KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI


Lê Sỹ Minh Tùng PL. 2556 DL. 2012
30/06/2012 14:07 (GMT+7)
Số lượt xem: 110879
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

Chương Thứ Nhất

Phẩm TỰA

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà & Mỹ Ngân

 

Tôi nghe như thế này, một lúc nọ đức Phật trụ ở núi Kỳ-xà-quật, nơi thành Vương Xá, cùng với số chúng tụ họp xung quanh Phật rất đông, gồm đủ các thành phần:

Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán 12.000 người. các vị đó đều là A la hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt hết mọi sự ràng buột, tâm hằng tự tại. Đó là các vị:A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Dà Gia Ca Diếp, Nan Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Chiên Diên, Kiếp Tân Na, Kiều Phạm Ba Đề…Bậc hữu-học và vô-học 2.000 người. Bà Tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng với quyến thuộc sáu nghìn người câu hội. Mẹ của La Hầu La là bà Tỳ Kheo ni Gia Du Đà La cũng cùng quyến thuộc câu hội. Tỳ-kheo-ni 6.000 người.  Bồ-tát 80.000 người. Các vị Bồ Tát là Văn Thù Sư Lợi, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thường Tinh Tấn, Dược Vương… Trời Đế-thích và quyến thuộc 20.000 người. Tứ Đại-Thiên-Vương và quyến thuộc 10.000 người. Trời Tự-Tại và Đại-tự-tại cùng quyến thuộc 30.000 người. Phạm-Thiên-Vương và quyến thuộc 12.000 người. Tám vị Long-Vương và quyến thuộc; A-tu-la-vương và quyến thuộc; Ca-lầu-la-vương và quyến thuộc nhiều trăm ngàn người. Có vua A-xà-thế, con bà Di-đề-hi cùng quyến thuộc tùy tùng câu hội…

Trong hội Pháp Hoa, kinh dùng con số 12.000 vị A la hán là ẩn dụ. Tại sao? 12.000 là kinh muốn ám chỉ con số 12 bởi vì 12 là biểu trưng cho sáu căn và sáu trần, không có sáu thức. Bình thường thập bát giới là sáu căn, sáu trần và sáu thức là thế giới của chúng sinh còn sống trong điên đão khổ đau bởi vì căn tiếp xúc với trần liền sinh thức để phân biệt rồi bám chặt vào thức nên vọng tưởng phát sinh. Nhưng ở đây các vị A la hán đã dứt hết lậu hoặc nên tuy căn có tiếp xúc với cảnh vì trần đồng nghĩa với nhiễm ô, mà vẫn như như bất động tức là thức không sanh. Đó là mắt thấy sắc mà không bị sắc mê hoặc, tai nghe âm thanh mà không bị tiếng thị phi phải quấy chi phối…nghĩa là kiến sắc phi can sắc, văn thanh bất nhiễm thanh…nên các ngài luôn tự tại, liễu liễu thường minh, như như bất động.

Đối với kinh điển Phật giáo Đại thừa, một bộ kinh phải hội đủ sáu điều kiện để được xem là chánh kinh, do Phật thuyết chớ không phải là ngụy kinh. Đó là “Lục chủng thành tựu” hay “Lục Trùng Chứng tín”. Đầu kinh có câu “Tôi nghe” ám chỉ tôn giả A Nan, người đã nghe những lời Phật thuyết, là văn thành tựu. Câu: “như thế này” chỉ pháp thoại mà A Nan nghe Phật nó, là tín thành tựu. Một thưở nọ…là thời thành tựu. Kinh được Phật nói tại núi Kỳ Xà Quật là xứ thành tựu. Đức Phật, vị chủ tọa trong pháp hội là chủ thành tựu.  Và sau cùng đại chúng gồm có những ai…là chúng thành tựu. Thật tình mà nói, nếu có người muốn chế ra ngụy kinh thì họ có thể bắt chước phương pháp “Lục chủng thành tựu” này đâu có khó khăn gì. Ngày nay thế giới kinh điển không còn khó khăn để truy cập nguồn gốc xuất xứ như ngày xưa, vì thế người tu Phật cần phải dùng trí tuệ để nghiên cứu thời điểm, nội dung, tư tưởng và dĩ nhiên sẽ tìm ra xuất xứ của kinh. Thử nghĩ lại, nếu con người biết sống thật, sống đúng với chân lý thì Phật ra đời để làm gì? Vì thế Phật có Phật giả, kinh Phật cũng có kinh giả là chuyện thường. Hãy suy nghiệm lời Phật dạy trong kinh Kalama rằng: "Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành". Giác là thức tỉnh, là sáng suốt, là có chánh niệm. Mê là ai nói gì cũng nghe, cũng tin, không dám bát bỏ, sợ tội. Do đó khi nghe bộ kinh nào không phù hợp với chân lý, không đem lại sự lợi ích gì cho mình và cho người, cho dù kinh có để tên ông Phật hay Bồ Tát nào thì cũng cần phải xét lại mà không hề có tội lỗi gì hết. Tại sao? Bởi vì chính đức Phật không viết kinh nào cả mà mãi đến gần 500 năm sai khi Ngài nhập diệt kinh điển mới bắt đầu được ghi chép lại. Vì thế kinh điển Phật giáo được truyền miệng gần 500 năm và hoàn toàn dựa vào trí nhớ của người đọc kinh. Đó là chưa kể từ khi Phật giáo chuyển sang Phật giáo bộ phái thì tinh thần Nguyên thủy biến đổi cho nên trong quá trình truyền miệng qua nhiều thế hệ như vậy thì thế nào cũng có chuyện sai lạc ít nhiều, tam sao thất bản là chuyện thường. Tôn chỉ của đạo Phật là “Duy tuệ thị nghiệp” nghĩa là lấy trí tuệ làm sự nghiệp, làm nền tảng cho cuộc sống để sống theo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý. Đây  là tinh thần khách quan bình đẳng, dân chủ nhân bản của nhà Phật, khác hẳn với giáo điều chủ nghĩa của những tôn giáo khác nghĩa là thấy sai mà không được phép cải lại.

Trước khi đức Phật sắp nhập diệt, ngài A Nan thỉnh đức Phật bốn điều như sau:

1)Khi kết tập kinh điển thì đầu kinh phải dùng câu gì để tín chúng tin rằng đây là lời Phật nói chớ không phải A Nan tự ý nói ra. Phật dạy rằng:”Đầu kinh bắt đầu bằng câu “Tôi nghe như thế này (như thị ngã văn) và sau đó trong thính chúng gồm có những ai…”

2)Khi Phật còn tại thế, Phật là thầy. Sau khi Phật nhập diệt rồi thì đại chúng sẽ tôn ai lên làm thầy? Phải chăng ý của A Nan là sau khi Phật nhập diệt thì ai sẽ thay thế đức Phật giữ vai trò lãnh đạo tăng đoàn? Phật trả lời rất giản dị và thẳng thắn là phải lấy Giới (Ba La Đề Mộc Xoa) làm thầy. Do đó, Giới chính là thầy của tất cả Tỳ kheo, Tỳ kheo ni và Phật tử tại gia. Đây là điểm đặc thù của Phật giáo vì giáo lý của đức Phật luôn chống sự bất công và bất bình đẳng trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ vì thế đạo Phật là đạo giải thoát cho nên thành lập tăng đoàn thì được mà giáo hội thì không bởi vì giáo hội là biểu tượng của đẳng cấp, bất bình đẳng đưa tới sự tranh chấp giữa những giáo hội với nhau. Giới luật trong Phật giáo có một giá trị tuyệt đối cho người hành đạo. Bởi vì người giữ giới trong sạch, y theo giới luật tu hành thì tâm mới định và từ đó trí tuệ sẽ phát sinh. Vì vậy có giữ Giới nghiêm minh mới giữ được Phật tâm. Đối với Phật giáo, giới và hạnh không phải chỉ để giữ mà để tu bởi vì giới là pháp môn tu học chớ không phải là tín điều bắt buộc tín đồ phải giữ. Vì vậy tu giới là thực hành ly dục, ly ác pháp để tâm dần đến chỗ thanh tịnh trong khi giữ giới chỉ có tác dụng tiêu cực cho nên ái dục không giảm, không diệt mất. Thí dụ một người có thể giữ giới trường chay, nhưng lòng vẫn còn tham ăn, tham mặc…thì ái dục khó dứt nên không có an tịnh. Ngược lại, một người tu giới là họ luôn kiểm soát thân, khẩu, ý và luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm thì cái nguyên nhân gây ra phiền não khổ đau không có cho nên họ sống trong an lạc, tự tại.

Ngày nay đạo Phật chao đảo chông chênh là vì con người chạy theo hình tướng sinh diệt, xao lãng giới luật hay biến chế giới luật mà lạc mất đường về, đánh mất Phật tâm của chính mình.

3)Đối với những Tỳ kheo ác tính thì phải đối xử với họ như thế nào?

Đối với những Tỳ kheo ác tính, Phật dạy nên dùng Phạm đàn mà trị bởi vì Phạm đàn lẳng lặng, không cần đánh chửi, cứ lẳng lặng đuổi cổ đi. Nói cách khác nên tránh xa họ và lấy sự sự yên lặng đối đãi với họ. Từ sự lạnh nhạt đó khiến lòng họ hổ thẹn, hồi tâm trở về với chánh đạo.

4)Sau khi Phật nhập diệt, đệ tử đời sau nương theo pháp nào tu hành?

Phật dạy muốn giải thoát thì nương theo pháp Tứ Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta) dạy rằng:

-Quán niệm thân (Kayanupassana) trong thân, nhiệt tâm (atapi), hiểu biết rõ ràng (sampajano), giữ chánh niệm(satima), dứt bỏ tham ái (abhijjha) và sầu khổ (domanassa) trong thế gian (loke) này.

-Quán niệm thọ (vedananupassana);

-Quán niệm tâm (cittanupassana);

-Quán niệm pháp (dhammanupassana).

Vì lẽ ấy Như Lai tuyên ngôn:

Có con đường duy nhất để chúng sanh tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệ, và để chứng ngộ Niết Bàn”.

Kinh viết rằng một lúc nọ Phật đang ở tại núi Kỳ Xà Quật, tại thành Vương Xá…Ở đây, tuy kinh không xác định chính xác thời gian nào Phật nói kinh Pháp Hoa, nhưng dựa theo truyền thuyết thì đức Phật bắt đầu thuyết giảng kinh Pháp Hoa chín năm cuối cùng trước khi Ngài nhập diệt. Núi Kỳ Xà Quật là một tên gọi khác của núi Linh Thứu nằm phía Đông Bắc thành Vương Xá, kinh đô nước Ma Kiệt Đà có vua là A Xà Thế mà kinh điển thường nhắc đến.

