KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Hai Mươi Ba
Phẩm DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà
Phật giáo Đại thừa có tất cả mười hai thể loại kinh được phân biệt theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp như sau:
1)Khế kinh: Còn được gọi là Trường hàng tức là thể loại văn xuôi, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật.
2)Trùng tụng: Tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà khế kinh đã nói.
3)Thọ ký: Vốn là các
đoạn văn giải thích về giáo nghĩa , đời sau đặc biệt chỉ cho lời ấn
chứng trước của Phật đối với việc làm ở vị lai của các đệ tử.
4)Phúng tụng hay Cô khởi: Tức là phần kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của đức Phật mà không lập lại ý của văn trường hàng trước đó.
5)Tự thuyết hay Vô vấn: Đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự khai thị giáo thuyết.
6)Nhân duyên: Ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tựa của kinh này.
7)Thí dụ: Dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa như phẩm này.
8)Bổn sự: Các bản kinh
nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và đệ tử. Những kinh mở đầu bằng
câu:”Phật như thị thuyết” cũng thuộc loại Bổn sự.
)Bổn sanh: Thể loại kinh nói về các hạnh đại bi mà đức Phật tu hành vào thời quá khứ.
10)Phương quảng: Các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa.
11)Vị tằng hữu: Dùng
những cảnh giới siêu hình để diễn tả những triết lý sâu xa mà ngôn ngữ
con người không thể giải thích được. Đạo Phật dứt khoát không nói chuyện
hoang đường, cũng không nói chuyện thần thoại mà chỉ dùng những hình
ảnh có vẻ như hoàng đường, thần thoại, nhưng để chứa đựng một triết lý
giáo dục bên trong.
Khi đức Phật còn tại thế, một hôm Tỳ kheo Man Đồng Tử đặt ra những câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn rằng :
- Bạch Thế Tôn! Thế giới thường
hằng hay không thường hằng, hữu hạn hay vô hạn, linh hồn với thân xác
là một hay là khác. Chính Như Lai tồn tại hay không tồn tại sau khi
chết?
Khác với những triết gia Long
Thọ, Vô TrướcvàThế Thân cố tìm ra những triết lý, luận thuyết để giải
thích những hiện tượng về thế giới siêu hình, ở ðây ðức Phật vẫn ðiềm
nhiên im lặng không trả lời cho Tỳ kheo Man Ðồng Tử. Không phải là Ngài
không biết, không thể trả lời, nhýng ðó không phải là cứu cánh của ðạo
Phậtlà nhổ mủi tên khổ đau của nhân loại. Điều đó xác định rằng kinh
điển của đức Phật không nói chuyện siêu hình, những gì không thể kiểm
chứng. Nếu đã không thể kiểm chứng được thì cho dù đức Phật có giải
thích cách mấy thì chẳng ai nhận thức, hiểu hay thực hành được. Tệ hại
hơn nữa là không biết, không hiểu mà cứ nhắm mắt tin theo thì sẽ trở
thành một thứ si mê tăm tối, đi ngược lại tôn chỉ của đạo Phật là đạo
giải thoát, đạo trí tuệ.
12)Luận nghị: Đức Phật luận nghị, phân biệt thể tính các pháp, làm sáng tỏ các pháp.
Trong 12 thể loại kinh ở trên thì chỉ có
Đại thừa là có đủ 12 loại. Còn Tiểu thừa chỉ có 9 loại nghĩa là kinh
điển Tiểu thừa không có thể loại Thọ ký, Tự thuyết và Phương quảng.
-Thọ ký chỉ có trong kinh Pháp Hoa bởi vì
Phật dựa vào tư tưởng “mọi chúng sinh đều có Phật tánh, tri kiến Phật
nên Phật mới thọ ký vào vô lượng kiếp về sau sẽ thành Phật.
-Tự thuyết là Phật tự ý nói chớ không
phải do đệ tử hỏi. Đó là những kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ. Thể loại
Tự thuyết không có trong Phật giáo Nguyên thủy vì Phật thuyết là do
nhân duyên, do sự thưa thỉnh của đệ tử, của đại chúng về đề tài liên
quan đến hoàn cảnh, tâm trạng và thời điểm lúc bấy giờ. Vì thế đức Phật A
Di Đà hay chư Bồ tát không hề có trong giáo lý Nguyên thủy là như vậy.
-Phương quảng hay còn gọi là phương đẳng
là các kinh nói về nghĩa bình đẳng, rộng lớn sâu xa. Đó là các bộ Bảo
Tích và Đại Tập. Phương đẳng chia làm hai phần là Phương đẳng Hiển
thuyết và Phương đẳng Mật chú. Hiển thuyết gồm có các kinh như Bảo Tích
và Mật chú kinh thì có kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu
Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm và Mật chú Nghi quỹ gồm các
kinh Kim Cương Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiển
Chứng Đại Giáo Vương.
Thế thì Bồn Sự là thể loại kinh
nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và chư đệ tử. Nhưng tại sao lại
phải nói về chuyện quá khứ? Bởi vì quá khứ là nền tảng xây dựng cho
hiện tại và tương lai. Tư tưởng Tây phương có câu “Lịch sử là một cái gì
tái diễn” cho nên trải suốt chiều dài lịch sử của con người từ đông qua
tây từ cổ đến kim, lịch sử luôn tái diễn, lập lại. Hiện tượng và hoàn
cảnh xã hội tuy có khác nhau, nhưng tình tiết, nội dung và kết quả
không bao giờ sai khác. Ngày xưa có các vị thánh hiền thì ngày nay cũng
có các vị thánh hiền. Ngày xưa có bạo chúa thì ngày nay bạo chúa cũng
xuất hiện khắp nơi cho nên cổ nhân có câu “Luận cổ suy kim” để lấy bài
học người xưa làm bài học cho người đời nay. Vì vậy Dược Vương Bồ Tát
Bổn Sự là nói về những việc làm xưa của Bồ Tát Dược Vương. Phẩm này cũng
giống như phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát nói về thực hành tức là việc
làm. Thường Bất Khinh Bồ Tát là một vị sứ giả Như Lai đã truyền bá một
thông điệp duy nhất đến với mọi người là các ông, các bà, các anh, các
chị đều sẽ thành Phật. Tuy Ngài là vị sứ giả Như Lai, nhưng Ngài không
cần ủy nhiệm thư mà chỉ có một niềm tin thật vững chắc rằng tất cả chúng
sinh sẽ thành Phật. Vị sứ giả đó đã thành công, thông điệp của Ngài lan
rộng đến mọi người và kết quả là Ngài đã thành Phật và vị Phật đó chính
là đức Thích Ca Mâu Ni. Thường Bất Khinh Bồ Tát đã thực hành một phận
sự thì ở đây Dược Vương Bồ Tát lại thực hành một phận sự khác.
Dược Vương là ông vua về thuốc,
thế thì vị Bồ Tát này sẽ cho chúng ta thuốc gì và để trị bệnh gì? Chúng
sinh vì sống trong vô minh bất giác nên dễ lâm vào những bệnh nan y như
bệnh chấp Ngã, chấp Pháp.Bản ngã và ngã sở hữu là cội gốc của vô minh
và từ đó nó phát sinh đâm chồi nẫy nhánh tạo thành ba thứ vô mình căn
bản tham-sân-si.Và từ cái tam độc này nẫy sinh ra tham đắm về tài, sắc,
danh, thực, thùy còn được gọi là đam mê theo ngũ dục lạc. Ngày nào con
người còn lặn hụp trong tài sắc danh lợi an ngon ngủ kỷ này thì cuộc đời
không bao giờ có được an vui, tự tại. Đến đây có người thắc mắc rằng có
tiền nhiều, danh vọng lớn, ăn ngon, mặc đẹp thì nếu đây không phải là
hạnh phúc, là những cứu cánh của cuộc đời thì còn là gì? Thật vậy, Phật
giáo không phủ nhận những hạnh phúc giả tạm nầy, nhưng nếu quán chiếu
lại thì sẽ thấy rằng tất cả những hạnh phúc ở trên đều phải có điều
kiện. Mà hễ bất cứ cái gì trên thế gian mà có điều kiện thì cái đó bị
ràng buộc. Hạnh phúc nhỏ thì ràng buộc ít còn hạnh phúc càng nhiều thì
chắc chắn sự ràng buộc càng to lớn hơn. Nói cách khác hễ có ràng buộc
dầu ít hay nhiều thì vẫn là cội nguồn cho những nỗi khổ sau nàytức là
trong cái hạnh phúc đó đã ngầm chứa mầm mống khổ đau rồi.
Trong các phẩm trước đức Phật đã khai, thị để chúng sinh ngộ
cái Tri Kiến Phật. Đến phẩm này thuộc về phần thực hành nên kinh giới
thiệu Bồ Tát Dược Vương để giúp chúng sinh thực hành tức là hội nhập cái Trí Tuệ Phật đó.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Tú Vương Hoa bạch Phật:
-Thế Tôn ! Làm thế nào mà Bồ-tát Dược
Vương du hành tự tại nơi thế giới Ta-bà? Bồ-tát Dược Vương có bao nhiêu
ngàn muôn ức hạnh khổ khó làm? Nguyện Thế Tôn giải nói một ít cho Thiên
Long, Bát Bộ, cho các hàng Bồ-tát từ nước khác đến cùng hàng Thanh Văn ở
đây nghe, để tất cả đều được vui mừng.
Để mở đầu cho phẩm này kinh giới thiệu Bồ
Tát Tú Vương Hoa. Tú Vương Hoa là vua của các loài hoa đẹp. Vì trải
thân làm biết bao hạnh Bồ Tát trong nhiều đời nhiều kiếp mà ngài có thân
đẹp như thế và có tên là loài hoa đẹp nhất trong số những loài hoa. Vậy
làm thế nào Bồ Tát Dược Vương có thể dạo chơi trong thế giới Ta Bà này?
Nhưng thế nào là dạo chơi? Dạo chơi là là đi chơi ở một nơi nào đó mà
không cần suy nghĩ, tính toán, không hấp tấp vội vàng mà rất thảnh thơi
tư tại. Mà muốn đạt đến những trình độ đó thì hành giả phải thoát ra
khỏi mọi trói buộc, không còn dính mắc tức là có giải thoát. Thế giới Ta
Bà đầy dẫy bất bình, bất mãn nhiều sự khổ đau nghĩa là con người tràn
ngập khổ đau thế mà Bồ Tát Dược Vương lại du hành tự tại ở cõi Ta Bà.
Vậy ngài tu theo pháp môn gì?
Thông thường, Ta Bà là thế giới mà chúng
ta đang sống có năm châu bốn bể, có nhiều giống dân nào là da vàng, da
đen, da trắng hay da đỏ và có mặt trăng với chị Hằng chú Cuội…nhưng kinh
điển Đại thừa khi nói về cõi Ta Bà không phải muốn đề cập đến những ý
nghĩa này. Mà cõi Ta Bà ở đây là thế giới mà trong đó tâm con người còn
chìm đắm trong tài sắc, danh lợi. Còn bị tham, sân, si sai sử và còn
chìm trong sông mê, bể ái. Còn bị vô minh phiền não triền miên thì họ
đang ở trong thế giới Ta Bà. Tuy những người đó ở trong cõi Ta Bà này mà
mặt đất trở thành Ta Bà, bằng chứng là ngày xưa đức Phật và biết bao đệ
tử của Ngài cũng ở trên mặt trái đất này mà họ rất thanh tịnh, tâm hằng
tự tại Niết bàn chớ họ đâu có ở Tây phương cực lạc. Vì thế khi tâm mình
thanh tịnh, không còn bị ái dục nhận chìm, ra ngoài quỷ đạo của tham
sân si thì người đó ở đâu, thế giới đó trở thành thanh tịnh cực lạc Niết
bàn. Kinh Duy Ma Cật đã khẳng định rằng “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ
tịnh” là vậy.
Đức Phật đáp rằng:
-Trong quá khứ cách nay vô lượng
hằng sa kiếp, có Phật hiệu Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Ngài có 80 ức đại
Bồ-tát, 70 hằng sa đại Thanh Văn, thọ 42 ngàn kiếp, chư Bồ-tát cũng sống
lâu như thế. Trong nước của đức Phật ấy không có đàn bà, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, a-tu-la… cũng chẳng có các khổ nạn. Đất bằng lưu ly, mặt
phẳng như bàn tay, có trồng cây báu trên có màn báu bao trùm, tràng
phan, hoa báu buông thòng. Khắp nước, bình báu, lò hương dẫy đầy. Cách
mỗi cây khoảng một lằn tên có một đài bằng bảy báu. Dưới những cội cây
ấy, có chư Bồ-tát, Thanh Văn ngồi. Trên mỗi đài trăm ức chư Thiên trỗi
nhạc trời, hát múa cúng dường Phật.
Những gì đức Phật dạy phát xuất từ đời
sống kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân vì thế Ngài dạy chúng sinh
những ý chí sắc đá, trí tuệ cao siêu, đức sống vị tha, sự thoát ly và
đặc biệt là sống đời gương mẫu làm lợi ích cho mình, cho người. Con
người vĩ đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ đó, phương pháp giáo
dục siêu việt đó của đức Phật đã làm cho thế giới kính phục Ngài như
một đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại. Đạo Phật là đạo thực
hành nên đức Phật không dạy chúng sinh những giáo lý ảo tưởng, hoang
đường mà Ngài dạy những phương trình, những công thức rất thực dụng để
chúng sinh tùy theo căn cơ, sở nguyện của mỗi người mà áp dụng để có
thực chứng. Càng loại bỏ các lậu hoặc, các tập khí con người càng an lạc
mà không cần phải cầu nguyện, cúng tếchi cả.
Nhật Nguyệt Tịnh Minh là bầu trời tinh tú
mà chúng ta đang ở và ý nghĩa của đoạn kinh này là muốn nói về công
hạnh tu hành của những Bồ Tát trong vô lượng hằng sa kiếp trước, vô cùng
vô tận cũng giống như sự rộng lớn của mặt trời mặt trăng mà ta đang
thấy để người đời sau nương theo đó mà tu theo. Lúc bấy giờ có vị Phật
ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai và trong thế giới đó có
rất nhiều Bồ Tát, Thanh Văn. Vì Phật lúc nào cũng hiện hữu, tồn tại
trong không gian cho nên nếu chúng sinh sống đúng với chân lý, sống hợp
với chân lý, sống tùy thuận chân lý thì lúc nào cũng có Phật Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức ở bên ta.
Quốc độ của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh
Đức là một thế giới cực lạc vì trong quốc độ đó rất thanh tịnh và trang
nghiêm cao quý, không hề có điều ác và khổ. Nhưng tại sao thế giới của
Ngài không có đàn bà? Không lẽ thế giới của Phật là thế giới bình đẳng
mà còn kỳ thị nam nữ? Ngày xưa đức Phật Thích Ca cho phép người nữ được
xuất gia và rất nhiều vị trở thành A la hán. Đức Phật là vị giáo chủ đầu
tiên trong lịch sử nhân loại đã xóa tan biên giới nam nữ vì theo Ngài
thì ai cũng đều có máu đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau. Chính tư tưởng
bình đẳng chẳng những áp dụng cho nam nữ mà còn cho giai cấp trong xã
hội là một cái gai lớn đối với Bà la môn giáo vì trong xã hội Ấn độ lúc
bấy giờ có quá nhiều kỳ thị về giai cấp. Tuy thế giới ngày nay tiến bộ
rất xa so với ngày xưa, thời phong kiến, nhưng vai trò của người nữ vẫn
chưa được hoàn toàn bình đẳng trong mọi phương diện. Thế thì thế giới
của Phật Thích Ca có người nữ trong khi cõi Phật của Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức Như Lai lại không có nữ nhân. Dưới cái nhìn của khoa học thì
không có một thế giới nào muốn sinh tồn và phát triễn mà không có đủ
lưỡng giới tính nam và nữ. Thuyết “Duyên Khởi” của đạo Phật cũng xác
định là bất cứ hiện tượng tinh thần hay vật chất nào cũng đều do duyên
khởi mà thành. Mà đã là do duyên khởi thì phải có lưỡng tính. Vậy ý của
kinh không có người nữ là thế nào?
Kinh nói không có người nữ không phải thế
giới đó không có sự hiện diện của người đàn bà mà ý kinh muốn nói thế
giới đó không có gian, dâm, tật đố, thị phi nhân ngã… nghĩa là kinh nói
về “Lý” chớ không phải về “Sự”. Nói thế không có nghĩa là bất cứ người
nữ nào cũng có những thói hư tất xấu đó, nhưng kinh muốn nhấn mạnh những
yếu tố rất căn bản đưa con người đến chỗ trầm luân. Ngay cả trong thân
thể của chúng ta, nếu muốn sống yên ổn thì phải biết ăn uống, hít thở
quân bình theo thịnh khí âm dương, còn nếu nghiêng về một bên tức là
dương thịnh âm suy hay ngược lại thì chắc chắn sẽ có bệnh. Khi nói có
nam, có nữ, có tốt, có xấu là nói về chân lý tục đế. Còn nói rằng tất cả
chúng sinh đều sẽ thành Phật là chân lý chân đế không phân biệt nam nữ,
già trẻ, bé lớn. Vì thế một ý nghĩa khác cho không có người nữ là không
còn những phạm trù phân biệt đối đãi nhị nguyên, là nguyên nhân tạo ra
những nỗi đau khổ, phiền muộn, bất toại ý của con người.
Thuở ấy ở thành Vương-xá, có một
người đàn-ông bị vợ ngoại-tình. Anh ta rất xấu-hổ với mọi người, nên
chẳng dámđến gần đám đông. Bẵng đi một thời-gian rất lâu, anh chẳng đi
chùa. Một hôm vào tối ngày rằm, anh đến tịnh-xá Trúc-lâm. Đức Phật hỏi,
sao lâu quá chẳng thấy anh đến nghe pháp. Anh thuật gia-cảnh của mình
cho Đức Phật nghe. Đức Phật an-ủi: "Nầy thiện-nam-tử, những người đàn-bà
trắc-nết cũng như dòng sông nước chảy, cũng như con đường đất để người
đi qua, cũng như cửa tiệm bán rượu, cũng như một quán-trọ trong đêm tối,
cũng như lu nước để ngoài sân cho khách bộ-hành đỡ khát, họ giao-du với
tất cả mọi hạng người chẳng kể tốt xấu. Tà-hạnh quả thật là một
nguyên-nhơn sa-đoạ của phụ-nữ."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
Tà hạnh là vết nhơ phụ nữ,
Xan tham là uế trược người cho,
Điều tệ ác quả là cấu uế
Trong đời này và các đời kế.
