KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Mười Ba
Phẩm KHUYÊN TRÌ
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà
Khuyên là khuyên nói, trì là giữ gìn. Vậy
khuyên nói và giữ gìn cái gì? Người tu theo kinh Pháp Hoa nên giảng
giải, đọc tụng, sao chép và giữ gìn cho kinh này tồn tại mãi mãi ở thế
gian.
Hãy nghiệm lại bài “KHAI KINH KỆ”:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
Nghĩa là:
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe được chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Giáo lý Pháp Hoa là thậm thâm vi diệu,
không còn triết lý nào trên thế gian mà cao siêu hơn được tại vì kinh
Pháp Hoa chỉ rõ Tri Kiến Phật vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh cho nên có
câu “Thành Phật tu Pháp Hoa” là vậy. Giáo lý quá huyền diệu nhiệm mầu
cho nên dễ gì trong muôn vạn kiếp mà thấy biết được. Vì vậy khi đã biết
Pháp Hoa, chúng sinh nên tiếp nhận và hành trì nghĩa là áp dụng những
giáo lý nhiệm mầu đó vào trong cuộc sống tức là lấy tinh thần Pháp Hoa
làm tiêu chuẩn mà hóa giải cho thân khẩu ý được hoàn toàn thanh tịnh.
Muốn đạt đến trình độ này chúng sinh phải thấu hiểu rốt ráo thâm nghĩa
của kinh vì thế kinh là để nghiên cứu, tham học, tư duy để tìm cái chân
lý ẩn bên trong rồi đem chân lý đó hành trì trong cuộc sống để có giải
thoát giác ngộ chớ kinh không để tụng trước bàn thờ Phật. Trong lịch sử
Phật giáo, chưa có người nào tụng kinh mà trị hết bệnh tham, sân, si mà
chính họ phải tự tu sửa, phải tham thiền tức là tham tánh và niệm Phật
tức là niệm tâm để hóa giải dần dần những căn bản vô minh phiền não đó.
Chỉ khi nào chúng sinh tự nghiệm biết sự tai hại của tham, sân, si mạn,
nghi thì chính họ mới hóa giải nó được. Có biết rõ bộ mặt thật của kẻ
thù thì con người mới chiến đấu và có cơ hội thắng nó. Ngược lại, nếu
nhận giặc phiền não làm con thì sẽ trôi nổi trong biển ái sông mê, lang
thang lẩn thẩn triền miên không có lối thoát.
Một khi được kinh Pháp Hoa khai mở, chỉ bày để tự nhận ra nơi mình có Tri Kiến Phật thì chúng sinh phải “giữ gìn” làm tỏ ngộ và thâm nhập
cái Tri Kiến Phật đó và không để cho phiền não trần lao che phủ. Sống
trong tỉnh thức chánh niệm là biết mình lúc nào cũng có Tri Kiến Phật
tức là “Trì” vậy.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết cùng hai muôn Bồ-tát quyến thuộc, ở trước Phật nói lên lời thề rằng:
-Cúi xin Thế-Tôn chớ lo, sau Phật
diệt độ chúng sanh tôi sẽ tuân giữ, đọc tụng kinh điển nầy. Chúng sanh
trong đời ác về sau, căn lành lần lần ít, kiêu ngạo nhiều thêm tham lợi
háo danh, trồng sâu nghiệp bất thiện, xa lìa giải thoát. Tuy khó giáo
hoá như vậy, chúng con sẽ dùng sức nhẩn lớn, trì tụng biên chép diễn
nói, hy sinh mọi cách thậm chí không tiếc thân mạng để giáo hoá cho họ.
Dược Vương là vị Bồ Tát ban cho thuốc hay
để chữa cho thân và tâm bệnh của chúng sinh. Dựa theo kinh Quán Dược
Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát, trong vô lượng vô biên A tăng ký kiếp quá
khứ có đức Phật hiệu là Lưu Li Quang Chiếu Như Lai, cõi nước của đức
Phật này là Huyền Thắng Phan.
