An Thế Cao dịch vào những năm 147 - 167 Tây lịch. Rồi từ đây
trở đi, các vị cao tăng ở vùng Tây Vực, Kế Tân (Kashmir
Bắc Ấn Ðộ) và Thiên Trúc (Ấn Ðộ) lần lượt đến Trung
Hoa và các vị cao tăng Trung Hoa tiếp tục du học Ấn Ðộ
mang kinh về nước phiên dịch càng nhiều, làm cho Tam Tạng
kinh Hán văn ngày càng phong phú đầy đủ hơn bất cứ Tạng
kinh nào được dịch ra văn hệ khác trên thế giới.
Các
cao tăng đã thực hiện việc phiên dịch này theo hai lối: cá
nhân và tập thể, dịch ý và dịch thẳng, dịch thuộc lòng
và dịch có nguyên bản trước mặt.
-
Cá nhân dịch là do một hai người phiên dịch.
-
Tập thể dịch là có tổ chức dịch trường gồm bốn
người hoặc bảy người. Trường hợp bốn người thì một
người đọc thuộc lòng kinh bổn ra, một người chép lại thành
Phạn văn, một người dịch nghĩa từ
Phạn văn ra Hán văn, một người chép lại thành Hán văn.
Trường hợp bảy người thì một người chủ dịch, tuyên
dịch từ kinh bổn, một người bút thọ, lo ghi chép lại,
một người độ ngữ so sánh từ ngữ, một người chứng
Phạn lo đối chiếu với Phạn văn, một người nhuận Hán văn,
một người chứng nghĩa lo kiểm chứng ý nghĩa, và một người
tổng khán lo kiểm xét chung lại.
-
Dịch ý là dịch lược văn, chỉ cốt lấy ý. Ngài Cưu-ma-la-thập
đặc biệt nhất trong lối dịch này.
-
Dịch thẳng là dịch sát theo nguyên bản, không thêm không
bớt câu nào. Ngài Huyền Trang tiêu biểu cho lối dịch này.
-
Dịch thuộc lòng là trường hợp các cao tăng từ Tây
Vực hoặc Ấn Ðộ sang Trung Hoa từ
thời kỳ đầu nhằm lúc ở Tây Vực và Ấn Ðộ,
những kinh viết thành văn chưa được phổ biến, hoặc vì
quan niệm rằng kinh được trực tiếp truyền miệng giữa
thầy trò quý hơn kinh được truyền gián tiếp qua văn tự, vì
kinh được truyền miệng thì thân thiết chính xác dễ nhớ và
dễ hành trì hơn; do đó các người chuyên học thuộc rồi đem
đi truyền bá cho nên khi cần dịch, họ không có sẵn nguyên
bản trong tay mà chỉ đọc và dịch theo ký ức của mình.
Những
kinh dịch lối này không có nguyên bản để có thể đối
chiếu kiểm tra lại, nên phần nhiều bị tối nghĩa và dịch
không được nhiều. Có bộ dịch được nửa chừng thì ngưng
lại, vì người đọc thuộc để dịch qua đời, phải đợi
thời gian có người khác thuộc mới đọc và dịch tiếp, như
bộ luật Thập Tụng, ngài Phấp-nhã-đa-la khởi đọc thuộc
cho ngài La-thập dịch ra Hán văn, được 2/3 thì ngài Phấp-nhã-đa-la
qua đời, phải đợi năm sau có ngài Ðàm-ma-lưu-chi từ
Tây Vực qua mới đọc và dịch tiếp trọn bộ.
-
Dịch có nguyên bản là có bản nguyên văn trên tay, cứ
theo đó dịch ra.