(Kệ số 242-kinh Pháp Cú)
Trong các mối bẩn nhơ vừa điểm
Vô minh là ô uế cực hiểm
Này này, hởi các vị Tỳ kheo
Mau rửa sạch, theo hàng Vô nhiễm
(Kệ số 243-kinh Pháp Cú)
Tại sao trong nước đó không có địa ngục,
ngạ quỷ súc sanh? Khi con người không sống với chánh niệm, chánh tư duy,
chạy theo tham đắm dục tình thì tâm của họ biến thành ngạ quỷ, địa ngục
A tỳ và thế giới họ đang sống sẽ biến thành thế giới Tà Bà tức là thế
giới phiền não khổ đau. Ngược lại, nếu họ biết sống trong tỉnh thức
chánh niệm khiến tâm được khinh an tự tại thì chắc chắn trong cõi nước
đó không bao giờ có ngạ quỷ, súc sanh hay địa ngục A tỳ cả.
Đặc biệt tất cả những cây cối trong nước
đều làm bằng đài bảy báu mà mỗi đài đều có một vị Bồ Tát hay Thanh Văn
ngồi dưới thiền định yên lặng và mỗi cây các nhau một trăm mét. Hình ảnh
quen thuộc này giống như ngày xưa trên đỉnh núi Linh Thứu, đức Phật và
các vị A la hán mỗi người ở một hang đá nhỏ để tinh tâm mà ngày nay nếu
ai có duyên hành hương qua xứ Phật sẽ được chứng kiến tận mắt. Đức Phật
xiễn dương lối tu độc cư tức là mỗi vị tu sĩ ở riêng biệt trong một hang
động nhỏ để tham thiền cho đến khi chứng ngộ.
Kinh điển Phật giáo Đại thừa thường diễn
tả những cảnh giới rực rỡ huy hoàng, nhưng đây không phải là cảnh thật
mà dùng để diễn giải một triết lý ở bên trong tức là “văn dĩ tải đạo”.
Đó là Tứ Tất Đàn tức là bốn phạm trù mà đức Phật dùng để hóa đạo khắp
chúng sinh.
Dựa theo Luận Đại Trí Độ của Long Thọ thì
giáo pháp của đức Phật có nhiều loại sai biệt, mới nhìn vào dường như
mâu thuẫn, nhưng nếu kết hợp giáo thuyết ấy thì có bốn Tất đàn khác nhau
đều là thật nghĩa chớ không chống trái nhau.
1)Thế giới tất đàn:
Tùy thuận pháp thế gian mà nói pháp nghĩa là dùng các sự vật thông
thường ở thế gian như ngôn ngữ, tư tưởng, quan niệm để thuyết minh chân
lý duyên khởi khiến cho mọi căn cơ ai cũng nghe, cũng hiểu được.
2)Vị nhân tất đàn: Tùy theo căn cơ và năng lực khác nhau của mỗi chúng sinh mà nói các pháp khiến chúng sinh khởi thiện căn.
3)Đối trị tất đàn:
Nhằm đối trị các bệnh phiền não tham, sân, si của chúng sinh, tùy bệnh
mà cho thuốc pháp. Đây là giáo pháp để diệt trừ phiền não và ác nghiệp
của chúng sinh vì tất đàn có công năng đoạn trừ các điều ác nên còn gọi
là đoạn ác tất đàn.
4)Đệ nhất nghĩa tất đàn: Phá trừ tất cả luận nghị ngôn ngữ vì đệ nhất nghĩa là nói về chân lý tuyệt đối tức là giáo lý thật tướng cho người căn cơ cao.
Vì thế kinh có nói cảnh giới huy hoàng
thế nay, lộng lẫy thế kia là nói theo thể loại “thế giới tất đàn” làm
cho chúng sinh ái mộ cho rằng cảnh Phật phải tuyệt vời, phước đức như
thế để nương theo đó mà tu. Đây là vấn đề tâm lý vì đức Phật biết tâm
chúng sinh lúc nào cũng chạy theo tham đắm ngay cả tu hành cũng muốn
sung sướng, giàu sang hơn những gì mình đang có nên đức Phật mượn những
thứ mà con người cho là đẹp đẻ, sang trọng để nói thế thôi. Còn dưới tuệ
nhãn của bậc giác ngộ thì cho dù là trân châu, bảo ngọc, kim cương, hột
xoàn thì cũng là những thứ hoại diệt, vô thường, nay có mai không.
Chính kinh Kim Cang có bài kệ rằng:
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng,
Như sương, như điện chớp,
Nên quán tưởng như thế.
Thế thì đền vàng, điện ngọc là quan trọng
đối với phàm nhân, còn đối với những bậc giác ngộ một khi tâm đã thanh
tịnh thì bất cứ thế giới nào họ đang sống cũng trở thành thanh tịnh Niết
bàn, cõi Phật lộng lẫy uy nga mà không cần kim cương, vàng bạc, trân
châu mã nảo chi cả. Ngày xưa đức Phật đi chân đất, đầu đậu trần, mình
chỉ có chiếc y, ngày ăn một bửa, đêm ngủ gốc cây chớ làm gì có đền vàng,
điện ngọc. Nhưng nếu còn tham đắm vào những thứ vật chất này thì Ngài
cứ ở lại cung vàng để hưởng thụ chớ đâu cần phải xuất gia đi tìm chân lý
cứu khổ cho chúng sinh. Ngay cả sau khi thành đạo trở về thăm lại gia
đình, vua cha Tịnh Phạn cố khuyên Ngài nên ở lại cung thành Ca tỳ la vệ
vừa làm vua vừa làm Phật (giống các vị Lạt Ma Tây Tạng), nhưng Ngài từ
chối vì những thứ hạnh phúc giả tạm đó ngầm chứa biết bao nỗi khổ bên
trong để đưa con người đến chốn trầm luân. Tại vì có thì phải chấp thủ
rồi sinh ra tranh chấp và vô mình phiền não cũng từ đó mà phát sinh
mạnh. Vì thế đức Phật Thích Ca thành Phật rồi, nhưng Ngài đâu có bỏ thế
giới xám xịt đầy gò nổng ðất ðá này ðể về thế giới tịnh độ làm toàn bằng
lưu ly xà xừ kim cương hột xoàn. Bởi vì khi tâm đã hoàn toàn thanh tịnh
thì cho dù người đó ở bất cứ chỗ nào thì nơi đó sẽ trở thành cực lạc
Niết bàn do đó chúng sinh đừng hoài công đi tìm cõi tịnh độ nào trong
càn khôn vũ trụ này trong khi tâm mình còn chất đầy phiền não vô minh.
Lúc bấy giờ, đức Phật Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức nói kinh Pháp Hoa cho Bồ-tát Nhất-thiết Chúng-sanh
Hỉ-kiến cùng các hàng Bồ-tát, Thanh Văn nghe.
Bồ-tát Hỉ-kiến ưa tu tập khổ
hạnh, trong pháp của Phật Tịnh Minh Đức tinh tấn kinh hành, một lòng cầu
thành Phật, mà mãn 12.000 năm, được chánh định “ Hiện nhất thiết sắc
thân”. Bồ-tát mới tự nói trong lòng: ”Được chánh định này là nhờ nghe
kinh Pháp Hoa. Vậy ta nên cúng dường Phật Tinh Minh Đức và kinh Pháp
Hoa”. Tức thời Bồ-tát nhập định, trong hư không rưới các thứ hoa hương
cõi trời cúng dường Phật.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là
tiền thân của Dược Vương Bồ Tát và cũng là vị Bồ Tát mà ai thấy cũng vui
mừng, hoan hỷ. Khi con người nở một nụ cười là biểu hiện tâm trạng
khinh an nhẹ nhàng thanh thoát. Ngược lại mặt không có nụ cười là người
đó mang nặng tâm trạng lo lắng, ưu tư, sầu muộn. Vì thế khi tâm không
còn dính mắc, ra khỏi mọi sự ràng buộc thì lúc nào trên môi người đó
cũng nở một nụ cười và đây là món quà vô giá để tặng cho mọi người để
lòng họ cũng được khinh an, tự tại như mình.
Ngài chuyên tu khổ hạnh, sống đời đơn
giản, tri túc thiểu dục trong 12.000 năm và sau khi nghe kinh Pháp Hoa
trong pháp hội của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì ngài vào chánh
định (tam muội) “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” nghĩa là muốn thành sắc thân
nào thì ngài có thể hiện ra thành sắc thân đó vì tất cả đều là giả
huyễn nên sắc thân là không thật. Tu 12.000 năm không có nghĩa là cuộc
đời của Bố Tát lúc đó sống rất dài so với con người bây giờ, mà nói tu
12.000 năm là kinh muốn nhắn nhủ rằng bất cứ việc tu hành nào cũng đòi
hỏi một quá trình lâu dài bởi việc dời sông dời biển tuy khó nhưng dễ
làm, còn tu tâm dưỡng tánh là việc dễ nói nhưng khó làm vì những tập khí
tham sân si đã ăn sâu, đâm chồi mọc nhánh trong tiềm thức của con người
không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp nên không dễ gì đốn sạch tận
gốc một sớm một chiều được. Vì thế muốn hướng về đạo quả Bồ Đề, chúng
sinh phải luôn bồi dưỡng phước đức, công đức và trí tuệ bền bỉ, không
ngừng nghĩ thì sẽ có ngày chứng được đạo.
Vào chánh định Hiện Nhất Thiết Sắc Thân
tức là vào tam muội để thấy biết rõ ràng đúng như thật sắc thân này. Vậy
chúng ta thấy sắc thân mình như thế nào? Một khi đã vào được Chánh định
tức là chi thứ tám của Bát Chánh Đạo là giai đoạn mà hành giả đã an trú
tâm vào các tầng thiền na để trực nhận Chân lý. Thế thì người vào được
Chánh định là người đang sống với Tri Kiến Phật thanh tịnh thì thấy rõ
biết sắc thân tứ đại là giả huyễn chẳng khác gì giọt sương mai đọng trên
cành lá buổi sáng, như bong bóng nổi chìm trên mặt biển chẳng có chi là
bền chắc. Vì biết mình là huyễn, thế gian là huyễn nên Bồ Tát tự tại vô
ngại, không dính mắc, không bị thế trần làm ô nhiễm. Nhờ nghe kinh Pháp
Hoa nên Bồ Tát ngộ nhập được Tri Kiến Phật nên thấy tất cả mọi chúng
sinh đã thành Phật, đang thành Phật và sẽ thành Phật nên trong ngài tất
cả những phạm trù phân biệt đối đãi nhị nguyên biến mất và sống bằng tâm
bình đẳng vị tha vô ngã. Vì sự huyền diệu của kinh Pháp Hoa nên Bồ Tát
Hỷ Kiến phát tâm cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Ngài liền
nhập tam muội và ở giữa hư không và rưới những thứ hoa thơm tho nhất để
cúng dường Phật. Hoa thơm kinh nói ở đây không phải là những loài hoa
quý hiếm, đắc giá nhất trên đời mà là hoa phát xuất từ trong tâm hồn của
mình, nở ra trí tuệ làm con người thức tỉnh nhận biết thật tướng của
vạn pháp và chân lý của cuộc đời. Thí dụ như khi sống trong bất giác mê
lầm cho dù mình có trang hoàng nhà cửa bằng những loại hoa hiếm quý, đắc
tiền thì vẫn không nhìn thấy hay thưởng thức được vẻ đẹp của nó thế thì
có hoa mà cũng như không có hoa. Ngược lại khi sống trong tỉnh thức
chánh niệm, tâm hằng thanh tịnh thì nhìn những loài hoa dại bên đường
vẫn thấy nét đẹp tự nhiên của nó vì hoa đã nở trong lòng trước rồi.
Cúng dường xong, Bồ-tát xuất định
và tự nói trong lòng: “ Tuy ta đã dùng thần lực cúng dường Phật, nhưng
sao bằng lấy thân cúng dường”. Bồ-tát liền uống các chất thơm, kế uống
dầu làm bằng các thứ hoa thơm mãn 1.200 năm, rồi lấy dầu thơm thoa thân,
dùng áo báu cõi trời quấn mình trước đức Phật Tịnh Minh Đức, rưới các
thứ dầu thơm lên áo và dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân. Ánh
sáng tỏa soi 80 ức hằng sa thế giới. Trong ánh sáng ấy, chư Phật đồng
thời đều khen: “ Lành thay ! Lành thay ! Như vậy mới thật là tinh tấn,
mới thật là cúng dường Pháp. Các lối cúng dường khác bằng hương hoa,
chuỗi ngọc… đều chẳng bằng, thậm chí đem cả một nước thành quách, vợ con
mà bố thí cũng chẳng bằng. Trong các lối bố thí, bố thí thân là bậc
nhất”.
Nói xong, chư Phật im lặng. Lửa thân Bồ-tát cháy trót 1.200 năm mới tắt.
Tuy đã cúng dường hương hoa cho Phật rồi
mà Bồ Tát Hỷ Kiến vẫn chưa mãn nguyện, ngài liền ướp các loại dầu thơm
rồi châm lửa đốt thân để cúng dường Phật. Ánh sáng cháy phát ra tỏa khắp
80 ức hằng sa thế giới và được chư Phật mười phương ngợi khen. Trong
Phật giáo có hai loại bố thí là ngoại tài và nội tài. Bố thí ngoại tài
là biếu tặng những thứ như tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, áo quần, cơm ăn,
nước uống…Tuy giá trị, nhưng bố thí ngoại tài có giới hạn nên phước báu
cũng giới hạn. Bố thí nội tài là hiến máu, cho xương tủy (bone marrow),
cho thận, tim, gan hay bất cứ bộ phận nào trong thân thể hay toàn thân
thể của mình cho kẻ khác. Thứ bố thí này tương đối khó làm và ít người
muốn làm nên có giá trị cao quý hơn. Nhưng đem thân đốt để cúng dường
Phật thì công đức vô lượng bất khả tư nghì.
Phải hiểu rằng Phật là đấng đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả nên không có một vị Phật nào ngồi đó nhìn bất cứ ai
đốt thân mình để cúng dường cho chư Phật cả mà không ngăn cản cho đến
khi thân xác cháy thanh tro rồi phát lời tán thán khen ngợi. Vậy ý kinh
như thế nào? Dựa theo tinh thần Pháp Hoa là khi hành giả “nhập” Tri
Kiến Phật thì người đó phải có đủ trí tuệ để phá ngũ uẩn mà sắc uẩn tức
là thân xác của con người. Có phá được sắc uẩn thì mới hy vọng phá được
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Vì vậy đốt thân để cúng dường
Phật là phá sắc uẩn rồi tiếp tục phá luôn các uẫn còn lại để tiến thẳng
về quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác tức là thành Phật chớ không
phải đốt cái xác thân tứ đại. Đốt thân là để xả kiến chấp Ngã nơi thân
sắc uẩn nên không còn xem thân này của Ta hay là của Ta nữa. Thân xác
tức là sắc uẩn là do tứ đại kếp hợp mà thành nên sắc uẩn không có tự
thể, không phải là của Ta mà là của tứ đại thiên nhiên vì thế nếu không
chấp Ngã thì mọi tương quan đến thân như thất tình, lục dục,
tham-sân-si, mạn, nghi sẽ không có cơ hội phát tác.
Thế thì ngộ đạo hay giải ngộ tức là kiến
tánh dựa theo Phật giáo Đại thừa chỉ là bước đầu trong tiến trình tu
Phật. Kinh Pháp Hoa xác định rằng “Khai, thị, ngộ, nhập Tri Kiến Phật” nghĩa là “ngộ” rồi mới tinh tấn tiếp tục tiến tu đến khi “nhập” mới thôi. Vì thế “đốn ngộ” hay “kiến tánh” đã là rất khó, nhưng nó mới chỉ là Chánh kiến trong Bát Chánh Đạo mà “thâm nhập” tức là “thực hành” cho đến khi liễu ngộ tức là chứng ngộ thì mới được hoàn toàn giải thoát sinh tử luân hồi.
Tâm kinh dạy rằng “Ngũ uẩn giai không”
nên sắc thân tuy là có mà thực chất nó là không nên tâm không còn dính
mắc. Tấm thân tứ đại do cha mẹ sinh ra là huyễn, tuy có nhưng thật chất
vẫn là không nên người nhập Tri Kiến Phật không chấp thân là của Ta nên
không quý trọng thân và không làm nô lệ cho thân mà chỉ dùng thân như là
chiếc thuyền để sang sông và dùng thân để truyền bá Chánh pháp và làm
lợi ích cho mọi người. Biết và thực hành như vậy là đốt thân để cúng
dường chư Phật. Nên nhớ, không có kinh điển Phật giáo nào dạy chúng sinh
phải đốt thân để cúng dường cho Phật vì chư Phật đâu cần những thứ này
mà thâm ý của đốt thân là diệt sắc uẫn với mục đích phá chấp ngã về
thân.
Nói cách khác thân là tiêu biểu cho bản
ngã vì bất cứ ai sống trong thế gian này cũng đều chấp ngã. Nhưng một
khi chấp bản ngã thì thấy người khác không phải là ta thì nhân tướng nổi
lên và sau đó chúng sinh tướng và thọ giả tướng liên tục tiếp nối phát
khởi làm cho cuộc sống đầy sóng gió khổ đau. Người nào chấp về bản ngã
nặng thì dễ bị tổn thương tự ái. Nếu tự ái đúng chỗ, đúng lúc thì con
người trở thành tự trọng nên tránh những điều sai trái vì làm sai sẽ
khiến họ xấu hổ. Ngược lại nếu tự ái không đúng chỗ thì trở thành cố
chấp nên dễ giận hờn, bắt bẻ, khó chịu bởi vì bất cứ hành động hay lời
nói nào của ai thì họ cũng cho là trái ý ta và trái ý của ta.
Phá chấp ngã về thân là một phần của việc
thực hành thiền Tứ Niệm Xứ bởi vì mục đích tối thượng của thiền Tứ Niệm
Xứ là đưa hành giả dần dần vào các tầng thiền định và thiền na để sau
cùng trí tuệ bừng sáng mà nhận chân rằng:
-Thân thể này không phải là tôi, là của tôi.