Đức Phật là bậc toàn giác, hoàn toàn trong sạch. Vì thế chữ “Giác” có những ý nghĩa như sau:

1)Bổn giác: là sự giác ngộ Phật tánh vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh mà không cần trải qua sự tu hành. Bổn giác trong kinh Pháp Hoa chính là tri kiến Phật. Sự giác ngộ Phật tánh không có nghĩa là thành Phật mà hành giả chỉ trực nhận được Phật nhân của mình còn đến Phật quả thì dĩ nhiên cần phải trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp tu nữa mới thành chớ không phải ngộ nhập Phật tri kiếnthì tức thì thành Phật được. Tại sao? Bởi vì trong ta, tập khí ngã mạn, tham sân si kết nhóm sâu dày nên không dễ gì một sớm một chiều mà nhỗ tận gốc được.

2)Thỉ giác: Một khi chúng sinh phát tâm tu học Phật Pháp, nghiên cứu kinh điển giáo lý thì tâm chuyển dần từ mê đến ngộ.

3)Cứu cánh giác: Tiến trình tu học Phật pháp là Văn, Tư, Tu. Văn là nghe, tư là suy nghĩ, nghe ở tai rồi suy nghĩ ở tâm và tu trong sự làm thì trí tuệ vô lậu phát sinh, thấy được chân lý. Nghe ở đây là nghe chánh pháp, nghe Phật pháp và suy nghĩ đúng với chân lý thì sự thực hành mới có lợi lạc, mới phát sinh trí tuệ sáng suốt.

Đức Phật mô tả sự thành đạo của Ngài sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ Đề như sau: Trước hết Ngài đắc Tứ thiền và sau đó trong canh ba của đêm ấy Ngài chứng Tam minh: Túc mạng minh giúp Ngài nhớ lại được các đời sống trong quá khứ. Thiên nhãn minh cho Ngài thấy rõ được sự sống chết của chúng sinh tùy theo nghiệp của họ. Sau cùng Lậu tận minh soi sáng cho Ngài thấu biết được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Vậy minh là gì?

Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy,Minh (vijjã)là sáng suốt, thấu đạt thực chất của đời sống, là tuệ Minh Sát, có Tri Kiến của bậc Giác Ngộ, hay chứng ngộ Tứ Diệu Ðế. Minh cũng có nghĩa là thông suốt Thập Nhị Nhân Duyên, tức những yếu tố phát sanh do những yếu tố trướcđó tạo duyên và trở lại làm duyên cho những yếu tố khác phát sanh. Và cứ thế mười hai yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau trong một vòng lẩn quẩn của những kiếp sống, sanh tử, tử sanh triền miên diễn tiến, gọi là vòng luân hồi. Do sự phá tan những bí ẩn của kiếp nhân sinh bằng cách thấu hiểu trọn vẹn và đầy đủ mối liên quan giữa mưới hai yếu tố trên, bậc Thánh Nhân cũng đập vỡ tung cái kính ảo kiến mà từ vô lượng kiếp xuyên qua đó ta thấy giả ngỡ là thật, thấy vô thườnglà vĩnh cửu trườngtồn, xem đau khổ là hạnh phúc và cái vô ngã là linh hồn trườngcửu và tin có một Thần Linh Tạo Hóa trong khi chỉ có sự phát sanh của những yếu tố tùy thuộc và những yếu tố trướcđó.

Phật giáo Nguyên thủy nhìn đức Phật bằng một góc độ rất thực tế, dựa trên con người lịch sử. Vì thế đức Phật đối với họ là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị A la hán. Trong ngũ bộ kinh Nikayas, đức Phật đã nhiều lần xác nhận rằng hằng trăm nếu không muốn nói hằng ngàn đệ tử thuộc hàng Thánh giả của Ngài cũng chứng đắc các cấp độ tâm linh ngang bằng với đức Phật. Trong kinh Bộ Tương Ưng, đức Phật tuyên bố chính Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputa) đã chứng ngộ và thâm hiểu giáo lý Duyên Khởi (Pratiyasamutpada) rất sâu thẳm như chính Thế Tôn vậy. Ngoài ra, còn có những bậc Thánh giả khác như các Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahkassapa), Mục Kiền Liên(Maggallana), Phú Lâu Na…cũng chứng đắc một số khả năng về những lãnh vực như giảng giải thuyết pháp, xuất nhập các cấp độ thiền, thi thố thần thông ngang bằng đức Phật. Vì thế chứng quả A la Hán là dứt hết các lậu, chẳng còn phiền não, thân tâm hằng tự tại thanh tịnh Niết bàn.

Đại chúng đều đảnh lễ cúng dường tán thán Phật, rồi lui ngồi qua một phía.

Bấy giờ đức Thế-Tôn vì chư đại Bồ-tát nói kinh Đại-Thừa tên là:

Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm

Trước khi nói kinh Pháp Hoa, Phật vì các hàng Bồ Tát nói kinh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Kinh này được xem như là phần dẫn nhập cho kinh Diệu Pháp Liên Hoa để khai thị cho chúng sinh thấu hiểu thật tướng của vạn pháp là vô tướng. Kinh Vô Lượng Nghĩa không có nghĩa là kinh này có rất nhiều nghĩa, vô số vô lượng không thể đếm hết được. Vô Lượng Nghĩa ở đây được hiểu là không giải thích, cắt nghĩa được. Cho dù ngôn từ, văn tự của con người có khéo léo thiện xảo đến đâu thì cũng không bao giờ có thể diễn giải thấu đáo được cái chân lý của ý kinh Phật dạy trừ phi người ấy tự mình thể nhập được chân lý nhiệm mầu đó. Vì thế kinh điển không có mục đích giải thích chân lý mà chỉ có thể giúp hành giả trực nhận được chân lý. Cũng như “Như nhơn ẩm thủy lãnh noãn tự tri” nghĩa là mình uống nước thì chỉ có mình mới biết được vị nóng, lạnh, ngon, dở của nước mà thôi. Giáo Bồ Tát Pháp là phương pháp giáo hóa các vị trong hàng Bồ Tát tu để thành Phật chớ kinh này không nhắm vào hàng phàm phu hay Thanh Văn, Duyên Giác. Thậm chí kinh này hàng phàm phu không thể tiếp thu nổi. Phật Sở Hộ Niệm nghĩa là kinh này cũng chính chư Phật hằng hộ niệm.

Cùng với nhiều Bồ-tát Ma-ha-tát, Bồ-tát Đại Trang Nghiêm bạch Phật rằng: “Chúng con mong được hỏi Ngài về giáo pháp của đức Phật. Chúng con thiết tha hy vọng Ngài nghe chúng con”.

Đức Phật dạy: “Hay lắm ! Hay lắm ! Các Ông hỏi Ta câu hỏi này thật đúng lúc. Chẳng bao lâu nữa Ta sẽ nhập Niết-bàn. Ta e rằng sau khi Ta nhập diệt, mọi câu hỏi sẽ bị bỏ lửng. Hãy cứ hỏi Ta những gì các ông muốn. Ta sẽ trả lời mọi câu hỏi mà các Ông muốn hỏi”.

Ngay sau đó, Bồ-tát Đại Trang Nghiêm cùng với nhiều Bồ-tát khác cùng nói:“Nếu chư Bồ-tát Ma-ha-tát đã tu tập giáo lý Đại thừa mà muốn thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Giác một cách nhanh chóng thì chư vị phải tu tập theo pháp môn nào ?”

Đức Phật dạy: “Nay có một pháp môn thánh diệu gọi là Vô Lượng Nghĩa. Nếu một vị Bồ-tát học pháp môn này thì vị ấy sẽ thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Giác. Một vị Bồ-tát muốn học pháp môn Vô Lượng Nghĩa thì phải nên quán sát rằng tất cả các pháp, hay hiện tượng, có vẻ khác nhau và thay đổi không ngừng, nhưng thực ra cái căn bản của chúng là một năng lực lớn lao không thay đổi thể hiện theo nhiều cách khác nhau. Các Ông nên hiểu rằng tại căn gốc của tất cả các pháp có một chân lý vượt khỏi sự phân biệt và vĩnh viễn bất biến. Chúng sinh vì không biết chân lý này nên phân biệt một cách ích kỷ “đấy có lợi” hay “đấy không có lợi”. Do đó, họ nuôi dưỡng những tư tưởng xấu, khiến khởi sinh nhiều nghiệp xấu và luân hồi trong sáu cõi”.

Sáu cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, người, A tu la, và chư thiên này cứ liên tục biến hiện trong tâm thức con người và chuyển từ cảnh giới này sang cảnh giới khác. Trạng thái này của tâm gọi là “luân hồi trong sáu cõi” . Vì thế con người không đợi đến lúc chết mới thực sự chuyển vào cảnh giới tương xứng với nghiệp quả của mình mà thật ra một khi tâm thức chuyển thì cảnh giới cũng chuyển theo. Do đó thiên đàng do ta mà địa ngục thì cũng do ta. Biết làm chủ bản tâm, không chạy theo phiền não khách trần, tâm hằng tự tại thì không bao giờ sa vào tam ác đạo được.

Đức Phật dạy tiếp rằng:

-Này Đại Trang Nghiêm! Bồ-tát muốn tu học pháp môn Vô Lượng Nghĩa thì phải nên quan sát: Hết thảy  các pháp, từ trước đến nay, tánh tướng thường rỗng rang vắng lặng, thanh tịnh bản nhiên, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch,  không thêm, không bớt, không đến, không đi, không một, không khác, không thường, không đoạn,  không ra, không vào, không lùi, không tiến… Ví như hư không, không có cái hai.  Chỉ vì  tâm chúng sanh cố chấp.  Chấp lấy cái giả dối rồi cho là cái này, cái kia, là được, là mất… khởi ra tâm niệm không lành, tạo mọi điều ác nghiệp; do vậy mà loanh quanh trong sáu nẻo chịu mọi sự khổ đau vô lượng ức kiếp mà không tự biết để tìm lấy cái lối ra!

Vạn pháp trong thế gian tuy có sinh, nhưng không thật sự sinh và diệt, nhưng không thật sự mất hẳn chỉ là huyễn diệt. Khi nhân duyên hòa hợp thì gọi là sinh và khi nhân duyên tan rã thì gọi là diệt vậy thôi cho nên không có cái gì vĩnh viễn tồn tại hay mất hẳn cả vì thế mọi được gọi là bất sinh bất diệt. Đây chẳng qua bản thể duyên sanh ra hiện tượng thì gọi là sinh và khi nhân duyên ly tán, hiện tượng quy về với bản thể thì gọi là diệt chớ không có cái gì thật sinh hay thật diệt cả. Vì thế các pháp từ xưa nay thường vắng lặng là như thế đó. Cũng như vì có gió tạo ra những đợt sóng lên xuống nhấp nhô. Hết gió, sóng lặng, nước yên vậy thôi. Vấn đề sinh tử con người cũng thế, nhân duyên kết tụ, bản thể duyên sinh ra hiện tượng thì sinh ra con người. Đến lúc hết duyên, hiện tượng quy về bản thể thì chúng ta gọi là chết vậy thôi. Đây chỉ là một chu kỳ trong vô vàn chu kỳ trong kiếp sống của con người vì thế sống chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu bể nên chẳng có gì tham luyến hay sợ hãi cả. Chân lý bất sinh, bất diệt tức là sanh mà không thật sanh, sanh để rồi diệt và diệt mà không phải thật diệt, diệt để rồi lại sanh, sanh sanh diệt diệt vô cùng vô tận. Nói cách trong thế gian nhân duyên trùng trùng nương gá tác động hình thành thì gọi là sanh và khi nhân duyên trùng trùng tan rã thì gọi là diệt. Vì thế sanh không thật sanh và diệt cũng không thật diệt. Vì ngộ được chân lý bất sinh, bất diệtnên chúng sinh xem tấm thân thất đại này cũng như mây tụ tán hợp tan vậy thôi. Mà đã là “Ngũ uẩn phù hư không khứ lai” thì con người chẳng có gì phải sợ khi tấm thân này còn và chẳng có gì đau khổ khi nó mất. 