Sau khi đức Lưu Li nhập Niết bàn, trong
thời tượng pháp có Tỳ kheo Nhật Tạng, thông minh, đa trí, diễn nói cho
đại chúng nghe pháp Đại thừa Vô Thượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Đại Huệ của
Như Lai. Bấy giờ, trong đại chúng có trưởng giả Tinh Tú Quang, nghe pháp
Đại thừa Bình Đẳng Đại Huệ nên lòng rất vui mừng bèn đem thuốc hay của
núi tuyết cúng dường cho Tỳ kheo Nhật Tạng cùng chúng tăng và phát
nguyện rằng “đem công đức này để hồi hướng đạo Vô Thượng Bồ Đề, nếu có
chúng sinh nào nghe tên tôi, nguyện cho họ tiêu trừ ba thứ bệnh khổ.
Khi ấy, em của trưởng giả tên Điền Quang Minh cũng theo anh mang đề hồ,
thuốc hay để cúng dường cho Tỳ kheo Nhật Tạng và cũng phát tâm Bồ Đề
rộng lớn, nguyện được thành Phật.
Khi đó, đại chúng khen ngời trưởng giả
Tinh Tú Quang là Dược Vương, còn em là Điền Quang Minh là Dược Thượng là
hai vị Bồ Tát Dược Vương và Dược Thượng sau này.
Đại Nhạo Thuyết là vị Bồ Tát thành tựu tứ vô ngại biện tài:
1) Pháp vô ngại :
Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy cái gì cũng đúng với
chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các pháp trở thành Phật pháp.
Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi thì nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô
thường.
2) Nghĩa vô ngại : là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai chân lý.
3) Từ vô ngại : là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.
4) Lạc thuyết vô ngại là càng nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao giờ bị bế tắc.
Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì
tứ vô ngại được gọi là tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát sinh ra
bốn thứ vô ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói thì gọi là tứ vô
ngại biện tức là tứ vô ngại biện tài. Sau cùng khi chúng sinh nhìn kinh
điển mà có thể nhận thức, thấy biết ngay thì gọi là tứ vô ngại giải,
nghĩa là đọc kinh thì biết ngay ý nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu.
Vì có tứ vô ngại biện tài nên Bồ Tát Đại
Nhạo Thuyết mới dám đảm nhận trách nhiệm truyền bá kinh Pháp Hoa ở thế
giới Ta Bà đầy uế trược nầy.
Tinh thần Pháp Hoa là trong mỗi chúng
sinh đã có sẵn Tri Kiến Phật cho nên nếu đứng về phương diện chân đế mà
nói thì vào thời đức Phật còn tại thế và thời sau ngày Phật Nhập diệt
con người trước sau như vậy, Phật tánh không tăng cũng không sa sút.
Nhưng bây giờ nếu nhìn theo lăng kính của tục đế thì tâm của chúng sinh
có thay đổi tùy theo hoàn cảnh xã hội, môi trường sống và đạo đức nhân
bản trong xã hội đó. Nói chung, con người càng chạy theo vật chất thì
tâm linh thiếu thăng bằng. Càng tham muốn thì dục vọng càng tăng trưởng
để sai sử họ dấn thân vào con đường khổ, phiêu lưu dám làm những chuyện
trái với lương tâm. Vì thế kinh Pháp Hoa đóng một vai trò tối quan trọng
vào trong cuộc sống của con người đó là nhắc nhở cái “Tri Kiến Phật” là
chơn tánh hằng sáng thanh tịnh vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh. Do
đó nếu con người trực nhận được tri kiến Phật của mình thì chắc chắn
cuộc sống của họ không bao giờ chao đảo chông chênh. Phải chăng đây là
bản hoài của chư Phật và Bồ Tát thị hiện trong thế gian này để giúp
chúng sinh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui?
Bấy giờ trong đại chúng 500 A-la-hán
đã được thọ ký, bạch Phật rằng: Thế Tôn ! Chúng con cũng tự thệ nguyện
truyền bá rộng kinh nầy ở những nước khác.
Lại có 8.000 vị hữu học, vô học cũng
đã được thọ ký rồi, lập lời thề trước Phật: Chúng con cũng ở nơi nước
khác giảng nói rộng kinh nầy. Tại vì cõi nước Ta-Bà phần lớn con người
hay che giấu điều ác, ôm lòng tăng-thượng-mạn, công đức cạn mỏng, hận
thù, nịnh hót vì tâm không thành Phật.