-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến cái tôi.
-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là linh hồn của tôi.
-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức và hành thức cũng không phải là của tôi.
Chính đức Phật dạy rằng:
-Này các Tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là thân xác, là cảm giác, thuộc về nhận thức, thói quen thường nhật, là tri thức dù
thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay bên ngoài,
thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
Vì thế một khi đã thực sự nhận biết rốt
ráo rõ ràng rằng trong ta không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta” thì lúc
đó hành giả sẽ khám phá một Chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị, là tinh
hoa cốt tủy của Phật giáo mà ngày xưa chính đức Phật đã chứng dưới cội
Bồ Đề là Chân lý Vô Ngã.
Tuy căn bản của phiền não là Kiến hoặc,
Tư hoặc, nhưng cái gốc để tạo ra những phiền não đó chính là chấp Ngã.
Vì thế nếu diệt được chấp Ngã thì tất cả vô minh phiền não cũng tan
biến.
Diệu Pháp Liên Hoa là kinh thật sâu sắc,
khó nghe, khó tin, khó hiểu, khó hành mà nghe được, tin được, hiểu được
và hành được kinh để nhận biết tất cả mọi chúng sinh đều sẽ thành Phật
và sau đó hủy hoại ý niệm chấp Ngã của mình thì người đó cúng dường pháp
chân thật nhất. Khi đốt thân thì ánh sáng tỏa khắp tám mưới ức hằng sa
thế giới nghĩa là một khi đã phá được chấp Ngã thì người đó có giải
thoát giác ngộ và đem ánh sáng giác ngộ đó của mình soi chiếu chung
quanh để mọi người cùng thấy tức là cùng giác ngộ như mình. Ở đây Bồ Tát
Hỷ Kiến dùng lửa tam muội tức là Chánh định để đốt lửa tham, lửa sân,
lửa si vì tham, sân, si không có hình tướng thì lấy lửa nào của thế gian
mà đốt được.
Một ngày kia, tôn giả Xá Lợi Phất đang
ngồi thiền trong một khu rừng gần thành Vương Xá, trong lúc chuẩn bị để
nhập chánh định thì bỗng nhiên ngài nghe tiếng Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na
gọi ngài trong lúc bà ta đang ngồi thiền từ trong hang động đối diện.
Mặc dù ngài là bậc trưởng lão đã chứng thánh quả, Ngài cũng tôn trọng
những ni cô tu hành đắc đạo. Khi ngài vừa bước đến thì Ưu Ba Tiên Na
nói:
-Thưa tôn giả! Khi tôi đang tọa
thiền, trên thân mình bỗng chạm nhằm vật gì. Ban đầu tôi không lưu ý,
nhưng sau mới biết là đụng phải loài rắn độc. Tôi đã bị nó cắn, thế nào
cũng chết. Bây giờ thừa lúc nọc độc chưa hoành hành, xin ngài từ bi vì
tôi tìm cách mời đại chúng đến cho tôi được cáo biệt.
Khi nói câu nói ấy, Ưu Ba Tiên Na không
tỏ một chút gì kinh sợ và tư chất của bà rất tự nhiên như chẳng có việc
gì xảy ra.
Xá Lợi Phất hỏi:
-Ở đây vừa xảy ra việc đó sao?
Ta xem sắc mặt cô không có gì biến đổi. Nếu như bị rắn cắn thì nhất định
cô sẽ biến sắc.
Mới nhìn Xá Lợi Phất cho là không có việc gì nên mới nói như thế, nhưng Ư Ba Tiên Na trầm tĩnh đáp:
-Bạch tôn giả! Thân người là do tứ đại, ngũ uẩn hư vọng mà thành, không có chủ tể, vốn là vô thường, vốn là “không”. Tôi đã chứng ngộ được đạo lý ấy thành ra độc xà làm sao cắn được cái không?
Xá Lợi Phất khen:
-Cô nói rất đúng. Cô đã đến
trình độ thoát mọi đau đớn của thân thể. Cô dùng huệ mạng của mình mà
giữ gìn sắc mặt không biến đổi.
Xá Lợi Phất khen ngợi Ưu Bà Tiên Na và
thông tri cho tất cả các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni tu tập gần đó. Họ đem Ưu
Ba Tiên Na ra khỏi động thì lúc ấy nọc độc mới dần dần xâm nhập khắp
người. Một lác sau Ưu Ba Tiên Na bình thản mà nhập diệt. Tất cả đại
chúng thấy một bậc thánh được giải thoát như vậy thì ai ai cũng tán
thán. Xá Lợi Phất nói thêm:
-Người tu hành điều tâm, chủ
động mà nhập diệt, đối với cái chết của thân mình coi như bỏ cái bát
độc, như bệnh nặng được lành. Có cầu ắt có báo đáp, có chí nguyện thì
nhất định sẽ thành. Đối với họ sắp chết mà không đổi sắc, đó là dùng mắt
trí huệ mà xem tướng thế gian cũng như ra khỏi nhà lửa tam giới. Thật
là đẹp đẽ vô cùng.
Lửa thân của Bồ Tát Hỷ Kiến
cháy đến 1.200 năm mới tắt là ý nói đốt thì phải đốt lâu dài tức là trị
bệnh chấp Ngã cũng cần thời gian lâu dài để tu tập hóa giải cho hết chấp
Ngã chớ không thể nào xóa bỏ hoàn toàn ý niệm chấp Ngã một sớm một
chiều được.
Cúng dường Pháp xong và sau khi
mạng chung, Bồ-tát Hỉ Kiến phục sanh trong nước Phật Tịnh Minh Đức, tại
nhà vua Tịnh Đức, phục sanh một cách bỗng nhiên, trong trạng thái ngồi
kiết già.
Đốt thân chết đi để rồi phục sinh trở lại
không có nghĩa là Bồ Tát Hỷ Kiến tự thiêu chết đi rồi sau đó tái sinh
vào làm con vua Tịnh Đức. Mà đốt ở đây là xóa đi, hóa giải hết những căn
bản bất thiện trong tâm chớ không có đốt thiệt. Trong Phật giáo có hai
loại sinh tử:
1)Phần đoạn sinh tử tức là chết thật nghĩa là đời này chết đi rồi tái sinh sang đời kế tiếp.
2)Bất tư nghì biến dịch sanh tử: nghĩa là đốt chết thân này rồi liền phục sanh sang thân khác.
Vì thế chết mà kinh muốn nói ở đây không
phải là chết thiệt mà đốt chết rồi sinh trở lại liền là bất tư nghì biến
dịch sanh tử nghĩa là đốt chết tất cả những thói hư tật xấu, những căn
bản tham, sân, si, những những giai đoạn làm ác xấu, những chấp ngã chấp
pháp làm ô nhiễm tâm thức của con người. Bây giờ thấu biết chân lý nên
không đi vào con đường củ nữa, không sa vào hố tội lỗi đau thương mà
sống đời sống mới lương thiện hơn, trong sáng hơn, thánh thiện hơn thì
chính mình đã sống lại tức là phục sinh. Quá khứ không tốt đẹp nên đốt
đi tức là chết để chuyển sang đời sống hiện tại thanh cao thánh thiện
hơn tức là phục sinh vậy.
Thí dụ: Nàng Vương Thúy Kiều
ngày xưa sau khi thoát khỏi lầu xanh đã về ở với Thúc Sinh suốt 1 năm
ròng và vẫn luôn khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả Hoạn Thư. Họ vẫn chưa có
con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở
lại gặp Kiều, Thúc Sinh không ngờ rằng Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt
đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt
mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận
hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tỳ nhà Hoạn Thư với cái tên là Hoa Nô. Lúc
Thúc Sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc
hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn Thư đã bắt
Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà
tâm trạng của Kiều đau đớn:
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn
Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì lý do gì. Thúy Kiều viết tờ khai nói rằng
vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có
người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà
quan... rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ
trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các sau
vườn để tu hành.
Sẵn Quan Âm các vuờn ta
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa
Có cổ thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa tụng kinh
Tâng tâng, trời mới bình minh
Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường
Đưa nàng đến trước Phật đường
Tam quy, ngũ giới, cho nàng xuất gia
Áo xanh đổi lấy cà sa
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
………
Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nàng Thúy Kiều cũng đốt thân ô trược, đốt
cháy hết những đau thương, vết nhơ của cuộc đời và phục sinh trở thành
người tu sĩ, sống đời thanh cao, dùng nước cành dương tưới tắt mọi tan
thương, đau khổ, phiền muộn trước kia.
Thế là:
“Cổi thanh y con xin khoát áo nâu sầm
Xin đức Phật nhận con làm đệ tử
Vương Thúy Kiều đã chết rồi trong ô trược
Pháp danh Trạc Tuyền con xin đổi từ đây”.
Như vậy Thúy Kiều đâu có chết mà chỉ chết
cái ô trược, cái dơ bẩn lúc còn ở trong thanh lâu, cái đau khổ lúc làm
nô lệ và cái tủi hờn khi làm vợ thứ cho người. Cũng Thúy Kiều đó, nhưng
bây giờ nàng sống với cuộc đời mới, thánh thiện hơn nên gọi là phục
sinh.
Hoá sanh xong bèn vì cha đọc bài kệ:
Đại Vương nay nên biết
Nhờ kinh hành nơi ấy
Tức thời đặng tất cả
Chánh định trong các thân
Sau cần cố gắng hơn
Nên bỏ thân yêu mến
Dâng cúng dường Thế Tôn
Để cầu tuệ Vô Thượng
Nói xong, thưa với vua cha:
-Trước cúng dường Phật Tịnh Minh
Đức, tôi “ giải được tất cả đà-la-ni của tiếng nói chúng sanh”, kế lại
nghe vô số kệ của Kinh Pháp Hoa. Nay Phật Tịnh Minh Đức vẫn còn, tôi xin
cúng dường nữa. Bồ tát bèn ngồi lên đài bảy báu, bay lên hư không, qua
đến chỗ Phật Tịnh Minh Đức, làm lễ và đọc một bài kệ khen Phật:
Sau khi đốt thân chuyển đời và có một đời
sống giải thoát giác ngộ xa lìa mọi dính mắc ràng buộc thì Bồ Tát Hỷ
Kiến bây giờ bay đến chỗ Phật Minh Đức. Bay là vì thân tâm quá nhẹ nhàng
vì đã gột rữa hết những dính mắc ràng buộc của thế trần.
Lạ lùng thay dung nhan
Mười phương soi ánh sáng
Tôi đã từng cúng dường
Nay lại còn thân kiến
Nói kệ xong, Bồ-tát Hỉ Kiến bạch Phật Tịnh Minh Đức rằng:
-Thế Tôn còn trụ thế chứ?”
Đức Phật bảo:
-Giờ diệt độ đã đến, ngươi nên sắp đặt gường đi, ta trong đêm nay sẽ nhập Niết Bàn.
Phật lại nói thêm:
-Ta nay giao phó Phật-Pháp và Vô
Thượng Giác cho ngươi, cho các Bồ-tát và các Đại Đệ Tử. Ta cũng giao cho
ngươi ba ngàn đại thiên thế giới, bảy báu, các cây báu, đài báu và chư
thiên hầu hạ. Sau khi ta diệt độ, ta cũng giao cho ngươi tất cả xá lợi
của ta, ngươi nên lưu bố khắp nơi để cho đông người được xây nhiều tháp
cúng dường.
Đến cuối đêm, Phật Tịnh Minh Đức nhập Niết Bàn.
Khi biết Bồ Tát Hỷ Kiến xả thân cúng
dường tức là biết nương theo Phật pháp mà tu hành để chuyển hóa hết
những dính mắc, ràng buộc, những phiền muộn khổ đau, những vô minh bất
giác làm trở ngại trên con đường tiến đến Vô thượng Bồ Đề thì Phật Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Đức bây giờ tin tưởng và giáo phó tất cả cho Bồ Tát để
vào Niết bàn. Trọng trách nắm giữ vai trò hoằng pháp rất to lớn cho nên
Phật chỉ phó thác cho người nào có thể thay thế Ngài để gánh vác bảo trì
Phật pháp.
Bồ-tát Hỉ Kiến đã dùng gỗ
chiên-đàn làm giàn hoả thiêu, thâu xá lợi đựng vào 84.000 bình báu, xây
84.000 ngọn tháp cao ba thế giới.
Thật ra đâu có xá lợi của vị Phật nào mà
có thể nhiều đến độ có thể chứa hết vào trong 84.000 bình báu. Và dĩ
nhiên không có ai có thể xây đến 84.000 tháp cao đến ba thế giới được.
Nhưng ý nghĩa ở đây là muốn nói lên một chân lý là bất cứ vị Phật nào
cũng đều giáng sinh trụ thế và nhập Niết bàn chớ không có ông Phật nào
sống hoài cả. Đó là ý nghĩa của định luật vô thường sinh, trụ, dị, diệt
của tạo hóa mà ngay cả đức Phật là bậc giải thoát giác ngộ mà vẫn không
thoát khỏi định luật này. Thế thì sinh tử là chuyện thường, hễ có sinh
tất có ngày hoại diệt cho nên người đệ tử Phật xem chuyện sống chết
chẳng có gì quan trọng vì nó là chân lý nên không lo sợ buồn phiền. Một
lần nữa chứng minh rằng: “Tất cả pháp hữu vi, như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng, như sương, như điện chớp” chẳng
có gì là bền chắc muôn đời cả. Thế thì dưới ánh mắt của người học Phật
thì thế gian là vô thường, vô ngã nên cuộc đời luôn dính liền với đau
khổ và bất tịnh nghĩa là không bao giờ được an ổn tự tại. Vì thế khi
quán về xá lợi Phật nghĩa là quán về sự vô thường, vô ngã của vạn pháp
để tìm về sống với tánh chân thường chân ngã thanh tịnh an lạc của chính
mình. Biết như thế thì sinh thuận tử an vậy. Người đệ tử Phật đừng nghĩ
đây là chuyện hoang đường mà chỉ là văn dĩ tải đạo chở triết lý sâu xa
trong đó cho nên nói xây tháp nhưng thật ra đâu có xây tháp gì. Còn nói
về thất bảo cũng không thật vì cho dù là vàng bạc, kim cương thì cũng là
loại hữu vi hoại diệt chẳng có gì quan trọng.
Bây giờ, Bồ-tát lại tự nghĩ: Cúng
dường xá lợi như thế chưa đủ. Bèn ở trước 84.000 ngọn tháp, đốt 2 cánh
tay được trang nghiêm bằng trăm phước, suốt 72.000 năm, khiến vô số hạng
cầu quả Thanh Văn và vô lượng người phát tâm cầu Vô thượng giác đều
đứng vững trong chánh định “ Hiện nhất thiết sắc thân”.
Bồ Tát Hỷ Kiến xây 84.000 ngọn tháp cao
ba thế giới để cúng dường chư Phật mà vẫn chưa đủ vì tháp báu là vật
chất thuộc thế giới hữu vi sinh diệt nên chưa phải là chánh nhân để
thành Vô thượng Bồ Đề được. Mà muốn thành Phật thì phải tu trí tuệ thuộc
về thế giới vô lậu bất khả tư nghì mới thành tựu được.
Bồ Tát Hỷ Kiến sau khi đốt thân để cúng
dường Phật nghĩa là ngài đã xả kiến chấp về chấp ngã nơi thân. Bây giờ
ngài nguyện đốt luôn hai cánh tay để cúng dường tháp Phật. Đốt thân là
để phá kiến chấp ngã nơi thân và đốt hai cánh tay là để phá nốt mọi kiến
chấp nơi tâm.
Nhưng tại sao lại đốt hai cánh tay?
Hai cánh tay là muốn ám chỉ cho sự phân
biệt đối đãi nhị nguyên tức là có chủ thể và đối tượng. Thông thường con
người có hai cái chấp là chấp ngã và chấp pháp tức là hai phạm trù đối
đãi. Vì thế Bồ Tát Hỷ Kiến đốt hay cánh tay ở đây là muốn đốt hết tâm
phân biệt phải trái hai bên.
Trong kinh Duy Ma Cật, phẩm Nhập Pháp Môn
Không Hai (Nguyên Lý Bất Nhị) diễn tả rất rõ ràng những cặp phạm trù
đối đãi nhị nguyên như sau:
Trước hết vị Bồ-tát hiệu là Pháp Tự Tại trình bày:
- SANH và DIỆT là hai. Vạn pháp xưa
không sanh, nay không diệt. Tỏ ngộ được pháp nhẫn vô sanh đó, tôi thể
nhập Pháp Môn Không Hai.
Vạn pháp từ vô thỉ đến vô chung không hề
sanh diệt vì tất cả chỉ là hiện tượng duyên khởi. Nếu bất biến tùy duyên
thì vạn pháp từ tự tánh thanh tịnh bất sanh bất diệt mà duyên khởi tạo
thành con người, cây cỏ, mặt trăng, mặt trời, động vật, thực vật, khoáng
vật hay nhân sinh vũ trụ. Rồi tùy duyên bất biến nghĩa là một ngày nào
đó khi duyên tan rã thì tất cả nhân sinh vũ trụ tan rã quay về với tự
tánh bất sanh bất diệt ban đầu nghĩa là đất về lại với đất, nước về lại
với nước…Vì thế không có cái gì thật sanh hay cái gì thật diệt cả. Thí
dụ như ra biển chúng ta thấy nếu có gió lớn tạo thành những làn sóng
nhấp nhô, chập chùng thì gọi là sóng sanh. Nhưng thật ra đâu có làn sóng
nào sanh hay diệt đâu, chỉ vì khi duyên kết tức là có gió lớn thì có
sóng và khi duyên tan nghĩa là gió ngừng thì mất sóng mà trở về với Thể
nước phẳng lặng êm đềm ban đầu vậy thôi. Vì tỏ ngộ chân lý không còn
phân biệt có sanh có diệt nữa mà Bồ-tát Pháp Tự Tại được pháp nhẫn vô
sanh và chứng nhập Pháp Môn Không Hai. Cũng như “Hoa khai kiến Phật ngộ
vô sanh” nghĩa là mỗi chúng sinh là một đóa sen, khi sen nở thì thấy
được Phật tức là không còn sinh tử.