Đức Phật dạy các Bồ-tát như sau:

-Này các Bồ-tát Ma-ha-tát, khi các vị quán sát tất cả các chúng sanh đang luân hồi trong sáu cõi, các vị sẽ khởi lên lòng thương xót và thể hiện lòng đại từ bi để cứu vớt họ khỏi các cõi ấy. Trước tiên các vị phải thâm nhập tất cả các pháp.  Nếu các vị thâm hiểu các pháp này rồi thì các vị tự nhiên có thể hiểu được trong tương lai những gì sẽ khởi sinh từ các pháp. Các vị cũng có thể hiểu rằng các pháp ổn định (trụ) không biến đổi trong một thời gian. Các vị cũng có thể hiểu rằng các pháp biến đổi (dị). Lại nữa, các vị có thể hiểu rằng các pháp cuối cùng sẽ tiêu diệt (diệt). Do đó các vị có thể quán sát và biết được lý do sinh khởi của các pháp thiện và các pháp bất thiện. Sau khi đã quán sát và biết tất cả bốn tướng của các pháp từ lúc khởi đầu cho đến lúc chấm dứt, kế đến, các vị cần phải quán sát rằng không có pháp nào được ổn định dù là trong chốc lát mà sinh và diệt trở lại trong mọi lúc. Sau khi đã quán sát như thế, các vị có thể biết khả năng, bản chất và những tham dục mà mọi chúng sanh sở hữu giống như các vị đã đi vào trong từng tâm thức của họ.

-Vì các chúng sanh có vô lượng bản chất và tham dục, việc thuyết giảng của các vị cho họ cũng vô lượng và vì việc thuyết giảng như thế là vô lượng nên ý nghĩa của nó cũng vô lượng. Sở dĩ như thế là vì giáo pháp vô lượng nghĩa sinh khởi từ một Pháp. Một Pháp này là gì ? Đó là một chân lý. Chân lý đó là gì ? Nó vô tướng, vượt khỏi sự phân biệt về tất cả các sự vật. Các sự vật thì giống nhau trong việc sở hữu Phật tính.  Sự việc này là chân lý và là thực tướng của tất cả các sự vật (các pháp). Này các bồ-tát Ma-ha-tát, lòng từ bi mà các vị biểu hiện một cách tự nhiên sau khi đã hiểu cái thực tướng này thì có công đức chứ không phải vô ích. Với lòng từ bi này, các vị diệu độ các chúng sanh khỏi khổ đau và hơn nữa, còn khiến hết thảy chúng sanh đạt đến hỷ lạc. Do đó nếu tu tập toàn hảo pháp môn Vô Lượng Nghĩa, chắc chắn một vị Bồ-tát chẳng bao lâu sẽ thành tựu Vô thượng Chánh giác.

Thế rồi Bồ-tát Đại Trang Nghiêm hỏi đức Phật một câu hỏi khác: “Dù chúng con không nghi ngờ về các pháp do đức Phật giảng dạy, chúng con vẫn cứ xin hỏi Ngài lại vì sợ rằng tất cả các chúng sanh sẽ bối rối và không thể hiểu pháp. Ngài đã liên tục giảng cho các chúng sanh tất cả các pháp, nhất là bốn pháp, suốt trong hơn bốn mươi năm kể từ khi đức Như Lai chứng ngộ. Bốn pháp này là khổ, không, vô thường và vô ngã. Khổ nghĩa là đời người thì đầy cả mọi thứ khổ đau. Không là bảo rằng tất cả các sự vật có vẻ khác nhau nhưng chúng ta phải phân định cái khía cạnh bình đẳng vượt ngoài những dị biệt. Vô thường diễn tả sự việc trong thế giới này không có cái gì hiện hữu trong một hình tướng luôn luôn cố định, mà tất cả các sự vật đang luôn luôn biến đổi. Vô ngã là biểu lộ rằng không có cái gì trong vũ trụ này hiện hữu riêng biệt mà không liên hệ với các sự vật khác và chúng ta không được để bị chấp trước vào cái tự ngã của chúng ta. Lại nữa, bằng nhiều cách, Ngài đã dạy chúng con các thực tướng của tất cả các sự vật. Những ai đã nghe các pháp này đều đã đạt được nhiều công đức khác nhau, đã mong mỏi chứng ngộ và cuối cùng đã đạt đến cấp độ cao nhất của Bồ-tát đạo.

Như thế, hình như đức Như Lai đã giảng cùng các pháp như thế trong suốt bốt mươi năm ấy, nhưng chúng con biết rằng trong thời kỳ này, Ngài đã giảng các pháp ấy càng lúc càng sâu xa. Tuy nhiên, chúng con sợ rằng tất cả các chúng sanh có thể không phân biệt được những khác biệt giữa các giáo pháp của Ngài trước kia và hiện giờ. Bạch Thế Tôn, xin Ngài giảng rơ cho tất cả các chúng sinh”.

Bấy giờ đức Phật nói với Bồ-tát Đại Trang Nghiêm: “Hay lắm ! Hay lắm ! Này các Đại thiện nam tử; các vị đã khéo hỏi Như Lai về điều này. Quả thực là do lòng đại từ bi mà các vị đã hỏi Ta về diệu nghĩa của Đại thừa sâu xa và tối thượng do đức Phật thuyết giảng, không phải vì sự chứng ngộ riêng của các vị mà vì tất cả chúng sanh. Này các Thiện nam tử ! Ta đã có thể thành tựu Vô thượng Chánh giác sau khi đoan tọa dưới cội Bồ-đề. Bằng Phật nhãn, Ta thấy hết thảy các pháp có nhiều tướng trạng không thể diễn tả hết được. Ta biết rằng các bản tính và tham dục của hết thảy chúng sanh không đồng đều nhau. Vì thế, Ta đã giảng Pháp bằng năng lực phương tiện trong hơn bốn mươi năm. Nhưng suốt trong thời gian ấy, Ta chưa khai mở sự thật. Do năng lực hiểu pháp của chúng sanh quá kém, thật quá khó khiến cho họ thành tựu được Phật quả tối thượng một cách nhanh chóng.

-Này các Thiện nam tử ! Pháp giống như nước rửa sạch bụi. Nhưng bản chất của một dòng nước, một con sông, một cái giếng, một cái ao, một con lạch, một con mương và một biển lớn thì khác nhau. Bản chất của Pháp cũng giống như thế. Dù mỗi thứ đều rửa sạch được như nhau vì đều là nước, nhưng một cái giếng không phải là một cái ao, một cái ao không phải là một dòng nước hay một con sông, cũng không phải là một con lạch, một đường mương hay biển. Pháp do Như Lai thuyết giảng cũng như thế. Dù sự thuyết giảng lúc ban đầu, lúc giữa và lúc cuối đều rửa sạch mê lầm của chúng sanh như nhau, nhưng lúc đầu không phải là lúc giữa và lúc giữa không phải là lúc cuối. Sự thuyết giảng lúc đầu, lúc giữa và lúc cuối là giống nhau trong lời diễn nhưng khác nhau trong ý nghĩa.

-Này các Thiện nam tử ! Lúc mới đầu Ta chuyển Pháp luân về Tứ Thánh đế cho năm Tỳ-kheo tại Vườn Nai ở Ba-la-nại, Ta giảng rằng các pháp thì bản nhiên rỗng lặng, không ngừng biến đổi và liên tiếp sinh diệt. Ta cũng giảng như thế khi Ta thuyết giải về Mười hai nhân duyên và Sáu Ba-la-mật cho tất cả các Tỳ-kheo và Bồ-tát ở nhiều nơi trong giai đoạn giữa. Giờ đây khi giảng kinh Vô Lượng Nghĩa, Đại thừa này, vào lúc này, Ta cũng thuyết giải như thế.

-Này các Thiện nam tử, do đó, việc thuyết giảng lúc đầu, lúc giữa và lúc cuối thì giống nhau về ngôn từ diễn tả nhưng khác nhau về ý nghĩa. Vì ý nghĩa khác nhau nên sự hiểu biết của các chúng sinh cũng khác nhau. Vì sự hiểu biết khác nhau nên việc chứng Pháp, công đức và con đường cũng khác nhau. Điều này được chứng tỏ rõ ràng bằng kết quả của sự việc ta giác ngộ những người nghe Ta thuyết giảng trong mỗi thời kỳ - khi lúc đầu Ta thuyết giảng Tứ Thánh đế ở Vườn Nai; khi lúc giữa Ta giảng giáo lý sâu xa về Mười hai nhân duyên ở nhiều nơi; và kế đến, khi Ta thuyết giảng về mười hai loại kinh của bộ Phương Đẳng và các kinh khác.

-Này các Thiện nam tử ! Nói một cách khác, Ta đã thuyết giảng chỉ một chân lý ngay từ lúc khởi đầu. Điều này không phải chỉ riêng phần Ta, hết thảy chư Phật đều làm như thế. Vì chân lý căn bản chỉ là một, chư Phật đáp ứng rộng khắp mọi âm thanh bằng chỉ một lời; dù chỉ có một thân, chư Phật thị hiện vô lượng vô vàn thân, trong mỗi thân phô bày vô hạn vô số hình tướng, và trong mỗi hình tướng lại thể hiện vô số vẻ dáng.

-Này các Thiện nam tử ! Đây là cõi Phật không thể nghĩ bàn và thâm áo. Hàng Nhị thừa không thể hiểu được, và ngay cả chư Bồ-tát đã đạt cấp độ cao nhất (thập trụ) cũng không thể lĩnh hội được.

-Chỉ có Phật với Phật mới có thể thâm hiểu được. Do đó, các vị phải nỗ lực đạt đến cấp độ như của đức Phật nhờ kinh Vô Lượng Nghĩa mà ta đang thuyết giảng đây. Kinh mầu nhiệm, sâu xa, cao siêu này là hợp lẽ về mặt luận lý, là vô thượng về mặt giá trị và được hết thảy chư Phật trong ba đời hộ trì. Không có loại ma quỷ hay ngoại đạo nào thâm nhập vào được, cũng không bị tà kiến hay sinh tử làm hư hoại.

-Do đó, chư Bồ-tát Ma-ha-tát muốn thành tựu Phật quả tối thượng một cách nhanh chóng thì cần phải học và quán triệt kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa thâm sâu tối thượng này.