Đoạn trước các vị Bồ Tát Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết đại diện cho hàng Đại Bồ Tát phát nguyện cùng chư Phật sẽ khai mở, chỉ bày để chúng sinh “giữ gìn” làm tỏ ngộ và thâm nhập
cái Tri Kiến Phật cho những đời vị lai. Đến đoạn này đến lượt các vị A
la hán trong hàng Thanh Văn sau khi được Phật thọ ký thì cũng phát những
hạnh nguyện to lớn như hàng Bồ Tát. Sau đó những bậc hữu học và vô học
sau khi được Phật thọ ký cũng hân hoan phát lời thệ nguyện rộng lớn là
giữ gìn và truyền bá kinh Pháp Hoa để giúp chúng sinh “Chư ác mạc tác”
“Chứng thiện phụng hành” và sau cùng đạt đến cứu cánh là “Tự tịnh kỳ ý”.
Có thanh lọc thân khẩu ý thì con người mới thực sự quay về sống với
chơn tánh của mình tức là “trì” cái Tri Kiến Phật của chính mình. Nhưng ở
đây các vị A la hán, các vị trong hàng hữu học và vô học chỉ xin được
truyền bá kinh Pháp Hoa ở những thế giới ít ô trược chớ không dám ở thế
giới Ta Bà này vì các ngài chưa đủ bản lãnh. Ngày nay, học giả thì
nhiều, lý luận rất hay nhưng hành giả có rất ít bởi vì con người nghiêng
về lý thuyết nhiều hơn cho nên tốn công rất nhiều mà kết quả thật sự
chẳng có bao nhiêu. Lý luận thì cao siêu lên vút tận trời xanh, nào là
Bát Nhã, nào là Tánh Không, nào là Duy Thức, nhưng cái căn bản ở dưới
đất lại quên đi cho nên nói thì hay mà tánh tham không bỏ, tật đố không
chừa, không lìa tranh chấp thì chính mình chẳng được lợi ích gì chỉ là
lý thuyết suông. Con người sống trong thế giới Ta Bà có nghiệp chướng
sâu dày, che dấu tội lỗi, ôm ấp lòng tăng thượng mạn, công đức chẳng có
bao nhiêu, tà tâm nịnh hót, không sống bằng trực tâm chân chính cho nên
nếu không phải là Đại Dược Vương hay Đại Nhạo Thuyết thì không cách nào
trị nổi những căn bệnh hiểm nghèo này. Biết mình trị không nổi nên các
vị A la hán và biết bao hàng hữu học và vô học khác xin đi truyền bá
kinh Pháp Hoa ở những thế giới mà con người bệnh nhẹ hơn, tâm tánh dễ
thuần thục hơn.
Thế giới Ta Bà chỉ dành cho hai vị Bồ Tát
Dược Vương, là vua của các vị thầy thuốc nên biết rõ thân và tâm bệnh
của chúng sinh mà giúp họ hóa giải và Đại Nhạo Thuyết, là người có tứ vô
ngại biện tài nên mới dám lãnh trách nhiệm truyền bá kinh Pháp Hoa vì
hai vị có đầy đủ bản lãnh, khả năng giáo hóa chúng sinh và diễn nói
chánh pháp đúng theo ý kinh mà không rơi vào mê tín, không đưa đại chúng
sống trong ảo tưởng hoang đường. Chúng sinh có rất nhiều tâm bệnh như
bệnh chấp ngã, chấp pháp, bệnh tham sân si, bệnh lục dục thất tình và từ
đó nó biến dạng ra không biết bao nhiêu thứ bệnh khác. Vì thế chỉ có Bồ
Tát Dược Vương mới thấu biết rốt ráo tâm bệnh của chúng sinh và nhờ tài
biện thuyết vô ngại của Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát giảng giải thâm ý kinh
Pháp Hoa cho đại chúng tỏ ngộ và thâm nhập Tri Kiến Phật của chính mình.
Sau cùng đoạn kinh sau thì các vị Tỳ kheo
Ni sẽ phát nguyện cùng gánh vác trọng trách giữ gìn kinh Pháp Hoa được
trường tồn mãi mãi trong thế gian.