Bồ-tát Đức Thủ nói:
- NGÃ và NGÃ SỞ là hai. Vì có ngã cho
nên có ngã sở. Tôi nhận thức rằng: nếu không có ngã thì không có ngã
sở. Do duyên cớ đó, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Ngã là ta và ngã sở là những cái gì thuộc
về ta. Con người vì còn chấp ngã nghĩa là thấy mình là thật có nên từ
đó mới tạo tác những sở hữu cho ta được sung sướng. Thí dụ như cái nhà
của ta, cái xe của ta, con cái của ta, cái chùa của ta…Vì thấy là của
mình, của ta nên con người phải lo bảo vệ, cưng chiều cái ta và những sở
hữu của ta, nhưng cuối cùng rồi cái ta cũng mất và những sở hữu của ta
cũng phải bỏ lại cho thế gian. Người nào cái ngã càng cao thì càng khổ
sở triền miên, bất tận vì họ có cấn cao ngã mạn, tự tôn tự đại, nhìn con
người, trời đất thế gian như cỏ rát nên thường bị cô đơn, chịu cảnh
lạnh lùng và không bao giờ an vui được. Càng chấp ngã và ngã sở nhiều
thì con người càng đau khổ vì không một ai thoát ra khỏi sinh, già,
bệnh, chết hay vô thường vô ngã được. Bây giờ nếu xả bỏ được tâm cố chấp
vì biết rằng ngã và ngã sở đều là Không, là giả huyễn, không thật có
thì tâm sẽ an vui tự tại. Bởi vì nếu là không thật thì lòng không lo
lắng, quyến luyến nhiều cho nên được không vui và mất cũng không buồn.
Theo Phật giáo thì muốn viên thành Phật đạo thì phải diệt bản ngã nghĩa
là cái ngã còn thì con đường đạt đến vô thượng Bồ-đề vẫn còn xa. Nói một
cách khác cái ngã càng thấp thì sự an lạc, sự giải thoát càng cao đến
khi cái ngã hoàn toàn tan biến thì vô thượng Bồ-đề sẽ hiện bày. Đức Phật
sau khi thành đạo lúc nào cũng có trên ngàn đệ tử đi theo mà Ngài lúc
nào cũng vậy. Chính Ngài là một vị khất sĩ tức là người đi xin ăn, không
phải là Ngài không có đệ tử dâng cơm cúng nước nếu Ngài muốn, nhưng
Ngài tự luyện cho mình trở thành một người hoàn toàn xóa đi bản ngã vì
người ăn xin thì còn tự cao tự đại với ai? Cạo đầu cũng là một hình thức
phụ vào việc phá ngã vì người tu hành không còn quan tâm đến hình tướng
đẹp xấu của thế gian. Ngay cả áo cà sa cũng vậy. Ngày xưa vào thời Đức
Phật còn tại thế tại Ấn độ thì màu vàng là màu mà người thế gian không
tôn trọng, ưa thích nên Thế Tôn mới chọn màu vàng làm áo cà sa. Chẳng
những thế mà Ngài còn chọn những mãnh vải rách, những tấm vải dơ dùng để
quấn tử thi mà khâu lại thành y để chống lạnh. Nói tóm lại Đức Phật vì
muốn phá hoàn toàn cái bản ngã nên đối với Ngài nhà cửa cũng không, uy
quyền cũng không, tiền bạc cũng không vì thế Ngài mới có được vô thượng
Niết bàn, vô thượng Bồ-đề.
Vì có ngã mới sinh ngã sở tức là có Hai
nên Bồ-tát Đức Thủ mới quán tu vô ngã để trở về với Căn Bản Trí của mình
mà chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Bất Thuần nói:
- THỌ và BẤT THỌ là hai. Nếu đối với
các pháp mà không thọ thì không có cái được. Vì không có cái được cho
nên không có lấy, không có bỏ, không tạo tác, không hành vi. Do nhận
thức như vậy, mà tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Thọ là cảm nhận và bất thọ là không cảm
nhận. Mà cảm nhận cái gì? Được ai khen thì vui, bị chê thì buồn, đó là
có thọ. Ngược lại khen mà không vui, chê cũng chẳng buồn là bất thọ.
Khởi niệm thương, khởi niệm ghét là thọ. Còn không ghét không thương là
bất thọ. Con người thường thích nghe tiếng khen, tâng bốc và không thích
lời chỉ trích, chê bai. Nhưng nghĩ lại lời khen, tiếng chê chỉ là đầu
môi chót lưỡi hoặc có ý đồ gạt gẩm thì có gì là thật đâu. Ăn mà còn chê
ngon chê dở là còn thọ, trái lại ăn để sống chớ không phải sống để ăn là
bất thọ. Mình giữ giới mà còn thấy có người phá giới luật là thọ. Miệng
ăn chay mà tâm vọng thịt cá nghĩa là món chay mà gọi tên mặn là thọ,
ngược lại ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ miệng nhai thịt mà tâm nhai đậu hủ là
bất thọ. Có tiền của nhiều thì vui và nghèo đói thì buồn phiền là thọ,
còn có nhiều thêm một chút cũng vậy mà lỡ có mất cũng không buồn là bất
thọ. Thấy cảnh trái ý nghịch lòng mà không quan tâm đến là bất thọ,
người khen kẻ chê cũng chẳng ăn nhằm gì là bất thọ. Làm việc vì lợi ích
cho chúng sinh chớ không phải cho riêng mình là bất thọ.
Vì thế nếu không có cái thọ thì không ý
nghĩ lấy bỏ, không có ý nghĩ thương ghét, không có ý nghĩ khen chê cho
nên Bồ-tát mới chứng nhập Pháp Môn Không Hai nghĩa là quay về với Căn
Bản Trí vốn thanh tịnh hay trở về với Vô Phân Biệt Trí nên không có vấn
đề thọ hay không thọ. Không có thọ hay không thọ tức là không Hai thì
thương ghét cũng chẳng còn, khen chê biến mất, không vui cũng chẳng buồn
vì thế cuộc sống của con người sẽ vô cùng an vui tự tại.
Bồ-tát Đức Đảnh nói:
- CẤU và TỊNH là hai. Thấy được thực
tánh của cấu thì không có tướng tịnh. Đồng thời tùy thuận với tướng diệt
của vạn pháp. Do tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Cấu là chỉ cho những thứ phiền não, khách
trần tác động hoành hành làm cho con người đau khổ chớ không phải là dơ
dáy, đất bùn, bụi bặm. Nếu nhìn về Tướng thì thì có phiền não, có khổ
đau nhưng nếu nhìn sâu vào thực Tánh của vô minh phiền não là Phật tánh.
Mà Phật tánh là bất cấu, bất tịnh, bất sinh, bất diệt…Do đó thật tánh
của cấu, của vô minh phiền não là trong sáng, là thanh tịnh nghĩa là tự
nó không có cấu, không có vô minh phiền não. Không có cấu thì cần gì
phải có tịnh vì thế mới nói thực tánh của cấu là Không nghĩa là trong
thực tánh không có tướng cấu và cũng không có tướng tịnh. Thí dụ nhìn
lên trời thì thấy trời xanh trong sáng, nhưng vì con mắt của ta bị nhặm
nên thấy có hoa đóm trên không. Do đó hoa đóm là không thật thì hoa đóm
đâu có ảnh hưởng gì đến trời xanh trong sáng đâu. Nói một cách khác tịnh
là vì có cấu, nay tánh của cấu vốn trong sáng, thanh tịnh thì tịnh còn
dùng vào đâu được mà nói cấu với tịnh. Không cấu, không tịnh thì không
còn đối đãi, không có nhị nguyên tức là không Hai vậy.
Bồ-tát Thiện Tú nói:
- ĐỘNG TÂM và NIỆM TƯỞNG là hai. Nếu
không động tâm thì không có niệm tưởng. Không có niệm tưởng thì không
có phân biệt. Tôi thông suốt được chân lý ấy mà thể nhập Pháp Môn Không
Hai.
Khi ra phố thấy có người ăn xin
bên lìa đường thật tội nghiệp. Khi mắt thấy một hình ảnh, một cảnh
tượng đáng thương hay ưu ái làm cho tâm bị giao động thì gọi là động
tâm. Sau khi về nhà chúng ta nhớ lại hình ảnh của người ăn xin đáng
thương kia thì cái nhớ lại đó gọi là niệm tưởng. Vì thế niệm tưởng chỉ
có khi nào có động tâm nghĩa là nếu không thấy người ăn xin thì không
bao giờ có kỷ niệm để nhớ lại. Do đó khi niệm tưởng khởi dậy thì tâm bắt
đầu phân biệt thiện ác, tốt xấu, nghèo giàu…tức là có Hai. Muốn thể
nhập pháp môn không hai thì Bồ-tát Thiện Tú phải bỏ tâm phân biệt, mà
muốn không còn phân biệt thì đừng tưởng nhớ và sau cùng muốn dứt hẳn cái
tưởng nhớ thì đừng có động tâm. Tóm lại nếu muốn quay về sống với Căn
Bản Trí, Vô Phân Biệt Trí thì đừng cho tâm mình bị giao động trước bất
cứ hoàn cảnh nào. Tâm như như bất động là tâm Bồ-tát, là tâm thanh tịnh
và chính là chơn tâm, Phật tánh vậy. Ngày xưa khi vua Lưu Ly xua quân
tiêu diệt cung thành Ca Tỳ La Vệ giết chết trên mấy trăm ngàn người dòng
họ Thích Ca, trước cảnh đau thương tan tóc mà Đức Phật vẫn điềm nhiên
vì Ngài nhìn cái nhân bất thiện của những người thân thích trong khi
chúng sinh thì cứ nhìn cái quả nên thấy cảnh tan da nát thịt mà đau
lòng, xót dạ.
Bồ-tát Thiện Nhãn nói:
- Tướng NHẤT và tướng VÔ là hai. Nếu
biết rõ tướng nhất tức là tướng vô. Bấy giờ thể nhập tánh bình đẳng. Do
quá trình nhận thức như vậy, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Có cái một là do từ nơi không có cái gì
hết nghĩa là ban đầu không có cái gì cho nên cái đầu tiên thì gọi là cái
một. Thí dụ như trong một căn phòng trống không, nếu bây giờ chúng ta
đặt một bình hoa thì cái bình hoa nầy là cái một. Chúng ta gọi bình hoa
là cái một (tướng nhất) bởi vì trong phòng trước đây không có bình hoa
cho nên cái một là do cái không (tướng vô) mà có. Tướng nhất tức là
tướng vô nghĩa là chính cái nầy là do cái đối đãi của cái không mà gọi
cái nầy là có. Cho nên nếu không có cái không thì không bao giờ có cái
một. Tóm lại tất cả vạn pháp đều là do đối đãi cả nghĩa là nếu chúng ta
gọi cái nầy là một là do có cái không hay nói ngược lại có cái không là
vì do cái một. Do đó cái một cũng chẳng thật một và cái không cũng chẳng
thật không. Vì nhận thức vạn pháp duyên sanh tương quan với nhau nghĩa
là cái nầy tương quan với cái kia hay cái một tức là cái không thì thể
nhập tánh bình đẳng, không còn đối đãi, phân biệt và sau cùng chứng nhập
Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Diệu Tý nói:
- Tâm BỒ-TÁT và tâm THANH VĂN là hai.
Quán tướng của tâm rỗng không như huyễn hóa, cho nên tôi còn không thấy
tâm Bồ-tát, tâm Thanh văn. Do triệt tiêu tánh chấp, tôi thể nhập Pháp
Môn Không Hai.
Tâm Bồ-tát là người làm những điều lành,
việc thiện lợi ích cho chúng sinh. Còn tâm Thanh văn là người thấy đời
đầy ô nhiễm nên xa lánh thế gian tìm nơi u tịch tu hành để thể chứng
được sự an lạc của Niết bàn cho riêng mình. Nhưng thật ra hai cái tâm
nầy không hề khác nhau, cùng một bản thể. Vì con người còn chấp trước,
còn phân biệt nên mới thấy có sự khác biệt chớ thật ra tâm không sai
khác. Thí dụ nếu có tâm phân biệt thì chúng ta thấy có người Tàu, người
Tây hay người Mỹ, nhưng thật ra tất cả đều là con người, cùng chung giọt
nước mắt mặn hay máu cùng đỏ như nhau. Còn phân biệt là còn kỳ thị, còn
đau khổ và còn tranh chấp đưa tới chiến tranh giết hại lẫn nhau. Khi
hết phân biệt thì có tâm bình đẳng và chấm dứt phiền não khổ đau.
Bồ-tát Phất Sa nói:
- THIỆN và BẤT THIỆN là hai. Không
khởi ý niệm thiện và bất thiện, nhận thức thấu suốt ngằn mé vô tướng của
các pháp. Do vậy, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Trên thế gian thì Thiện và Bất thiện rất
khó mà phân biệt. Cùng một hành động mà có người cho là thiện trong khi
người khác cho là bất thiện. Thí dụ như ở Hoa Kỳ các bậc cha mẹ nếu muốn
con cái nên người, học hành có tương lai thì cũng có lúc quở trách la
rầy. Hành động nầy hiện tại thì có vẻ như bất thiện, nhưng khi con nên
người thì việc la mắng con cái là việc tốt. Một thí dụ khác là việc cứu
tế xả hội. Ở Hoa kỳ hằng nãm có rất nhiều ngýời ðýợc chánh phủ cho tiền
eo phe. Ðây dĩ nhiên là việc thiện, nhýng những ngýời lãnh tiền nầy càng
ngày càng lười biếng, lấy eo phe làm căn bản cho cuộc sống mà không
chịu học hành tiến thân gây thâm thủng ngân quỷ quốc gia và phát sinh
những tệ đoan cho xả hội cho nên việc tốt, việc thiện đã bị con người
lợi dụng mà biến thành bất thiện. Vì vậy khi con người không còn tâm
phân biệt, luôn giữ tâm thanh tịnh thì sẽ không còn bị thiện ác chi phối
vì mọi việc làm đều là lợi ích cho tất cả chúng sinh. Một khi đã sống
với thể tánh thanh tịnh của mình thì những danh từ đối đãi thiện hay bất
thiện chỉ là giả huyễn trống rỗng mà thôi.
Bồ-tát Sư Tử nói:
- TỘI và PHƯỚC là hai. Hiểu rõ tánh
của tội và phước không khác. Dùng trí tuệ kim cương quyết đoán một cách
dứt khoát trong mọi hoàn cảnh. Cho nên không thấy có ràng buộc và cũng
không thấy có giải thoát. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Trong bài sám hối có câu:”Tội tánh bổn
không, do tâm tạo. Tâm nhược diệt thời, tội diệt vong” nghĩa là tự tánh
của tội là Không nhưng do vô mình điên đảo bên ngoài mà tạo ra tội. Do
đó khi không còn vô minh vọng thức nghĩa là tâm biết ăn năn, sửa đổi thì
tội cũng tan biến theo. Thí dụ như có ngọn đèn đang cháy trên bàn. Nếu
nóng giận, la hét quơ tay quơ chân làm tắt ngọn đèn. Bây giờ đèn tắt tối
thui làm cơn giận tan biến nên đi kiếm cái hộp quẹt để đốt đèn sáng trở
lại. Do đó nếu trong thời điểm con người làm sai với Căn Bản Trí của
mình thì gọi là tội, nhưng nếu biết sửa sai làm đúng trở lại thì tội hết
ngay.
Thêm nữa, tội phước nằm trong vòng tương
đối của thế gian. Thí dụ như Tổng thống Bush đem quân sang đánh Iraq
giết hại bao nhiêu người là có tội, nhưng loại bỏ được nhà độc tài Sadam
Hussen và mang lại dân chủ cho người dân Iraq là phước. Vì thế cùng một
hiện tượng mà có người nói tội kẻ khác nói phước. Do đó nếu dùng trí
tuệ Bát nhã để soi thấu thật tánh của vạn pháp thì tội phước là Không
nghĩa là không còn trói buộc và dĩ nhiện cũng không cần giải thoát. Vì
thấy không có Hai, không còn phân biệt nên Bồ-tát Sư Tử chứng nhập Pháp
Môn Không Hai.
Bồ-tát Sư Tử Ý nói:
- HỮU LẬU và VÔ LẬU là hai. Có được
tâm bình đẳng với các pháp thì không khởi tưởng hữu lậu và vô lậu. Không
dính mắc ở pháp tướng cũng không trụ chấp pháp tướng. Do vậy, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Hữu lậu là do con người chạy theo trần,
chạy theo cảnh nghĩa là chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà
sanh ra chấp ngã, chấp pháp. Có chấp ngã, chấp pháp là có Hai và cũng là
nguyên nhân làm tác động phát sinh ra vô minh vọng thức dẫn tới
tham-sân-si làm cho con người đau khổ. Có vô minh vọng thức, có đau khổ
tức là có hữu lậu. Bây giờ nếu chúng sinh biết dùng trí tuệ làm cho lục
căn thường sáng tỏ nghĩa là đừng cho lục trần quyến rủ lục căn thì con
người sẽ có tâm thanh tịnh tức là vô lậu bởi vì chính lục căn, lục trần
tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm và không phải là nguyên nhân của tội
lổi. Do đó hữu lậu thì do ta và vô lậu thì cũng do ta vì chúng nó không
có tự thể cố định. Vì thế nếu không còn thấy có hữu lậu hay vô lậu thì
có tâm bình đẳng tức là tâm vô phân biệt nên Bồ-tát Sư Tử Ý chứng nhập
pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Tịnh Giải nói:
- HỮU VI và VÔ VI là hai. Xa lìa tất
cả số thì tâm rỗng lặng như hư không. Dùng tuệ thanh tịnh mà nhìn vạn
pháp cho nên không còn có sự trở ngại nào. Do vậy, mà tôi thể nhập Pháp
môn không hai.
Tất cả các hiện tượng vạn pháp là do nhân
duyên sanh khởi nên gọi là hữu vi. Đó là con người, súc vật, chim bay
cá lặn, cây cỏ, núi sông, mặt trăng, mặt trời…Nói chung bất cứ cái gì mà
có hình, có tướng đều là hữu vi cả. Ngược lại vô vi không phải là do
nhân duyên kết tạo và chính là tự tánh của hư không vũ trụ. Nói một cách
khác bất cứ cái gì trên thế gian nầy mà con người thấy biết được là có
(hữu) và không thấy biết được thì gọi là không (vô). Khi có sự phân biệt
cái có với cái không thì có và không dĩ nhiên là đối đãi, là Hai. Nhưng
thật ra cái có (hữu) chính là không (vô) bởi vì cái có tự nó không có
tự tánh nên nó là không. Còn cái không (vô) lại là có (hữu) vì bất biến
tùy duyên nghĩa là từ cái không mà duyên khởi sinh ra cái có. Tóm lại có
tức là không và không tức là có cho nên có và không là không Hai tức là
trở về với cái trí vô phân biệt, với căn bản trí của mình. Khi đã hiểu
chân lý nầy thì hữu và vô là không Hai nên Bồ-tát Tịnh Giải chứng nhập
Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Na La Diên nói:
- THẾ GIAN và XUẤT THẾ GIAN là hai.