Khi đức Phật thuyết giảng xong, trời và đất lay động theo mọi cách và hiển bày nhiều cảnh tượng đẹp đẽ phi thường; hoa, hương, áo, vòng hoa và báu vật vô giá của trời từ trên trời mưa rải xuống và thiên nhạc được tấu lên để ca ngợi đức Phật, tất cả chư Bồ-tát, Thanh văn và đại chúng.

Ngay sau đó, nhiều Bồ-tát Ma-ha-tát trong hội chúng đắc định Vô Lượng Nghĩa và nhiều Bồ-tát Ma-ha-tát khác đắc vô số vô hạn cảnh giới Đà-la-ni. Tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và các vị khác trong hội chúng nghe đức Như Lai thuyết giảng kinh này đều đạt ngộ tương ưng với cấp độ tâm thức của từng vị. Hơn nữa, hết thảy đều mong ước đạt Phật quả như đức Phật bằng cách theo đúng giáo lý của Ngài và nỗ lực phổ biến giáo lý ấy.

Như thế kinh Vô Lượng Nghĩa dạy chúng sinh cách tu học quán chiếu Thật Tướng các pháp để nhận thức rốt ráo về cái tự tánh “Như Thị” thanh tịnh bản nhiên của tất cả hiện tượng vạn pháp cho đến khi chính mình thể nhập được cái chân lý “thật tướng vô tướng” đó. Vì thật tướng của vạn pháp là “Không” nên ngay cả ý niệm về không cũng phải xóa bỏ thì mới hoàn toàn nghiệm được “Vô Tướng Bất Tướng”. Hành giả tập nhìn vạn pháp bằng “Như Thị” mà không cần phải giải thích, cắt nghĩa hay nói gì cả. Đã là Vô Lượng Nghĩa thì con người không thể dùng bất cứ văn từ nào, bất cứ thí dụ nào để diễn tả tánh “Như Thị” của vạn pháp cho đến chỗ cùng cực được. Hễ nói là sai Như Thị. Bởi vì thật tướng là vô tướng cho nên vạn pháp “Tánh Tướng” đều là “Như Thị”. Tóm lại, Vô Lượng Nghĩa không có nghĩa là nhiều nghĩa, nhiều vô số vô lượng mà Vô Lượng Nghĩa là đạt đến chỗ thể nhập nên không còn văn tự, ngữ ngôn nào có thể diễn tả được thật tánh, được chân lý cả.

Trong kinh Duy Ma Cật, Bồ-tát Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

- Thưa cư sĩ! Chư Bồ-tát đã trình bày xong. Giờ đây, xin nhơn giả cho biết cao kiến của ngài về phương pháp thể nhập Pháp môn không hai của một Bồ-tát?

Ông Duy Ma Cật lúc bấy giờ điềm nhiên an tọa. Đại chúng cả hội trường như nín thở trông chờ…

Ông Duy Ma Cật vẫn im lặng và im lặng..

Tại sao lại phải im lặng? Vì cái mà ông thật biết thì không thể nói, không thể diễn tả được. Làm sao có thể diễn tả được Thể Tánh Chân Như? Làm sao có thể dùng ngôn ngữ hạn hẹp của thế giới hữu vi mà diễn tả cái vô vi thanh tịnh vô cùng vô tận của thế giới vô vi? Vì chân lý vượt ra ngoài ngôn ngữ thì làm sao dùng ngôn ngữ, văn tự để diễn tả chân lý cho được. Do đó không nói tức là ông Duy Ma Cật đã đạt tới trình độ Vô Lượng Nghĩa của Đại thừa vậy. Vì thế cổ nhân cũng có câu: ”tri giả bất ngôn” nghĩa là người biết thì không nói vì nói không được.

Nói cho cùng, giáo lý vô thượng thậm thâm vi diệu đó là thứ chân lý mà chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ cội nguồn căn nguyên gốc rễ của nó được.

Nói kinh xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm không lay động.

Thật ra Như Lai lúc nào cũng thường trụ trong chánh định, chớ không phải Ngài nói xong kinh Vô Lượng Nghĩa rồi mới nhập định tức là Ngài phải trụ vào định Vô Lượng Nghĩa xứ để chuẩn bị nói kinh Pháp Hoa. Nhưng thâm ý của đoạn kinh này là đức Phật nói kinh mà còn phải trụ vào trong định thì chúng sinh phải chú tâm thiền định để nghe. Tại sao Như Lai lúc nào cũng thường trụ chánh định? Bởi vì đức Phật có 18 pháp bất cộng (thập bát bất cộng pháp) nghĩa là Như Lai lúc nào cũng có thân vô thất (lỗi lầm), khẩu vô thất và ý vô thất. Lúc nào Như Lai cũng ở trong chánh định nên Ngài có vô nhị tâm và trong tâm tưởng Như Lai không có một ý niệm nào sai chân lý nên gọi là vô nhị tưởng.

Chư Thiên vui mừng rải thiên hoa cúng dường Phật, hàng Nhân-Thiên tán thán chấp tay một lòng chiêm ngưỡng đức Như Lai.

Lúc bấy giờ, từ tướng lông trắng chặng giữa đôi mày Phật, phóng ra ánh hào quanh chiếu khắp mười vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông.  Trên từ cõi sắc cứu cánh dưới suốt ngục A-tỳ. Chúng sanh trong sáu đường đều thấy rõ lẫn nhau.

Tướng lông trắng giữa đôi mày là một trong 32 tướng tốt của đức Phật. Còn Phật phóng ra hào quang soi chiếu khắp mười tám ngàn thế giới ở phương Đông là một cách diễn bày của kinh điển Đại thừa có tên là “mỹ từ pháp”.  Nó là một ám dụ để diễn bày cái trí tuệ của đức Phật. Thành Phật tức là đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí cho nên lời dạy của Phật phát xuất từ ánh sáng trí tuệ mà văn tự dùng chữ “hào quang” để ám chỉ cho cái trí tuệ huyền diệu này. Thí dụ trong số bạn bè của chúng ta có một người rất hiền lành, sống đúng với đạo đức nhân bản. Từ cái hiền lành đạo đức đó có thể cảm hóa làm cho những người xung quanh cũng trở thành những con người hiền lành đạo đức. Do đó có thể nói những người được cảm hóa những đức hạnh tốt được xem như sống trong hào quang từ bi phát ra từ vị đó. Vì thế danh từ hào quang thật ra là những gương mẫu đạo đức đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng khiến cho người khác cảm mến noi theo. Ở đây cũng thế, dưới ánh hào quang của chư Phật là lời dạy của Phật phát xuất từ trí tuệ sáng suốt mà tất cả chúng sinh nghe theo, học theo và tu theo đều có lợi lạc. Ngược lại nếu ở gần người hung ác, hiểm độc thì con người cảm nhận những nỗi lo sợ, hung dữ, sát khí. Người đệ tử Phật nếu thấu hiểu đạo lý này thì chính họ sẽ không sống trong ảo tưởng cho rằng đức Phật lúc nào cũng chiếu hào quang sáng chói như những tia Laser. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm tức là kinhĐại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-Tát Vạn Hạnhthì “Đảnh”là điểm cao nhất trên đầu và
“Đảnh đầu Phật”có một u thịt màu hồng nhô lên, có thể phóng hào quang mà không ai thấy được nên gọi là ”vô kiến đảnh tướng”. Đó là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật. Do đó Đại Phật Đảnh là điểm nổi lên cao nhất trên đỉnh đầu của đức Phật. Trên thế gian thì nói một cục thịt lồi lên, bộ não tăng trưởng nhưng trongkinh Pháp Hoa thì đó là một ẩn dụ. Trên đầu cao nhất là tư duy đều nằm ở cái cục thịt, qua thân tướng bình thường. Vậynghĩa là sao? Đólà Hoa Sen ra khỏi sình lầy, rồi dưới ánh nắng tỏa hương và sắc. Cái nhục kế cũng thế, nó ở trên cùng tức nó ra khỏi nhục thân, tức là sình lầy, những cái ngu si, những cái phiền não, nó ra khỏi những cái nầy. Thế thì nhục kế đó chính là Hoa Sen.

Trước khi đức Phật Thích Ca thuyết giảng kinh Lăng Nghiêm hay bất cứ bộ kinh Đại thừa nào thì từ đỉnh đầu Ngài phóng ra hào quang soi chiếu khắp mười phương thế giới tức là Ngài dùng trí tuệ siêu việt để xem xét khế cơ và khế lý của tất cả chúng sinh có khế hợp với giáo lý của kinh không? Nói cách khác đức Phật dùng trí tuệ siêu việt của mình để soi chiếu mà thấy rằng nếu chúng sinh có đầy đủ tri kiến để lãnh hội giáo lý thì Ngài mới giảng kinh. Vì thế Đại Phật Đảnh chính là trí tuệ, từ bi và giải thoát siêu việt của tất cả chư Phật để soi chiếu mà cứu độ chúng sinh đưa họ từ bờ mê sinh tử đến bến bờ giác ngộ thanh tịnh Niết Bàn.Thêm nữa, lông là tượng trưng cho sự mềm mại nhu nhuyến, tức là không có cứng ngắc, trắng là thanh tịnh, không có bị ô nhiễm, giữa chặng mày tức là giữa hai con mắt, tức là không có đối đãi, không có cặp phạm trù đối đãi nhị nguyên. Do đó nếu chúng sinh có được tâm thanh tịnh, hào quang của đức Phật sẽ chiếu đến và tỏa sáng trong tâm của họ cũng như ánh trăng soi chiếu trên mặt nước hồ thu yên tĩnh. Ngược lại, nếu tâm của chúng sinh còn ô nhiễm cũng ví như một vũng nước bùn đục ngầu, không có thứ ánh sáng nào chiếu soi qua được.

Thêm nữa, cái hào quang này có thể soi trên từ cõi sắc cứu cánh dưới suốt ngục A-tỳ. Đoạn kinh này được chia làm hai phần:

 1)Chúng sanh trong sáu đường đều thấy rõ lẫn nhau. Hiện tượng thông đồng, không gì ngăn cách nói lên giáo lý pháp giới là bất nhị tức là nhất chơn. Nhất chơn pháp giới nghĩa là một là tất cả và tất cả là một cho nên tuy thế giới có rộng nhưng kỳ thật chẳng có gì khác nhau, nói xa nhưng chẳng có gì lạ lùng cả. Thí dụ chúng ta hiện đang ở tại Sài gòn hay Hà Nội thì cảm nhận những nỗ ui bi khổ ách cũng giống như những người khác đang ở tại New York, Paris hay ở Los Angeles vậy, thậm chí nếu có người ở những thế giới nào đó trong vũ trụ này cũng cảm nhận y như vậy. Vì thế nếu tâm chúng sinh không thanh tịnh thì trong thập phương thế giới không có chỗ nào là cõi Phật thanh tịnh cả vì thế giới là nhất chân, bất nhị, không sai không khác. Do đó trong kinh Duy Ma Cật, Phật dạy rằng:”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là ở đâu mà có tâm tịnh, tâm trong sáng, tâm không còn phiền não vô minh thì ngay nơi đó là cõi Phật thanh tịnh rồi. Cho nên cũng trong cái thế giới Ta Bà này, nếu chúng sinh huân tu để có tâm thanh tịnh, có khinh an giải thoát thì cõi Phật thanh tịnh sẽ dời đến trước mặt họ.

