai, hay tự-gán cho mình.

- Lakundaka = lùn-tịt, lùn-xịt; đọc theo giọng Việt: La-cun-đa-ca.

- Quán-thấy: nhìn thấy rõ trong tâm, bằng con mắt-tâm.

- Cơ-duyên: Cơ =cơ-hội; Duyên = duyên may. Có đủ dịp may.

- Đạo-quả: Trong việc tu-hành, biết rõ con đường tu-hành, công-việc phải làm như thế nào, đó là chứng Đạo; khi tu-tập thuần-thục, có kết-quả tốt đến bổn-thân, tánh-tình, tâm-trí mình, đó là chứng Quả. Tiếng Pali: Đạo = Magga; - Quả = Phala.

- Đại-sảnh: Đại = lớn; Sảnh = phòng. Đại-sảnh là phòng khách.

- Trưởng-lão: Trưởng = lớn tuổi; Lão = già. Ở đây chữ Trưởng-lão được dùng để tạm-dịch chữ Pali Thera, bực tu lâu năm, đã chứng-đắc đạo-quả; thường là bực A-la-hán. Phái-nữ là Theri, Nữ-trưởng-lão.

- Sa-di: người mới vào chùa, tập-sự tu, chưa thọ giới tỳ-kheo. Tiếng Pali là Sàmanera. Phía phụ-nữ là Sa-di-ni.

- Khiêm-tốn: khiêm-nhường, nhũn-nhặn, chẳng hề phách-lối.

- Đạo-mạo: Đạo = đạo-đức; Mạo = dung-mạo, hình-dáng. Người đạo-mạo là người có hình-dung bên ngoài trang-nghiêm, đạo-đức.

- Tứ-Diệu-Đế = bốn Chơn-lý nhiệm mầu, trong Đạo Phật. Đó là: Khổ-đế, Tập-đế, Diệt-đế Đạo-đế. Xin xem lại bài trước, trang 581.

- Não-hại: Não = gây ra phiền-não; Hại = gây ra tai-hại.

- Chúng-sanh: Chúng = số đông; Sanh = có mạng sống. Chữ chúng-sanh chỉ tất cả sanh-vật, có mạng sống, như Trời, thần-linh, người, thú-vật, những kẻ còn trôi lăn trong vòng sanh-tử Luân-hồi. Trong Phật-học, chúng-sanh đối nghĩa với Thánh-hiền, bực giải-thoát.

- Du-phương: Du = đi đó đây; Phương = phương-hướng. Các vị tỳ-kheo du-phương đi đó đi đây, để tìm học thêm ở các vị tu-hành khác.

- Tăng: nam-tu-sĩ Phật-giáo, chữ Phạn Sangha, đọc là Tăng-già.

- Tuổi hạc = tuổi sống lâu như con chim hạc già.

- Lão-ngu-tăng: tiếng khinh-khi những kẻ già đời tu-hành mà chẳng biết đạo-pháp, chẳng chút trí-huệ, dốt-nát về kinh-kệ.

- Chánh-hạnh: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Hạnh = tánh-hạnh.

- Các căn điều-phục: Có sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Điều-phục là kềm-chế, giữ cho đàng-hoàng. Điều-phục các căn là giữ-gìn các giác-quan, chẳng ham chạy theo các thú-vui của cảnh vật bên ngoài, chẳng để cho ý bên trong dắt tâm đi lang-thang, mất cả sự chú-tâm. Đó còn gọi là tự-chế, tự mình kềm-chế lấy mình.

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sái-quấy. Chữ Lâu-hoặc trong Phật-học, chỉ các phiền-não tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến, chợt nổi lên trong tâm, rỉ chảy ra, bộc-lộ ra bằng lời nói thô-cọc hay bằng hành-động xấu-ác, để mình bị ràng-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các vị tỳ-kheo du-phương lầm nhận Trưởng-lão Phát-di-gia là một chú Sa-di, vì dáng-vóc thấp-lùn của Trưởng-lão. Đức Phật cho biết Trưởng-lão đã chứng được quả-vị cao nhứt là A-la-hán, dứt sạch các phiền-não, sống khiêm-tốn, chẳng hề làm tổn-não ai. Nhơn đây, Đức Phật nêu rõ vài đức-tánh của môt bực Trưởng-lão: thông-suốt Tứ-Diệu-Đế, từ-bi đối với mọi chúng-sanh.

(2) Ý-nghĩa hai bài Kệ số 260 và 261:

Bài Kệ số 260 nói đến các vị tu-hành lâu năm, tuổi đã cao mà trí-huệ vẫn chưa phát-triển, được Đức Phật xếp vào hàng Lão-ngu-tăng.

Bài Kệ số 261 nêu rõ các đức-tánh của một vị Trưởng-lão:

- (1) thông-suốt bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu, biết đời là khổ, biết khổ do tham-ái mà ra; biết sự diệt khổ trong cảnh-giới Niết-bàn và biết con đường thánh-đạo (Bát-Chánh-đạo) đưa đến sự diệt-khổ;

- (2) sống theo giới-hạnh;

- (3) chẳng não-hại chúng-sanh;

- (4) tự-chế để điều-phục các căn;

- (5) dứt-trừ hết mọi lậu-hoặc;

- và (6) nhứt là trí-huệ sáng ngời trong sự giác-ngộ và giải-thoát.

(198).- Tích chuyện các tỳ-kheo ganh-tị.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị tỳ-kheo hay ganh-tị.

Thuở ấy ở chùa Kỳ-viên, có thông-lệ là các vị Sa-di trẻ tuổi thường phục-vụ, hầu-hạ các vị Trưởng-lão là thầy dạy Đạo cho họ. Họ làm những việc lặt-vặt để giúp cho thầy, như rửa bát, giặt quần-áo, sắp-xếp giường chiếu, v.v. Có một nhóm tỳ kheo trung-niên thấy thế, sanh lòng ganh-tị, cũng muốn được hầu-hạ, bàn tính cùng nhau, đến trình với Đức Phật, xin hãy bảo các Sa-di đến học-hỏi kinh-nghiệm tu-tập và Giáo-lý nơi họ, vì họ cũng có tài hùng-biện, thông-suốt về giáo-pháp, diễn-giảng rất giỏi. Đức Phật quán-thấy tâm-địa ích-kỷ của họ, muốn được phục-vụ như các vị Trưởng-lão, nên bác-bỏ đề-nghị ấy. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, Như-lai chẳng gọi là bực hiền-thiện, kẻ nào tự cho mình có tài hùng-biện, thuyết-pháp giỏi. Chỉ những ai đã diệt sạch được lòng ganh-tị, bụng ích-kỷ, chứng được đạo-quả A-la-hán, Như-Lai mới gọi đó là các bực hiền-thiện."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Nào phải do tài hùng-biện,
Chẳng vì đẹp-đẽ sắc-diện,
Mà thành được người hiền-thiện,
Nếu tâm còn ganh, ích-kỷ, kiêu-căng.
(Kệ số 262.)

Ai là người cắt được tâm ấy,
Góc rễ đào lên đem diệt hết,
Trí-huệ sáng ngời trừ sân-hận,
Mới xứng là người hiền-thiện vậy.
(Kệ số 263.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ganh-tị: ghen-ghét, đòi hơn kẻ khác, cà-nanh.

- Thông-lệ: Thông = thông-thường, thường thấy; Lệ: tục-lệ.

- Phục-vụ: Phục = làm tròn; Vụ = công-việc. Phục-vụ là hầu-hạ.

- Thầy dạy Đạo = tiếng trong chùa gọi là thầy bổn-sư, vị thầy dạy đạo-lý tu-hành cho mình. (Bổn = gốc, Sư = thầy; vị thầy gốc của mình.)

- Trung-niên: Trung = giữa, Niên = năm, tuổi. Trung-niên là tuổi vào khoảng bốn, năm mươi.

- Sa-di: Xin nhắc lại: người mới tập-sự tu, chưa thọ-giới tỳ-kheo, trong chùa thường gọi là chú tiểu. Tiếng Pali là Sàmanera.

- Hùng-biện: Hùng = hùng-hồn; Biện = biện-luận. Tài hùng-biện là tài ăn nói khéo, hay, khiến người nghe dễ tin theo.

- Tâm-địa: Tâm = lòng; Điạ = đất. Nghĩa bóng, tâm-địa là tâm-trạng, bụng-dạ thật-sự ra sao; tiếng bình-dân gọi là... đúng tim-đen.

- Ích-kỷ:Ích = có lợi;Kỷ =chính mình. Kẻ ích-kỷ chỉ biết lợi cho mình

- Hiền-thiện: Hiền = hiền-lành, Thiện = lành. Ở đây, chữ Hiền-thiện được dùng để chỉ những người tu-hành cao, tánh hiền-hoà, có trí

- Sắc-diện: Sắc = hình-sắc; Diện = khuôn mặt. Sắc-diện = vẻ mặt.

- Sân-hận: Sân = giận; Hận = hờn, thù. Sân thì giận-dữ, quát-tháo một lúc rồi thôi; còn Hận, hờn, thì căm-tức, để ngầm lâu trong bụng, dai hơn, khó trị tận gốc hơn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại các tỳ-kheo ganh-tị với các vị Trưởng-lão; họ bàn nhau trình Đức Phật, bảo các Sa-di đến học ở họ, để họ được hầu-hạ như các vị Trưởng-lão. Đức Phật biết rõ tâm-địa ích-kỷ, ganh-tị của họ nên bác-bỏ. Ngài dạy thêm rằng, bực thầy hiền-thiện là người đã dứt-bỏ hẳn sự ganh-ghét và lòng ích-kỷ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 262 và 263:

Bài Kệ số 262 nêu rõ: tài hùng-biện, vẻ mặt đẹp-đẽ, là bề ngoài; chỉ khi tâm hết ganh-ghét, ích-kỷ, mới làm nên bực hiền-thiện.

Bài Kệ số 263 tiếp theo ý bài Kệ trước, quan-trọng là câu: Gốc-rễ đào lên đem diệt hết. Gốc-rễ của ganh-tị, ích-kỷ là gì? Đó là cái Ta, cái Tự-kỷ, cái Ngã, ở trong tâm, lúc nào cũng muốn Mình hơn kẻ khác. Bỏ dứt hẳn được cái Ta đó, gọi là Vô-ngã, mới là người hiền-thiện. Việc tu-tâm quan-trọng chính là ở đó: dẹp bỏ tận rễ cái Ngã.

(199).- Tích chuyện tỳ-kheo Hạt-tha-ca.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị tỳ-kheo tên là Hạt-tha-ca.

Thuở ấy, có vị tỳ-kheo Hạt-tha-ca thường hay tranh-luận với các du-sĩ ngoại-đạo, nhưng vì đuối lý nên chẳng thắng được họ. Tỳ-kheo Hạt liền hẹn với họ, sẽ gặp nhau lại ở một nơi khác. Đến gần giờ hẹn, ông Hạt liền đến sớm, chưa thấy các du-sĩ tới nơi, mới vênh-váo bảo mọi người là bọn ngoại-đạo đã chịu thua tài biện-luận của mình, nên chẳng đến nơi hẹn. Mánh-lới nầy đến tai Đức Phật. Ngài liền cho gọi tỳ-kheo Hạt-tha-ca đến và bảo: "Nầy tỳ-kheo Hạt-tha-ca, tại sao ông lại có thái-độ giả-dối như thế? Chẳng phải cạo trọc đầu mà có được danh-nghĩa Sa-môn. Kẻ đã dứt trừ xong mọi ác-ý mới là Sa-môn."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Cạo đầu chưa hẳn là Sa-môn,
Nếu hay nói dối, thiếu giới-hạnh,
Tham-dục, luyến-ái vẫn còn mạnh,
Sao được xứng-danh là Sa-môn.
(Kệ số 264.)

Ai khắc-phục, hoàn-toàn lìa bỏ,
Hành-động ác, cả lớn lẫn nhỏ,
Đã vượt qua hết các điều tà,
Mới xứng-danh là bực Sa-môn.
(Kệ số 265.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Hạt-tha-ca: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Hatthaka.

- Tranh-luận: cãi nhau về nghĩa-lý. Còn gọi là biện-luận.