Tánh của thế gian rỗng không, cho nên thế gian cũng tức là xuất thế
gian. Trong đó không có tướng đi vào, đi ra, không có tràn đầy, không có
vơi cạn. Do nhận thức đó, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Thông thường con người thường hay có cái
nhìn sai lầm về thế gian chẳng hạn như thế gian tràn đầy đau khổ, đâu
đâu cũng là ô nhiễm, bất toàn nên mới hướng về cảnh giới tốt đẹp hơn là
xuất thế gian. Nhưng thật ra ngoại trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp tự nó không có xấu xa tội lổi gì cả. Thí dụ như hoa có mê hoặc ai
đâu? Mê sắc là tại người chớ đâu phải tại hoa. Rượu có làm ai say đâu?
Thế mà con người chết lên chết xuống cũng vì rượu. Ngay cả chất độc hại
là Á Phiện. Các bác sĩ và bệnh viện khắp nơi trên thế giới dùng Á Phiện
để trị đau và nó chính là chất thuốc tê hiệu nghiệm nhất. Ngược lại nếu
con người say mê nó thì tán gia bại sản, nhà tan cửa nát. Còn nội căn là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thì cũng chẳng có tội lổi xấu xa gì bởi
vì tự nó là thanh tịnh, không ô nhiễm. Thí dụ như con mắt thì không ô
nhiễm, nhưng khi mắt thấy nhà sang, xe đẹp thì tâm liền phân biệt ý niệm
tham muốn làm cho con người dấn thân vào chỗ khổ. Do đó con người, vạn
vật, thế gian thì tự tánh không có xấu xa tội lổi gì cả mà tất cả những ô
nhiễm, tội lổi xấu xa đều phát xuất từ vọng niệm sai lầm. Vì thế khi tự
tánh thế gian không có gì ô nhiễm thì thế gian và xuất thế gian có khác
gì nhau. Con người vì bị vô minh che lấp nên thân khẩu ý không được
thanh tịnh mới thấy thế gian là xấu xa tội lổi, bây giờ quay về xé tan
màn vô minh hắc ám mà sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên thì ở đâu
cũng là cực lạc và bất cứ lúc nào cũng có Niết bàn an lạc. Thí dụ như
các vị đại A La Hán như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na hay Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đã đoạn trừ tất cả mọi phiền não khổ đau, có được
Niết bàn nghĩa là họ sống trong cảnh giới xuất thế gian mà hằng ngày họ
vẫn đi, đứng nằm ngồi trong thế gian Ta bà tội lổi xấu xa nầy. Vậy khi
có tâm xuất thế gian thì ở đâu cũng là xuất thế gian cả, ngược lại tánh
tham, tật đố vẫn còn, lòng còn giận còn hờn, còn chấp trước thì cho dù
có ở bên cạnh Phật A Di Đà thì cũng là cảnh đau khổ của thế gian chớ
không phải là cõi Tịnh độ. Đó chính là tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh
vậy. Do đó toàn bộ giáo lý của Thế Tôn không ngoài mục đích dạy chúng
sinh phải chuyển tâm chớ không chuyển cảnh nghĩa là tâm tịnh thì có cảnh
tịnh. Khi biết như thế thì thế gian cũng là xuất thế gian tức là không
Hai vậy.
Bồ-tát Thiện Ý nói:
- SANH TỬ và NIẾT BÀN là hai. Thấy
được tánh của sanh tử thì không có sanh tử gì cả, cũng không có cột,
không có mở, không có sanh, không có diệt. Nhận thức rõ như thế, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Dưới cái nhìn của phàm phu thì sanh tử là
khổ não, là đau thương vì phải xa lìa tất cả những gì mà con người yêu
thương lưu luyến. Cũng vì có bản ngã và ngã sở nên chúng sinh thấy mình,
người và vũ trụ là thật, là chắc chắn, là của mình nên khi phải lìa xa
nó thì dĩ nhiên sẽ đau khổ vô cùng. Khi đã biết rõ những khổ đau, bất
toàn như thế thì con người cố tu luyện để lìa xa thế gian tội lỗi nầy mà
có được sự an vui tịch diệt của Niết bàn. Do đó sinh tử và Niết bàn là
Hai nghĩa là một bên là khổ đau còn bên kia là an vui tự tại. Nhưng thật
ra sinh tử và Niết bàn là không Hai. Tại sao? Một khi con người lìa
Tướng trạng mà thấy được thật Tánh của mình thì sinh tử là Không và ngay
cả Niết bàn cũng là Không bởi vì cuộc đời là giả huyễn, là không thật
nên sinh là không, tử là không và Niết bàn cũng là không nghĩa là không
có ràng buộc thì cũng không cần giải thoát và không sanh thì không có
diệt. Thêm nữa, vì quán biết sinh tử là không nên sinh không tham cầu và
dĩ nhiên không sợ cái chết. Vô thường và bệnh chết nó đến với mọi người
bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cho nên người học Phật đã biết nó như
thế thì không sợ vô thường và coi thường bệnh chết. Vì thế cổ nhân cũng
có câu:”Mạc đãi lão lai phương niệm Phật, cô phần đa thị thiếu nguyên nhân”
nghĩa là cái bệnh chết nó đến bất cứ lúc nào và bất cứ ai cho nên không
phải già mới chết mà tuổi trẻ đầu xanh vẫn chết như thường vì thế chúng
sinh cần tu tâm niệm Phật ngay bây giờ chớ đừng đợi đến lúc già, lúc
gần chết mới tu. Khi không còn chấp ngã thì không quan trọng cho cái
thân giả huyễn nầy, sống thì an vui tự tại, không chạy theo tham đắm ái
dục và lúc ra đi cũng an nhiên tự tại không lo không sợ, không buồn
không tiếc. Tâm tự tại là tâm thanh tịnh tức là tâm không còn phân biệt
thì con người sẽ trở về với căn bản trí của mình để chứng nhập Pháp Môn
Không Hai.
Bồ-tát Thiện Kiến nói:
- TẬN và BẤT TẬN là hai. Vạn pháp
hoặc rốt ráo tận hoặc rốt ráo bất tận đều là tướng vô tận. Tướng vô tận
tức là không. Không thì không có tướng tận hay vô tận. Tỏ ngộ chân lý
ấy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Nhìn thế gian, vạn pháp thì thấy có ít có
nhiều. Cái đếm được, biết được, có giới hạn thì gọi là TẬN như hiện nay
số người trên thế giới là bảy tỷ, trong khu phố có năm trăm ngàn căn
nhà, trái đất có bốn đại lục và năm biển…Còn những vật thể không thể đếm
được thì gọi là BẤT TẬN hay vô tận. Thí dụ như nhìn lên không trung có
ai đếm được có bao nhiêu vì sao đâu? Mặc dù trái đất có năm biển nhưng
có ai đo được năm biển chứa bao nhiêu nước đâu? Tuy đếm được hay không
thì vạn pháp đều cùng chung Bản Thể, đó là Không. Nói một cách khác là
vạn pháp tuy có ít có nhiều, có to có lớn, hình tướng thay đổi, số lượng
thay đổi, nhưng tự Thể vẫn như nhau, không to không lớn, không ít không
nhiều mà bao trùm khắp cả. Khi không còn thấy có sự khác biệt về số
lượng mà chỉ còn một Bản Thể chân không thì tất cả sẽ không có Hai tức
là Bất Nhị vậy.
Bồ-tát Phổ Thủ nói:
- NGÃ và VÔ NGÃ là hai. Ngã hãy còn
không có, vô ngã càng không thể có. Thấy được thật tướng của ngã thì
không còn khởi niệm hai. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Sống trong vô minh nên con người tin thân
mình là thật nên trong ta chắc chắn có một cái ta và vì muốn bảo vệ cái
ta nầy mà tạo ra biết bao tội nghiệp. Nhưng thân là do ngũ uẩn duyên
khởi tạo thành nên thân không có tự tánh là vô ngã tức là không. Con
người vì chấp ngã nên chạy theo sinh tử khổ đau nên chấp ngã là sai.
Nhưng nếu con người bỏ chấp ngã mà quay về chấp vô ngã tức là chấp không
thì cũng không đúng với trí tuệ bát nhã ba-la-mật vì vẫn còn kẹt trong
cái chấp cho dù đó là chấp có hay chấp không. Cái ngã vốn không có thì
cái vô ngã làm sao có thật. Nếu thấy được thật Tánh của vạn pháp là bất
sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm nghĩa là thật Tánh
của Ngã là không có Ngã nên không còn chấp có ngã hay vô ngã nghĩa là
không còn chấp có hay chấp không tức là không còn có cái Hai. Thấu hiểu
như vậy nên Bồ-tát Phổ Thủ chứng nhập Pháp Môn Không Hai vậy.
Bồ-tát Điển Thiên nói:
- MINH và VÔ MINH là hai. Thật tánh
của vô minh là minh. Minh cũng không chấp thủ. Ly tất cả số. Trụ tâm
trong bình đẳng không có ý niệm hai. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không
hai.
Vô minh là sự mê mờ không sáng suốt của
tâm thức ví như màn mây đen phủ lên tâm trí con người từ bao nhiêu đời
bao nhiêu kiếp và nó chính là động lực chính làm cho con người có cái
nhìn sai lạc về bản chất thật của nhân sinh vũ trụ. Con người có lý luận
sai lầm là khi tu học Phật thì chúng sinh cố diệt vô minh và mong cầu
sẽ có được cái trí tuệ sáng suốt tức là minh. Lý luận nầy là dựa theo
Tục đế của văn tự, ngôn ngữ, của sự đối đãi loài người. Nhưng trong thật
Tánh của vô minh là minh thì lúc nào cũng có sẳn trong chúng ta. Khi mê
thì thấy có vô minh phiền não còn tỉnh thức thì vô minh biến mất, phiền
não tiêu trừ. Vì thế chúng sinh không cần phải đi tìm minh ở đâu xa mà
chỉ cần sống trong tỉnh thức, tâm luôn giữ chánh niệm để có tâm thanh
tịnh thì sẽ không bao giờ có vô minh phiền não. Ngược lại nếu sống trong
sô bồ sô bộn, chạy theo tham-sân-si thì vô minh khởi dậy, sa hầm sập hố
vậy thôi. Thật tánh thì lúc nào cũng thanh tịnh, bất sanh bất diệt thì
làm gì có vô minh. Hiểu như thế thì vô minh và minh là không Hai tức là
chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Hỉ Kiến nói:
- SẮC và KHÔNG là hai. Sắc tức là
không. Không phải sắc diệt mới không. Tánh của sắc tự không. Thọ, tưởng,
hành, thức, cũng như vậy. Thức là tức không. Không phải thức diệt mới
không. Tánh của thức tự không. Do quán triệt chân lý đó, tôi thể nhập
Pháp môn không hai.
Đây là phần lập lại của Tâm Kinh:” Sắc
tức là Không và Không tức là Sắc; Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác
Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như vậy”. Tất cả vạn pháp trên thế
gian nầy kể cả cái thân tứ đại của chúng ta là Sắc đều là do nhân duyên
hòa hợp tạo thành nên chúng không có chủ thể, tự tánh vì thế Sắc là vô
ngã tức là Không. Vì là vô ngã nên Sắc là vô thường nghĩa là Sắc là sinh
diệt, nay có mai không nên đừng chấp vào nó. Nhưng tự Tánh của Sắc là
Không nghĩa là không cần phải hủy hoại Sắc mới có không mà tự chúng đã
là không rồi. Ý của đoạn kinh nầy là mặc dầu thế gian vũ trụ nầy vẫn
còn, vẫn có trước mắt, nhưng con người đừng chấp cái có của nó, đừng
tham mê luyến ái nó thì mặc dù là có nhưng nó vẫn như không. Đó chính là
thấy mà như không thấy vậy. Ngày xưa lúc Đức Phật còn tại thế thì thế
gian, vũ trụ vẫn còn sờ sờ ở đó thế mà dưới mắt của Ngài thì tất cả là
không. Không ở đây là không phải đem đập đổ, nghiền nát tất cả mà không
chính là không chấp thủ, bám víu, tham đắm, si mê nó. Những vị hiền nhân
trên thế giới như Đức Phật, Đức Khổng Tử, Chúa Jesus…đều là những người
nghèo. Tất cả đều xem thường vinh hoa phú quý, xa lánh tham đắm thế tục
nghĩa là thấy có mà như không tức là Sắc tức thị Không nên nhân loại
mới kính phục. Còn những kẻ tham đắm như vua Kiệt, Trụ thì thế gian
nguyền rủa đến muôn đời. Thí dụ cái bình hoa rất quý, rất đẹp và đắt
tiền chưng trong phòng khách. Nếu chấp thủ mà xem bình hoa là có thì
chúng ta phải cưng chìu, lo lắng, bảo vệ, chăm sóc cái bình hoa hơn cả
bản thân của mình. Lỡ ai làm bể thì chưỡi bới, la hét, than khóc mà tự
tạo bao phiền não khổ đau cho mình. Bây giờ thấy bình hoa là không vì
cho dù chúng ta có giữ gìn cách mấy thì một ngày nào đó nó cũng hư hại,
tan biến thì cuộc sống sẽ vô cùng nhẹ nhàng, thanh thoát. Không buộc thì
cần gì phải cởi trói. Có càng nhiều thì lo càng to, khổ càng lớn. Công
danh, phú quý cũng như đeo ách trên vai, công danh càng cao, uy quyền
càng lớn thì ách càng nặng chớ có sướng ích gì.
Vì Sắc là không nên Thọ, Tưởng, Hành,
Thức cũng là không. Nói một cách tổng quát là vạn pháp là không nên
không còn dính mắc, không còn tham đắm, lo âu, phiền não vì tất cả là
không Hai.
Bồ-tát Minh Tướng nói:
- Sự sai khác của TỨ ĐẠI và sự sai
khác của KHÔNG ĐẠI là hai. Tánh của tứ đại tức là tánh của không đại.
Bởi vì thời gian trước và thời gian sau đều không, cho nên thời gian
khoảng giữa cũng không. Hiểu biết được như thế, cũng tức là nhận thức rõ
tánh của các đại. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Tứ đại là đất, nước, gió, lửa là bốn
nguyên tố căn bản tạo thành con người, thế gian và vũ trụ. Đối ngược với
tứ đại là không đại. Nhưng tự tánh của tứ đại là không tức là không đại
ngay cả trong tự tánh cũng không có thời gian trước sau hay chính giữa.
Tại sao? Nếu đứng về phương diện Tục đế thì có trước, có sau, có đối
đãi tức là có sinh diệt. Còn đứng về phương diện Chân đế thì tất cả là
không, là bất sinh bất diệt nên không có sự đối đãi tức là không có Hai.
Bồ-tát Diệu Ý nói;
- NHÃN CĂN và SẮC TRẦN là hai. Biết
rõ tánh của nhãn căn và tánh của sắc trần ở giữa cắt đứt sự ái nhiễm.
Thế là không còn tham, không còn sân, không còn si. Đó là trạng thái
tịch diệt. Nhĩ đối thanh, Tỷ đối hương, Thiệt đối vị, Thân đối xúc. Ý
đối với pháp cũng như vậy. Biết rõ tánh của ý căn và tánh của pháp trần,
đoạn trừ sự ái nhiễm tham, sân, si. Đạt đến trạng thái tịch diệt. An
trụ trong tỉnh giác như vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Đoạn kinh nầy cũng chính là chủ yếu của
Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng sinh kiểm soát, làm chủ sáu căn khi tiếp xúc
với sáu trần để phát sinh ra ý niệm phân biệt của sáu thức. Nên biết
rằng sáu căn của con người tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng khi
tiếp xúc với sáu trần liền bị sức quyến rũ của sáu trần mà phát sinh ra ý
niệm tham-sân-si để dẫn dắt con người vào vòng sa đọa. Thí dụ bình
thường thì tự thể của con mắt đâu có tội lổi xấu xa gì, nhưng khi mắt
thấy gái đẹp, nhà sang, xe tốt, tiền nhiều…thì tâm phát sinh ý niệm tham
đắm mà xúi con người làm bất cứ điều gì để đạt được những thứ nầy. Năm
căn còn lại thì cũng thế. Tai nghe lời dịu ngọt thì mê, nghe ai chữi thì
giận, nghe lời thị phi thì thích. Mũi ngữi đồ ăn thơm thì tham ăn, ngữi
không thơm thì đánh đổ. Lưỡi nếm mùi vị thơm ngon thì tham đắm, còn nếm
mùi cay đắng thì buồn phiền…
Do đó cho dù sáu căn có tha hồ tiếp xúc
với sáu trần, nhưng Tánh của sáu căn và sáu trần vốn tự thanh tịnh,
không ô nhiễm nên sáu thức không phát sinh ý niệm phân biệt tham đắm.
Đây chính là cái nhìn, cái nghe, cái ngữi…của người vô tâm nghĩa là
trong cái thấy không có nhãn thức giới tức là không có cái biết của sự
thấy. Các căn còn lại thì cũng thế, đó là không có Nhĩ thức giới, Tỷ
thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới và Ý thức giới. Thí dụ như
khi đi chợ thì trong chợ có hàng vạn các món hàng khác nhau. Nếu chúng
ta có tâm phân biệt tức là có cái biết của sự thấy, nghe, ngữi…thì món
nào cũng thích, cái gì cũng muốn mua. Còn bây giờ thấy thì cái gì cũng
thấy mà chẳng quan tâm cái gì cả vì trong cái thấy không có cái biết,
cái phân biệt của sự thấy nên món nào cũng vậy. Nhà cần món nào thì mua
món đó, vừa tiết kiệm thời giờ, vừa tiết kiệm tiền bạc và vừa giảm bớt
lòng tham đắm, si mê.