2)Cái hào quang này có thể soi trên từ cõi sắc cứu cánh dưới suốt ngục A-tỳ nghĩa là ánh sáng trí tuệ chỉ có thể soi vào cảnh thực chớ không soi vào những cõi vô sắc, cõi ảo tưởng hoang đường được. Ở đây kinh nói đến “tam giới” tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.

-Dục giới: nếu chúng sinh không cải tạo được thân, khẩu, ý của mình để chạy theo sắc, tài, danh, lợi thì họ đang sống trong dục giới tức là thế giới về tham dục. Tại sao? Bởi vì chúng sinh còn tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi, tham thực, tham ăn, tham ngủ, tham dâm…nhân, ngã, bỉ,  thử…tranh chấp trong ngoài.

-Sắc giới: Đối với những ai đã biết được chân lý của cuộc đời cho nên phú quý như bọt nước, tiền tài như phấn thổ, công danh như hạt sương đậu trên đầu ngọn cỏ có đó rồi tan biến đó. Do đó nếu ai không còn đeo đuổi, ôm ấp hay lưu luyến những thứ phù du gia tạm đó để khỏi  phải gieo những thứ tội lỗi cho thân, khẩu, ý thì tuy họ vẫn sống bình thường trong thế gian này, nhưng chính họ có sự khinh an tự tại, bình yên thanh thản như những vị trời thì họ đang sống trong sắc giới vậy.

-Vô sắc giới: Nếu có những người tu thiền định để xuất hồn đi vào những cảnh giới huyền ảo như gặp chư Phật, thánh thần…là họ đi lạc vào cõi vô sắc giới tức là thế giới vô hình ảo tưởng. Những cảnh giới ảo tưởng đó thật ra do tâm hóa hiện chớ không thật có trong thế gian này. Ngay cả trong giấc chiêm bao cũng là ảo tưởng không thật. Dựa theo duy thức luận thì khi ngủ không phải là đưa tâm thức vào chỗ vô niệm. Bởi vì lúc chúng ta ngủ thì ngũ căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gần như không hoạt động, nhưng ý căn vẫn tác động với pháp trần khiến tâm thức dấy động ngầm mà đôi khi con người gọi là mộng. Sự hoạt động của ý thức trong trường hợp này gọi là độc đầu ý thức tác động. Ngược lại khi thức giấc, nếu mắt nhìn thấy vật gì thì tâm biết là vật mà không biết đó là vật gì cho nên nhãn thức phải có ý thức phân biệt cộng vào thì con người mới thấy biết hiện tượng vật thể rõ ràng được.

Do đó con người có giải thoát giác ngộ hay không do nơi cõi sắc, có sống an vui tự tại do ở nơi cõi sắc và có cưu mang ưu bi phiền não cũng tại nơi cõi sắc. Vì thế ngày xưa đức Phật sau khi chứng tứ thiền, Ngài qua ngã diệt tận định mà chứng quả A la hán mà không qua ngã tứ không định tức là cảnh vô sắc giới của ngoại đạo.

Lại thấy chư Phật  ở các quốc-độ đang nói pháp và được nghe pháp của các Phật rõ ràng. Cũng thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ tu hành đắc đạo.  Thấy các Bồ-tát thực hành lục độ trong việc tự-lợi lợi-tha tinh-tấn trên đường Bồ-đề.  Lại thấy có đức Phật nhập Niết-bàn, có nơi xây dựng tháp tôn thờ xá lợi...

Đại chúng trong Pháp Hội thấy rõ việc làm của chư Phật trong sứ mạng giáo hóa, thuyết pháp độ sanh. Họ thấy rõ hàng Thanh Văn tinh tấn thực hành giáo lý Tứ Đế. Thấy rõ các vị Bồ Tát áp dụng rốt ráo lục độ ba la mật đúng theo tư tưởng tự lợi, lợi tha của Bồ Tát. Thấy rõ chư Phật đang chuyển pháp luân. Cũng thấy rõ có Phật đang nhập Niết bàn, có nơi đang trà tỳ và đang xây tháp tôn thờ xá lợi Phật. Nói một cách tổng quát đoạn kinh này mục đích giới thiệu việc làm của chư Phật cho đại chúng trong hội Pháp Hoa biết rằng chư Phật trong quá khứ và Phật trong pháp hội này cũng đều diễn biến như nhau. Đó là việc làm của chư Phật là việc làm phù hợp với ba đời chư Phật, thích hợp với khế cơ, khế lý của chúng sinh cho nên lời nói của một vị Phật tức là lời nói của hằng sa chư Phật trong mười phương thế giới. Đoạn kinh trên khai thị thêm rằng cho dù là chư Phật hễ thị sanh thì phải có thị diệt tức là có đản sinh thì phải có nhập Niết bàn. Đó là chân lý vận hành của nhân sinh vũ trụ tức là “thành, trụ, hoại, không” mà đức Phật Thích Ca đã nghiệm chứng khi Ngài vừa thành đạo. Vì vậy giáo lý Phật đà luôn khuyến khích chúng sinh nên sống tùy thuận theo chân lý thì chắc chắn cuộc sống sẽ có nhiều an vui tự tại cũng như có người xuôi theo dòng nước thì nhẹ nhàng thanh thoát, ngược lại lội ngược dòng thì phải gánh chịu bao nổi nhọc nhằng.

Bồ-tát Di-lặc và đại chúng đều lấy làm  lạ trước điềm lành này.  Thay mặt cho tất cả Bồ-tát, Ngài Di Lặc cầu xin Đại Trí Văn Thù là bậc xuất chúng, giải thích cho đại chúng về những sự kiện trên.

Bồ-tát Di Lặc tên là A Dật Đa (Ajita) và họ là Từ Thị. Trong vô lượng kiếp quá khứ, có đức Phật hiệu là Đại Thống Trí Như Lai ra đời thì cả Đức Thích Ca (tiền kiếp) và Bồ-tát Di Lặc (tiền kiếp) cùng phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng mãi đến khi đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời thì Ngài Di Lặc mới phát tâm xuất gia. Tuy xuất gia nhưng ngài Di Lặc không chú tâm tu hành mà muốn kết thân, cầu danh với những hàng danh gia vọng tộc, quan quyền, giàu có nên Ngài sẽ thành Phật sau đức Phật Thích Ca gần mười tiểu kiếp.

Về sau nhờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dạy cho pháp tu Duy Tâm Thức nên Ngài mới chứng được”Tam giới duy tâm, Vạn pháp duy thức”, nhưng mãi đến thời Phật Nhiên Đăng xuất thế thì Ngài mới chứng được tam muội “thức tâm diệu viên” và được Phật Thích Ca thọ ký đời sau sẽ thành Phật ở hội Long Hoa tại thế giới Ta bà nầy. Hiện nay Bồ-tát Di Lặc đang tu ở cung trời Đầu Xuất, chuyên giảng môn Duy Thức Học(Du Già Hành tông).

Tuy tất cả các pháp có rất nhiều, nhưng tóm lại có 100 pháp và được chia làm 5 loại :

1)Tâm pháp hay còn gọi là Tâm Vương gồm có 8 món: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na-thức và A lại da thức. Tiếng gọi thông thường là bát thức tâm vương.

2)Tâm sở hữu pháp gồm có 51 món và được chia làm 6 loại: Biến hành (5 món), biệt cảnh (5 món), thiện (11 món), căn bản phiền não (11 món), tùy phiền não (20 món), bất định (4 món). Trong 51 món thì chỉ có 11 món là thiện.

3)Sắc pháp có 11 món gồm có năm căn và sáu trần.

4)Tâm bất tương ưng hành pháp có 24 món.

5)Vô vi pháp có 6 món.

Phái Du Già của ngài Vô Trước, Thế Thân giới thiệuA lại da thức hay Tàng thức tức là đệ bát thức tâm vương. Thức là sự phân biệt. Do đó tâm là bản thể và thức là diệu dụng. Dựa theo duy thức thì tất cả sự vật trên thế gian như trời trăng, mây nước, chim bay, cá lặn, cỏ cây, hoa lá thì gọi là sở tàng nghĩa là những vật mà do thức tâm con người biến hiện. Và năng tàng là khả năng chứa đựng những sở tàng bên ngoài ở trong tâm của con người. Vì thế con người có khái niệm tới đâu nghĩa là sở tàng biến đổi thế nào thì năng tàng cũng bao trùm tới đó. Nói cách khác cảnh thay đổi thế nào thì tâm cũng biến hiện tùy thuộc theo. Bồ-tát Di Lặc tu tập theo pháp Duy Tâm Thức nên quan sát tất cả cảnh giới là giả, tưởng là giả, chỉ do thức tâm biến hiện mới thành có tánh cách phân biệt sai khác. Bây giờ nếu tu được định duy thức thì ngoài tâm không có cảnh, ngoài cảnh không có tâm cho đến khi chứng được “Vô thượng diệu viên thức tâm tam muội” thì nhận thấy tất cả nhân sinh vũ trụ cho dù là loài vô tình, hữu tình, là tâm, là cảnh, là phàm, là thánh đều do “tánh duy thức” biến hiện nên không có sai khác. Nói cách khác khi Ngài Di Lặc chứng được “chơn duy thực tánh” thì không còn thấy thật có tướng duy thức vì tất cả mười phương Như Lai, quốc độ, sắc không đều không có món nào ra ngoài “thức tánh” ấy mà tự có. Tại sao? Bởi vì thức tánh chính là Như Lai Tạng bản thể mà duyên khởi phát sinh ra nhân sinh vũ trụ tức là bất biến tùy duyên. Các pháp đã là thức tánh thì tất cả đều là tự tánh viên mãn, thành tựu chân thật, không còn có thật ngã và ngã sở, xa lìa biến kế sai lầm, chứng pháp vô sanh nhẫn.

Bồ-tát Di Lặc chuyên tu theo Duy thức nên còn tâm phân biệt có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng và có đạo quả Bồ-đề để thành. Vì thức là cái biết do sự phân biệt nên cần phải chuyển thức thành trí thì mới có đầy đủ trí tuệ sáng suốt. Do đó Bồ Tát Di Lặc tượng trưng cho Thức phân biệt.

Dựa theo Duy Thức Luận thì khi chúng sinh có được giải thoát giác ngộ thì họ chuyển tám thức thành bốn trí. Đó là :

1)Ý thức hay thức thứ sáu có tác dụng phân biệt sẽ biến thành “Diệu Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực quan sát thâm diệu có thể thấy được hằng sa thế giới và thấy được tất cả tâm niệm sở cầu trong mỗi chúng sinh. Nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện vọng, tâm lý, sở cầu mà Bồ-tát làm lợi lạc cho chúng sinh.

2)Còn nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức sẽ biến thành “Thành Sở Tác Trí” tức là cái trí nầy có những công năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông, biến hóa, hiện ra ba món hóa thân để tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ.