Các
kinh được dịch rồi, nhưng không dễ gì trong một thời gian
ngắn đã có thể truyền bá đi khắp nơi, một mặt vì kỹ
thuật ấn loát thời ấy chưa có, một mặt tình hình đất nước
Trung Hoa rất rộng, các tay mưu bá đồ vương tranh giành cát
cứ, ngăn trở sự đi lại. Mặt khác, các vị cao tăng đi
truyền kinh, họ không xuất phát từ một nơi, một lúc, cùng
một tổ chức, nên người này không biết việc người kia,
khiến có những kinh cùng một nguyên bản mà có tới năm,
bảy người dịch. Ðây là chưa kể trường hợp người này
thấy bản dịch của người kia chưa trọn hoặc chưa ổn mà
dịch lại. Từ Hậu Hán (58 - 219) đến đời nhà Lương (502 -
556) trong khoảng 500 năm đã dịch được 419 bộ (theo Xuất
Tam Tạng Ký của Lương Tăng Hựu). Ðến đời Tống Thái Tổ
(917 Tây lịch) mới khởi sự gom tất cả bản kinh đã dịch
rải rác đó đây lại khắc in thành Ðại Tạng kinh. Lần
khắc kinh này xảy ra ở Thành đô đất Thục (Tứ Xuyên) nên
gọi là Thục Bản Ðại Tạng kinh, trải qua 12 năm mới khắc
xong, cộng được 5.000 quyển. Ðây là Ðại tạng kinh đầu
tiên ở Tàu. Tiếp sau đó có các Ðại tạng kinh được
khắc in như Ðông Thiền Tự Bản năm 1080, do trú trì chùa
Ðông Thiền khắc in trong 24 năm, được 6.000 quyển, rồi đến
Khai Nguyên Tự Bản khắc in năm 1112, Tư Khê Tự Bản (Triết
Giang) khắc in năm 1132, Tích Sa Bản (Giang Tô) năm 1231 do Ni sư
Hoằng Ðạo khắc in trong vòng 79 năm, Phả Ninh Tự Bản khắc
in năm 1269, Hoằng Pháp Tự Bản (Bắc Kinh) khắc in năm 1277.
Bản Cao Ly khắc in theo Thuộc Bản năm 1011 - 1047 và thời Minh
Trị Thiên Hoàng (1868 - 1912) tại Nhật có súc loát Ðại
Tạng kinh và Tục Tạng kinh gồm 8.534 quyển.
Từ
khi khởi sự dịch kinh với cao tăng An Thế Cao những năm 147
Tây lịch đến lúc đạt được một số lượng kinh 8.534
quyển là đã phải trải qua bao nhiêu khó khăn trong việc
lựa chọn từ ngữ, cân nhắc văn cú mới đi đến được
sự ổn định. Như cùng một đề kinh mà năm nhà dịch với
năm tên khác nhau.
1.
Ðạo Hành Bát-nhã kinh -
Hậu Hán Chi-lâu-ca-sấm (147 - 167) dịch.
2.
Ðại Minh Ðộ Vô Cực kinh
- Ngô Chi Khiêm (224 TL) dịch.
3.
Ma-ha Bát-nhã Sao Kinh - Phú
Tần, Ðàm-ma-tỳ (351 TL) dịch.
4.
Tiểu Phẩm Bát-nhã kinh - Dao Tần, Cưu-ma-la-thập (401) dịch.
5.
Phần thứ tư trong Ðại Bát-nhã kinh - Ðường Huyền Trang
(660) dịch.
Nội
dung văn kinh trong năm bản dịch này cũng rất khác như đoạn
dưới đây:
Bản
1: "Xá-lợi-phất vị Tu-bồ-đề, vân hà hữu tâm vô
tâm. Tu-bồ-đề ngôn: Như thị, diệc bất hữu hữu tâm,
diệc bất vô vô tâm" (Xá-lợi-phất gọi Tu-bồ-đề.
Thế nào là hữu tâm vô tâm? Tu-bồ-đề đáp: Như vậy cũng
chẳng có hữu tâm, cũng chẳng có vô tâm).
Bản
2: "Hiền tử Thu Lộ tử viết: Vân hà hữu thị ý nhi
ý phi ý? Thiện nghiệp viết: Vị kỳ vô vi vô tạp niệm
giả" (Hiền tử Thu Lộ tử hỏi rằng: Thế nào có ý
ấy, mà ý chẳng phải ý? Thiện nghiệp đáp: Nghĩa là cái
niệm vô vi vô tạp đó vậy).
Bản
3: "Xá-lợi-phất vị Tu-bồ-đề, vân hà hữu tâm, tâm
vô tâm? Tu-bồ-đề ngôn: Tùng đối thức hữu tâm, tâm vô tâm,
như thị, diệc bất tri giả diệc vô tạo giả, dĩ thị
diệc bất hữu hữu tâm, diệc bất hữu vô tâm". (Xá-lợi-phất
hỏi Tu-bồ-đề: Thế nào là hữu tâm, tâm mà vô tâm?