Bồ-tát Vô Tận Ý nói:
- BỐ THÍ và HỒI HƯỚNG NHẤT THIẾT TRÍ
là hai. Tánh bố thí tức là tánh hồi hướng nhất thiết trí. Trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ cũng như vậy. Tánh trí tuệ tức là
tánh Hồi Hướng Nhất Thiết Trí. Ở trong đó hội nhập tướng Nhất. Do vậy,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Khi bố thí, làm phước, làm việc thiện,
việc lành thì chúng ta thường hay hồi hướng những phước đức nầy để thành
tựu nhất thiết trí nghĩa là có trí tuệ Bồ-đề hay viên thành Phật đạo
cho nên bố thí và hồi hướng là Hai. Nhưng Tánh bố thí cũng là Tánh hồi
hướng nhất thiết trí nghĩa là bố thí bất trụ tướng hay còn gọi là bố thí
vô tướng của Kinh Kim Cang tức là bố thí mà không chấp mắc việc làm
tốt, hành động giúp người của mình nghĩa là thi ân bất cầu báo thì phước
đức, công đức kia mới lan tỏa vô cùng vô tận. Thêm nữa, bố thí là để
bớt tánh tham, nhưng trong tự tánh thanh tịnh làm gì có tánh tham. Do đó
khi bố thí làm việc thiện thì chúng ta không cần phải hồi hướng vì Tánh
bố thí tức là Tánh hồi hướng nghĩa là khi làm việc thiện thì tự nó đã
có ảnh hưởng lan rộng tốt cho chúng ta rồi. Thí dụ như chúng ta nguyện
cúng dường xây một cảnh chùa cho bá tánh thập phương có nơi tu học Phật
pháp. Việc làm tốt nầy đã làm cho tâm của chúng ta hân hoan khoan khoái.
Cái hân hoan khoan khoái nầy chính là giúp chúng ta quay về sống gần
với chân Tánh của mình thì chính mình ngay bây giờ đã có lợi lạc rồi đâu
cần gì phải hồi hướng cho mai sau. Nói một cách khác hằng ngày con
người vì bản năng ích kỷ, không chịu bố thí giúp người nên cuộc sống xa
dần với chân Tánh của mình. Mà càng xa chân Tánh thì càng gần với vô
minh phiền não vì thế hành động bố thí là đưa con người trở về với tự
tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì tự mình đã có công đức rồi. Vì
thế bố thí và hồi hướng nhất thiết trí là không Hai.
Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định
và trí tuệ thì cũng thế. Khi con người bị vô minh phiền não che lấp
nên phải chịu sinh tử luân hồi cho nên trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục,
thiền định và trí tuệ là những phương tiện giúp chúng sinh phá tan màn
vô minh hắc ám để trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình. Nói
một cách khác con người còn phiền não khổ đau là vì họ sống ngược với
chân Tánh tức là Tánh chân thật vốn có của mình. Do đó khi trì giới,
nhẫn nhục... là mình đến gần hơn với chân Tánh, với tâm thanh tịnh của
chính mình nên Tánh của trì giới tức là Tánh hồi hướng rồi vậy. Thí dụ
như người giữ giới phẩm hạnh thì chính họ đã có khinh an, giải thoát, tự
tại nên mặc dù không hồi hướng gì nhưng thật chất tự nó đã có hồi hướng
rồi. Chính Đức Phật độ vô số chúng sinh mà không hề thấy có chúng sinh
mình độ, Đức Phật làm tất cả việc làm mà không thấy có công đức mình
làm và Đức Phật chứng vô thượng Bồ-đề, vô thượng Niết bàn mà không bao
giờ nói mình chứng đắc gì cả. Đó chính là tu vô tu tu, hành vô hành hạnh
và chứng vô chứng chứng. Khi Đức Phật đạt tới chỗ thân khẩu ý thanh
tịnh thì tự nó không có vô minh, không có phiền não khổ đau, không có
sinh tử luân hồi thì gọi là chứng vô thượng Bồ-đề, vô thượng Niết bàn
chớ thật ra không có chứng đắc gì hết bởi vì hết vô minh phiền não là
con người trở về với chân Tánh của mình, là sống với tự tánh thanh tịnh
bản nhiên của mình vậy thôi. Đây chính là bản lai diện mục đã có sẳn chớ
đâu phải khi thành Phật mới có.
Bồ-tát Thâm Tuệ nói:
- KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC là hai.
Không tức là vô tướng, vô tướng tức là vô tác. Hiểu rõ không tức là vô
tướng. Vô tướng là vô tác thì tâm, ý và thức bấy giờ công dụng trở thành
một. Bấy giờ một giải thoát môn tức là ba giải thoát môn. Quán triệt
chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Đừng nghĩ rằng Không, Vô Tướng, Vô Tác là
ba bởi vì ba là theo thứ tự của con số, là văn tự của con người. Nhưng ở
đây Bồ-tát Thâm Tuệ nói Không, Vô Tướng, Vô Tác là Hai là ám chỉ sự đối
đãi của tâm và cảnh hay giữa con người và pháp tu quán chớ không phải
thứ tự hay văn tự ngôn ngữ gì cả. Tất cả vạn pháp trên thế gian nầy từ
con người cho đến động vật, thực vật hay khoáng vật là do nhân duyên tác
tạo mà thành chớ tự nó không thể phát triển hay tồn tại được vì thế vạn
pháp là vô ngã tức là Không. Vì vô ngã nên vạn pháp phải chịu vô thường
nghĩa là có sinh tất có hoại do đó không một ai sống đời mà không chết
hay chẳng có người nào trẻ mãi mà không già, không bệnh. Nhưng trong
chân Không thì vạn pháp bất sanh bất diệt, vô hình vô tướng cho nên thật
tướng của vạn pháp chính là Vô Tướng. Vạn pháp duyên khởi với nhau mà
tạo ra muôn sinh vạn vật do đó Vô Tác là không có ai làm nên, không có
ai là tác giả cho nên vô tác là thật tướng, là vô tướng của vạn pháp.
Tóm lại, trong chân Không thì thật tướng là vô tướng và vô tác cũng là
vô tướng cho nên Không là vô tướng và vô tướng cũng là vô tác. Chẳng
phải ba mà cũng chẳng phải một nên đây là Bất Nhị tức là không còn đối
đãi, là không Hai. Cùng lý luận nầy áp dụng cho tâm, ý và thức. Nếu thấy
có tâm, ý và thức là còn thấy có ba, nhưng thật ra thức là cái biết thì
phải cần có ý niệm sanh khởi để tạo thành cái biết và muốn có ý niệm
thì phải có tâm phát khởi những ý niệm nầy nghĩa là tâm tức là ý và ý
tức là thức vậy. Vì thế tuy nói tâm, ý, thức là ba nhưng Bản Thể Chân
Như thì thấy không ba, mà cũng không thấy một. Chẳng phải là ba, chẳng
phải là một thì đây chính là Bất Nhị tức là không Hai.
Bồ-tát Tịnh Căn nói:
- PHẬT, PHÁP và TĂNG là hai. Phật tức
là Pháp, Pháp tức Tăng. Tam bảo đều là tướng vô vi, đồng như hư không.
Tất cả pháp cũng vậy. Tùy thuận theo chân lý đó, thi vi hành sự. Do vậy,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Khi người Phật tử nhập môn theo đạo Phật
thì được truyền thọ tam quy, đó là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng.
Tam bảo ở đây chính là thế gian trụ trì Tam Bảo tức là Tam bảo dựa theo
hình tướng sinh diệt bên ngoài. Đối với những người sơ cơ chưa biết
Phật pháp thì họ nghĩ rằng tượng Phật bằng đồng, bằng xi măng là Phật
bảo, Pháp là kinh sách trong tủ hay những vị Tăng trong chùa là đại diện
cho Tam Bảo. Do đó nếu người Phật tử không chịu tu học để thể nhận được
chân lý mà cứ ôm lạy tượng Phật xi bằng vàng từ Đài Loan hoặc lạy cúng
kinh sách trên bàn thờ hay phàm Tăng thời mạc pháp nói gì nghe theo nấy
thì uổng phí cả cuộc đời tu hành của mình. Một khi đã thấu hiểu Phật
pháp thì bây giờ người Phật tử tự quy lấy và được gọi là Nhất Thể Tam
Bảo bởi vì trong Bản Thể thì Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng tuy ba nhưng mà
Một nghĩa là Phật tức là Pháp và Pháp tức là Tăng. Nói một cách khác
Phật Tánh tức là Pháp Tánh và Pháp Tánh tức là Tăng Tánh. Phật Tánh là
Tánh thanh tịnh bản nhiên không có vô minh phiền não của mình, của con
người. Còn Pháp Tánh là Tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp như cây
cỏ, núi sông, xe cộ, nhà cửa, bông hoa…Thí dụ như núi cao sông đẹp đâu
có lôi cuốn quyến rủ ai đâu? Đó là sự thanh tịnh của thiên nhiên vũ trụ,
nhưng nếu con người bị vô minh tham dục che lấp thì thấy cảnh liền mê.
Do đó mê cảnh là tại người chớ đâu phải tại cảnh. Vì thế khi con người
sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình không có vô minh tham dục
thì Phật Tánh tức là Pháp Tánh vì cả hai cùng có tánh thanh tịnh như
nhau. Bây giờ Tăng Tánh là Tánh hòa hợp của Phật Tánh và Pháp Tánh mà
Phật Tánh là Pháp Tánh cho nên Phật Tánh, Pháp Tánh chính là Tăng Tánh.
Nói một cách khác khi quy y Nhất Thể Tam Bảo thì quy y Phật tức là quy y
Pháp tức là quy y Tăng rồi vậy. Vậy Phật, Pháp, Tăng là không Hai.
Tóm lại khi người Phật tử tu theo hình
thức bên ngoài thì dễ bị ngoại cảnh làm thối chuyển tâm Bồ-đề của mình
vì hình tướng là sinh diệt, là thay đổi. Ngược lại nếu người Phật tử
thấu hiểu Phật pháp mà thấy được bản thể thanh tịnh của mình thì sẽ có
tâm bất thối chuyển nghĩa là khi đã biết Phật tức tâm thì ở đâu cũng có
Phật và bất cứ lúc nào cũng có Phật ở trong tâm của chúng ta cho nên con
người luôn thức tỉnh và không dám làm điều bất thiện. Mà không có
nghiệp thì không còn sanh tử luân hồi tức là chứng được vô sanh pháp
nhẫn. Đây mới là chân lý giải thoát giác ngộ vậy.
Bồ-tát Tâm Vô Ngại nói:
- THÂN và THÂN DIỆT là hai. Thân tức
là thân diệt. Thấy được thật tướng của thân thì không còn khởi chấp thân
và sự hoại diệt của thân. Thân và sự hoại diệt của thân không khởi ý
phân biệt là hai. Vì vậy, thân sinh tồn hay hoại diệt, không kinh hãi,
không lo lắng sợ sệt. Tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn không
hai.
Thân là do bốn nhân duyên đất, nước, gió,
lửa tạo thành nên thân là vô ngã, vô thường. Vì vô thường nên một ngày
nào đó thân sẽ bị hoại và sáu căn sẽ không còn sắc bén như khi còn khỏe
mạnh thì gọi là thân diệt. Hiện tượng nầy là cho tất cả chúng sinh chớ
không sót một ai vì thế bệnh, già, chết là chuyện thông thường không có
gì lo sợ. Kinh có câu:”Dược y bất tử bệnh, Phật hóa hữu duyên nhơn”
nghĩa là thuốc là để trị bệnh không chết chớ còn bệnh chết thì không có
thuốc chửa. Cũng như Phật chỉ hóa độ chúng sinh là những người có duyên
còn những người vô duyên thì Phật cũng không hóa độ được. Khi biết được
thật tướng của thân hay của vạn pháp là không tướng thì con người sẽ
không còn lo lắng về sinh, lão, bệnh, tử nữa. Vì trong tướng không thì
vạn pháp không sanh, không diệt, không tăng, không giảm thì làm gì phải
lo có thân hay sợ thân diệt. Vì chấp ngã nên con người sống mà luôn sợ
bệnh, sợ chết, nhưng có lo, có sợ mà con người vẫn bị bệnh, vẫn chết như
thường cho nên người biết quán vô thường thì họ coi bệnh hay chết như
trò chơi chả có gì quan tâm, kinh hãi. Biết như thế thì thân và thân
diệt là Bất Nhị, là không Hai.
Bồ-tát Thượng Thiện nói:
- THÂN, KHẨU, Ý là hai. Ba nghiệp đều
là tướng vô tác. Tướng vô tác của thân tức là tướng vô tác của khẩu.
Tướng vô tác của khẩu tức là tướng vô tác của ý. Tam nghiệp là tướng vô
tác. Tất cả pháp cũng là tướng vô tác. Dùng tuệ vô tác nhận thức chân lý
và tùy thuận chân lý ấy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Dựa theo văn tự ngôn ngữ thì thân khẩu ý
phải là ba, nhưng ở đây Bồ tát Thượng Thiện nói thân khẩu ý là Hai là
muốn ám chỉ cho sự đối đãi. Đó là chính mình là mình và thân khẩu ý là
của mình nên có Hai, có sự đối đãi. Mà ba nghiệp là thân nghiệp, khẩu
nghiệp và ý nghiệp đều là tướng vô tác nghĩa là không có ai là tác giả.
Thân là tướng vô tác thì khẩu và ý nương tựa vào thân thì chắc chắn khẩu
và ý cũng là tướng vô tác. Mà tướng vô tác chính là thật tướng, là vô
tướng của vạn pháp. Nếu đã là vô tướng, thật tướng thì tướng vô tác của
thân là tướng vô tác của khẩu và cũng là tướng vô tác của ý, tuy ba
nhưng mà Một, không còn phân biệt đối đãi tức là không Hai. Một khi tam
nghiệp, thân khẩu ý là tướng vô tác thì tất cả các pháp cũng đều là vô
tướng, là thật tướng và đều là tướng vô tác cả.
Bồ-tát Phước Điền nói:
- LÀM PHƯỚC LÀM TỘI, LÀM KHÔNG PHƯỚC
KHÔNG TỘI là hai. Thật tánh của ba việc là vắng lặng rỗng không. Không
thì không thấy có làm phước, không thấy có làm tội, không thấy có làm
không phước không tội. Không khởi ý niệm chấp mắc ở ba việc làm. Do vậy,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Thế nào là làm phước? Phải chăng đó là
chúng ta làm bất cứ việc gì mà không trái lại với tự tánh thanh tịnh bản
nhiên hay chân Tánh của mình vậy thôi. Nói một cách khác nếu chúng ta
cả đời không làm gì sai trái với chân Tánh thì chính mình trở về với
sống cái tự tánh thanh tịnh ban đầu mà con người gọi là thành Phật. Do
đó làm phước thật sự không có cái gì thêm hay bớt cả mà cũng chỉ là vắng
lặng trống không. Cũng như nói tu hành là để chứng đắc vô thượng Niết
bàn hay vô thượng Bồ-đề. Đây chỉ là cách nói của văn tự ngôn ngữ con
người, nhưng thật ra không có cái gì gọi là chứng đắc cả. Một khi chúng
sinh biết lau sạch bụi vô minh phiền não thì cái gương được sáng, nhưng
trước khi có bụi bặm thì cái gương rất trong sáng đâu có dơ? Vậy trước
khi bị vô minh phiền não thì chúng sinh đều là Phật, nhưng lần theo thời
gian cái bụi bặm vô minh phiền não phủ lên trí tuệ trong sáng làm cho
con người sống xa với chân Tánh của mình nên mới chịu quay cuồng trong
sinh tử khổ đau. Còn làm tội là làm đau khổ cho mình, cho người và cho
tất cả chúng sinh. Mà tánh của tội cũng rỗng không. Nếu tội là cố định,
cứng ngắt thì làm sao con người có thể tu hành, sám hối mà trở thành
toàn thiện được? Kinh lại dạy rằng:”tội tánh bổn không, do tâm tạo; tâm
nhược diệt thời, tội diệt vong” nghĩa là khi mê thì tội lổi chất chồng,
sống trong đau khổ triền miên, nhưng khi thức tỉnh, biết sám hối, biết
ăn năn thì tội lổi tan biến. Tội là do tâm vì tâm mê nên có ý nghĩ, lời
nói hay hành động điên đảo, nay tâm thức tỉnh, biết sám hối thì tội
diệt, tội đâu còn. Như vậy nếu nhìn từ bên ngoài thì thấy có phước, có
tội, có thiện, có ác tức là sống với tâm sinh diệt, nhưng thật Tánh của
phước, của tội là rỗng không, là chân Không thì làm tội, làm phước hay
ngay cả làm không phước không tội là chẳng phải ba mà cũng chẳng phải
một là Bất Nhị tức là không Hai. Thí dụ như chúng ta cầm một ly thuốc
độc ví cũng như tội lổi. Nếu uống hết ly thuốc độc nầy chắc chắn chúng
ta phải chết, nhưng bây giờ nếu đem ly thuốc độc nầy hòa tan vào trong
cái ao nước trong thì cho dù có uống năm ly chúng ta cũng chẳng hề hấn
gì. Tổi lổi thì cũng thế. Nếu con người vì vô minh mà tạo nhiều tội lổi,
nhưng nay biết thức tỉnh, sám hối và tạo rất nhiều việc thiện thì tội
lổi xưa từ từ tan biến. Cái khác nhau giữa Bồ-tát và phàm nhân là Bồ-tát
thì làm bất cứ việc gì có lợi cho chúng sinh mà làm xong là bỏ, là quên
hết, thi ân bất cầu báo. Ngược lại phàm nhân thì cái gì có lợi cho mình
mới làm và làm xong thì nhớ hoài, không quên vì tâm còn mong cầu đền
đáp. Vì thế khi thấu suốt thật Tánh của mọi hành động là Không, là trống
rỗng thì sẽ không còn chấp việc làm của mình nữa. Không nhớ, không chấp
thì làm mà không chán, không mệt mỏi, ngược lại cho dù là làm việc
thiện với tâm mong cầu thì một ngày nào đó con người sẽ không còn thích
thú, hăng say hoạt động như thưở ban đầu.
Bồ-tát Hoa Nghiêm nói:
- Từ bản ngã khởi chấp hai là hai.