3)Mạt na thức tức là thức chấp ngã sẽ biến thành “Bình đẳng tánh trí” là trí có năng lực nhận thức tính bình đẳng và vô ngã của vạn pháp.

4)A lại da thức là thức thứ tám sẽ biến thành “Đại viên cảnh trí” tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy cũng như biển cả chơn như.

Bồ-tát Di Lặctượng trưng cho Sai Biệt Trí, nhưng Pháp Tánh, Tri Kiến Phật, Căn Bản Tríthì không còn có sự phân biệt mà phải lìa tất cả văn tự, ngôn ngữ nghĩa làkhông Hai tức là Bất Nhị. Vì thế Bồ Tát Di Lặc không thể hiểu được những hình ảnh biểu trưng Phật tánh, Tri kiến Phật. Trong khi đó Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản Trí tức là Bản Giác vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh.

Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi giải đáp rằng: theo chỗ tôi biết thì Thế-Tôn nói pháp lớn.  Bồ-tát Văn Thù nói tiếp: Tôi  từng ở trong vô lượng Phật quá-khứ đã thấy điềm lành này.  Chư Phật phóng hào quang như thế, sau đó liền nói “pháp lớn”.  Cho nên tôi  biết chắc rằng, hôm nay Phật vì muốn cho chúng sanh được nghe biết “pháp nhiệm mầu” mà tất cả người đời  khó tin cho nên hiện ra điềm lành ấy…

Bồ-tát  Văn Thù kể tiếp: Cách vô lượng A-tăng-kỳ-kiếp về trước có đức Phật hiệu Nhật Nguyệt  Đăng Minh  đủ mười đức hiệu diễn nói chánh pháp, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, nghĩa lý sâu xa, trước sau không mâu thuẫn, thuần nhất không tạp.  Phật vì người Thanh-Văn thừa nói “Tứ-Đế” cầu ra khỏi sanh, già, bệnh, chết được cứu cánh Niết-bàn.  Vì hạng cầu quả Duyên-giác nói pháp “Thập nhị nhân duyên”, vì hàng bồ-tát nói pháp “Lục-ba-la-mật” khiến cho chứng quả Vô thượng Bồ-đề thành tựu  Nhất-thiết chủng-trí.  Kế tiếp  có 20.000 đức Phật cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh  và cùng  một họ Phả-loa-đoạ.  Pháp của tất cả chư Phật nói ra ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành.

Giáo lý của kinh Pháp Hoa là giáo lý Đại thừa cho nên người có chủng tánh Đại thừa mới dễ hội nhập. Vì là giáo lý tối thượng thừa nên giáo pháp Phật thuyết trong kinh Pháp Hoa là thứ giáo pháp mà người đời khó nghe, khó hiểu, khó tin và khó hành. Mà người nào nghe được, hiểu được, tin được và hành được mới là người cúng dường chư Phật đệ nhất. Để xác định mức độ khả tín của kinh, ở phẩm tựa này, đức Phật đã khai thị cho Pháp Hoa Hải Hội biết về nguyên tắc hoằng pháp của ba đời chư Phật. Đó là Phật Nhật Nguyệt đăng Minh cách hằng hà sa số kiếp đã làm thế nào thì đức Phật Thích Ca hiện nay cũng làm như thế ấy và dĩ nhiên Phật tương lai cũng thế. Vì thế lời nói của Phật là lời chân chính, chắc thật, trước sau như một, tất cả đều lành, không hề có ý lừa dối phỉnh gạt người nghe.

Vào thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Văn Thù Bồ Tát là Bồ Tát Diệu Quang nghĩa là ánh sáng nhiệm mầu cũng có nghĩa là Căn Bản Trí có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Văn Thù thâm nhập rốt ráo kinh điển và từng đem kinh Pháp Hoa ra dạy cho 800 đệ tử. Tám trăm đệ tử là kinh muốn ám chỉ con số 8 tức là bát thức tâm vương. Đó là lục thức, Mạt na thức và A lại da thức. Vì ngài Di Lặc tượng trưng cho “Thức” cho nên cần Bồ Tát Văn Thù là đại biểu cho Căn Bản Trí chuyển “Thức” thành “Trí” nghĩa là chuyển tám thức thành ra bốn trí và A lại da thức thành ra Như Lai Tạng tức là Đại Viên Cảnh Trí thì sẽ có giải thoát. Trong số 800 đệ tử đó thì Di Lặc thường biến trể trên đường tu học nên có biệt hiệu là Cầu Danh. Vì Di Lặc tu theo kiểu cầu danh nên tuy ngài thấy hào quang hiện ra của Phật mà không hiểu, không thể cắt nghĩa được. Ngược lại Đại trí Văn Thù đã gieo trông chủng tử Pháp Hoa từ muôn đời cho nên vừa thấy điềm lành này thì biết ngay là Phật sắp nói kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa giống như chư Phật xưa kia đã làm. Đoạn kinh này muốn nhắn nhủ cho người đệ tử Phật rằng nếu chúng sinh gieo hạt giống trí tuệ càng sâu thì sẽ thành quả đại trí như Bồ tát Văn Thù. Ngược lại nếu chúng sinh gieo những hạt giống biến trễ thì chỉ gặt hái kết quả “Từ thị” như Di Lặc. Di Lặc dịch là Từ thị nghĩa là gieo căn lành, thiện mà thôi.

Tại sao trong kinh điển Đại thừa phẩm đầu thường là Bồ tát Văn Thù thưa hỏi và kết thúc bằng hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát? Bồ tát Văn Thù là tượng trưng cho đại trí tuệ cho nên tuy đức Phật theo lời thưa thỉnh của Văn Thù nói kinh, xiển dương trí tuệ cho chúng sinh, nhưng đây chỉ là phần lý thuyết. Sau khi Phật nói xong, kinh liền giới thiệu Bồ tát Phổ Hiền với mục đích nhắn nhủ mọi người nên tinh tấn tu tập dựa theo tiến tình “Văn Tư Tu” để tự mình thể nghiệm mà phát sinh ra trí tuệ. Văn Tư Tu là nghe rồi suy nghĩ (trong tâm) mà đem nó ra thực hành, ứng dụng trong cuộc sống. Vì hạnh nguyện Phổ Hiền là thực hành rộng lớn những điều lành, điều tốt để mang đến lợi ích thích thực cho chính mình.

Giáo pháp không hề có sai khác, nhưng căn cơ chúng sinh có sai khác nên Phật vì chúng sinh nói pháp khác nhau. Đối với hàng Thanh Văn, Phật thuyết giáo lý Tứ Đế giúp họ chứng đắc Niết bàn và lìa sinh tử. Hàng Duyên Giác, Phật dạy cho họ về thuyết “Thập Nhị Nhân Duyên”. Sau cùng hàng Bồ tát, Phật dạy họ tu “Lục độ Ba la mật” để thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Sư Trí của chính mình mà tiến thẳng đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề tức là thành Phật.

 Đối với hàng Thanh Văn,họ dùng “Tích không quán”  để quán rằng thế gian vô thường, tứ đại khổ, không và ngũ uẩn vô ngã (ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức của đại thừa  và cũng chính là thân, thọ, tâm, pháp của tiểu thừa) nên thế gian vạn pháp dưới ánh mắt của họ không có gì đáng quý, không có gì đáng tham luyến, say mê, không có gì đáng giữ gìn, bảo thủ ngay cả tấm thân tứ đại của họ. Do đó cái “không” của hàng Thanh văn là vạn pháp không tồn tại, trường cửu, không bền không chắc của sự vô thường nên họ chứng được ngã không. Nói cách khác đối với sự vật hiện tượng của thế giới hữu vi như trời trăng mây nước, chim bay cá lặn thì không có vật gì thoát khỏi luật vô thường nên tất cả vạn pháp trong thế gian dưới ánh mắt của họ thì tât cả đều là không. Vì vậy “ngã không” ở đây chính là nhất thiết pháp vô ngã. Vô ngã nghĩa là vạn pháp ngay cả tấm thân của họ không có tự thể cố định, trường tồn, vĩnh cửu bởi vì chữ “ngã” trong đạo Phật là tự tại, thường nhất, bất biến mà vạn pháp trong thế gian nầy không có cái gì là bất biến, thường nhất, cố định cả. Khi đạt được chân lý ngã không và “Nhất thiết trí” thì các vị trở thành bậc A la hán. Dưới cái nhìn của Bồ tát thìthế giới vạn pháp là huyễn hóa, không thật, tuy có mà như không. Đó chính là “đương thể tức không” nghĩa là vạn pháp tuy sờ sờ ra đó, nhưng tâm Bồ tát không chấp cái có của nó nên tuy có mà vẫn như không.Vì thế cái trí của Bồ tát là “Đạo chủng trí” cao hơn Nhất thiết trí vả có thể thấy một phần của vạn pháp giai không. Sau cùng trí tuệ của Phật là trở về với Tự nhiên trí, Vô sư trí, Nhất thiết chủng trí. Thí dụ trong thế gian, chúng ta học hỏi bất cứ vấn đề gì từ vị thầy thì cái trí đó là Sư trí tức là cái trí có được là do thầy dạy (hữu sư). Nhưng cho dù người học trò đó có thông minh cách mấy, có giỏi cách mấy thì sự hiểu biết từ vị thầy dạy dỗ đó cũng nằm trong một giới hạn nào chớ không bao giờ đến chỗ cùng tận được. Thí dụ ngày nay có rất nhiều trung tâm nghiên cứu từ y học đến khoa học và ngay cả các ngành tâm lý học. Các khoa học gia đó phải tự mình nghiên cứu, tìm tòi và sau cùng phát minh ra những điều mới lạ cho nhân loại. Cái hiểu biết này là vô sư trí vì chỉ có họ tự mình khám phá ra chớ không có thầy chỉ bảo. Giáo lý Phật đà cũng thế, những gì Phật dạy cho chúng sinh chỉ là phương tiện, là ngón tay để tự họ chứng ngộ chân lý mà tự mình thấy được ánh sáng huyền diệu của mặt trăng. Khi hành giả trực ngộ chân lý thì chính họ nghiệm chứng sự nhiệm mầu mà ngay cả đức Phật không thể giải thích cho họ được. Tóm lại hữu sư trí là cái trí hữu hạn, chưa phải đến chỗ cùng tận. Còn muốn nghiệm chứng được chân lý của vũ trụ thì phải dựa vào trí hữu sư mà phát triển lấy vô sư trí. Do đó kinh Pháp Hoa khẳng định rằng mọi chúng sinh đều có thể phát triển vô sư trí của chính mình để trở thành Phật vì trong mọi chúng sinh đã có sẵn cái tri kiến Phật đó rồi. Đạo Phật lấy lý trí làm nền tảng nên không có vấn đề van xin cầu nguyện để được cái này, có cái kia vì cầu xin là phỉ báng Phật đó. Mà đạo Phật là đạo thực hành để có thực chứng mà thấy được chân lý. Đức Phật là người đầu tiên và duy nhất trong lịch sử nhân loại chẳng những dạy mà còn khuyến khích học trò chứng ngộ chân lý ngang hàng với Ngài.