- Du-sĩ ngoại-đạo: tu-sĩ đi lang-thang, chẳng theo đạo Phật.

- Đuối lý = thiếu lý-lẽ để tranh hơn với kẻ khác khi cãi nhau.

- Vênh-váo: vẻ phách-lối, tự cho mình là tài-giỏi, nói oang-oang.

- Mánh-lới: mưu-kế gian-xảo.

- Sa-môn: tu-sĩ Phật-giáo; tiếng Pali là Samana. Sa-môn có ba nghĩa:(1) dứt sự ác; (2) siêng việc thiện; (3) cam-chịu nghèo-khó để tu

- Cạo đầu: theo giới-luật nhà Phật, khi bước vào đường tu, phải cạo đầu, cắt hết râu tóc; tiếng Hán là thế-phát (thế =cắt; phát = tóc.)

- Giới-hạnh: Giới = các điều răn-cấm trong Đạo; Hạnh = đức-hạnh.

- Tham-dục: Tham = ham quá chừng; Dục = muốn.

- Luyến-ái: Luyến = mê-luyến, tríu-mến; ái = thương, thích.

- Khắc-phục = thắng được, dẹp bỏ được.

- Điều tà = điều sái-quấy; là xiêng-xéo, chẳng chơn-chánh.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc tỳ-kheo Hạt-tha-ca thường đuối lý khi tranh-luận với các du-sĩ ngoại-đạo. Hạt-tha-ca dùng mánh-lới gian-xảo, hẹn gặp lại họ để cãi tiếp, nhưng lại đến trước giờ hẹn, rồi tuyên-bố láo là họ chịu thua chẳng dám đến. Đức Phật quở thái-độ gian-dối đó của tỳ-kheo Hạt-tha-ca, và dạy rằng: "Cạo đầu chưa phải hẳn là Sa-môn; đó chỉ là bề ngoài; còn bên trong tâm, phải dứt hết mọi ác-ý, gian-xảo, mới xứng-danh là Sa-môn."

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 264 và 265:

Bài Kệ số 264 kể ra những thiếu-sót và lỗi-lầm của một tu-sĩ còn chưa xứng-đáng là một Sa-môn: (1) nói dối, đây là giới cấm thứ tư trong ngũ-giới ( = năm giới của người tu tại-gia); (2) thiếu giới-hạnh, chẳng tuân theo giới-luật; (3) tham-dục, ham muốn điều sái-quấy; (4) luyến-ái, bấu-víu, bám chặt vào các thú-vui.

Xét cho kỹ, các điều thiếu-sót nầy bắt nguồn từ ý-nghĩ quá tôn-trọng cái Ta, muốn mình hơn kẻ khác, tham muốn và bấu-víu vào các thú-vui vật-chất. Một vị Sa-môn xứng với danh-nghĩa, bên trong phải gột rửa dứt sạch cái Ta, cũng như bên ngoài đã cạo hết râu tóc vậy.

Bài Kệ số 265, tiếp-tục ý-nghĩa thanh-tịnh-hoá thân-tâm của bài Kệ trước, khuyên ta nên vượt qua hết mọi điều tà, mới xứng-danh là Sa-môn. Như ba nghĩa căn-bản của chữ Sa-môn đã dạy rõ: (1) cần-giả là siêng làm điều thiện; (2) tức-giả là dứt bỏ hết các điều ác; (3) bần-giả là cam chịu sự nghèo-khó để tu-hành, câu "Hoàn-toàn lìa bỏ các hành-động ác, cả lớn lẫn nhỏ", đó chính là ý-nghĩa thứ hai của chữ Sa-môn.

(200).- Tích chuyện người Ba-la-môn tự nhận là tỳ-kheo.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một người Bà-la-môn đi khất-thực, tự-nhận mình là Tỳ-kheo.

Thuở ấy, có một người thuộc giai-cấp Bà-la-môn thường đi khất-thực. Ông ta nghĩ rằng, mình đi khất-thực cũng như những tu-sĩ Phật-giáo, vậy mình cũng là một tỳ-kheo. Ông đến gặp Đức Phật và nói lên ý ấy. Đức Phật bảo: "Nầy Bà-la-môn, ta chẳng gọi ông là Tỳ-kheo chỉ vì ông đi khất-thực. Kẻ nào còn mang tà-kiến ngoại-đạo trong tâm, chẳng phải là một tỳ-kheo. Tỳ-kheo còn phải luôn luôn quán-chiếu thâm-sâu về Chơn-lý: muôn pháp đều vô-thường, khổ, vô-ngã."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Tỳ-kheo đâu chỉ mang bình-bát
Đi lang-thang khất-thực từng nhà.
Tuân-hành Chánh-pháp cần thông-đạt,
Mới xứng-danh Khất-sĩ Tăng-già.
Chỉ ăn xin, đó là hành-khất.
(Kệ số 266.)

Người vượt lên trên ác cùng thiện,
Phạm-hạnh hoàn-toàn đang thực-hiện,
Bước đường đời, thẩm-sát và suy-tư,
Mới thật xứng danh là bực Tỳ-kheo.
(Kệ số 267.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ trong xã-hội xưa ở Ấn-độ; tiếng Pali là Brahmana.

- Khất-thực: Khất = xin; Thưc = ăn. Theo giới luật nhà Phật, tỳ-kheo chẳng được phép có nghề riêng để sanh-sống, phải hạ mình xuống đi xin ăn (để dẹp lòng tự-ái của cái Ta) và cũng có dịp gặp dân-chúng để giảng-dạy đạo-lý cho họ. Tỳ-kheo còn gọi là Khất-sĩ.

- Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo, chẳng chơn-chánh; Kiến = ý-kiến. Tà-kiến có rất nhiều, thường kể ra hai tà-kiến nầy: (1)thường-kiến: tin rằng con người có linh-hồn bất-diệt, dầu có làm tội-ác gì, linh-hồn cũng tái-sanh làm người mãi; (2) đoạn-kiến: tin rằng, chết đi là hết, chẳng còn có gì; chẳng tin theo luật Nhơn-quả, lý Luân-hồi. Các phái ngoại-đạo vào thời Đức Phật thường mắc vào hai tà-kiến đó.

- Quán-chiếu = giữ tâm cho an-ổn rồi suy-nghĩ thật sâu-xa về một đề-tài có liên-quan đến Chơn-lý.

- Chơn-lý = Sự-Thật.

- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = còn mãi. Lẽ vô-thường cho rằng tất cả mọi sự-vật có hình-tướng đều phải biến-đổi rồi tiêu-diệt, chẳng thể nào thuờng còn mãi mãi được.

- Vô-ngã: Vô = chẳng; Ngã = ta. Thuyết Vô-ngã cho rằng muôn sự-vật đều là sự kết-hợp tạm-thời của nhiều yếu-tố khác nhau, chẳng có một linh-hồn, chẳng có một cái Ngã, chẳng có cái chi làm chủ nơi sự-vật ấy cả; hễ nhơn-duyên thôi kết-hợp, sự-vật ấy sẽ tiêu-diệt mất.

- Tăng-già: Giáo-hội Phật-giáo, tiếng Pali là Sangha.

- Hành-khất: Hành = đi; Khất = xin ăn. Xin phân-biệt rõ sự khác nhau và hơn kém nhau giữa hai danh-từ: Khất-sĩ hành-khất. Khất-sĩ là tu-sĩ Phật-giáo, lấy hạnh khất-thực làm giới-luật; còn hành-khất là kẻ ăn-mày, vì thiếu-thốn mà đi xin ăn, chẳng có tu-hành chi cả.

- Phạm-hạnh: Phạm = Phạn, tiếng Pali là Brahma, phiên-âm là Bà-la-môn; Hạnh = đức-hạnh, hạnh-kiểm. Phạm-hạnh là đức-hạnh tu-hành của giai-cấp Bà-la-môn; theo nghĩa rộng, là đức-hạnh đáng quí.

- Thẩm-sát: Thẩm = kỹ, rõ; Sát = xét. Thẩm-sát là suy-xét thật rõ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một người Bà-la-môn đi khất-thực, tự-nhận mình là tỳ-kheo. Đức Phật bảo, cầm bình-bát đi khất-thực từng nhà, chưa đủ để thành một tỳ-kheo, khi trong tâm còn chứa tà-kiến. Một tỳ-kheo đúng theo danh-nghĩa khất-sĩ, còn phải thông-hiểu Chánh-pháp, quán-chiếu thâm-sâu về Vô-thường, Khổ Vô-ngã.

Nếu chỉ đi khất-thực suông, đó chỉ là hành-khất, chớ chẳng phải là Khất-sĩ.

(2) Ý-nbghiã của hai bài Kệ số 266 và 267:

Thử phân-tách từng câu mỗi bài Kệ:

Về bài Kệ số 266:

1) Tỳ-kheo đâu chỉ mang bình-bát, đi lang-thang khất-thực từng nhà: Tỳ-kheo đâu chỉ đi khất-thực suông, còn có dịp gặp dân-chúng để chỉ-dạy họ thêm về giáo-lý.

2) Tuân-hành Chánh-pháp cần thông-đạt, mới xứng-danh Khất-sĩ Tăng-già: tuân theo Chánh-pháp, hiểu rõ Giáo-lý, giữ gìn Giới-luật, đó là phần tu-tập trên thân-tâm, mới xứng-danh là Tỳ-kheo, là Khất-sĩ của Giáo-hội ( =Tăng-già).

3) Chỉ ăn xin, đó là hành-khất: tay mang bình-bát đi khất-thực, đó chỉ là hình-thức bề ngoài; nếu bên trong chẳng có sự thông-hiểu Giáo-pháp, thì đó chẳng qua là một người hành-khất, chỉ biết đi xin cơm, để ăn cho qua ngày, không hơn không kém.

Về bài Kệ số 267:

1) Người vượt trên ác cùng thiện: Vượt trên điều ác là bỏ dứt được các điều bất-thiện; Vượt lên trên điều thiện là siêng-năng làm các điều lành, làm điều lành đã quen, đã siêng, nên chẳng chút cố-gắng, chẳng thấy khó nhọc chi, nên gọi đó là vượt lên trên điều thiện.

2) Phạm-hạnh hoàn-toàn đang thực-hiện: bằng lối sống trong kỷ-luật của giới-đức thanh-tịnh, thực-hiện được đầy-đủ các đức-hạnh của bực chơn-tu.

3) Bước đường đời, thẩm-sát và suy-tư: luôn luôn thực-hành việc quán-chiếu trong Thiền-định, sống trọn-vẹn với nội-tâm bằng cách suy-tư thâm-sâu và thẩm-sát cặn-kẽ về cuộc đời sướng ít khổ nhiều trong vòng Luân-hồi, để tìm theo con đường giải-thoát.

4) Mới thật xứng-danh là bực Tỳ-kheo: thực-hiện đầy-đủ các đức-tánh kể trên, áp-dụng trong cuộc sống hằng ngày, nặng nghiêng về nội-tâm thanh-tịnh bên trong, đấy mới thật xứng danh là bực Tỳ-kheo; chớ nào phải chỉ có mỗi một việc ôm bình-bát đi khất-thực.

(201).- Tích chuyện các người ngoại-đạo.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các người ngoại-đạo.

Thuở ấy, các du-sĩ ngoại-đạo khi đi khất-thực, thường có lời tán-thán công-đức các thí-chủ. Sau khi nhận thực-phẩm, họ thường nói: "Nguyện cho thí-chủ được may-mắn, giàu-sang và sống lâu!" Trong khi đó, các vị tỳ-kheo tuân theo lời Phật dạy, lặng-lẽ nhận tặng-phẩm mà chẳng nói lên lời chúc-tụng nào. Dân-chúng thích được nghe lời khen-ngợi việc bố-thí, nên bắt đầu bàn-tán, so-sánh hai thái-độ đi khất-thực và có phần thiên về phiá ngoại đạo.