Biết được thật tướng của bản ngã không khởi chấp hai. Không khởi chấp
hai thì không có cái biết và đối tượng bị biết. Quán triệt chân lý đó,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Bây giờ không còn hai hay ba đối tượng
như những phần trên mà chỉ còn là một, đó là bản ngã. Vậy Thế nào là bản
ngã khởi chấp? Khi nghĩ rằng cái nhà nầy là của tôi, cái xe đẹp kia là
của tôi, cái công ty đồ sộ cũng là của tôi, con cái của tôi thì thế nầy
thế kia…do đó từ một cái bản ngã mà bắt đầu khởi chấp là có sự phân
biệt, so sánh đối đãi tức là có Hai. Mà khởi chấp là do tâm sinh diệt,
tâm vọng tưởng sinh khởi tạo thành, nhưng thật Tướng của bản ngã là
không thì làm gì có cái chấp biết và đối tượng bị biết. Khi lìa Tướng
nhập Thể nghĩa là xa lánh cái tâm vọng tưởng, biết kiểm soát sáu căn mà
quay về sống với bản Thể thanh tịnh của mình thì bản ngã đâu còn. Không
còn bản ngã thì không có cái Hai.
Bồ-tát Đức Tạng nói:
- Có tướng sở đắc là hai. Không sở
đắc thì không có tham lấy, không chê bỏ. Do trụ trong tâm bình đẳng
không lấy bỏ, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Kẻ tu hành mà thấy mình có chứng đắc là
có Hai. Kinh Bát Nhã dạy rằng:”Vô trí diệt vô đắc” nghĩa là không có cái
trí tuệ hay cái chứng đắc gì cả. Khi chúng sinh đoạn trừ hết vô minh
phiền não để có cuộc sống vô cùng an vui tự tại thì gọi là chứng đắc nầy
nọ, nhưng thật ra trước khi loại bỏ vô minh phiền não thì chúng sinh
đâu có vô minh phiền não. Vậy có an vui tự tại là cái đã có chớ đâu phải
cái chưa bao giờ có. Vì thế tu hành thì nhà Phật gọi là hồi đầu thị
ngạn nghĩa là biết thức tỉnh mà quay thuyền trở lại bến xưa vậy thôi.
Cho nên nếu thấy có chứng đắc thì vẫn còn có tham tức là vẫn còn vô minh
phiền não. Nói một cách khác là thuyền chưa cập bến được.
Bồ-tát Nguyệt Thượng nói:
- TỐI và SÁNG là hai. Không tối không
sáng thì không hai. Ví như nhập định diệt thọ tưởng, không còn nhận
thức tối sáng. Đối với tất cả pháp tướng cũng như vậy. Hội nhập với tâm
bình đẳng ấy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Nếu có sự phân biệt đối đãi thì thấy có
sự khác nhau như tối và sáng, như trí tuệ với vô minh, như thiện với ác,
như khổ và vui, nhưng khi hội nhập với tâm bình đẳng tức là đang sống
với căn bản trí, vô phân biệt trí cũng như người nhập định diệt thọ
tưởng không còn thấy biết sự khác biệt của thế giới bên ngoài mà tất cả
chỉ hướng về nội tâm trong sáng ở trong nên tất cả là không, là bình
đẳng, là vô vi, là thanh tịnh. Như thế tối sáng là của thế giới hữu
hình, là Hai. Còn pháp Tướng của tất cả vạn pháp là vô hình, là của thế
giới vô vi thì làm gì còn có phân biệt, có đối đãi nên không có Hai tức
là Nất Nhị.
Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói:
- Ham mộ NIẾT BÀN, nhàm chán THẾ GIAN
là hai. Không ham mộ Niết bàn, không nhàm chán thế gian thì không hai.
Vì sao? Vì rằng: Ai có bị trói buộc mới mong cầu mở. Người không bị buộc
trói còn hy vọng mở cái gì? Không bị buộc, không cần mở, cũng không
nhàm chán, không có ham mộ. Thâm ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn
không hai.
Đây là diễn giải một chân lý siêu việt mà
người tu Phật nên thấu suốt. Nói theo lẽ thông thường thì bất cứ ai tu
Phật cũng đều nhàm chán cảnh thế gian dẫy đầy tội lổi xấu xa mà tìm về
cảnh giới an vui tịch diệt của Niết bàn. Nếu nghĩ như thế thì nhàm chán
thế gian và ham thích Niết bàn chắc chắn là Hai. Bây giờ tự hỏi tại sao
lại phải nhàm chán thế gian? Phải chăng những người đó đang bị thế gian
hoành hành, gánh chịu trăm điều phiền não khổ đau? Nhưng tại sao lại
cũng cái thế gian nầy mà có rất nhiều người gọi nó là tội lổi xấu xa lại
cũng có nhiều người sống an vui tự tại chẳng hạn như Đức Phật, các vị A
La Hán hay và biết bao người khác nữa. Vậy đâu là chân lý? Hãy quay về
nhìn lại có cái gì là tội lổi xấu xa trong thế gian nầy chăng? Cây cỏ,
núi sông, nhà cửa, xe cộ, hảng xưởng, thức ăn, thức uống đâu có cái gì
tự nó là xấu xa tội lội đâu? Cái mà con người cho rằng xấu xa tội lổi là
do cái nhìn có vô minh phiền não, tham đắm của mình mà ra. Khi tâm chất
đầy tham-sân-si, ái dục thì nhìn cái gì cũng mê, cũng thích, cũng muốn
chiếm hữu và đây chính là những vẩn đục đeo trước con mắt của họ khiến
họ nhìn thế gian là bất toàn, khổ não. Nhưng bây giờ nếu lấy cái vẩn đục
kia đi và cũng nhìn cái thế gian đó với tâm trong sáng, thanh tịnh,
không còn vô minh phiền não thì cái tội lổi khổ đau biến mất và thế giới
nầy trở thành cực lạc. Vậy ai cột trói mình? Chính mình tự cột trói lấy
mình, tự mình chuốc lấy bao hệ lụy của phiền não khổ đau, chính mình
chạy theo tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến chớ đâu phải thế gian. Nếu mình
tự trói buộc mình thì chính mình tự cởi trói lấy. Còn nếu sống an vui
tự tại, tâm hằng thanh tịnh nghĩa là tự mình không trói mình thì cần gì
phải cởi trói.
Tóm lại nếu không buộc thì không cần mở,
không nhàm chán thế gian thì chẳng cầu mong ham mộ Niết bàn nghĩa là
không còn vô minh phiền não tức là có Niết bàn rồi cần gì phải cầu với
mong, chứng với đắc cho nên thế gian, Niết bàn là không Hai tức là Bất
Nhị.
Bồ-tát Châu Đảnh nói:
- CHÁNH ĐẠO và TÀ ĐẠO là hai. Trụ ở
chánh đạo thì không phân biệt tà hay chánh. Do ly cái tướng hai, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Tuy đạo Phật là đạo của từ bi, nhưng
không vì thế mà người nào cũng được Đức Phật độ. Từ khi Đức Phật Thích
Ca thành đạo đến nay thì đạo Phật chỉ độ cho những ai có duyên với Phật
pháp và không thể nào độ cho người vô duyên được. Vì thế nếu theo học
với chánh pháp, sống với chánh pháp thì người đó là chánh đạo. Ngược lại
có người theo những tôn giáo khác thì gọi là ngoại đạo và nếu là những
tôn giáo cực đoan thì gọi là tà đạo. Nếu đứng về hình tướng thì thấy có
chánh có tà, có tốt có xấu vì chúng ta còn tâm phân biệt, nhưng đứng về
Thể Tánh, Thật Tướng thì tất cả chúng sinh nào có khác gì nhau, cùng có
Phật Tánh cho dù là người tà đạo. Do đó nếu nhìn thấu suốt qua hình
tướng để vào Bản Thể Chân Như thì không thấy có chánh có tà nghĩa là
chẳng phải Hai mà cũng chẳng phải một tức là Bất Nhị, là không Hai. Mặc
dù Phật giáo không những có trước những tôn giáo khác trên năm sáu trăm
năm mà còn có thể phát triển và duy trì mà không bao giờ dùng đến bạo
lực và không hề bị hoen ố bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo và thánh
chiến. Ngày nay có những tôn giáo rất cực đoan đã và đang tàn sát những
tôn giáo khác. Họ có những niềm tin rất điên cuồng phát sinh từ tính độc
tôn đố kỵ làm cho nhân loại phải sống trong khổ đau như thế giới hiện
nay. Cho dù thế gian có xoay vần thế nào đi chăng nữa, Phật giáo luôn
khuyên người tu Phật luôn trụ nơi chánh đạo thì không còn phân biệt
chánh hay tà. Nói một cách khác khi trụ nơi chánh đạo là trụ nơi thật
Tướng thì vạn pháp là không. Không còn thấy tướng thì không có phân biệt
đối đãi mà sống với căn bản trí hay vô phân biệt trí thì chẳng còn thấy
chánh và cũng chẳng thấy tà tức là Bất Nhị. Vì thế thay vì ghét hay kỳ
thị tà đạo, người trụ ở chánh đạo là người đang sống với tự tánh thanh
tịnh bản nhiên của mình luôn dùng tâm từ bi mà đối xử tốt với họ vì họ
là những người đáng thương, là những chúng sinh đi lầm đường lạc lối
cũng vì bị vô minh che lấp. Nên nhớ đây là giáo lý liễu nghĩa thượng
thừa để đưa người tu viên thành Phật quả. Còn giáo lý nhân thừa hay giáo
lý hữu vi, giáo lý tục đế thì người Phật tử có biểu tình, có đấu tranh,
có chết chóc, có ta có người, có tốt có xấu tức là có Hai. Do đó Bất
Nhị là thanh tịnh, là an vui tự tại. Còn có Hai là còn đau khổ chập
chồng.
Bồ-tát Nhạo Thật nói:
- THẬT và KHÔNG THẬT là hai. Thật
thấy hãy còn không thấy thật huống hồ không phải thật. Vì sao? Vì cái
thấy của nhục nhãn không thể thấy đúng chân lý. Chỉ có tuệ nhãn mới thấy
đúng chân lý. Tuệ nhãn không thấy gì hết nhưng không có gì không thấy.
Do tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Trước hết hãy tìm hiểu thế nào là thật thấy và thấy thật.
Khi mở mắt hằng ngày chúng ta thấy tất cả vạn pháp như con người, xe
cộ, nhà cửa, vật dụng, máy bay, cây cỏ, núi sông, mặt trời, mặt
trăng…thì tin chắc là thật thấy những hiện tượng nầy.
Thí dụ như nhìn chiếc xe thì biết chắc rằng đó là chiếc xe vì nó là
chiếc xe chớ không phải cái nhà. Vật thể là của thiên nhiên, nhưng con
người đặt cho nó cái tên rồi tin chắc nó là cái tên mà họ đã đặt cho.
Thí dụ như một người khi còn ở Việt Nam có tên là Sơn, nhưng khi qua
định cư ở Mỹ liền đổi lại thành Sam như thế thì tên nào là tên thật của
anh ta? Chẳng có cái tên nào là tên thật cả. Nếu là tên thật thì không
bao giờ có thể gọi được vì là vô hình vô tướng thì làm sao đặt tên được
do đó hôm nay gọi là Sam, ngày mai nổi hứng gọi là Jimmy hay John cũng
vậy thôi. Cái mà con người tin chắc là thật thấy thì
thật ra chỉ là giả thấy mà thôi. Thí dụ như ra sau vườn thì thấy một đóa
hoa rất xinh đẹp vừa mới nở. Do đó ai dám bảo thấy đóa hoa là không
thật thấy. Nhưng một tuần sau thì cũng nơi đó mà đóa hoa tan tả biến
mất. Thế thì cái thật thấy nầy chỉ là cái thấy của sự
biến đổi sinh diệt của nhân sinh vũ trụ chớ không có gì là thật thấy cả.
Vì ngay trong thời điểm chúng ta thấy vật đó thì chính nó đang tự hủy
hoại rồi. Còn thấy thật thì như thế nào? Tất cả vạn
pháp trên thế gian vũ trụ nầy là do duyên sanh mà thành chớ không có vật
gì tự nó có thể phát triển hay tồn tại được nên tất cả vạn pháp là vô
ngã, là sinh diệt tức là Không. Khi thấy rằng thật tướng của vạn pháp là
không tướng tức là tướng không sanh, không diệt thì cái thấy nầy mới
gọi là thấy thật. Cái thật tướng nầy là tướng vô, là
không có hình tướng thì mắt thường làm sao thấy được. Nhưng cũng chính
cái tướng vô nầy mà do nhân duyên hòa hợp lại tạo thành tất cả. Do đó
muốn thấy thật cái tướng vô nầy thì phải dùng con mắt trí tuệ (tuệ nhãn) để tư duy, quán chiếu mà nhận biết nó thì cái thấy biết nầy mới là thấy thật vậy.
Khác với nhục nhãn là thấy biết những hiện tượng sinh diệt, tuệ nhãn có
thể thấy biết không tướng, thật tướng của vạn pháp. Vì là không tướng,
không hình không sắc nên không thấy gì hết, nhưng chính cái không tướng
nầy là chân Không bao trùm khắp vũ trụ nên mặc dù không thấy nhưng đây
mới chính là thấy tất cả. Các vị Phật và Bồ-tát thì các Ngài đâu có mở
mắt lớn như phàm nhân mà họ thấy tất cả, thấy thấu suốt cả tam thiên đại
thiên thế giới cũng vì các Ngài dùng tuệ nhãn và Phật nhãn. Còn chúng
sinh thì lúc nào mắt cũng mở to mà thấy biết lầm lẩn, cái thấy là thấy
bởi vô minh vọng thức nên mặc dù chúng sinh có thấy thật nhưng không
thật thấy. Nói tóm lại mọi vật thể trên thế gian là giả tạm, là sinh
diệt, là mong manh nên mất đi rất dễ dàng vì thế con người thật thấy
hình tướng diện mạo của nó mà thật ra là không thấy thật. Chỉ khi nào
con người thấy được chân Không, thật Tướng của vạn pháp thì bây giờ mới
gọi là thấy thật, thấy đúng chân lý, thấy không có phân biệt đối đãi là
Bất Nhị tức không Hai.
Tóm lại, Bồ Tát Hỷ Kiến đốt thân là đốt
đi ý niệm chấp Ngã và đốt đi cả hai tay là đốt đi tất cả những phạm trù
đối đãi nhị nguyên tức là không còn thương ghét, phải quấy, tốt xấu,
thân sơ…mà phải nhìn thế gian vũ trụ với tinh thần bình đẳng vô ngã vị
tha.
Các Bồ-tát, trời, người A-tu-la…
thấy vậy đều sầu khổ buồn thương. Bồ-tát ở trong đại chúng, bèn lập thệ:
Ta bỏ 2 tay ắt sẽ được thân Phật. Nếu quả đúng như vậy, thì xin cho 2
tay ta tự nhiên trở lại, ấy là nhờ phước đức và trí tuệ thuần hậu của
Bồ-tát.
Kinh nói đốt hai tay là đốt đi những cặp
phạm trù đối đãi. Đó là ngã và pháp tức là chủ thể và đối tượng. Thân và
sơ là hai cho nên xóa bỏ những ý niệm giúp người thân bỏ người sơ là
bất nhị. Thương và ghét là Hai cho đến đốt luôn ý niệm thương người này
ghét người kia là bất nhị. Những cặp phạm trù khác là phải quấy, hơn
thua, tốt xấu, khôn dại…cần phải đốt hết tức là mình đã đốt hai cánh tay
rồi đấy chớ đâu phải đốt cánh tay của mình thật. Sau khi đốt hết những
phạm trù đối đãi phân biệt nhị nguyên thì những bất bình đẳng thiện ác,
tốt xấu sẽ vĩnh viễn biến mất trong tâm hồn của chúng ta. Vì thế khi bỏ
được những cội gốc phát sinh ra vô mình phiền não tham, sân, si thì hành
giả mới tiến về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là thành Phật được.
Tóm lại, thâm ý của kinh về đốt thân hay
đốt hai cánh tay là đốt hết những quan hệ về chấp ngã và những cặp phạm
trù đối đãi phân biệt nhị nguyên là nguồn gốc phát sinh ra vô minh phiền
não để hoàn thành Phật đạo bởi vì không còn sống trái với chân lý thì
nguyên nhân gây ra đau khổ sẽ không có nên từ đó mới có thể thành Phật,
chớ Phật không bao giờ kêu gọi bất cứ ai đốt thân hay bất cứ phần nào
trong thân thể của mình để cúng dường Phật cả. Nên nhớ bất cứ vật gì
trong thế giới hữu vi quý báu như kim cương, vàng bạc hay thân thể thì
cũng đều là những thứ hoại diệt, nay có mai không nên chẳng có giá trị
gì đối với bậc giác ngộ. Ngày xưa đức Phật đâu cần lầu vàng gác tía mà
Ngài rất thảnh thơi tự tại ở dưới gốc cây. Thấu hiểu được chân lý đó thì
hay cánh tay trở lại nghĩa là thấy biết tất cả mà không chấp vào đó.
Biết thân, biết cảm thọ nhưng không chấp nó là ta, là của ta. Biết thế
gian biến đổi khôn lường, nhưng đừng chấp tốt xấu, thân sơ, phải quấy,
thiện ác cho nên đốt là xóa sạch những ý niệm phân biệt đối đãi chớ có
đốt thiệt đâu mà cần phải hoàn lại. Phật là đấng đại từ đại bi nên không
bao giờ Ngài xúi bảo ai hy sinh bất cứ cái gì cho Ngài ngoại trừ xóa bỏ
tâm tham, sân, si để chính mình có cuộc sống an lạc thế thôi chớ Phật
chẳng được cái gì.
Đức Phật Thích Ca hỏi Bồ-tát Tú Vương Hoa:
-Ý ngươi nghĩ sao?
-Bồ-tát Hỉ Kiến thuở xưa đâu phải
ai lạ, chính nay là Bồ-tát Dược Vương đó. Ông ấy đã xả bỏ, bố thí, vô
lượng số thân như thế. Này Tú Vương Hoa, ai phát tâm muốn được Đạo vô
thượng mà đốt ngón tay hay ngón chân cúng dường Tháp Phật, còn hơn người
dùng nước, thành, vợ, con cùng trân bảo trong 3.000 đại thiên thế giới
mà cúng dường. Còn ai dùng bảy báu trong khắp 3.000 đại thiên thế giới
mà cúng dường Phật, Bồ-tát, Duyên Giác, La-Hán, cũng không có công đức
bằng người thọ trì kinh Pháp Hoa, chừng một bài kệ bốn câu.