Tại sao lại có đến 20,000 vị Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và cùng  một họ Phả-loa-đoạ? Nhật là mặt trời, Nguyệt là mặt trăng, Đăng là đèn, Minh là sáng. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh là vị Phật có trí tuệ sáng suốt như mặt trời, mặt trăng và đèn. Cái trí tuệ này không bao giờ tắt cũng ví như áng sáng của mặt trời, mặt trăng và của ánh đèn. Đó là cái trí tuệ viên mãn, không khiếm khuyết. Vì vậy khi thành Phật thì bất cứ vị Phật nào cũng có đầy đủ trí tuệ sáng suốt viên mãn như nhau cho nên một vị Phật, trăm vị Phật, 20,000 vị Phật hay ngay cả 2 triệu vị Phật thì cũng thế, cũng đồng một danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Cho nên Phật là hiện thân chân lý muôn đời trong sáng cũng như sự soi sáng của vầng nhật nguyệt vằng vặc muôn đời. Họ Phả-loa-đọa có nghĩa là rất chóng thành Phật, có đại trí tuệ và người đó nói pháp đều viên mãn vô ngại. 

Đức Phật rốt sau vốn là một nhà vua, lúc chưa xuất gia có tám vị vương-tử tên là Hữu Ý, Thiện Ý, Vô Lượng Ý, Bảo Ý, Tăng Ý, Trừ Nghi Ý,  Hướng Ý và Pháp Ý.  Nghe vua cha xuất gia tu hành  thành đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác đều bỏ ngôi xuất gia theo.

Thủa đó, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng như đức Phật Thích-Ca hiện nay,  nói kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.  Nói xong bèn nhập chánh định  Vô Lượng Nghĩa Xứ thân tâm không động.

Hàng Chư-Thiên hân hoan rải hoa cúng dường.  Đại chúng vui mừng chấp tay nhìn Phật với tất cả lòng kính mộ.  Lúc bấy giờ từ tướng lông trắng, chặng giữa đôi mày Như-Lai phóng ra ánh hào quang soi suốt 18.000  thế giới ở phương Đông, y như điềm lành hiện nay mà đại chúng cùng đang thấy.

Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thứ 20,000 xuất thân từ một nhà vua cũng có Hoàng hậu và tám người con. Chưa xuất gia muốn ám chỉ cho chúng sinh khi chưa tu. Còn tám người con tượng trưng cho bát thức tâm vương (lục thức, mạt na thức và A lại da thức). Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh là chỉ cho Phật tánh hay Như Lai Tạng. Như Lai Tạng (Tathagata garbha) còn gọi là Như Lai chủng tánh tức là pháp tánh, là chơn như, là Phật tánh…Tạng là cái kho để chứa tất cả những chủng tử (hạt giống) của vạn pháp và từ những chủng tử này mới sinh khởi ra bốn khoa (ngũ uẩn, lục nhập, mười hai xứ và mười tám giới). Tạng cũng là cái bọc chứa để giấu kín, che phủ phiền não mê lầm. và cũng giấu kín, che phủ Phật tánh là cái mầm giác ngộ vốn có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Vì Tạng là chất chứa cho nên Như Lai Tạng là chất chứa mọi công đức quyền năng của Như Lai và cũng là thức thứ tám tức là A lại da thức. Đứng về mặt ô nhiễm, Như Lai Tạng là tượng trưng cho thế giới  sinh diệt luân hồi. Còn dựa theo phía thanh tịnh, Như Lai Tạng là biểu hiện cho Niết bàn giải thoát. Tuy chúng sinh có Phật tánh, nhưng vì sống trong mê lầm nên Như Lai Tạng biến thành thức. Mà thức là sự phân biệt nên tám vị vương tử đều có tên là “Ý”.

Khi nghe tin vua cha xuất gia, tám vị vương tử liền xuất gia theo. Ý nghĩa đoạn kinh này là Tạng thức chuyển thành Như Lai Tạng thì lúc đó tám thức sẽ chuyển thành bốn trí.Dựa theo Duy Thức Luận thì khi chúng sinh có được giải thoát giác ngộ thì họ chuyển tám thức thành bốn trí. Đó là :

1)Ý thức hay thức thứ sáu có tác dụng phân biệt sẽ biến thành “Diệu Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực quan sát thâm diệu có thể thấy được hằng sa thế giới và thấy được tất cả tâm niệm sở cầu trong mỗi chúng sinh. Nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện vọng, tâm lý, sở cầu mà Bồ-tát làm lợi lạc cho chúng sinh.

2)Còn nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức sẽ biến thành “Thành Sở Tác Trí” tức là cái trí nầy có những công năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông, biến hóa, hiện ra ba món hóa thân để tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ.

3)Mạt na thức tức là thức chấp ngã sẽ biến thành “Bình đẳng tánh trí” là trí có năng lực nhận thức tính bình đẳng và vô ngã của vạn pháp.

4)A lại da thức là thức thứ tám sẽ biến thành “Đại viên cảnh trí” tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy cũng như biển cả chơn như.

Tóm lại, khi mê (chưa xuất gia) thì có tám thức phân biệt rồi tạo nghiệp và dĩ nhiên trôi nổi trong sinh tử luân hồi. Đến khi giác ngộ (xuất gia) thì tám thức quy về với tánh giác, phân biệt chấm dứt mà vẫn biết rõ ràng (liễu liễu thường tri). Đó chính là Trí. 

Ngày xưa đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sau khi nói xong kinh Vô Lượng Nghĩa liền nhập chánh định Vô Lượng Xứ thân tâm bất động. Tuy thời gian khác nhau, nhưng ngày nay đức Phật Thích Ca cũng hành trì giống như chư Phật trong quá khứ. Đoạn kinh này nói rằng Phật quá khứ hành trì thế nào thì Phật hiện tại cũng làm giống như vậy và Phật tương lai cũng không sai khác. Cái khác nhau là hội Pháp Hoa thửa xưa có ngài Bồ tát Diệu Quang, ngày nay Diệu Quang trở thành Bồ tát Văn Thù, là biểu tượng của Căn Bản Trí có sẵn trong mọi chúng sinh.

Câu “chặng giữa đôi mày Như-Lai phóng ra ánh hào quang soi suốt 18.000  thế giới ở phương Đông…”

Ở giữa chặng mày, giữa hai con mắt tức là không có đối đãi, không có phải trái, không có đúng sai. Tại vì những cái đối đãi, những cái vọng, phóng ra một luồng hào quang, hào quang ấy là Trí Tuệ. Cái Trí Tuệ ở trong Tâm của chúng sanh , mà trong Tâm ấy phóng ra một luồng hào quang, tức là Trí Tuệ mà Trí Tuệ ấy lại nhu nhuyến , thanh tịnh và không có đối đãi, nó không có phân biệt. Còn con số 18.000 kinh nói ở đây là ám chỉ cho con số 18 tức là thập bát giới nghĩa là sáu căn tiếp xúc với sáu trần phát sinh ra sáu thức. Thập bát giới là thế giới của phiền não, khổ đau vì tâm con người còn phân biệt, chấp trước. Đến khi tu chứng thành A la hán thì thập bát giới chỉ còn lại 12. Mười hai nghĩa là sáu căn tuy có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nhưng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bây giờ không còn là ô nhiễm, không còn là nguyên nhân đưa đến phiền não khổ đau cho nên nó không còn là sáu trần mà là sáu cảnh giới. Vì thế người tu chứng, tâm thanh tịnh thì mắt vẫn nhìn sắc, tai vẫn nghe âm thanh, lưỡi vẫn nếm mùi vị, mũi vẫn ngữi đấy chứ, nhưng họ không bị sắc, âm thanh, mùi vị nhận chìm, say đắm cho nên thấy thì mắt vẫn thấy, nghe thì tai vẫn nghe nhưng tâm như như bất động, liễu liễu thường minh tức là kiến sắc bất nhiễm sắc, văn thanh bất nhiễm thanh vậy. Tại sao thế giới lại ở phương Đông? Hướng Đông là phía mặt trời mọc nghĩa là biểu trưng cho sự phát hiện vì thế hào quang của Phật chiếu soi suốt vào 18.000 thế giới ở phương Đông là muốn nói rằng chỉ có trí tuệ không có phân biệt, đối đãi đó thì mới có thể soi chiếu để thấy biết rõ sự dính mắc, chấp thủ và phát triển của thập bát giới đã nhận chìm con người vào biển khổ sông mê.

Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh Như-Lai từ chánh  định  dậy,  vì Bồ-tát Diệu Quang và tám trăm đệ tử mà nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, trải 60 tiểu kiếp, chẳng rời chỗ ngồi. 

Người nghe pháp cũng ngồi một chổ đến 60 tiểu kiếp thân-tâm không động, không mỏi mệt và xem thời gian  ấy  mau chừng như trong một bữa ăn.

Nếu nhìn từ góc độ của “Sự Tướng” mà nói dựa thời gian hữu hạn của con người thì một tiểu kiếp dài khoảng 16.8 triệu năm. Do đó 60 tiêu kiếp dài trên một tỷ năm. Thuyết “Vụ Nổ Lớn” tức là “The Big Bang” cho rằng thế giới vũ trụ chỉ được tạo thành khoảng 13.7 tỷ năm và cái trái đất chúng ta đang sống ra đời khoảng 4.5 tỷ năm và sau cùng con người có mặt trên quả địa cầu nầy không quá một triệu năm. Thế mà Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa suốt trong một tỷ năm thì lời kinh có lẽ phản khoa học quá? Đó là chưa kể không một ai sống đến một tỷ năm. Tại sao thời gian dài trên một tỷ năm mà tưởng chừng như một bửa ăn?

Thời gian, không gian là dựa trên khái niệm của hiện tượng vật chất hữu hình trong thế giới hữu vi mà đặt để. Tuy nhiên, khái niệm thời gian và không gian trong thế giới tương đối không đồng nhất. Một ngày trên những hành tinh khác rất dài hơn so với thời gian ở quả địa cầu. Không gian cũng thế, cùng một thời điểm mà tại Úc Đại Lợi chịu cảnh nóng bức của mùa hè trong khi ở Hoa Kỳ lại ôm cái lạnh giá của mùa đông. Vì thế nếu con người tùy thuộc vào khái niệm tương đối của không gian và thời gian thì tâm sẽ thay đổi, chuyển biến và bất tịnh. Ở đây Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa là để khai thị cho mọi người thức tỉnh cái Tri Kiến Phật vốn có sẵn trong họ. Mà Tri Kiến Phật là không hình, không sắc, không tướng, không sanh, không diệt vượt ngoài không gian và thời gian đối đãi. Do đó ngộ nhập Tri Kiến Phật thì thời gian, không gian là vô nghĩa cho nên tâm bất động, thân không ăn uống, ngồi lâu mà chẳng mỏi mệt là vậy. Vì Tri Kiến Phật là chân không, vốn không có hình tướng, không sanh diệt thì dựa vào đâu để phân biệt thời gian mau chậm hay không gian rộng hẹp? Đó là lý do tại sao kinh nói sáu mươi tiểu kiếp tưởng chừng như một bửa ăn.