Tu-bồ-đề đáp: Theo chỗ đối với thức mà có tâm, tâm mà
không tâm, như vậy tâm cũng chẳng biết, cũng không tạo tác,
do đó cũng chẳng có hữu tâm, cũng chẳng có vô tâm).
Bản
4: "Xá-lợi-phất ngôn: Hà pháp vi tâm phi tâm? Tu-bồ-đề
ngôn: Bất hoại bất phân biệt" (Xá-lợi-phất hỏi: Pháp
gì là tâm chẳng phải tâm? Tu-bồ-đề đáp: Không hoại không
phân biệt).
Bản
5: "Xá-lợi-phất vấn Tu-bồ-đề ngôn: Hà đẳng danh
vi tâm phi tâm tánh? Thiện Hiện đáp ngôn: Nhược vô biến
hoại, diệc vô phân biệt, thị tắc danh vi tâm phi tâm tánh"
(Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề rằng: Những gì gọi là tâm tánh,
chẳng phải tâm? Thiện Hiện đáp: Nếu không biến hoại cũng
không phân biệt, đó gọi là tâm tánh chẳng phải tâm).
Ý
của đoạn kinh này, cái tâm thông thường thì có phân biệt
nhị biên, có biến hoại, còn tâm Bát-nhã thì không phân
biệt nhị biên, không biến hoại, cho nên tuy gọi nó là tâm
mà chẳng phải tâm (như tâm thông thường).
Xét
đến việc dịch từ ngữ ta cũng thấy sự chọn lựa khó khăn
và đã có sự dịch sai khác giữa các nhà dịch cũ và các nhà
dịch mới. Các nhà dịch cũ vì hoặc hiểu Phạn văn mà không
hiểu Hán văn, hoặc hiểu Hán văn mà không hiểu Phạn văn nên
dịch không được chính xác và thường tối nghĩa. Còn các
nhà dịch mới vì rành cả Phạn văn và Hán văn nên dịch thường
chính xác và rõ nghĩa. Như một số từ ngữ được dẫn đối
chiếu dưới đây giữa cũ và mới.
Dịch
cũ:
|
Dịch
mới:
|
Ngũ
chúng
|
Ngũ
ấm, ngũ uẩn
|
Hữu
lưu vô lưu
|
Hữu
lậu vô lậu
|
Sắc,
thống dương, tư tưởng, sanh tử, thức
|
Sắc,
thọ, tưởng, hành, thức
|
Tự
nhiên
|
Tự
tánh
|
Chúng
hựu
|
Thế
Tôn
|
Vô
trước quả, Ứng chơn, Ứng nghi
|
A-la-hán
|
Câu
cản đạo
|
Tu-đà-hoàn
|
Nhu
thủ
|
Văn
thù
|
Trực
hành
|
Chánh
đạo
|
Vi
trì
|
Vi
tánh
|
Ma
nạp
|
Trưởng
giả
|
Trừ
Cẩn, Trừ cẩn nữ
|
Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ni
|
Phân
vệ
|
Khất
tức
|
Trừ
nhập
|
Thắng
xứ
|
Tần
lai quả
|
Tư-đà-hàm
|
v.v...
Bộ
Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh.
Nhận
thấy các bản Ðại Tạng kinh nêu trên đã không bao gồm đủ
các kinh đã được dịch, giải, lại còn bị xiêu lạc, hư
hỏng theo thời gian, gây khó khăn cho người có chí muốn nghiên
cứu kinh Phật, nên dưới triều Ðại Chánh (1912 - 1926) ở
Nhật Bản, hai bác sĩ Nhật là ông Cao Nẫm Thuận Thứ Lang và
Ðộ Biên Hải Húc đã phát đại nguyện xuất bản Ðại
Tạng kinh bằng cách gom góp, sưu tầm, tra cứu, đối chiếu,
tổ chức, có hệ thống tất cả bản kinh đã có được thành
một Ðại Tạng kinh hoàn bị gồm 2.920 bộ cộng thành một
Ðại Tạng kinh 11.970 quyển, đóng thành 85 tập dày, đặt tên
là Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng kinh, ấn bản đầu tiên vào
năm 1921 Tây lịch, dưới triều Ðại Chánh Nhật Bản.