Khi Đức Phật được biết sự-việc đó, Ngài cho phép các tỳ-kheo, sau khi thọ-thực nơi nhà các tín-chủ, thì hồi-hướng công-đức họ đã bố-thí đến cho gia-đình của họ. Bấy giờ các du-sĩ ngoại-đạo lại chỉ-trích, cho rằng các tỳ-kheo đã lắm lời, nói dông-dài, chẳng bằng họ là người biết giữ đúng hạnh tĩnh-mặc của các bực Mâu-ni. Đức Phật mới bảo các vị tỳ-kheo: "Nầy chư tỳ-kheo, có nhiều kẻ giữ im-lặng, chỉ vì họ nhút-nhát và ngu-dốt, cũng có kẻ chẳng chịu nói ra để chia-xẻ sự hiểu-biết thâm-sâu của họ với kẻ khác. Như thế, chẳng phải vì im-lặng mà trở thành một bực Mâu-ni. Chỉ xứng danh là bực Mâu-ni, người nào biết im-lặng khi đã hoàn-toàn khắc-phục được mọi điều ác."

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:

Biết nín thinh nhưng vẫn ngu-si
Đâu gọi là Mâu-ni tĩnh-mặc.
Như vị cầm cân, cân-nhắc
Chọn lành lánh dữ, bậc Mâu-ni.
(Kệ số 268.)

Vì lẽ ấy: chọn lành, lánh dữ,
Người được xưng là bực Thánh-hiền.
Nội, ngoại-giới ai thông-suốt đủ,
Danh-vị Mâu-ni xứng đáng liền.
(Kệ số 269.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ngoại-đạo:Ngoại = ngoài. Chữ ngoại-đạo trong Phật-học dùng để chỉ các tôn-giáo khác với đạo Phật, ở ngoài đạo Phật.

- Du-sĩ: Du = đi đó đây; Sĩ = người. Du-sĩ, ở đây, chỉ các vị tu-hành ẩn-cư, chẳng có nơi ở nhứt-định, đi đó đây để khất-thực.

- Tán-thán = khen-ngợi.

- Thí-chủ: người bố-thí; còn gọi là thí-giả.

- Thiên = thiên-vị, nghiêng về một bên.

- Hồi-hướng: Hồi = quay trở lại; Hướng = nhắm vào. Hồi-hướng công-đức là nguyện đem công-đức tu-hành của mình mang phước-báo hướng đến cho ai.

- Tĩnh-mặc: Tĩnh = yên-lặng; Mặc = nín thinh. Chữ tĩnh-mặc dùng để dịch chữ Phạn Muni, bực tĩnh-lặng, đã diệt-trừ mọi điều ác.

- Cầm cân cân nhắc: nghĩa bóng, chỉ sự phán-đoán thiện-ác rành-rẽ

- Nội, ngoại-giới: Nội = bên trong; Ngoại = ngoài; Giới = cảnh-giới. Ở đây chữ nội-giới chỉ vào thân-tâm năm uẩn của chính mình, còn ngoại-giới là thân-tâm năm uẩn của kẻ khác, ở bên ngoài.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các du-sĩ ngoại-đạo chỉ-trích khất-sĩ Phật-giáo nói dài-dòng khi hồi-hướng công-đức đến các thí-chủ, cho rằng các khất-sĩ chẳng biết giữ hạnh tĩnh-mặc của bực Mâu-ni. Đức Phật dạy, muốn xứng-danh là bực Mâu-ni ( =tĩnh-mặc), chẳng phải chỉ im-lặng suông, mà trong tâm phải diệt hết mọi điều ác.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là phải biết lúc nào nên im-lặng, lúc nào nên nói, trong tâm thanh-tịnh phân-biệt rõ ràng điều lành và việc ác.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 268 và 269:

Hai bài Kệ phân-biệt sự tĩnh-mặc (giữ im-lặng đúng lúc) của bực Mâu-ni, với sự nín thinh vì dốt-nát hay vì làm hiểm chẳng muốn chia-xẻ sự hiểu-biết của mình với kẻ khác. Ngoài ra, riêng bài Kệ sau còn dạy những đức-tánh của bực Mâu-ni: (1) chọn lành lánh dữ; (2) thông-suốt cả nội và ngoại-giới ( = hiểu rõ thân-tâm năm uẩn của mình và của kẻ khác.)

(202).- Tích chuyện người đánh cá tên là Thánh-Hiền.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một người đánh cá, mang tên là Thánh-Hiền.

Thuở ấy có một chàng thanh-niên làm nghề đánh cá, có tên là Thánh-Hiền. Hôm ấy, Đức Phật quán-thấy đã đủ cơ-duyên cho người đánh cá ấy chứng-đắc được sơ-quả, mới cùng các tỳ-kheo đi đến bờ sông. Chàng thanh-niên nom thấy Đức Phật và chư Tăng dừng lại bên bờ, mới buông cần câu, đến gần bên Phật. Đức Phật liền tuần-tự hỏi tên mỗi vị tỳ-kheo. Tới phiên chàng đánh cá, anh ta liền thưa, tên là Thánh-Hiền. Đức Phật bảo: "Bực Thánh-hiền đâu có sát-hại sanh-mạng chúng-sanh; anh làm nghề đánh cá, giết hại mạng sống của loài cá, sao xứng được cái tên Thánh-hiền nầy!"

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà chàng thanh-niên đánh cá chứng được quả-vị Tu-đà-huờn:

Còn gây thương-tổn cho chúng-sanh,
Sao được gọi bực lành Hiền-Thánh?
Chẳng sát-hại mọi loại hữu-tình,
Mới xứng danh là bực HIền-Thánh.
(Kệ số 270.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thánh-Hiền: tên của người đánh-cá nầy,dịch chữ Pali là Ariya. Theo nghĩa chuyên-môn trong Phật-học, bực Hiền gồm ba quả-vị đầu-tiên: Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm, còn phải tái-sanh; bực Thánh là A-la-hán, đã giải-thoát ra khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi.

- Quán-thấy đã đủ cơ-duyên: nhìn thấy rõ trong tâm là đã đủ cơ-hội tốt cho chàng thanh-niên chứng được quả-vị.

- Sơ-quả = quả-vị đầu-tiên, tức là quả-vị Tu-đà-huờn.

- Loài hữu-tình: các sanh-vật có mạng-sống, có tình-cảm, như loài người, loài thú. Trái với hữu-tình vật vô-tình, như đất, đá, cát.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: nhơn thấy một chàng thanh-niên sống về nghề đánh-cá mà lại có tên là "Thánh-Hiền", Đức Phật bảo, bực Thánh-hiền đâu có sát-hại sanh-mạng chúng-sanh. Vì thế, cái tên "Thánh-Hiền" kia, chàng thanh-niên chẳng xứng mang lấy, vì lẽ nghề đánh-cá chẳng đúng với Chánh-mạng.

Ngoài ý-nghĩa về chữ Thánh-hiền là các bực đã chứng quả-vị ra, Tích chuyện còn mang thêm ý-nghĩa về Chánh-mạng. Chánh-mạng là một ngành trong Bát-Chánh-Đạo, con đường đưa người tu-hành đến quả-vị Thánh. Theo đúng Chánh-mạng, ta chẳng nên chọn các nghề gây thương-tổn đến chúng-sanh, như nghề đánh-cá, nghề săn-bắn, nghề chế-tạo võ-khí giết người, nghề mãi-dâm, nghề nấu và bán rượu, cùng các chất độc, chất ma-tuý.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 270:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: bực Thánh-hiền, vì lòng Từ-bi, chẳng hề gây thương-tổn đến chúng-sanh.

(203).- Tích chuyện các tỳ-kheo tự-mãn.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị tỳ-kheo tự-mãn.

Thuở ấy, ở chùa Kỳ-viên có một số các vị tỳ-kheo tu-tập đạt được các kết-quả khả-quan. Có vị giữ đúng giới-luật thật thanh-tịnh; có vị theo hạnh đầu-đà rất khắc-khổ; có vị chứng được thiền-định; có vị đã đắc được quả-vị A-na-hàm. Họ thường nghĩ rằng, đã thành-công trong việc tu-tập như thế, họ dễ thừa sức để đạt được quả-vị A-la-hán, trong một tương-lai rất gần đây. Họ cùng nhau đến yết-kiến Đức Phật và nói lên ý-nghĩ đó.

Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, chẳng phải vì đã giữ giới-đức thanh-tịnh, chẳng phải vì đã đắc được định-tâm, chẳng phải vì theo đúng hạnh đầu-đà, chẳng phải vì chứng-đắc quả-vị A-na-hàm, mà người tu-hành có thể xem đó là đã đầy-đủ rồi sanh ra tự-mãn, để nghĩ lầm rằng, chẳng còn khó-nhọc chi để chứng được đạo-quả A-la-hán. Nếu còn chưa diệt hết các lậu-hoặc, tự-mãn còn đó, thì chưa thể nào chứng được quả-vị Thánh A-la-hán."

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó mà các tỳ-kheo bỏ được lòng tự-mãn, tinh-tấn tu-tập hơn nữa và chứng quả A-la-hán:

Chẳng phải vì trì giới nghiêm-túc,
Chẳng phải do kiến-thức thật cao,
Chẳng phải vì thiền-định thâm sâu,
Chẳng phải do sống xa trần-tục,
Mà có thể tự-mãn:
"Ta nay hưởng phước hạnh viễn-ly
Mà các phàm-phu làm gì hưởng được!"
Tỳ-kheo! Chớ xao-lãng
Kiên-trì diệt lậu-hoặc cho xong.
(Kệ số 271 và 272.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tự-mãn: Tự = chính mình; Mãn = đầy-đủ. Lòng tự-mãn thường tự cho là mình đã được đầy-đủ đức-tánh tốt, thiếu sự hăng-hái buổi đầu.

- Hạnh đầu-đà: Đầu-đà = phiên-âm chữ Pali là Dhùtanga, lối tu theo một kỷ-luật thật khắt-khe, như chỉ mặc áo may bằng vải vụn lượm được, chỉ ăn đồ ăn xin được, mỗi ngày một bữa trưa mà thôi, từ sáng đến tối, chỉ đứng, ngồi chớ chẳng nằm, sống nơi gò mả, dưới cội cây. Vị đại-đệ-tử giỏi nhứt về hạnh đầu-đà là Tôn-giả Đại-Ca-diếp (Maha Kassapa), người sau nầy kế-vị Đức Phật điều-khiển Giáo-hội.

- A-na-hàm: quả-vị thứ ba, tiếng Pali là Anàgàmi, có nghĩa là chẳng tái-sanh lại nơi cõi người nữa, dịch là Bất-Lai.

- Thiền-định, Định-tâm: trong khi ngồi Thiền, tâm lắng-đọng, chẳng đi lang-thang, chú-tâm vào đề-tài thiền-quán, chẳng lo ra.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, đã diệt được hết tất cả lậu-hoặc, phiền-não, chứng được vô-sanh ( = chẳng còn tái-sanh trong vòng Luân-hồi nữa), tự-tại trong cảnh-giới Niết-Bàn an-lạc, vắng-vẻ.

- Nghiêm-túc: Nghiêm = nghiêm-trang; Túc = đầy-đủ. Nghiêm-túc là đầy-đủ đàng-hoàng.

- Kiến-thức: Kiến = thấy; Thức = hiểu-biết rõ. Kiến-thức là sự thông-hiểu; ở đây, nói đến sự thông-thạo rõ-ràng về Chánh-pháp.

- Sống xa trần-tục = sống nơi vắng-vẻ, xa người đời; bốn chữ nầy trỏ vào hạnh đầu-đà nói trong Tích chuyện.

- Hạnh viễn-ly: Hạnh = đức-hạnh; Viễn = xa; Ly = lià. Hạnh viễn-ly là đức-tánh xa-lià mọi tham-muốn, dứt bỏ mọi thú-vui vật-chất, dẹp xong mọi ràng-buộc, tâm được tự-tại. Ở đây, hạnh viễn-ly nói đến bực A-la-hán, dứt được mọi phiền-não, sống an-vui, tự-tại.

- Phàm-phu: Phàm = thường, người thường; Phu = người. Phàm-phu là người thường, chưa tu; đối-nghĩa với Thánh-hiền, bực tu-hành đã chứng-đắc quả-vị.

- Kiên-trì: Kiên = cứng-cỏi; Trì = giữ vững. Kiên-trì là bền-chí, giữ vững, chẳng hề thoái-lui.