Nhưng nếu nhỉn theo “Lý tánh” thì con số tám trăm đệ tử mà kinh nói ở đây là ám chỉ cho con số tám tức là bát thức tâm vương: lục thức, Mạt na thúc và A lại da thức. Và còn số 60 tiểu kiếp là đại diện cho những căn bản phiền não, tùy phiền não…Vì thế có diệt hết những căn bản phiền não đó thì bát thức tâm vương mới thanh tịnh được. Từ đó chuyển A lại da thức thành ra Như Lai Tạng hay Bạch Tịnh Thức tức là có giải thoát.

Sau 60 tiểu kiếp nói kinh,  trước chúng hội; Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên-long, Ma Phạm, Nhơn phi-nhơn, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh tuyên bố: hôm nay vào nữa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn.  Trước khi vào Niết-bàn, Phật thọ ký cho Bồ-tát Đức Tạng, trước đại chúng rằng: Đức-Tạng Bồ-tát nầy sẽ thành Phật  hiệu là Tịnh Thân Như-Lai đủ mười đức hiệu thọ ký xong, đúng như lời tuyên bố đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn vào lúc nửa đêm.

Tại sao Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sau khi nói kinh Pháp Hoa xong liền tuyên bố sẽ nhập Niết bàn vào nữa đêm?

Lý do chư Phật trong quá khứ và đức Phật Thích Ca thị hiện ở thế gian này là”Phật vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” nghĩa là Phật là một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự mà Phật muốn nói ở đây là gì? Phải chăng đó là sự sinh tử của mỗi chúng sinh. Chính trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa có dạy rằng : Chư Phật chỉ do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian. Đó là muốn cho chúng sinh “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến”.Khi chúng sinh đã ngộ nhập Tri Kiến Phật thì bản hoài của chư Phật đã thành tựu. Biết Tri Kiến Phật là Phật nhân, chúng sinh cần phải tu hành để dẹp sạch vô minh vọng tưởng thì mới đạt đến Phật quả tức là sống với Tri Kiến Phật thường trụ của mình. Tuy Phật pháp chỉ có một con đường, nhưng căn tánh chúng sinh bất đồng nên Phật mới nói tam thừa. Hàng Thanh Văn Phật nói Tứ Đế, Hàng Duyên Giác Phật nói Thập Nhị Nhân Duyên, Hàng Bồ tát Phật nói Lục độ Ba la mật. Cuối cùng Phật quy ba thừa trở thành nhất thừa Phật đạo. Đến đây bản nguyện của Phật đã viên mãn nên Ngài nhập Niết bàn. 

Tại sao Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa với Diệu Quang Bồ tát mà lại thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng?

Bồ tát Diệu Quang là đại diện cho Căn Bản Trí của mọi chúng sinh. Mà Căn Bản Trí là Phật tánh, là chơn tâm sáng suốt thì đâu cần phải thọ ký. Trong khi đó Bồ tát Đức Tạng là chỉ cho cái kho công đức, là biểu tượng cho Sai Biệt Trí. Do đó Phật thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng là sau khi hoằng hóa làm lợi ích chúng sinh, vun bồi kho công đức và sau cùng chuyển Sai Biệt Trí thành Căn Bản Trí thì ngài sẽ thành Phật. Trong vườn kinh điển Đại thừa, chỉ có kinh Pháp Hoa mới có phần thọ ký. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng trong đoạn này là để bắt đầu cho những phần thọ ký ở những chương sau.

Sau Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang thọ-trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu kiếp vì người diễn nói và dạy  bảo cho tám vị vương tử ở vững trong đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.  Tất cả tám vị lần lượt đều thành Phật và vị Phật chót hiệu là Nhiên Đăng.

Sau khi Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nhập diệt, Bồ tát Diệu Quang vì chúng sinh mà diễn nói kinh Pháp Hoa trong suốt tám mươi tiểu kiếp. Nhắc lại đoạn kinh trước 60 tiểu kiếp chừng như một bửa ăn bởi vì Tri Kiến Phật vượt thời gian và không gian nên người ngộ được Tri Kiến Phật thì thời gian như dừng lại, vạn kiếp không lìa một niệm tâm. Trong số những người được Bồ tát Diệu Quang giáo hóa, còn có 8 vị vương tử, con của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh. Các vị đó vững tin đối với đạo Vô Thượng Bồ đề nên tất cả đều thành Phật và vị Phật sau cùng đó là Phật Nhiên Đăng. Nhiên là đốt, Đăng là đèn. Phật hiệu Nhiên Đăng là thắp đèn tỏa ra ánh sáng. Đây là ánh sáng trí tuệ phát ra tử Căn Bản Trí để giúp chúng sinh giải trừ mọi vọng tưởng chấp trước, phát triển trí tuệ trong sáng viên mãn tròn đầy tức là thành Phật.

Trong tám trăm đệ tử của Bồ-tát Diệu Quang có một người tên là Cầu Danh.  Sở dĩ người nầy có cái tên ấy là vì còn tham ưa danh lợi, tuy có đọc tụng  kinh điển  nhiều mà không thuộc rành. Dù vậy, đó cũng là một “căn lành” đã từng  “gieo giống Phật” trong vô lượng ngàn muôn ức kiếp.

Sau khi kể lại câu chuyện trên, Bồ-tát Văn Thù kết luận: Bồ-tát Diệu Quang lúc đó đâu phải người nào lạ, chính là ta đây, còn Cầu Danh Bồ-tát lúc đó, nay chính là Di Lặc ngài đấy.

Hôm nay đức Phật Thích Ca phóng quang hiện điềm giống hệt xưa kia, tôi nghĩ là đức Phật cũng sẽ nói kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

          Đọc đoạn kinh này khiến chúng ta có những nghi vấn như thế này:

          1)Bồ tát Diệu Quang từ thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã giáo hóa cho biết bao Bồ tát thành Phật thế mà cho đến thời Phật Thích Ca, ngài vẫn là Bồ tát Văn Thù, chưa thành Phật?

          2)Trong Hải Hội Pháp Hoa, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng, thậm chí Bồ tát Cầu Danh là người cầu thânvới những hàng danh gia vọng tộc, quan quyền, giàu có, không tinh tấn tu hành nếu không muốn nói là thuộc hạng bê bối mà vẫn được Phật thọ ký cho đời sau thành Phật hiệu là Di Lặc. Trong khi đó Phật không hề thọ ký cho Bồ tát Văn Thù?

Trong tất cả mọi chúng sinh đều có sẵn chơn tâm, Phật tánh sáng suốt tràn đầy mà nhà Phật gọi là Căn Bản Trí, là biểu tượng của Bồ tát Văn Thù. Tuy ai ai cũng đều có Căn Bản Trí, nhưng chúng sinh bị vô minh che lấp nên sống trong điên đảo, là biểu tượng của Bồ tát Cầu Danh. Vì thế khi Phật thọ ký chẳng qua là lời khuyến khích, thối thúc chúng sinh nổ lực tinh tấn tu hành để phá vô minh, dẹp vọng tưởng mà quay về với Căn Bản Trí vốn thường sáng tỏ trong ta. Thọ ký không có nghĩa là Phật cho ta quả vị Phật mà Phật muốn khẳng định trong ta đã có sẵn Phật tánh (chất Phật) rồi cho nên nếu chúng sinh biết rữa sạch bợn nhơ của phiền não vô minh thì Phật tánh sẽ hiện bày tức là thành Phật. Di Lặc chạy theo danh tướng nên bị vọng tưởng chấp trước sai sử. Nay duyên lành  gặp được Phật, biết rằng thức là phân biệt, đối đãi và vọng tưởng không thật nên quyết tâm tu hành biến vọng thức thành chân như, chuyển tám thức thành bốn trí rồi thành Phật. Do đó Di Lặc mới cần Phật thọ ký. Còn Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản Trí mà Căn bản Trí là Phật tánh. Đã là Phật tánh thì còn thọ ký thành Phật chi nữa. Bồ tát Diệu Quang là thầy của biết bao chư Phật, dạy các Bồ tát tu thành Phật và trải qua biết bao đời đến nay trở thành Bồ tát Văn Thù cho nên Căn Bản Trí tức là Phật (tánh) rồi chớ không cần phải tu hành để trở về với Phật (tánh) nữa.

 

PHẦN TÓM LƯỢC

Thâm ý của phẩm Tựa này là chuẩn bị tinh thần cho đại chúng trong hải hội Pháp Hoa biết rằng mọi người sắp được nghe một diệu pháp rất thâm sâu huyền diệu mà xưa nay chưa từng được nghe tới. Những người có duyên lớn như Bồ tát Diệu Quang tức là Bồ Tát Văn Thù đã từng nghe và thuyết giảng lại kinh Pháp Hoa. Tuy thế Bồ tát Di Lặc đã từng thực tập, học hỏi từ rất nhiều vị Phật mà có lẽ vẫn chưa được nghe pháp vi diệu này lần nào.

Nét đặc thù của phẩm này là giới thiệu tư tưởng Bồn Môn và Tích Môn để chúng ta quen thuộc về sự liên hệ giữa những vị Phật quá khứ và Phật Thích Ca. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã từng nói kinh Pháp Hoa vì thế chuyện Phật Thích Ca nói kinh Pháp Hoa ngày nay chỉ là sự lặp lại chứ không có gì mới lạ. Cái mới lạ ở đây là dựa vào góc độ thời gian trong giai đoạn nào đó trong lịch sử đối với con người hôm nay. Nhưng đứng trên phương diện bản thể tức là thế giới của chân không thì   vượt thời gian và không gian là chuyện bình thường không có gì mới lạ cả. Phải chăng Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã thuyết kinh Pháp Hoa ngày xưa có phải là Phật Thích Ca ngày nay chăng? Sự thật là như vậy, hai vị Phật này tuy hai nhưng mà một. Chẳng những thế, chương sau có vị Phật Đa Bảo ngày xưa cũng thuyết kinh Pháp Hoa cho nên Phật Đa Bảo ngày xưa cũng chính là Phật Thích Ca ngày nay. Do đó nếu đứng trên phương diện Tích môn mà nói thì Phật Thích Ca hiện giờ đang thuyết giảng kinh Pháp Hoa ở  thế giới Ta Bà này. Nhưng bây giờ nếu dựa theo Bổn Môn mà lý luận thì Phật Thích Ca chính là Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Phật Đa Bảo đã từng thuyết pháp ngày xưa và chưa bao giờ ngừng thuyết pháp. Tóm lại, đứng về mặt Bổn Môn thì Phật Thích Ca là Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, cũng là Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca không có giây phút nào ngừng nói kinh Pháp Hoa. Nhưng đứng về mặt Tích Môn thì Phật Thích Ca đã thuyết pháp ròng trong suốt 49 năm. Nói cách khác, kinh giới thiệu cho chúng ta hai cái nhìn: Một là con người lịch sử và cái khác là chân lý, vượt ra ngoài những phạm trù đối đãi của thời gian và không gian.

 

Âm lịch

Ảnh đẹp