Trong
số 85 tập này, từ tập 1 đến tập 55 gồm kinh, luật,
luận, sớ chú, sử truyện. Từ tập thứ 56 đến 85 gồm
Tục Kinh Sớ, Tục Luật Sớ, Tục Luận Sớ...
Lại
trong số 2.920 bộ 11.970 quyển này chia làm hai loại: Loại A,
là những kinh dịch từ Phạn văn ra. Loại này gồm có 1.692
bộ cho 6.256 quyển mà trong đó đọ 2/3 là các kinh luật chính,
còn 1/3 là những kinh có kèm lời chú giải và các sáng tác
phẩm của các vị cao tăng Ấn Ðộ.
Và
trong số các kinh dịch từ Phạn văn này những bộ kinh lớn
đều có bản trùng dịch, nghĩa là cùng một nguyên bản mà có
nhiều người dịch thành ra nhiều bản. Ví dụ trọn một
bộ kinh Trường A-hàm có 30 kinh trọn 22 quyển, nhưng đã có
một người dịch trọn bộ, mà 18 người khác trích dịch
từng phần thành ra 18 bộ với số quyển không đồng nhau,
khiến cho một bộ Trường A-hàm 22 quyển đã tăng bội thành
19 bộ 80 quyển. Hoặc như một bộ kinh Pháp Hoa 7 quyển, nhưng
đã có 4 nhà dịch thành ra 4 bộ với số 25 quyển. Trong Ðại
Tạng kinh hiện nay có rất nhiều trường hợp trùng dịch như
vậy, nên số bộ và số quyển mới tăng lên tới 1.692 bộ
cho 6.255 quyển như đã nêu trên.
Loại
B là những bản kinh có kèm chú giải và những sáng tác
phẩm của các nhà Phật học Trung Hoa và Nhật Bản. Loại này
gồm có 1.228 bộ cho 5.714 quyển. Sở dĩ có tới con số này,
vì có trường hợp một bản kinh mà có tới 20 người chú
giải trở thành 20 bộ với số quyển tăng lên.
Theo
lời hai bác sĩ ghi trong lời tự tựa cuốn Mục Lục Ðại Chánh
Tân Tu Ðại Tạng Kinh của họ thì Bộ Ðại Chánh Tân Tu này
có 5 đặc sắc lớn:
1.
Nghiêm mật bác thiệp, bởi nó thu góp đầy đủ không
những các kinh đã lưu hành từ trước mà luôn cả các bản
kinh mới phát quật ở các quốc thổ xưa như Vu Ðiển, Ðôn
Hoàng, Qui Tư, Cao Xương v.v... và những văn kinh xưa dưới
thời Lục Triều, những thủ bản dưới thời Ðường, Tống
tản mát trong các danh lam cổ sát.
2.
Chu đáo thanh tân, bởi nó có sự đối chiếu, cân nhắc
chia thành bộ loại như A-hàm bộ, Bát-nhã bộ, Pháp Hoa bộ
v.v... những kinh nào nghi là ngụy tạo thì in riêng chứ không
để xen lộn trong các kinh khác. Nếu trong kinh văn gặp câu
hoặc chữ nào thấy có sự sai khác giữa các bản thì đều
có bị chú ở dưới mỗi trang rất rõ ràng, tối tân.
3.
Phạn Hán đối khán, bởi nó có sự đối chiếu giữa văn
kinh chữ Phạn và chữ Hán, từ đó nếu gặp tên kinh, tên
xứ, tên người v.v... cần thiết, thì đều có ghi thêm chữ
Phạn hoặc Pali ở dưới mỗi trang.
4.
Nội dung sách dẫn, bởi nó có bản đối chiếu sách dẫn
các tên kinh và các từ ngữ trong các kinh.
5.
Tiện lợi. Rất tiện lợi cho việc tra cứu và mang theo. Nó
được xem là Ðại Tạng kinh đầy đủ có tổ chức nhất
hiện nay, giúp cho các nhà Phật học khắp thế giới bằng vào
để nghiên cứu hoặc trích dẫn.
Ảnh
hưởng của văn khí đối với nền văn học Trung Hoa.
Theo
nhận xét của nhà đại học giả Trung Hoa là ông Lương
Khải Siêu đăng trong cuốn Phật Học Nghiên Cứu Thập Bát
Thiên của ông xuất bản tháng 4 năm 1930 thì văn kinh dịch
từ Phạn ra Hán có một ảnh hường rất lớn đối với
nền văn học Trung Hoa:
1.