- Lậu-hoặc: Xin nhắc lại: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai-lầm, sái-quầy, xấu-ác, như tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến. Các lậu-hoặc (tiếng Pali là àsava) khởi lên trong tâm, rỉ chảy ra ngoài, bộc-lộ thành hành-động sai-lầm hay bằng lời nói thô-ác.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một nhóm tỳ-kheo tu-hành được kết-quả khả-quan, nên sanh lòng tự-mãn. Đức Phật dạy, dầu cho giữ giới, trì-pháp, thiền-định, theo hạnh đầu-đà, chứng quả A-na-hàm, đã dược kết-quả tốt, cũng chớ nên sanh lòng tự-mãn, vì mục-tiêu chứng quả-vị Thánh, A-la-hán, đòi hỏi người tu-hành phải dứt hết mọi lậu-hoặc, mà lòng tự-mãn chính là một lậu-hoặc còn sót lại đó.

Ý-nghĩa của Tích chuyện khuyên ta đừng bao giờ nên sanh lòng tự-mãn, thấy có kết-quả tốt, đã cho là đủ rồi, mà chẳng cố gắng thêm hơn lên để sớm đạt được mục-tiêu. Lòng tự-mãn, bắt nguồn từ sự tự-kiêu, xem mình nay đã khá lắm rồi, nên chẳng còn giữ được sự nỗ-lực lúc ban đầu nữa; vì có sự lơ-là, xao-lãng khiến ta chẳng tiến-bộ thêm.

Nên để-ý, chớ lẫn-lộn lòng tự-mãn là một nết xấu, với sự tri-túc là một đức-tánh tốt, đáng quí. Tri-túc là biết đủ (tri = biết; túc = đủ). Kẻ tự-mãn cho rằng đức-tánh tốt của mình đã quá đủ, chẳng cần cố-gắng hơn lên thêm nữa làm gì. Còn người tri-túc thì chẳng đòi hỏi thêm gì nữa cho mình, vì mình nhận thấy nhu-cầu nơi mình đã thoả-mãn vừa đủ. So-sánh hai người, một bên tự-mãn thì tự đánh-giá mình qua cao, vì thế sanh ra kiêu-căng; còn một bên tri-túc, biết tự-chế sự ham-muốn của mình chẳng cho đi quá mức.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 271 và 272:

Hai bài Kệ nhập chung lại thành một bài, khuyên ta chớ nên sanh lòng tự-mãn, phải luôn-luôn nỗ-lực, kiên-trì dẹp cho xong mọi lậu-hoặc để chứng quả-vị A-la-hán.

Thử phân-tách từng câu bài Kệ nầy:

1) Chẳng phải vì trì-giới nghiêm-túc: đây chẳng phải bài Kệ chê việc trì-giới, mà bài Kệ muốn nói rằng trì-giới còn chưa đủ, chớ nên tự-mãn. Trì-giới để được định-tâm, rồi nhớ tâm an-định mà trí-huệ mới phát-triển, sớm đến nơi giac-ngộ và giải-thoát.

2) Chẳng phải do kiến-thức thật cao: đây chẳng phải bài Kệ chê kiến-thức về đạo-pháp; trái lại, biết suông chưa đủ, chớ tự-mãn, phải đem sự hiểu-biết ra ứng-dụng tu hành trên bản-thân mình nữa.

3) Chẳng phải vì thiền-định thâm-sâu: đây chẳng phải bài Kệ chê việc thiền-định; trái lại, thiền-định giúp cho trí-huệ phát-triển, thấy rõ con đường giác-ngộ và giải-thoát, chớ chẳng nên tự-mãn, thấy thân-tâm được an-lạc rồi cho là đủ, bám vào cảnh ấy mà trì-trệ.

4) Chẳng phải do sống xa trần-tục: đây chẳng phải bài Kệ chê hạnh đầu-đà; trái lại, biết xa-lìa các thú-vui vật-chất còn chưa đủ, phải tận-diệt bên trong các mầm-mống lậu-hoặc còn sót lại, chớ tự-mãn mà lơ-là, quên mất mục-tiêu giải-thoát.

5) Mà có thể tự-mãn: "Ta nay hưởng phước hạnh viễn-ly, mà các phàm-phu làm gì hưởng được": đây là lời cảnh-cáo, hạnh viễn-ly đem lại phước-báo, sống tự-tại, nhưng chớ tự mãn, cho rằng mình đã hơn kẻ phàm-phu, đó là ngã-mạn, còn xem mình là hơn kẻ khác.

6) Tỳ kheo! Chớ xao-lãng, Kiên-trì diệt lậu-hoặc cho xong": đây là lời kêu gọi khẩn-thiết, phải bền-chí, dõng-mãnh diệt các lậu-hoặc còn sót lại trong tâm, nhứt là lòng tự-mãn.

-ooOoo-

XX.- Phẩm ĐAO.

(204).- Tích chuyện các tỳ-kheo bàn về đường đi.

Tích chuyện giống với Tích chuyện số (33).

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị tỳ-kheo bàn-luận cùng nhau về các con đường đã trải qua.

Thuở ấy, sau chuyến du-hành theo Đức Phật đi hoằng-pháp ở các làng-mạc trở về, vào buổi chiều, các tỳ-kheo tụ-tập nhau, bàn luận về các đoạn-đường đã trải qua, khi xuyên qua các làng-mạc. Người nói đoạn đường nầy gồ-ghề, kẻ bảo đoạn đường kia bằng-phẳng. Có vị khen khúc lộ nầy trống-trải dễ đi, có vị chê khúc lộ kia trơn-trợt dễ té. Bấy giờ Đức Phật vừa đi ngang qua đó, nghe lời bàn-luận của các tỳ-kheo, Ngài mới dạy rằng: "Nầy chư tỳ-kheo, các đoạn-đường mà các vị đang bàn nhau đó là những đoạn-đường ở bên ngoài thân-tâm. Sao chư tỳ-kheo lại chẳng lưu-tâm đến con đường thánh-đạo cùng những việc cần làm để sớm đắc được Đạo và Quả Niết-bàn an-lạc?"

Rồi Đức Phật mới nói lên bốn bài Kệ sau đây:

Bát-Chành-Đạo quí nhứt mọi đường,
Lý tột-cao là Tứ-Diệu-Đế.
Ly tham-ái, có pháp nào bằng,
Loài hai chơn, ai hơn Phật-nhãn.
(Kệ số 273.)

Chỉ đường nầy, chẳng đường nào khác,
Đưa đến thanh-tịnh-hoá kiến-tri,
Mau theo đường ấy ngay đi
Ma-quân muốn phá cũng thì chào thua.
(Kệ số 274.)

Dấn chơn vào bước đường nầy,
Con người chấm dứt được ngay khổ-sầu.
Ta đã qua cầu, nay chỉ lại
Lối đi diệt chướng-ngại, chông-gai.
(Kệ số 275.)

Các người hãy tự mình nỗ-lực,
Như-Lai chỉ là bực dẫn đường.
Thực-hành thiền-định cho thường,
Thoát vòng kiềm-toả Ma-vương buộc-ràng.
(Kệ số 276.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Đạo = tiếng Hán-Việt, có hai nghĩa chánh: (1) con đường; (2) đường-lối tu-hành, tôn-giáo. Trong bài nầy, nhơn nói về các con đường bên ngoài mà bước chơn ta trải qua, Đức Phật nói đến con đường đưa ta ra khỏi vòng sanh-tử khổ-sở của Luân-hồi.

- Thánh-đạo: đường-lối tu-hành đưa đến quả-vị Thánh, thoát khỏi khổ-đau của Luân-hồi sanh-tử. Đó là Bát-Chánh-đạo.

- Đạo và Quả: Đạo = đường-lối tu-hành, việc cần làm, điều cần tránh, để chứng được quả-vị. Tiếng Pali là Magga. Quả là kết-quả tốt của việc tu-tập thành-công, tức là quả-vị. Tiếng Pali là Phala.

- Bát-Chánh-Đạo: Bát = tám; Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Đạo = đường-lối tu-tập. Bát-Chánh-Đạo gồm có: (1)Chánh-kiến ( = thấy biết đúng-đắn), (2) Chánh-tư-duy ( =suy-nghĩ đứng-đắn),(3)Chánh-ngữ ( =lời nói đứng-đắn),(4) Chánh-mạng ( = lối sanh-sống đứng-đắn), (5) Chánh-nghiệp ( = sự-nghiệp đứng-đắn), (6) Chánh tinh-tấn (nỗ-lực đứng-đắn), (7) Chánh-niệm ( =ý-tưỏng đứng-đắn), (8) Chánh-định ( = tâm an-định đứng-đắn).

- Tứ-Diệu-Đế: Tứ =bốn, Diệu = nhiệm-mầu; Đế = Chơn-lý. Tứ-Diệu-Đế hay bốn Chơn-lý nhiệm-mầu gồm có: (1) Khổ-đế, đời là Khổ; (2) Tập-đế, nguyên-nhơn gây ra Khổ là sự tham-ái; (3) Diệt-đế, sự chấm-dứt hết mọi Khổ, tức là Niết-bàn; (4) Đạo-đế, con đường Thánh đưa đến sự chấm dứt Khổ, tức là Bát-Chánh-Đạo.

- Ly tham-ái: Ly = lìa; Tham = ham muốn quá chừng; Ái = thương, thích. Ly tham-ái là cắt bỏ lòng tham-muốn, nhứt là sự bấu-víu vào các thú-vui của đời sống trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi.

- Phật-nhãn: Phật = giác, hiểu rõ cùng-tột; Nhãn = con mắt. Tiếng Phật-nhãn ở đây chỉ người có sự hiểu-biết, nhìn thấy được mọi vật một cách cùng-tột.

- Thanh-tịnh-hoá Kiến-tri: Thanh-tịnh-hoá = làm cho trong-sạch lên; Kiến-tri: Kiến = thấy; Tri = biết; Kiến-tri là sự hiểu-biết, thấu rõ.

- Ma-quân, Ma-vương: nghĩa bóng là sự cám-dỗ, thúc-dục ta phải làm đìều ác

- Đã qua cầu: đã vượt qua xong, đã có kinh-nghiệm về việc đó.

- Chướng-ngại = điều ngăn-trở, gây khó-khăn.

- Kiềm-toả: Kiềm = cây kềm; Toả = ống khoá. Kiềm-toả dùng theo nghĩa bóng, chỉ sự ràng-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: nhơn các tỳ-kheo bàn-luận về các con đường đất đã đi qua, Đức Phật dạy các tỳ-kheo nên nghĩ đến con đường tu-hành để chứng quả-vị Thánh. Đó là con đường Bát-Chánh-đạo, nói trong Tứ-Diệu-Đế.

(2) Ý-nghĩa của bốn bài Kệ số 273, 274, 275 và 276:

Cả bốn bài Kệ đều nói về con đường Thánh-đạo, Bát-Chánh-Đạo, đưa người tu-hành đến quả-vị Thánh, thoát vòng Luân-hồi.

1) Kệ số 273 nêu ra bốn điều cao-tột: Bát-Chánh-Đạo, Tứ-Diệu-Đế, Ly tham-ái Phật-nhãn. Nhờ biết đi theo con đường Thánh, lià xa tham-ái, chứng được Phật-nhãn, nhìn biết tất cả muôn sự-vật, muôn loài, nên giác-ngộ được Chơn-lý và giải-thoát khỏi Luân-hồi.

2) Kệ số 274 nói rõ Bát-Chánh-đạo là con đường duy-nhứt làm cho thân-tâm trở nên thanh-tịnh, chẳng có Ma-quân nào cám dỗ được cả.

3) Kệ số 275 cho biết, con đường đó Đức Phật đã trải qua; Ngài vượt qua hết mọi chông-gai cản trở, nay chỉ lại cho ta, để chấm-dứt hết mọi khổ-đau, khỏi phải tái-sanh trong vòng Luân-hồi lận-đận.

4) Kệ số 276 nhắc nhở mọi người phải tự mình nỗ-lực lấy, siêng thực-hành việc thiền-định, để thoát khỏi mọi sự cám-dỗ của Ma-vương. Phải tự mình nỗ-lực lấy, mau dấn bước theo con đường Bát-Chánh-đạo, chẳng nên chờ mong sự cứu-độ của ai cả, vì Đức Như-Lai chỉ là kẻ dẫn-đường đưa lối mà thôi.