Lúc bấy giờ bà Dì của Phật là Tỳ kheo
ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng với 6.000 Tỳ kheo ni của hai hạng hữu học và
vô học, đổng đứng dậy, chấp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, mắt không
tạm rời. Thế Tôn mới hỏi:
-Kiều-đàm-di! Vì cớ
nào mà ngó Như Lai với vẻ lo âu như vậy? Phải chăng vì ta không kêu tên
thọ ký cho các bà? Này Kiều-đàm-di, ta trước thọ ký tổng quát cho tất
cả Thanh-Văn, nay bà đã muốn thì ta nói trước cho biết, đời sau, bà sẽ
làm Đại Pháp Sư của 68.000 Phật pháp còn 6.000 Tỳ kheo ni trong hàng hữu
học và vô học, cũng sẽ làm Pháp Sư. Lần hồi ngươi sẽ đầy đủ đạo Bồ tát
và sẽ được thành Phật, hiệu Nhất-thiết-chúng-sanh-hỉ-kiến Như Lai. Này
bà Kiều-đàm-di, Phật Hỉ Kiến và 6.000 Bồ tát sẽ tuần tự thọ ký được Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, mẹ của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Gia-du-đà-la thầm nghĩ:
- Thế Tôn thọ ký cho mọi người sao riêng mình chẳng nói tới tên? Phật kêu Gia-du-đà-la nói:
-Đời sau, trong năm ngàn
vạn ức pháp môn của Phật, bà sẽ tu hạnh Bồ-tát, làm Đại Pháp Sư, lần
hồi đầy đủ Phật đạo, rồi ở nơi nước Thiện, sẽ thành Phật hiệu
Cụ-túc-thiên-vạn-quang-tướng Như Lai.
Kiều-đàm-di, Gia-du-đà-la và tất cả Tỳ kheo ni đều vui mừng hớn hở, cho là được của quí giá chưa từng có.
Sau khi Phật thọ ký cho tất cả Tỳ kheo
thì hiện tượng Long nữ mới vừa tám tuổi tức thì được thành Phật làm cho
tất cả các vị Tỳ kheo Ni bàng hoàng xúc động. Các bà nghĩ rằng một đứa
bé gái mang thân rồng mà còn thành Phật thì không lẽ chúng ta đã xã thân
quyết chí tu hành mà không thể thành được chăng? Hiểu được tâm trạng
của các bà nên đức Phật bây giờ chính thức thọ ký cho Dì Mẫu, Tỳ kheo Ni
Gia Du Đà La và 6.000 Tỳ kheo Ni trong hàng hữu học và vô học sẽ thành
Phật. Nói thành Phật, nhưng đâu phải thành Phật ngay như nàng Long nữ
mà phải trải qua vô lượng kiếp tu hành, đầy đủ công hạnh Bồ Tát, trí tuệ
vẹn tròn thì lúc đó mới thành Phật. Một lần nữa, thọ ký phải được hiểu
như là một lời khích lệ từ đức Thế Tôn để khuyến khích chúng sinh cố
gắng hóa giải cho hết những vẫn đục trong tâm thức của mình chớ thật ra
Phật không cho chúng sinh cái gì cả. Tri Kiến Phật vốn đã có sẵn trong
mỗi chúng sinh chớ cái Phật tánh này không do Phật ban cho vì thế Phật
biết trong mỗi chúng sinh đã có sẵn cái mầm Phật tánh nên Ngài mới thọ
ký tức là khuyến khích cho họ cố gắng nhận biết để tỏ ngộ và sau cùng
thâm nhập cái Phật tánh thiêng liêng huyền diệu của chính mình đó thôi.
Nói rộng ra, chúng ta đang sống rải rác
khắp nơi trên thế giới cho nên không nhất thiết chỉ có người quy y đạo
Phật mới có Tri Kiến Phật mà ngay cả những ông Tây, bà Đầm, mắt xanh mũi
lỏ, không nói được tiếng Việt thậm chí không biết một tý gì về Phật
giáo thì những người này cũng đều có Tri Kiến Phật giống như chúng ta và
dĩ nhiên họ có thể thành Phật giống như mọi người. Đây là tinh thần
bình đẳng khách quan mà chỉ Phật giáo mới có. Từ đó con người mới nhìn
thấu suốt ra ngoài mà thấy được tính bình đẳng của tất cả sự vật hiện
tượng mà thành tựu Bình Đẳng Tánh Trí. Thế thì Tri Kiến Phật là Phật
nhân mà muốn thành tựu Phật quả thì chúng sinh phải hóa giải cho hết
Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Hoặc và Trần Sa Hoặc. Con đường thành tựu
Phật đạo còn dài cho nên đoạn kinh trên nói rằng “lần hồi” nghĩa là từ
từ hóa giải từng phiền não vô minh cho đến khi tâm hoàn toàn trong sáng
thì sẽ thành Phật chớ không thể đốt giai đoạn được. Nhắc lại Tổ Bồ Đề
Đạt Ma nói rằng “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” là quay về để
biết cái tâm thật của mình tức là phần đầu của kinh Lăng nghiêm khi Phật
hỏi 7 lần về nơi thường trụ của tâm và sau đó thấy tánh thì thành Phật.