Ảnh hưởng trên từ ngữ. Theo ông Lương Khải Siêu 35.000
từ trong bộ Phật Giáo Ðại Từ Ðiển của người Nhật là
35.000 từ do các vị cao tăng sáng tạo để dịch kinh, nó đã
nghiễm nhiên trở thành một bộ phận trong văn học Trung Hoa.
Thêm vào 35.000 từ tức là thêm vào 35.000 quan niệm. Trong đó
có những từ Trung Hoa nhưng lại được mang vào một ý nghĩa
mới, như "Chân như", "Vô minh", "Pháp
giới", "Thiền định", "Chúng sanh", "Nhân
duyên", "Quả báo" v.v... và những từ đọc theo
âm chữ Phạn lâu ngày thành quen như "Niết-bàn",
"Bát-nhã", "Du-già", "Sát-na", "Do
tuần", "Hằng-hà" v.v... Ðây là những từ theo ngài
Huyền Trang nó nằm ở trong năm trường hợp không dịch nghĩa
(ngũ chủng bất phiên):
1.
Vì bí mật như chữ Ðà-la-ni, Ta-bà-ha;
2. Vì hàm nhiều nghĩa như chữ Bạt-già-phạm, A-la-hán;
3. Vì ở Trung Hoa không có thứ đó như chữ Diêm-phù-đề (cây);
4. Vì giữ theo người
dịch xưa như chữ A-nậu-bồ-đề;
5. Vì để sanh tâm trọng thị như chữ Bát-nhã v.v...
2.
Ảnh hưởng trên ngữ pháp và văn thể. Ðiều rất dễ
nhận thấy trong văn kinh Phật giáo không dùng chi, hồ, giả,
dã, hỷ, yên, tai, như trong văn chương Trung Hoa; không dùng
lối biền ngẫu hoa mỹ; không rập theo cách điệu cổ văn; cú
pháp có nhiều đảo trạng; trong một câu hoặc một đoạn có
bao hàm lời giải thích; văn ngữ nhiều lặp lại; có khi từ
10 đến 20 chữ làm thành một danh từ bao hàm hình dung cách;
tảng văn và thi kệ xen nhau trong một đoạn; thi kệ không có
vận. Ðó là một lối cấu tạo hình thức văn học rất
mới đối với Trung Hoa, mà khi đọc đến tất cảm thấy
một hòa điệu êm đẹp và người có công lớn trong việc này
là ngài La-thập và môn đệ của ngài.
3.
Ảnh hưởng đến tình hình phát triển văn học.
Việc
dịch kinh Phật đã kích thích cuộc cách mạng trong văn học
Trung Hoa. Tập thơ dài đầu tiên trong các bài thơ cổ của
Trung Hoa, tập "Khổng Tước Ðông Nam Phi" và những áng
văn học thuần của Trung Hoa cận đại như tiểu thuyết, ca
khúc đều có chịu ảnh hưởng mật thiết từ
lối văn dịch kinh Phật, nhất là từ bộ "Phật
Bổn Hạnh Tán" của Bồ-tát Mã Minh. Bộ này là một
bản trường ca trên 30.000 tiếng, như là một bộ tiểu
thuyết, đã lấy nguyên liệu từ bốn bộ A-hàm. Chính văn
kinh Phật đã giúp cho giới văn nghệ Trung Hoa giàu khả năng
tưởng tượng, cách tân bút pháp, như loại văn bạch thoại,
các bộ tiểu thuyết Tây Du Ký, Sưu Thần Ký, Thủy Hử,
Hồng Lâu Mộng là những tác phẩm đã chịu ảnh hưởng không
ít từ các bộ Ðại Trang Nghiêm kinh luận, kinh Hoa Nghiêm,
kinh Ðại bát Niết-bàn, cho đến các bản tập dịch, truyền
kỳ, đan từ các trường thiên ca khúc từ đời Tống, Nguyên,
Minh về sau, cũng đã gián tiếp chịu ảnh hưởng các bộ
Phật Bổn Hạnh Tán v.v... (xem thêm bài "Phật Giáo cống
hiến gì cho nước Trung Quốc" trong cuốn "Phật Giáo
Chính Tín" của Thánh Nghiêm).