(205).- Tích chuyện các tỳ-kheo quán-chiếu về Vô-thường, Khổ và Vô-ngã.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến ba nhóm tỳ-kheo quán-chiếu về các chơn-lý Vô-thường, Khổ và Vô-ngã.

Thuở ấy, có ba nhóm tỳ-kheo đến yết-kiến Phật, để xin đề-tài quán-chiếu mà thực-tập thiền-định. Nhóm thứ nhứt được dạy về Vô-thường, nhóm thứ hai về Khổ và nhóm thứ ba về Vô-ngã. Họ đi vào rừng vắng, tu-tập một thời-gian. Sau đó, nhiều người chẳng thấy có tiến-bộ, trở về trình Phật. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, các hành đều Vô-thường, cứ biến-đổi rồi huỷ-diệt. Tại sao lại hay biến-đổi, chẳng thường-trụ? Vì bản-thể rỗng-rang, do nhơn-duyên mà hợp, rồi lại vì nhơn-duyên mà huỷ-diệt đi, đó là tính-chất Vô-ngã. Vì các hành đã Vô-thường lại Vô-Ngã, chẳng hoàn-mãn, nên sanh ra Khổ. Tỳ-kheo dùng tuệ-giác quán-thấy rõ ba tánh-chất đó, trở nên nhàm-chán sự Khổ-đau, sớm theo đường thanh-tịnh-đạo để mau được giải-thoát."

Rồi Đức Phật mới nói lên ba bài Kệ sau đây, nhờ đó một số tỳ-kheo chứng-đắc được quả-vị A-la-hán:

Vô-thường là tất cả các hành.
Nhờ tuệ-giác, quán-chiếu thấy rành,
Mới sanh nhàm-chán niềm khổ-não,
Thanh-tịnh-đạo liền rảo bước nhanh.
(Kệ số 277.)

Đau-khổ là tất cả các hành.
Nhờ tuệ-giác, quán-chiếu thấy rành,
Mới sanh nhàm-chán niềm khổ-não,
Thanh-tịnh-đạo liền rảo bước nhanh.
(Kệ số 278.)

Vô-ngã là tất cả các hành,
Nhờ tuệ-giác, quán-chiếu thấy rành,
Mới sanh nhàm-chán niềm khổ-não,
Thanh-tịnh-đạo liền rảo bước nhanh.
(Kệ số 279.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Quán-chiếu: tâm an-định và suy-nghĩ sâu-xa về một đề-tài.

- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = hằng còn. Vô-thường là hay biến-đổi, chẳng còn mãi được.Tiếng Pali là Anicca.

- Khổ: sự khổ-đau, sự bất-toại-nguyện; tiếng Pali là Dukkha.

- Vô-ngã: Vô =chẳng; Ngã = Ta, bản-thể. Vô-ngã là bản-thể rỗng-rang, chẳng có chi bên trong làm chủ-thể, do nhơn-duyên mà tạm-có; rồi cũng do nhơn-duyên mà hủy-diệt đi; tiếng Pali là Anatta.

- Hành: dịch chữ Sankhàra của Pali; có nhiều nghĩa: Xin xem lại trang 575, 576. Chữ Hành có nghĩa là sự tập-hợp, do nhơn-duyên mà tạm-có, để rồi theo nhơn-duyên mà huỷ-diệt. Lại cùng nghĩa với chữ uẩn (Pali là khandha ), trong chữ Hành-uẩn. Ở đây, xin hiểu chữ Hành là các sự-vật hữu-vi, do sự tạo-tác mà nên, bị điều-kiện-hoá, biến-chuyển để đi đến huỷ-diêt. Thí-dụ về hành là thân-tâm năm uẩn, chẳng thường còn, bị điều-kiện-hoá, rồi sẽ tan-hoại sau nầy.

- Hoàn-mãn: Hoàn = tròn, trọn-vẹn; Mãn = đầy-đủ, hợp ý. Chẳng hoàn-mãn, hay là bất-toại-nguyện, nghĩa là chẳng làm ta vừa ý. Tại sao? Vì chẳng có bản-thể bền-vững, vì có đó rồi lại mất đó.

- Tuệ-giác: Tuệ = trí-huệ; Giác = biết; Tuệ-giác là khà-năng hiểu-biết của tâm-trí; Pali: Vipassana Panna, dịch là trí Bát-nhã Minh-sát.

- Thanh-tịnh-đạo: con đường thanh-lọc thân-tâm; tiếng Pali là Visuddhi Magga.

- Rảo bước = đi mau.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện chẳng có gì đặc-biệt: các tỳ-kheo thực-tập quán-chiếu về Vô-thường, Khổ, Vô-ngã, được Đức Phật chỉ-dạy thêm.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 277, 278 và 279:

Ba bài Kệ nầy rất quan-trọng về mặt Giáo-lý; cả ba bài khác nhau chỉ có mỗi hai chữ ở câu đầu: Vô-thường, Đau-khổ Vô-ngã.

Ý-nghĩa của ba bài Kệ: vì muôn sự-vật đều vô-thường vô-ngã, chẳng đem lại sự toại-nguyện và ổn-cố cho ta, nên chúng gây ra Khổ. Vậy muốn thoát Khổ, phải theo con đường thanh-tịnh-hoá thân-tâm.

(206).- Tích chuyện tỳ-kheo Thi-sa lười-nhác.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến vị tỳ-kheo lười-nhác là Thi-sa

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có hàng trăm thanh-niên trẻ tuổi được thâu-nhận vào Giáo-hội. Tỳ-kheo Thi-sa cùng với các bạn vừa mới nhập-đạo, đến yết-kiến Đức Phật và được chỉ-dạy một đề-tài thiền-quán. Họ liền đi vào rừng, tìm chỗ yên-tịnh, nỗ-lực thực-tập, tinh-tấn tu-hành. Riêng tỳ-kheo Thi-sa, tánh-tình lười-nhác, bê-trễ trong việc hành Thiền. Mấy tháng sau, cả đoàn quay về Tịnh-xá, tường-trình thành-quả việc tu-học. Đức Phật khen ngợi cố-gắng tu-tập của mọi người. Riêng Tỳ-kheo Thi-sa đang đứng phía sau, cảm thấy hổ-thẹn vì đã lãng-phí thời-giờ, chẳng đạt được kết-quả nào.

Tối hôm ấy, nghĩ đến các bạn đồng-tu nay đã chứng được quả-vị mà mình vẫn còn dốt-nát, Tỳ-kheo Thi-sa mới quyết-định thức cả đêm nay để tập Thiền. Trong bóng tối chập-chờn ngoài sân chùa, Thi-sa bước đi thiền-hành, chẳng may vấp ngã, gãy xương mông. Nghe tiếng kêu cứu, các vị tỳ-kheo khác chạy đến đỡ Thi-sa vào trong. Khi nghe kể lại sự-việc, Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, chẳng nỗ-lực khi đang cần nỗ-lực, lại bê-trễ lãng-phí thi-giờ, nay dầu có gắng sức nhiều trong một lúc, cũng chẳng thể nào chứng được định-tâm."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Chẳng nỗ-lực khi cần gắng sức;
Sức-khoẻ nhiều và vẫn trẻ-trung;
Tánh lười, trí lại lông-bông,
Chánh-đạo, đừng hòng kẻ ấy tìm ra.
(Kệ số 280.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thi-sa: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Tissa.

- Lười-nhác = làm biếng, biếng-nhác.

- Nhập-đạo: Nhập = vào; Nhập-đạo là bước vào Đạo để tu-hành

- Đề-tài thiền-quán: một đầu-đề để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền

- Đi thiền-hành: bước chầm-chậm, tâm-trí chú vào đề-tài Thiền.

- Tường-trình thành-quả: thuật lại rõ các kết-quả tốt-đẹp.

- Định-tâm: Định = an-định; Tâm = lòng. Khi hành Thiền, tâm dừng lại, chẳng lo ra, trí suy-nghĩ sâu-xa về đề-tài thiền-quán.

- Lông-bông: đi lang-thang, vơ-vẩn.

- Chánh-đạo: Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Đạo = đường-lối tu

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại một vị tỳ-kheo, trong thời-gian khoá thiền trong rừng, thì tỏ ra lười-biếng, bê-trễ việc tu-tập. Khi trở về Tịnh-xá, thấy Đức Phật khen ngợi thành-quả của bạn đồng-tu, vị ấy mới sanh ra hổ-thẹn, quyết cố-gắng tu-tập suốt đêm, chẳng may bị trợt té gãy xương, trong khi đi thiền-hành. Đức Phật dạy, phải cố gắng siêng-năng, khi cần phải nỗ-lực trong các khoá tu; dầu nỗ-lực thật nhiều trong một thời-gian ngắn, cũng chẳng chứng được định-tâm.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: khi có đủ điều-kiện để tu-hành, cần nên gắng sức trong thời gian đó, thì có kết-quả tốt; đừng đợi đến giờ phút chót mới nỗ-lực, thì chẳng đạt được kết-quả tốt.

Học-sinh nên ứng-dụng: suốt năm phải chăm-chỉ học-hành, đừng đợi sắp đến ngày thi, mới thức khuya, học rút, sao cho kịp được.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 280:

Bài Kệ nêu rõ ý-nghĩa của Tích chuyện kể trên: khi có đủ điều-kiện để tu-tập, phải nỗ-lực cho tinh-tấn, đừng để khi tuổi-trẻ và sức khoẻ đã đi qua rồi, mới bắt đầu dụng công gấp-gấp, thì chẳng được kết-quả mong-muốn.

Thử phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Chẳng nỗ-lực khi cần gắng sức: khi đủ điều-kiện để tu-tập, phải gắng sức vào lúc đó, chớ bỏ qua cơ-hột tốt;

2) Sức khoẻ nhiều và vẫn trẻ-trung: đây là hai điều-kiện rất thuận-tiện để tu-hành; chớ chờ lúc già, sức yếu mới tu, chậm mất;

3) Tánh lười, trí lại lông-bông: hai điều-kiện bất lợi cho việc tu

4) Chánh-đạo, đừng hòng kẻ ấy tìm ra: chẳng thể nào, trong điều-kiện lườilông-bông mà tìm thấy được con đường Thánh-đạo.

(207).- Tích chuyện ngạ-quỉ đầu heo mình người.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một ngạ-quỉ đầu heo mình người.

Thuở ấy, Tôn-giả Mục-kiền-liên đang cùng một vị Trưởng-lão, từ trên đỉnh núi Linh-thứu đi xuống, bỗng Tôn-giả nhìn lên, mỉm cười mà chẳng thốt lên lời nào. Đến khi về đến tịnh-xá, Tôn-giả trình cùng Đức Phật, dọc đường có nhìn thấy một ngạ-quỉ đầu heo mình người, miệng bị nhiều dòi, bọ cắn-xé, đang rên-xiết đau-đớn. Đức Phật bảo, khi Ngài chứng được Đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, Ngài cũng nhìn thấy ngạ-quỉ đó. Rồi Đức Phật mới kể lại tiền-kiếp của ngạ-quỉ đầu heo, mình người đó, như sau:

Vào thời Đức Phật Ca-diếp, có một vị tỳ-kheo rất thông-thuộc Chánh-pháp, giảng-dạy giáo-lý rất hay. Trong một chuyến đi du-hành, vị ấy đến ngụ tại một tu-viện, do hai vị tỳ-kheo khác trụ-trì. Kể từ ấy, dân-chúng trong làng rất hoan-nghinh vị tỳ-kheo mới, mỗi khi nghe vị nầy nói pháp. Và cũng vì thế mà vị tỳ-kheo ấy mới nổi lên trong lòng một ý-định xấu, muốn một mình làm chủ ngôi tu-viện, và tìm cách đẩy hai vị kia ra khỏi chùa. Mưu-kế rất thâm-hiểm, ông ta đặt điều xúi-dục vị tỳ-kheo nầy nói xấu vị kia, khiến cho cả hai cãi nhau, nặng lời cùng nhau, rồi cả hai bỏ đi khỏi chùa. Vì tội-ác nói đâm-thọc khiến kẻ khác sanh ra thù-oán nhau, nên vị tỳ-kheo ấy bị sa vào điạ-ngục Vô-gián. Sau khi mãn hạn trong ngục tối, lại tái-sanh thành ngạ-quỉ, đầu heo, miệng thối, bị dòi bọ cắn-xé, để đền nốt tội-ác . Đức Phật kết-luận: "Tỳ-kheo phải giữ tâm thanh-tịnh, thận-trọng biết tự-chế để ba nghiệp thân, miệng, ý thuận theo đường thiện-đạo."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Hãy thận-trọng giữ-gìn lời nói,
Thu-thúc thân-tâm khỏi điều tà.
Nghiệp thanh-tịnh đủ cả ba,
Thánh-đạo Phật-đà đã dạy, chứng xong.
(Kệ số 281.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ngạ-quỉ: quỉ đói. Đây là hạng chúng-sanh ở một trong ba đường dữ, bụng to mà cổ rất nhỏ, luôn luôn đói khát. Còn được gọi là ngã-quỉ; tiếng Pali là Peta.

- Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà: Vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara), nước Ma-kiệt-đà (Magadha), đóng đô tại thành Vương-xá (Rajàgaha), xây cất tịnh-xá trong vườn trúc, dưng-cúng Phật. Tînh-xá mang tên Trúc-lâm, rừng trúc, tiếng Pali là Veluvana.

- Núi Linh-thứu: núi nầy gần thành Vương-xá, đỉnh núi trông giống hình chim thứu ( =kên-kên), hai cánh xoè ra. Đức Phật giảng kinh Pháp-Hoa tại núi nầy. Tên núi tiếng Pali là Gijjhakùta.

- Đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác: chứng được Đạo nầy tức là thành Phật, bực đại-giác đã hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát.

- Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = đời. Tiền-kiếp là đời trước.

- Du-hành: Du = đi dạo; Hành = đi; các vị tăng đi du-hành, chẳng có nơi ở nhứt-định, đi tìm thầy học đạo thêm. Còn gọi là du-tăng.

- Phật Ca-diếp: Đức Phật Ca-diếp giáng-sanh trước Đức Phật Thích-ca. Tên tiếng Pali là Kassapa.

- Trụ-trì: Trụ = ở yên đó; Trì = giữ-gìn. Trong Phật-học, chữ Trụ-trì dành cho vị sư-trưởng cai quản một ngôi chùa.

- Thâm-hiểm: Thâm = thâm-độc, ác ngầm; Hiểm = nguy-hiểm, hiểm-ác. Thâm-hiểm là ác-độc ngầm, ác-độc mà dấu-kín.

- Nói đâm-thọc = đặt điều ra xúi người nầy nói xấu người kia, khiến cho hai người thù nhau.

- Điạ-ngục Vô-gián: nơi chịu hình-phạt chẳng hề ngưng-nghỉ (Vô = chẳng; Gián = gián-đoạn, ngưng-nghỉ). Tiếng Pali là Avici niraya.

- Tái-sanh: sanh trở lại, theo luật Luân-hồi.

- Tự-chế = tự mình giữ mình chẳng cho làm điều quấy, nói lời ác.

- Thiện-đạo: Thiện = lành; Đạo = con đường, lối sống.

- Thu-thúc: chế-phục, tự-chế, giữ gìn đúng theo kỷ-luật; chẳng hề buông-lung theo tôi-ác.

- Thánh-đạo: con đường Thánh, tức là Bát-Chánh-Đạo.

- Phật-đà: phiên-âm chữ Buddha, có nghĩa giác, là hiểu-rõ tất cả mọi sự-vật; tức là bực đại-giác-ngộ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại tiền-kiếp của ngạ-quỉ đầu heo mình người; vì nói lời đâm-thọc, phá sự hoà-hợp của hai vị tăng, để dành chức trụ-trì, mà một vị tỳ-kheo phải sa vào địa-ngục và sau đó tái-sanh làm ngạ-quỉ, miệng hôi-thối bị dòi bọ cắn xé. Đức Phật khi kể lại sự-tích, khuyên ta phải biết giữ-gìn lời nói, thu-thúc thân-tâm cho ba nghiệp, thân, miệng, ý, được thanh-tịnh.

Tích chuyện mang các ý-nghĩa sau đây:

1) Nói lời đâm-thọc, phá sự hoà-hợp Tăng, bị sa vào địa-ngục Vô-gián. Trong Kinh, có nói tội ngũ-nghịch phải sa vào điạ-ngục Vô-gián là: (1) giết cha, (2) giết mẹ, (3)giết A-la-hán, (4)phá hoà-hợp Tăng, (5)làm chảy máu Phật. (Ngũ-nghịch = năm điều trái-nghịch)

2) Vì miệng nói lời đâm-thọc, nên kiếp nầy miệng ngạ-quỉ hôi-thối, bị dòi bọ cắn-xé. Trong Kinh, kể ra bốn tội-ác do lời nói chẳng ngay-thẳng, chẳng đoan-chánh gây ra: (1) nói dối, sai sự thật; (2) nói khéo, dùng lời ngon-ngọt để xúi-dục, dụ-dỗ; (3) nói lưỡi đôi chiều, nói đâm-thọc để gây chia-rẻ, thù-oán; (4) nói lời vô-nghĩa, ngồi lê đôi mách, kháo nhau chuyện hàng xóm.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 281:

Bài Kệ mang hai ý-nghĩa: (1) lời nói phải đứng-đắn; (2) phải giữ ba nghiệp thân, miệng, ý cho thanh-tịnh.

1) Hãy thận-trọng giữ-gìn lời nói: đây là lời khuyên dạy ta phải suy-nghĩ cho chín-chắn trước khi mở lời.

2) Thu-thúc thân-tâm khỏi điều tà: lời dạy nầy gồm có hai việc:(1) thu-thúc thân, tức là đừng có hành-động sái-quấy; (2) thu-thúc tâm, tức là chẳng có ý-nghĩ xấu-ác.

3) Nghiệp thanh-tịnh đủ cả ba: Ba nghiệp nào? Đó là hành-động của thân, lời nói của miệng ý-tưởng của tâm.

4) Thánh-đạo Phật-đà đã dạy, chứng xong: Câu nầy có vẻ khúc-mắc, xin đọc lại cho suông: (...Nếu giữ ba nghiệp thanh-tịnh) thì đã chứng xong được Con đường Thánh-đạo (tức là Bát-Chánh-Đạo) của Đức Phật đã dạy.

(208).- Tích chuyện Trưởng-lão Phổ-thi-la.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến Trưởng-lão Phổ-thi-la.

Trưởng-lão Phổ-thi-la là một vị tỳ-kheo lớn tuổi, rất thông-thạo Tam-Tạng Kinh-điển, làm giáo-thọ dạy Chánh-pháp cho chư Tăng. Vì thông-hiểu giáo-pháp nhiều, nên Trưởng-lão mới sanh lòng tự-phụ. Quán-thấy tâm-địa đó của Trưởng-lão Phổ-thi-la, Đức Phật biết ông nầy chẳng siêng-năng thực-tập và chưa đắc được đạo-quả, cũng chưa chứng được bực Thiền nào cả. Ngài dùng phương-tiện, mỗi khi ông Phổ đến đảnh-lễ, Ngài gọi ông Phổ là "vị tỳ-kheo vô-dụng" . Nghe Đức Phật gọi mình như thế, ông Phổ rất hổ-thẹn, nhìn lại bên trong tâm mình, thấy quả thật mình còn chưa tu-tập đúng mức để áp-dụng trên bổn-thân, và sự hiểu-biết giáo-lý của mình quả là vô-dụng.

Lặng-lẽ, ông Phổ bỏ ra đi, đến một tu-viện nhỏ, cách chùa Kỳ-viên hơn hai mươi do-tuần, có ba mươi vị tăng tu-tập, để xin vào học Đạo. Trước hết, ông Phổ xin vị sư-trưởng chỉ dạy Thiền cho mình. Vị nầy từ-chối, bảo hãy đến nhờ vị sư-phó. Vị sư-phó cũng chẳng nhận, bảo hãy đến vị thứ ba. Bị đẩy lần-lượt như thế, sau cùng Trưởng-lão phải đến gặp một chú Sa-di bảy tuổi. Vị Sa-di bằng lòng chỉ dạy cách thực-tập Thiền-định cho, nhưng với điều-kiện là ông Phổ phải tuân-theo thật kỹ-lưỡng mọi chỉ-thị. Ông Phổ vâng lời, nỗ-lực quán-chiếu ngày đêm về bản-thể chơn-thật của thân-tâm năm uẩn, ngồi Thiền, đi Kinh-hành rất nhiệt-thành và tinh-tấn. Chẳng bao lâu, Trưởng-lão đắc được định-tâm, lần lượt chứng được bốn bực Thiền. Bấy giờ Đức Phật và chư Tăng đi du-hành đến đó, thấy nỗ-lực tu-tập của Trưởng-lão, Ngài khen-ngợi ông Phổ, khuyên nên cố-gắng mãi lên như thế.

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà Trưởng lão Phổ-thi-la chứng được đạo và quả A-la-hán:

Thật vậy, thiền-định sanh trí-huệ,
Chẳng hành thiền, trí-huệ mờ phai.
Biết đường hai ngõ, tăng cùng tệ,
Hãy cố sao trí-huệ tăng hoài.
(Kệ số 282.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phổ-thi-la: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Potthila.

- Tam-Tạng Kinh-điển: tất cả giáo-pháp của Đức Phật chỉ dạy, đựng chung thành ba giỏ ( Tam-tạng: Tipitaka; Tam = ba; Tạng = cái giỏ đựng kinh-sách), gồm: (1) Luật-tạng (Vinaya Pitaka), nói về giới-luật, (2) Kinh-tạng (Suttanta Pitaka), nói về giáo-lý ghi trong Kinh-Kệ, và (3)Luận-tạng (Abhidhamma Pitaka), nói về các bài luận-giải về giáo-lý.

- Giáo-thọ = vị thầy dạy giáo-lý cho các tỳ-kheo.

- Tự-phụ: Tự = chính mình; Phụ = cậy giỏi; Người tự-phụ là kẻ cậy mình giỏi, hay khinh kẻ khác chẳng bằng mình.

- Tâm-địa: Tâm = lòng; Điạ = đất. Tâm-địa là tâm-trạng, bên trong tấm lòng tốt, xấu như thế nào.

- Đạo, Quả: Đạo = đường lối tu-hành; Quả = kết-quả tu-tập thành-công. Thí-dụ: đạo Tu-đà-huờn là những đường-lối tu-tập để diệt thân-kiến, nghi-ngờ và mê-tín dị-đoan; quả tu-đà-huờn là kết-quả chứng được khi bỏ sự chấp thân nầy làm Ta, hết nghi-ngờ về Phật-pháp, bỏ dứt các sự cúng-tế theo tà-giáo. Tiếng Pali: Magga Đạo; Phala Quả. Có bốn đạo và bốn quả trong hàng Thanh-văn: Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.

- Bực Thiền: tu thiền lần lượt chứng được bốn cấp: sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền và tứ-thiền.

- Phương-tiện: cách-thức khéo, dùng để đạt mục-đích. Ở đây, Đức Phật dùng phương-tiện nói khích, chê ông Phổ là người vô-dụng, để ông ấy biết hổ-thẹn mà siêng tu-rập, chớ đừng ỷ mình biết nhiều lý-thuyết về giáo-pháp, mà tâm vẫn còn nhiều lậu-hoặc.

- Vô-dụng: Vô = chẳng; Dụng = dùng; Vô-dụng = vô-ích, chẳng biết dùng vào việc gì.

- Đảnh-lể = đến yết-kiến, lễ-lạy ra mắt.

- Do-tuần = đơn-vị đo chiều dài đường-xá, vào khoảng hơn một cây-số, tiếng Pali là yojana.

- Sư-trưởng, Sư-phó: Sư = thầy; Trưởng = lớn; Phó = phụ-giúp. Sư-trưởng là vị sư lớn nhứt; Sư-phó là vị sư thứ nhì, phụ-giúp Sư-trưởng.

- Sa-di: tiếng Pali là Sàmanera, vị tu hành chưa thọ giới tỳ-kheo.

- Chỉ-thị: những điều ra lịnh, chỉ-dạy phải tuân theo.