Thấy tánh là phần sau của kinh Lăng Nghiêm nghĩa là chúng sinh phải
biết thấu suốt tánh thấy, tánh nghe…của mình để đừng chạy theo khách
trần phiền não. Nhưng cho dù có thấy tánh thì đây chỉ là Phật nhân chứ
không thể thành Phật ngay được bởi vì trong ta tập khí ngã mạn, gốc tham
sân si chưa nhổ sạch nên cần phải huân tu để hóa giải chúng. Khi nào
diệt hết Kiến Hoặc, Tư Hoặc và Vô Minh Hoặc thì lúc đó mới thành Phật
quả.
Sau khi đọc một bài kệ, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật: Thế Tôn, chúng con có thể rộng nói kinh nầy ở các nước phương khác không?
Phật bèn ngó 80.000 muôn vạn ức
na-do-tha Bồ-tát. Các Bồ-tát này toàn là bậc bất-thối-chuyển và đã
được các “ tổng trì”, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, chấp tay
nghĩ nói trong lòng rằng:
-Nếu Thế Tôn dạy, chúng con sẽ như lời Phật mà rộng nói kinh nầy.
Rồi lại nghĩ:
-Phật nay làm thinh không dạy, bây giờ chúng ta sẽ nói gì đây?
Khi ấy, vừa để thuận theo ý Phật, vừa để thoả mãn sở nguyện của mình, các Bồ-tát bèn thề lớn trước Phật:
-Thế Tôn, sau Như Lai diệt độ, chúng
con sẽ đi khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh
này, lãnh giữ, đọc tụng, giải nói ý nghĩa, theo pháp tu hành, sửa điều
nghĩ nhớ cho chân chánh được như thế là toàn nhờ uy lực của Phật. Cúi
xin Thế Tôn ở phương khác, xa thấy mà hộ trì cho!
Đến khi các vị Tỳ kheo Ni được Phật thọ
ký bèn cùng với hàng Bồ Tát bất thối chuyển phát nguyện được đem kinh
Pháp Hoa đến những thế giới khác trong vũ trụ để hoằng pháp lợi sanh vì
tất cả không đủ bản lãnh để giáo hóa chúng sinh trong thế giới Ta Bà.
Duy chỉ có Bồ Tát Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết là nguyện vào thế giới
Ta Bà để giảng giải truyền bá kinh Pháp Hoa vì các ngài có đầy đủ trí
lực để giáo hóa những chúng sinh can cường che đậy điều ác, ôm lòng tăng
thượng mạn, sống trong hận thù, tranh chấp.
Đến đây Phật đã thọ ký cho tất cả mọi
người, từ các bậc đại trí, các vị Tỳ kheo hữu học và vô học đến các vị
Tỳ kheo Ni hữu học và vô học và cho tất cả đại chúng. Mọi người rất hoan
hỷ và tin rằng một ngày nào đó khi công thành đức mãn thì chính mình sẽ
thành Phật.
Tóm lại, nếu đứng về phương diện tích cực
thì thọ trì kinh Pháp Hoa là truyền bá, giảng nói, biên chép, xiễn
dương cho tất cả mọi người cùng thể nhập Tri Kiến Phật. Còn dựa theo
khía cạnh tiêu cực thì hành giả tiếp thu, áp dụng và sống theo giáo lý
đó trong đời sống của měnh. Do đó nhận biết Tri Kiến Phật là Chánh nhân
Phật tánh tức là Phật nhân còn trì kinh Pháp Hoa là Duyên nhân Phật tánh
nghĩa là phát triển làm cho hoa Tri Kiến nẩy nở nhanh chóng. Chúng sinh
nhờ nghe kinh Pháp Hoa mà cải thiện tâm ý khiến cho thân khẩu ý dần dần
được thanh tịnh, giữ vững chánh niệm sống trong thiện pháp thì hoa sen
trong họ dần dần nở rộ. Sau cùng Phật tánh hiển lộ rõ ràng, hoa sen bây
giờ nở rộ thơm ngát thì gọi là Liễu nhân Phật tánh tức là thành Phật.