Hồ
Thích, một học giả lớn hiện đại của Trung Hoa cũng có
nhận định tương tự khi ông viết trong Hồ Thích Văn Tồn (và
được dẫn bởi sách Phật Giáo Chính Tín của Thánh Nghiêm)
như sau: "Trong các kinh do Cưu-ma-la-thập dịch có các bộ
kinh Kim Cang, Pháp Hoa và Duy-ma-cật được lưu hành rất rộng
rãi và lâu dài, đã có ảnh hưởng không nhỏ trong giới văn
học và mỹ thuật của Trung Hoa. Bộ kinh Pháp Hoa tuy không
phải là tiểu thuyết, nhưng là cuốn sách có nhiều ý vị văn
học, trong đó có một số truyện ngụ ngôn đẹp nhất trong
văn học thế giới".
Ảnh
hưởng của kinh Phật đến học thuyết đạo Khổng.
Trong
cuốn Nhân sanh quan và thơ văn Trung Hoa (Nguyễn Hiến Lê dịch
in năm 1970) ông Lâm Ngữ Ðường, một đại văn hào Trung Hoa
cận đại viết: "Ảnh hưởng của đạo Phật lớn tới
nỗi cãi tạo được học thuyết của đạo Khổng. Từ đời
Chu trở đi, các học giả theo Khổng giáo đại để chỉ làm
cái việc hiệu đính, chú thích kinh thư của Thánh Hiền. Từ
khi đạo Phật du nhập Trung Quốc có lẽ vào thế kỷ thứ
nhất, mới phát sinh phong trào nghiên cứu đạo Phật. Phong trào
đó tiến đều trong các triều đại Bắc Ngụy và Ðông Tấn.
Các học giả theo Khổng giáo chịu ảnh hưởng đó, thay đổi
học phong, bớt công việc hiệu đính, chú thích mà nghiên
cứu dịch lý.
Ðời
Tống do ảnh hưởng của đạo Phật mà Khổng giáo có thêm
được mấy học phái mới, gọi là phái Lý học. Những học
phái đó vẫn theo truyền thống luận về đạo đức, nhưng
những danh từ Tinh, Lý, Mệnh, Tâm, Vật, Tri đã có một giá
trị đặc biệt, được đem ra bàn đi bàn lại (địa vị
mấy tiếng đó cũng quan trọng như mấy tiếng nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín thời Khổng Mạnh). Phong trào nghiên cứu kinh
Dịch (một bộ bàn về những biến hóa của nhân sự) đột
nhiên phát triển mạnh.
Tất
cả các nhà Nho đời Tống, nhất là anh em họ Trình (Trình
Minh Ðạo, Trình Y Xuyên) đều nghiên cứu kỹ Phật giáo và
thêm được nhiều kiến giải mới khi quay trở
về đạo Khổng. Chẳng hạn Lục Cửu Uyên dùng một
danh từ của đạo Phật, tiếng "giác", "giác
ngộ" để trỏ sự nhận thức được chân lý. Ðạo
Phật đã làm thay đổi được tính cách của học thuyết
Khổng Mạnh. Ảnh hưởng của nó tới các nhà thơ như Tô
Ðông Pha cũng mạnh như vậy. Bọn văn nhân có phản kháng
học thuyết của các nhà lý học mà dùng một bút pháp nhẹ
nhàng, một tinh thần tài tử, du hý để khen đạo Phật!
Khái
quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo
vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế
giới. Chính từ Ðại
Tạng kinh Hán văn mới có Ðại Tạng kinh Nhật văn, Triều Tiên
văn. Văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng khắp vùng Ðông Á và thế
giới. Ðại Tạng kinh Hán văn cũng ảnh hưởng khắp vùng
Ðông Á và thế giới. Nếu không nhờ các vị cao tăng, cư sĩ
phát đại nguyện đại hạnh và chí nguyện truyền bá Chánh
pháp, vượt bỏ gian nan, một mình một bóng mòn gót trên bước
đường hiểm trở lần tới Trung Hoa kiên trì dịch thuật lâu
dài, thì đã không thể có được một kho tàng kinh điển Hán
tự đồ sộ như ngày nay cho chúng ta học đạo và nghiên
cứu!
--- o0o ---
Chân
thành cảm ơn cư sĩ Bình Anson đã tặng bản vi tính này.