- Định-tâm: Định = ổn-định, yên; Tâm = lòng. Đắc được định-tâm là tâm trở nên an-tịnh, chẳng chạy lang-thang, dừng yên lại một chỗ.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, dẹp hết phiền-não, chứng được vô-sanh ( = chẳng còn bị tái-sanh trong vòng lẩn-quẩn Luân-hồi)

- Tăng cùng tệ: Tăng = gia-tăng, thêm lên; Tệ = dở hơn, xấu hơn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị Trưởng-lão thông Kinh-kệ, làm thầy dạy Giáo-lý cho chư Tăng, nhưng chính mình chưa tu-tập Thiền-định. Thấy vị ấy hay tự-phụ, Đức Phật nói khích, gọi ông ta là tỳ-kheo vô-dụng. Ông Phổ bị chạm tự-ái, hổ-thẹn, biết mình còn kém, đến học Thiền với một chú Sa-di bảy tuổi. Nhờ nỗ-lực hành Thiền, trí-huệ phát-triển nên khi nghe Phật nói bài Kệ số 282, ông Phổ chứng được đạo-quả A-la-hán.

Tích chuyện mang hai ý-nghĩa sau đây:

1) Biết nhiều về Giáo-lý mà chẳng tập Thiền là còn chưa tu, vì cái biết về lý-thuyết thật là vô-dụng. Phải tu-tập trên bản-thân, mới biết được con đường giác-ngộ và giải-thoát.

2) Lời nói khích của Đức Phật, chê ông Phổ là tỳ-kheo vô-dụng, rất có hiệu-quả, khiến ông biết hổ-thẹn, xét lại lòng mình mà gắng công tu-tập. Đó là lối dạy theo phương-tiện, rất khéo, của Phật.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 282:

Ý-nghĩa bài Kệ thật rõ-ràng, học lý-thuyết suông chưa đủ, phải thực-hành bằng cách tập Thiền.

Thử phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Thật vậy, thiền-định sanh trí-huệ: đúng theo Tam-học: Giới, Định, Huệ; thiền-định giúp tâm dừng yên, vẹt được các chỗ che-mờ, nhờ đó trí-huệ phát-triển được.

2)Chẳng hành thiền, trí-huệ mờ phai: tại sao mờ phai? Vì bị sự ngu-tối che mờ tâm đi, trí-huệ chẳng có dịp nẩy-nở được.

3) Biết đường hai ngõ, tăng cùng tệ: biết rõ hai ngả đường, tốt và xấu, Thiền-định là đường làm cho Trí-huệ phát-sanh lên;

4) Phải cố sao (cho) trí-huệ tăng hoài: Trí-huệ càng tăng, càng chóng đến ngày giác-ngộ và giải-thoát.

- 612 - Kinh Pháp-Cú: Phẩm Đạo.

(209).- Tích chuyện năm vị tỳ-kheo già.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến năm vị tỳ-kheo già.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có năm người bạn thân nhau, đã lớn tuổi rồi mới đi tu. Hằng ngày, họ thường mang bình-bát, trở về nhà cũ để khất-thực. Trong các người vợ của năm vị nầy, có một bà tên là Mã-thu, nấu-nướng rất khéo-léo, nên thực-phẩm cúng-dường cho các vị tỳ-kheo lớn tuổi rất là ngon-lành; vì thế, các vị ấy thường đến nhà bà để khất-thực. Chẳng may, một hôm bà Mã-thu ngoạ-bịnh rồi từ-trần một cách đột-ngột. Năm vị tỳ-kheo thương nhớ, lòng rất sầu-thảm, thường hay than-vãn.

Đức Phật được biết việc đau buồn đó, mới cho gọi các vị tỳ-kheo ấy đến và dạy rằng: "Nầy chư tỳ-kheo, các ông đau buồn, thương nhớ người đàn-bà bất-hạnh đó, chẳng qua là trong lòng các ông còn tham-luyến thức ăn ngon-ngọt, lại thêm sự si-mê chẳng biết được lẽ vô-thường, rồi sanh ra buồn-khổ. Đấy cũng như đang sống trong một khu rừng u-tối; phải nên đốn sạch khu rừng ấy đi, để được giải-thoát khỏi sự tham-luyến, sự sân-hận, sự si-mê."

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây, nhờ đó năm vị tỳ-kheo lớn tuổi chứng được quả-vị Tu-đà-huờn:

Đốn rừng "dục-vọng", chớ đốn cây,
Vì cảnh rừng nầy gây sợ-hãi.
Lại đốn cả lùm non "khát-ái",
Tỳ-kheo, rừng "ái" thoát ra ngày.
(Kệ số 283.)

Chừng nào chưa đốn tiệt xong
Lùm cây ‘luyến-ái" trong lòng nữ-nam,
Chừng ấy, vẫn còn tâm ràng-buộc,
Như bê theo bú vú mẹ bò.
(Kệ số 284.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bình-bát: cái chén lớn, như cái nồi nhỏ, đựng thức ăn xin được.

- Khất-thực: đi xin ăn. Tỳ-kheo còn gọi là khất-sĩ ( = Bhikkhu).

- Mã-thu: tên bà nầy, tiếng Pali là Madhurapàcikà.

- Ngoạ-bịnh: Ngoạ = nằm; Ngoạ-bịnh là ngã bịnh, bị đau nặng.

- Từ-trần: Từ = từ-giả; Trần = trần-thế, cõi đời. Từ-trần là chết đi.

- Đột-ngột = bất ngờ, thình-lình chẳng biết trước được.

- Bất-hạnh: Bất = chẳng; Hạnh = may mắn; Bất-hạnh là chẳng may

- Tham-luyến: Tham = ham quá chừng; Luyến = luyến-ái, mê-đắm. Tham-luyến là ham-muốn quá nên chẳng rời ra được, mà bị ràng buộc

- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = còn hoài; Lẽ vô-thường có nghĩa là muôn sự-vật đều bị biến-đổi rồi tiêu-diêt đi. Ở đây, chữ vô-thường có nghĩa là sự chết.

-Sân-hận: Sân = giận; Hận = hờn, thù.

- Dục-vọng: Dục = ham-nuốn; Vọng = mong-cầu.

- Lùm non: bụi cây nhỏ.

- Khát-ái: Khát = thèm-khát; Ái = thương, thích. Đây là tình-cảm ràng-buộc khiến ta bấu-víu mãi vào sự-vật ta thích. Khát-ái chính là nguyên-nhơn của Khổ: trong Tứ-Diệu-Đế đó là Tập-đế.

- Lòng nữ-nam: Nữ = đàn-bà; Nam = đàn-ông; Đây nói về sự thương nhau giữa hai phái nam và nữ.

- Bê = con bò-con.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là đừng vì luyến-ái mà bị ràng-buộc. Đức Phật ví sự khát-ái như khu rừng u-tối, phải dẹp cho sạch hết, mới hết bị ràng-buộc mà được giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 283 và 284:

Hai bài Kệ cùng có ý-nghĩa là phải dứt bỏ dục-vọng khát-ái . Đức Phật dạy phải đốn rừng, là dẹp bỏ sự luyến-ái như khu rừng u-tối, nhưng ngại các tỳ-kheo hiểu-lầm, nên Ngài nói rõ thêm: chớ đốn cây. Tình thương là điều tốt, nhưng nếu thương quá, sanh ra tríu-mến, bị ràng-buộc, nên Ngài dạy phải đốn cho tiệt sự luyến-ái giữa trai gái.

(210).- Tích chuyện con của người thợ bạc.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một vị Trưởng-lão, vốn là con của một người thợ bạc.

Thuở ấy, có một chàng thanh-niên khá đẹp trai, con của một người thợ bạc, được Tôn-giả Xá-lợi-phất nhận làm đệ-tử. Tôn-giả đem đề-tài thiền-quán về thân-tâm năm uẩn nầy đáng gớm-ghiếc ra chỉ dạy cho chàng trai. Chàng thanh-niên liền theo lời thầy dạy, đi vào rừng vắng, ngồi thiền và quán-chiếu; sau một tuần-lễ chẳng thấy có kết-quả, chàng trở về thưa lại với thầy. Tôn-giả Xá-;lợi-phất mới dẫn chàng ta đến yết-kiến Đức Phật.

Đức Phật nghe nói chàng ta là con của một người thợ bạc, liền đổi đề-tài thiền-quán, thay vì quán-chiếu về tấm thân gớm-ghiếc, Ngài đưa ra một cành sen có bông-hoa to lớn, sắc rất đẹp mà hương cũng rất thơm. Ngài bảo đem cắm vào nơi vắng-vẻ và vừa nhìn hoa vừa quán-chiếu. Chàng thanh-niên vâng lời, đem cành sen ra sau vườn, cắm xuống đất cát, rồi ngồi tĩnh-toạ, ngắm vẻ đẹp của hoa sen. Từ trong tâm chàng khởi lên một niềm phỉ-lạc sâu-xa, tồi tuần-tự từng bước một, tâm-trí chàng tiến lên các bực thiền-định.

Từ nơi hương-phòng, Đức Phật quán-thấy sự tiến-bộ của chàng trai, Ngài liền dùng sức thần-thông, biến cành hoa sen đang tươi nõn, bỗng từ tư héo dần, hương phấn bay lả-tả. Tâm-trí chàng trai vụt ngộ được lẽ vô-thường, muôn sự-vật rồi cũng chóng tàn-phai và huỷ-diệt. Sau đó, chàng trai trở vào yết-kiến Đức Phật và được Phật nói cho nghe bài Kệ sau đây, nhờ đó, chàng chứng được quả-vị A-la-hán:

Hãy tự mình cắt dây tham-ái,
Như tay người bẻ hái sen thu.
Đường Niết-Bàn tịch-tĩnh siêng tu,
Như bực Thiện-thệ từng chỉ dạy.
(Kệ số 285.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tôn-giả Xa-lợi-phất: vị đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca, nổi tiếng là thông-minh bực nhứt; tên tiếng Pali là Sàriputta.

- Đệ-tử: Đệ = em; Tử = con; Đệ-tử có nghĩa là học-trò học Đạo.

- Đề-tài Thiền-quán: Xin nhắc lại: đó là một đề-mục dùng để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền, để tâm được an-định.

- Thân-tâm năm uẩn đáng gớm-ghiếc: vì tấm thân nầy bên trong chứa nhiều chất dơ, sẽ sình-thối lên khi tan-rả, nên đáng gớm-ghiếc.

- Yết-kiến = ra mắt bực trưởng-thượng, để được chỉ-dạy.

- Tĩnh-toạ: Tĩnh =yên-tịnh; Toạ = ngồi. Tĩnh-toạ là ngồi yên.

- Phỉ-lạc = Phỉ =Lạc = vui. Phỉ-lạc là niềm vui về tinh-thần, tâm nhẹ lâng-lâng; đối nghĩa với chữ dục-lạc, sự sung-sướng về vật-chất.

- Các bực Thiền-định: khi ngồi Thiền chứng được định-tâm, lần lượt vượt qua các bực Thiền thứ nhứt, thứ hai, thứ ba và thứ tư

- Hương-phòng: căn phòng có hương thơm, dành riêng cho Đức Phật; tiếng Pali là Gandhakuti.

- Ngộ = hiểu rõ một cách sâu-xa, hiểu thẳng chẳng do lý-luận.

- Vô-thường = sự biến-đổi, chẳng thường-hằng; Pali = Anicca.

- Cắt dây Tham-ái: dứt bỏ sự tham-luyến, khát-ái.

- Niết-Bàn = cảnh-giới tịch-tĩnh, yên-vui và tự-tại; Pali = Nibbana

- Thiện-thệ: tức là Đức Phật. Thiện-thệ là một trong mười danh-hiệu của Đức Phật; thiện là khéo; thệ là đi qua cầu; Pali là Sugata.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện cho thấy sự hơn-kém giữa Tôn-giả Xá-lợi-phất và Đức Phật về việc dạy đệ-tử. Đề-tài bông sen của Đức Phật hợp với căn-cơ của chàng thanh-niên trẻ đẹp hơn là đề-tài thân bất-tịnh. Tại sao? Vì chàng vốn con nhà thợ bạc, thường hay xem các vật đẹp-đẽ. Nhờ hợp với căn-cơ, chàng trai thực-hành Thiền-quán và ngộ được lý Vô-thường của muôn pháp ( =muôn sự-vật) trong thời-gian ngắn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 285:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: hãy cắt đứt dây tham-ái siêng tu con đường tịch-tĩnh của Niết-Bàn.

(211).- Tích chuyện vị thương-gia Đại-Nghiệp.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến thương-gia tên Đại-Nghiệp.

Thuở ấy, có một thương-gia tên là Đại-Nghiệp rất giàu-có, đem cả trăm xe bò chở hàng-hoá từ thành Ba-la-nại đến nước Xá-vệ để bán và đồng thời để dự một cuộc hội-hè vui chơi lớn. Đến bờ sông gần thành Xá-vệ, bị nước lũ tràn cả hai bên đường, cả đoàn xe phải dừng lại, chờ ngày nước rút. Sau cả tuần-lễ, mưa dầm, nước lại dâng to lên, trễ kỳ đại-hội, nên ông Đại-Nghiệp định lưu lại đó, chờ bán hết hàng-hoá sẽ trở về xứ. Ông nói, ta cứ ở đây hết mùa hè, sang mùa thu, qua mùa đông rồi khi trời ấm-áp, đến mùa xuân ta sẽ trở về xứ. Bấy giờ, Đức Phật cùng chư Tăng đi khất-thực ngang qua đó, nghe ông Đại-Nghiệp nói, Ngài mỉm cười. Tôn-giả A-nan chẳng hiểu lý-do vì sao Ngài lại mỉm cười mới thưa cùng Đức Phật. Đức Phật bảo: "Nầy A-nan, ông có nghe thấy vị thương-gia đó không? Ông ấy bảo, cứ ở đây hết mùa hè, mùa thu, mùa đông, mà chẳng biết mình sắp chết trong bảy ngày nữa. Những gì cần làm ngay bây giờ, thì phải làm ngay đi; Thần Chết đến, đâu có hẹn ngày giờ trước. Người biết tỉnh-giác, dẹp bỏ mọi lậu-hoặc, tinh-tấn tu-hành dõng-mãnh, thì dầu chỉ sống thêm một ngày hay một đêm, cũng còn hơn kẻ phóng-dật."

Tôn-giả A-nan thương-tình, đến báo cho thương-gia Đại-nghiệp biết ông ta sắp chết. Đại-Nghiệp nghe qua hoảng-hốt, nghĩ mình chưa làm được điều gì có công-đức, mới thỉnh Đức Phật và chư Tăng đến cúng-dường, trai-tăng trong bảy ngày. Đến hôm chót, sau khi nghe Đức Phật giảng-pháp và hồi-hướng công-đức, ông Đại-Nghiệp tiễn chơn Đức Phật và chư Tăng một đỗi đường. Khi quay trở về, ông bị nhức đầu như búa bổ, vài giờ sau thì chết.

Trên đường về chùa, Đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:

‘’Mùa mưa, ta sống ở đây,
Mùa đông, mùa hạ, cũng ngay nơi nầy".
Người ngu cứ tưởng là như vậy,
Đâu ngờ nguy-hiểm "chết" chờ đây.
(Kệ số 286.)

TÌM HIỂU:

- A.- Nghĩa Chữ:

- Đại-Nghiệp = sự-nghiệp lớn, có tiền-bạc, tài-sản nhiều; dịch chữ Pali là Mahadhana.

- Thương-gia = người buôn-bán.

- Ba-la-nại: tên thành-phố lớn của Ấn-độ (Bénarès, nay là Vàrànasi)

- Nước lũ: nước lụt, ngập cả khắp nơi.

- Tỉnh-giác: Tỉnh = chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác tâm luôn chú-ý, khi nói, làm hay nghĩ điều gì, thì biết rõ mình đang nói, làm, nghĩ về điều đó và chỉ điều đó mà thôi, chẳng lo ra.

- Lậu-hoặc: xin nhắc lại, đó là các phiền-não như tham, giận, si-mê, nổi lên trong tâm rồi lộ ra bằng lời nói thô-ác hay hành-động xấu.

- Tu-hành tinh-tấn: tu-hành siêng-năng, có sự tấn-bộ.

- Dõng-mãnh: Dõng =Mãnh = mạnh-mẽ.

- Phóng-dật = buông-lung, chẳng biết tự-kềm-chế, lười-nhác.

- Trai-tăng: Trai = bữa ăn chay; Tăng = tu-sĩ Phật-giáo. Trai-tăng là tiếng nhà chùa, nói đến việc dưng-cúng thức-ăn, quần-áo cho tỳ-kheo.

- Hồi-hướng: Hồi = quay về; Hướng = nhìn thẳng về phiá đó; Hồi-hướng = nguyện công-đức tu-hành của mình sẽ đem lại phước-báo cho người mình đang hướng về, đang nghĩ đến.

- Công-đức = việc lành, đem lại phước-báo tốt về sau.

- Nguy-hiểm "Chết" = mối hiểm-nguy đang rình tất cả mọi người, chẳng sót một ai, đó là sự Chết.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một thương-gia muốn lưu lại một nơi thật lâu, chẳng biết mình sắp chết, được Đức Phật cho biết, mới tạo công-đức cúng-dường chư Tăng. Ý-nghĩa của Tích chuyện là: Vì Vô-thường là sự Chết đang rình chờ mọi người, chẳng biết lúc nào sẽ đến, nên ngay bây giờ, ta phải lo tu-tập để sớm được giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 286:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: mọi người, bất luận là ai, cũng đều sắp chết cả, vậy phải lo tu-hành, tạo phước ngay bây giờ đi; đừng chần-chờ rồi sẽ hối-tiếc chẳng kịp nữa.

(212).- Tích chuyện bà Kỷ-sa-cơ.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (93), trang 299.

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bà Kỷ-sa-cơ có con bị chết.

Thuở ấy, bà Kỷ-sa-cơ rất đau-buồn vì đứa con trai vừa bị chết, đến xin Đức Phật cho thuốc cứu sống. Đức Phật bảo, hãy tìm một mớ hột cải ở gia-đình nào chẳng hề có người chết, đem về Đức Phật sẽ cho thuốc. Hột cải thì có, mà gia-đình chẳng người chết thì không. Khi trở lại gặp Đức Phật, bà Kỷ-sa-cơ được Phật dạy rằng: "Nầy Kỷ-sa-cơ, bà cứ tưởng chỉ có bà mới mất một đứa con thôi hay sao. Thần Chết đến mọi nhà, chẳng chừa ai, lôi họ đi ngay, trước khi đạt được một sở-nguyện nào."

Rồi Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:

Kẻ nào tâm-ý đắm-say
Cả đàn gia-súc, cả bầy cháu con.
Thần Chết bắt người còn mê đó,
Như làng đang ngủ, có lụt to.
(Kệ số 287.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Kỷ-sa-cơ: tên ngươi nầy, tiếng Pali là Kisàgotamì.

- Sở-nguyện: Sở = chỗ; Nguyện = điều mong-muốn. Sở-nguyện là điều ao-ước muốn có được.

- Gia-súc: Gia = nhà, Súc = thú-vật. Gia-súc là thú-vật nuôi trong nhà, như heo gà, vịt, trâu, bò.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Xin xem lại Tích chuyện đầy-đủ cùng Ý-nghĩa ở bài số (93), nơi các trang từ 299 đến 301 của Tập 2.

(2) Ý-nghĩa của bài kệ số 287:

Bài Kệ mang ý-nghĩa nầy: người còn đang say-đắm, mê-luyến về tài-sản, về con cháu, sẽ bị Thần Chết đến dẫn đi một cách bất-ngờ, cũng như dân-chúng trong làng đang ngủ say, bị cơn lụt to nửa đêm thình-lình cuốn trôi ra biển. Kết-luận: nên sớm chấm-dứt tham-luyến.

(213).- Tích chuyện bà Phả-tha-ca.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (92).

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến bà Phả-tha-ca.

Chỉ trong một buổi sáng, bà Phả-tha-ca bị mất cả chồng, lẫn hai con. Rồi lại hay tin cha, mẹ, anh chị em cũng đều chết hết, bà hoá ra mất trí. Đến khi gặp Đức Phật, bà tỉnh lại và được nghe Ngài dạy rằng: "Nầy Phả-tha-ca, trước cái chết, con-cái, cha mẹ, họ-hàng, thân-hữu cũng chẳng thể làm gì để giúp đỡ được. Người hiền-trí, ngay khi còn khoẻ-mạnh, biết giữ-gìn giới-luật, và dọn-dẹp cho thật sạch-sẽ các chướng-ngại trên con đường đưa tới Niết-Bàn."

Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:

Một khi Thần Chết bắt mang đi,
Con cái, mẹ cha giúp được gì?
Cả trong vòng bà con, thân-hữu,
Ai là người bảo-bọc, hộ-trì?
(Kệ số 288.)

Người hiền-trí biết rành như thế,
Giới-luật giữ-gìn thật nghiêm-minh,
Mau khai quang chướng-ngại sạch-sẽ,
Dẫn đường tới Niết-Bàn vô-sanh.
(Kệ số 289.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phả-tha-ca: tên người nầy, tiếng Pali là Patàcàrà.

- Thân-hữu = bạn-bè.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành; Trí = trí-huệ. Danh-từ Hiền-trí trong Phật-học chỉ vào người thông-hiểu Chánh-pháp, dạy lại cho kẻ khác; còn được gọi là bực Thiện-tri-thức.

- Giới-luật: các điều răn-cấm trong Đạo.

- Chướng-ngại = cản-trở. Các chướng-ngại làm cản-trở con đường đưa đến Niết-Bàn? Đó là mối độc to lớn: tham, sân, si. Cũng có thể nói đó là tam chướng, gồm có: (1) phiền-não-chướng ( =phiền-não như tham, sân, si, mạn, nghi, v.v.); (2) sở-tri-chướng ( = các sự hiểu-biết sai-lầm); (3) báo-chướng (chướng-ngại do tấm thân năm uẩn còn chịu nghiệp-báo).

- Hộ-trì: Hộ = bảo-hộ, bao-bọc; Trì = giữ-gìn. Hộ-trì là giúp-đỡ.

- Khai-quang = dọn dẹp cho trống-trải.

- Niết-bàn: cảnh-giới an-vui, tịch-tĩnh, tự-tại của người đã dứt trừ phiền-não và chứng được Vô-sanh. Theo giáo-lý Nam-tông, có hai thứ Niết-Bàn: (1) Hữu-dư Niết-Bàn, người chứng được còn chịu nốt nghiệp-báo của tấm thân năm uẩn (Tiếng Pali là Sopàdisesa Nibbàna Dhàtu); (2)Vô-dư Niết-Bàn, người chứng được vô-sanh, đã trút bỏ tấm thân năm uẩn, tự-tại trong tịch-diệt. (Tiếng Pali là Anupadisesa Nibbàna Dhàtu).

- Vô-sanh: Vô = chẳng; Sanh = sanh trở lại cõi Luân-hồi. Chứng được Vô-sanh là thoát khỏi vòng tái-sanh lẩn-quẩn của Luân-hồi lận-đận, được tự-tại trong cảnh an-lạc và vắng-vẻ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Xin xem lại Tích chuyện đầy-đủ cùng Ý-nghĩa ở bài số (92), nơi các trang 294 đến 298), Tập 2.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 288 và 289:

Ý-nghĩa của bài Kệ số 288: đến khi gần chết, chẳng có ai giúp-đỡ mình khỏi chết cả, dầu đó là con cái, cha mẹ, anh chị em, họ-hàng hay bạn-bè. Tại sao? Vì chẳng ai đã sanh ra mà lại khỏi chết cả; có sanh tất phải có chết.

Bài Kệ số 289 khuyên ta hai điều: (1) giữ giới-luật cho thật nghiêm-minh, để thanh-lọc thân-tâm, sống trong giới-đức vẹn-toàn; (2) dọn-dẹp thật sạch-sẽ các chướng-ngại, trên con đường đưa tới cảnh Niết-Bàn. Ba món độc lớn tham, sân, si là các chướng-ngại lớn nhứt.

Người chứng vô-sanh, hết bị tái-sanh, làm sao mà chết nữa được?

-ooOoo-

Âm lịch

Ảnh đẹp