Đến đây đức Phật Thích Ca mới bật mí cho
Bồ Tát Tố Vương Hoa biết rằng Bồ Tát Hỷ Kiến chính là tiền thân của Bồ
Tát Dược Vương đó. Đối với Phật giáo, đời người chẳng khác nào một điểm
trên một con đường thẳng không biết nơi nào là điểm bắt đầu và nơi đâu
là điểm chót. Vì thế sinh để rồi diệt và diệt để rồi lại sinh nên sinh
sinh diệt diệt vô cùng vô tận cho nên đức Phật dạy rằng: “Trong
cõi tam thiên đại thiên thế giới này, không có nơi nào mà không có dấu
chân ta và cũng không có chỗ nào mà không có xương ta để lại”.
Đây mới chính thật là cuộc hành trình vô cùng vô tận với tâm nguyện cứu
độ tất cả chúng sinh còn lặn hụp trong biển đời sinh tử trầm luân của
chư Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến khi đạt được đạo quả viên tròn.
Vì vậy người học Phật biết sinh tử triền
miên nên chết không phải là mất hẳn cho nên sống không tham luyến mà
chết không sợ. Chẳng những thế việc thiện ta làm không bao giờ mất,
ngược lại những điều ác ta làm cũng không bao giờ mất. Nói chung chẳng
có gì mất trong thế gian này cả bởi vì hiện tượng trở về bản thể và bản
thể duyên sanh ra hiện tượng. Thí dụ nhà bác học Albert Einstein phát
minh ra công thức về năng lượng E=mc2 . Sự liên hệ giữa năng
lượng E và (sức nặng của) vật chất đã được nghiên cứu, tính toán và phát
minh bằng một phương trình toán học rõ ràng. Năng lượng là bản thể vô
hình trong khi vật chất (mass) là hiện tượng cho nên một lần nữa tâm
kinh dạy rằng “Sắc tức là Không” nghĩa là vật chất là năng lượng và
“Không tức là Sắc” nghĩa là năng lượng là vật chất. Nói theo Phật học
thì hiện tượng trở về bản thể và bản thể duyên sanh ra hiện tượng nên
chẳng có cái gì là thật có hay thật mất trong thế gian này. Đức Phật
giới thiệu thuyết “Duyên Khởi” để xác định rằng mọi vật thể trong thế
giới của con người luôn luôn biến đổi, thay hình đổi dạng, từ Có thành
Không và từ Không thành Có vô cùng vô tận.
Khi chúng sinh đã nắm được diệu lý của
kinh Pháp Hoa thì sẽ phát tâm đốt cho hết những nguyên nhân gây ra những
căn bản phiền não tham, sân, si và những cặp phạm trù đối đãi nhị
nguyên. Đốt ngón tay, đốt ngón chân hay đốt thân là đốt cho hết chấp
Ngã về Ta và cái của Ta. Chấp Ngã không còn thì chấp pháp biến mất,
trong ngoài mới tự tại được. Ngày nay cũng có ngưởi bắt chước kinh Pháp
Hoa đốt ngón tay, hay ngón chân của mình để cúng dường Phật. Nhưng sau
khi đốt xong rồi mà công danh, sự nghiệp, tiền tài, danh lợi, địa vị
không bỏ xuống được phần nào, ngã không, pháp không chưa quán triệt được
thì cho dù bạn có đốt cả thân xác cũng chẳng có lợi ích gì chớ đừng nói
chi là chỉ đốt ngón tay, ngón chân. Do đó đốt ở đây là đốt bản ngã, đốt
cái ngã sở hữu, không để cho nó lôi kéo, nhận chìm vào trong biển trầm
luân đau khổ. Nên nhớ cái thân này đối với vạn pháp đâu có tội lỗi gì mà
phải đốt nó vì vạn pháp là tự tánh thanh tịnh bản nhiên nên không có
vật gì là tội lỗi cả. Tội lỗi là vì con người nhìn sai đối tượng và áp
dụng sai lầm cho nên vật tốt trở thành vật xấu thế thôi. Thí dụ cần sa, á
phiện đâu phải là những thứ xấu xa, nhưng nếu con người sử dụng sai lầm
thì nó sẽ biến thành thứ độc hại, ngược lại nếu dùng đúng chỗ thì nó sẽ
biến thành thuốc chống đau, thuốc tê thần diệu đấy chứ.
Phật giáo Đại thừa vì chịu ảnh hưởng rất
lớn của kinh Pháp Hoa cho nên trong các giới đàn thường thấy các giới tử
sau khi quỳ xuống và đốt 9 huyệt bằng ngãi cứu ở trên đỉnh đầu để cúng
dường chư Phật và biểu lộ chí nguyện của mình. Như vậy sự đốt hương trên
đỉnh đầu để cúng dường chư Phật bắt nguồn từ kinh Pháp Hoa vậy.
Tú Vương Hoa, trong các dòng
nước, biển là bậc nhất. Cũng thế, trong các kinh của Như Lai nói, kinh
Pháp Hoa là sâu lớn hơn hết.
Trong các thứ núi, núi Tu-di là bậc nhất. Trong các thứ kinh, Kinh Pháp Hoa là cao hơn hết.
Trong các tinh tú, mặc trăng là bậc nhất. Trong các kinh, Kinh Pháp Hoa là sáng soi hơn hết.
Như mặt trời năng trừ mọi thứ tối tăm. Kinh Pháp Hoa năng phá tất cả những tối tâm của cái chẳng lành.
Trong các hàng Tiểu vương, Đại-đế là bậc nhất. Trong các thứ kinh, Kinh Pháp Hoa đáng tôn trọng hơn hết.
Như Đế Thích làm vua thống ngự 33 cõi trời, Kinh Pháp Hoa và vua các kinh.
Như Phạm Thiên là cha của tất cả chúng sanh. Kinh Pháp Hoa là cha của tất cả Hiền Thánh.
Trong hàng Phàm-phu, Tứ Thánh, và
Duyên Giác là bậc nhất. Trong tất cả các kinh do Như Lai, Bồ-tát,
Thanh Văn nói, Kinh Pháp Hoa là bậc nhất trong hàng chúng sanh.
Trong tất cả Thanh Văn và Duyên Giác, Bồ-tát là bậc nhất. Trong tất cả các kinh, Kinh Pháp Hoa là bậc nhất.
Như Phật là vua các pháp, kinh nầy là vua của các kinh.
Đức Phật khẳng định rằng tất cả các loại
bố thí tuy có phước đức rất lớn, nhưng chúng cũng là phước đức hữu lậu
có đó rồi mất đó nên không bằng thọ trì kinh Pháp Hoa. Đó là “khai,thị,ngộ,nhập Phật tri kiến”nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái trí tuệ Phật để trở thành Phật vì vậy kinh Pháp Hoa mới là bậc nhất và là vua của tất cả kinh.
Tú Vương Hoa ! Kinh nầy có thể
cứu tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh xa rời các khổ não; Kinh nầy
có thể cho chúng sanh nhiều lợi ích, làm thoả mãn những mong cầu của
chúng sanh, như ao nước trong có thể làm thoả mãn người khát nước. Như
người lạnh được lửa, như trần truồng được quần áo, như đi buôn gặp người
dẫn mí, như con gặp mẹ, như muốn qua sông gặp thuyền, như bệnh gặp
thầy, như tối được đèn, như nghèo được báu, như dân được vua, như hàng
hải gặp biển, như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa nầy cũng thế, có thể làm
cho chúng sanh xa lìa mọi thứ thống khổ, mọi thứ bệnh tật, có thể cởi mở
sự trói buộc của sanh tử.
Ai nghe được kinh nầy, hoặc tự
mình chép, hoặc bảo người chép, thì được công đức nhiều cho đến nỗi trí
tuệ Như Lai cũng không ước tính được. Nếu chép kinh này mà còn dùng các
thứ hoa hương, đèn dầu cúng dường, cũng được vô lượng công đức như thế.
Kinh Pháp Hoa là kinh nói về trí tuệ của
Phật nên công dụng của nó thật là vô lượng, không thể nghĩ bàn. Một khi
chúng sinh biết áp dụng triệt để cái trí tuệ này thì trên đời này chẳng
còn bất cứ thứ trở ngại nào. Con người có đau khổ, có buồn phiền, có bất
toại ý cũng vì không sống đúng với chân lý, sống xa dần với chân tánh
của mình nên thân khẩu ý không được thanh tịnh mà phiền não có cơ hội
phát sinh. Bây giờ nếu biết thọ trì kinh Pháp Hoa nghĩa là biết sống với
trí tuệ Phật vốn có sẵn trong tất cả mọi người thì làm gì còn buồn khổ,
trí tuệ sáng suốt nên không tạo nghiệp tức là thoát khỏi sinh tử luân
hồi. Nên nhớ thọ trì kinh Pháp Hoa là sống với trí tuệ Phật của mình thì
sẽ không còn tai họa, không còn khổ ách vì sự sáng suốt thức tỉnh của
mình chớ không phải thọ trì kinh Pháp Hoa thì sẽ được chư Phật hộ trì mà
cho ta tay bay họa gởi, không còn bệnh tật và thoát ra khỏi sinh tử
luân hồi. Có người nói rằng nhờ Phật gia hộ nên có phước đức sống trên
80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh như thường. Thế thì còn những người mới bốn
mươi, năm mươi tuổi mà bệnh tật triền miên thì không lẽ Phật nhẫn tâm để
họ gánh chịu đau khổ như thế hay sao? Lòng từ bi bình đẳng của Phật để
đâu? Phật trời không hề dính dáng gì đến nhân duyên phước báu, ân oán
nhân quả của mỗi người trên thế gian này vì thế hạnh phúc hay khổ đau,
mạnh khỏe hay bệnh tật đều là do nhân duyên quả báo của mỗi cá nhân.
Mình tạo nhân gì thì trước sau sẽ gặt lấy quả báo đó, không sai không
khác chỉ có vấn đề là nó đến sớm hay muộn mà thôi. Phật trời không bao
giờ can dự đến chuyện ân oán nhân quả của chúng sinh. Bằng chứng là khi
vua Lưu Ly đem quân tàn sát cung thành Ca tỳ la vệ, đức Phật dùng lời từ
bi ba lần ngăn cản, nhưng sau cùng Ngài vẫn để cho ân oán được phân
minh khiến cho mấy trăm ngàn gia tộc quyến thuộc của đức Phật bị giết
chết. Ở đây chúng ta không thấy đức Phật cởi áo nâu sầm trở về cầm quân
giết giặc rồi sau đó trở lại kiếp người tu. Bởi vì sát sanh là giết
người cho dù người thân của mình hay kẻ địch. Người tu hành phải có cái
nhìn sâu rộng hơn bởi vì mình thương đồng bào của mình rồi đi giết đồng
bào của người khác mà cho rằng hợp lý thế thì đồng bào của mình là chúng
sinh còn đồng bào của kẻ địch không là chúng sinh thì là gì?
Ở đoạn kinh trên Bồ Tát Hỷ Kiến đốt thân,
đốt hai cánh tay là để phá chấp Ngã và giết chết những cặp phạm trù đối
đãi nhị nguyên. Phá chấp Ngã là không còn thấy Ta và cái của Ta vì tất
cả đều là nhân duyên giả hợp mà thành tức là vạn pháp giai không. Còn
không phân biệt nghĩa là không thấy đó là người của mình và đây là kẻ
địch vì tất cả đều là chúng sinh mà chúng sinh đều bình đẳng vì ai cũng
đều có Phật tánh như nhau cho nên nếu giết kẻ địch thì chính mình đã
giết biết bao vị Phật rồi.
Vì vậy chuyện tranh chấp, chiến tranh xảy
ra từ ngàn xưa từ Đông qua Tây không có gì mới mẻ cả, nhưng đây là
chuyện của phàm nhân chớ không phải của kẻ tu hành vì xuất gia là phải
xuất tức là lìa xa nhà thế tục.
Nếu chỉ cần đọc kinh cầu nguyện mà thoát
hết tai nạn thì luật nhân quả của đạo Phật còn dùng vào chỗ nào và dĩ
nhiên ngày xưa đức Phật thuyết pháp ròng rã suốt 49 năm để làm gì? Vì
thế đọc kinh thì phải hiểu ý nghĩa của kinh vì Phật giáo không nói
chuyện hoang đường, không có chuyện siêu hình mà lời văn chỉ là văn dĩ
tải đạo để chở một triết lý sâu thẳm bên trong. Cốt tủy của kinh Pháp
Hoa là “khai, thi, ngộ, nhập” nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập tức là thực hành cái trí tuệ Phật thì mới có giải thoát giác ngộ chớ kinh đâu có nói về tụng niệm cầu nguyện.
Tú Vương Hoa ! Ai nghe phẩm “
Bồ-tát Dược Vương Bổn Sự “ này cũng được vô biên công đức. Nếu là đàn bà
thì sau khi dứt báo thân, không còn trở lại làm đàn bà nữa. Năm trăm
năm sau Phật diệt độ, người nữ nào nghe kinh nầy và tu hành đúng theo
lời kinh dạy, khi mạng chung, được vãng sanh nơi thế giới thanh tịnh và
an lạc.
Khi nói về đàn bà, kinh muốn ám chỉ những
đức tính như mềm yếu, non dạ, yếu lòng dễ bị cuốn theo dòng nước ái vì
thế người nào sau khi nghe kinh Pháp Hoa rồi thì sẽ không trở lại làm
người nữ nữa có nghĩa là họ đã nhận thức được chân lý nên lúc nào cũng
sống trong tỉnh thức chánh niệm vì thế những đức tính non dạ, yếu lòng
không còn nữa. Nếu sống hoàn toàn với trí tuệ thì những tình cảm yếu
đuối sẽ biến mất chớ đức Phật không hề kỳ thị nam nữ bởi vì dưới tuệ
nhãn của bậc giác ngộ thì ai ai cũng đều có Phật tánh cho nên nam hay nữ
cũng đều có khả năng thành Phật. Bằng chứng trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có
nàng Long nữ mới vừa tám tuổi con gái của Long Vương đã thành Phật và
vào thời đức Phật có biết bao Tỳ kheo ni trở thành A la hán là những thí
dụ cụ thể.
Chết mà kinh Phật thường nhắc đến không
phải là chết thật mà chỉ là “Bất tư nghì biến dịch sanh tử” nghĩa là
chết đi tất cả những thói hư tật xấu, những căn bản tham, sân, si, những
những giai đoạn làm ác xấu, những chấp ngã chấp pháp làm ô nhiễm tâm
thức của con người. Bây giờ thấu biết chân lý nên không đi vào con đường
củ nữa, không sa vào hố tội lỗi đau thương mà sống đời sống mới lương
thiện hơn, trong sáng hơn, thánh thiện hơn thì chính mình đã sống lại
tức là phục sinh. Quá khứ không tốt đẹp nên cho nó chết đi tức là chết
để chuyển sang đời sống hiện tại thanh cao thánh thiện hơn vậy. Do vậy
hàng ngày cứ để cho có chết, chết càng nhiều càng tốt cho đến khi trí
tuệ sáng suốt, thân tâm thường an lạc.
Nếu nói rằng học kinh Pháp Hoa rồi sẽ
không còn tái sinh làm người nữ nữa thì mai sau thế giới này sẽ vắng
bóng đàn bà, không còn ai làm chuyện truyền giống truyền nòi thì nhân
loại sẽ bị hủy diệt. Tư tưởng Tây phương nói rằng đàn bà là bông hoa
trang điểm cho cuộc đời thêm tươi thắm. Đức Phật là đấng toàn giác thì
Ngài dư sức biết chuyện đó nên Ngài không bao giờ nói những gì phản khoa
học, phản sự tiến hóa của con người nghĩa là không có con người thì đạo
Phật dùng để làm gì? Nước Trung Hoa hiện nay đang bị nạn nhân mãn trầm
trọng nên chính quyền chỉ cho phép mỗi gia đình có một người con, nhưng
truyền thống người Trung Hoa lại trọng nam khinh nữ cho nên người mẹ khi
đi khám siêu âm để biết con mình là gái hay trai thì có rất nhiều bé
gái bị giết chết trước khi chào đời. Vì thế dần theo thời gian xã hội
Trung Hoa lại phải đối phó với một nan vấn khác là nam nhiều nữ ít cho
nên ngày nay thanh niên Trung Hoa muốn đi chọn vợ là chuyện rất khó
khăn.
Bây giờ, các đức Phật đồng khen:
-Hay thay ! Lành thay !
Này thiện nam tử, ngươi có thể trong pháp của Phật Thích Ca mà thọ trì,
đọc tụng, suy gẫm Kinh Pháp Hoa và nói cho người khác nghe, ngươi đặng
công đức vô lượng vô biên, lửa chẳng đốt được, nước chẳng làm trôi, phá
được giặc ma, đánh bại quân sanh tử và diệt trừ các quân thù khác. Thiện
nam tử, trăm ngàn đức Phật sẽ hộ trì ngươi, tất cả trời, người, không
ai bằng ngươi, trừ Như Lai, không Bồ-tát, Duyên Giác, Thanh Văn nào có
trí tuệ bằng ngươi.
Người đọc tụng, thọ trì rồi thực hành
kinh Pháp Hoa thì có công đức vô lượng bất khả tư nghì. Như vậy nếu thọ
trì kinh Pháp Hoa rồi quý vị thấy có căn nhà đang cháy lớn liền chạy vào
trong đó thì thân có bị cháy không? Hay những người đi biển, gặp sóng
gió phong ba mà nước chẳng làm trôi quý vị? Bắt đầu từ đoạn này sang đến
phẩm Phổ Môn, người đệ tử Phật phải sáng suốt chiêm nghiệm thật rõ ràng
lời Phật dạy để biết thế nào là “Lý” thế nào là “Sự” và đừng bao giờ
lầm lẫn giữa Lý và Sự thì sẽ không bao giờ rơi vào mê tín vì đạo Phật
không bao giờ nói chuyện hoang đường.Lời Phật dạy không sai, chỉ vì
chúng sinh hiểu chưa thấu nên áp dụng sai lầm. Bởi vì nếu hiểu theo “sự
tướng” thì làm sao thành tựu được, chẳng những không được mà còn rơi vào
mê tín dị đoan trái với luật nhân quả khách quan của nhà Phật. Nhưng
thành tựu ở đây là Phật nói về Lý Tánh. Bởi vì một khi đã sống với Tri
Kiến Phật là sống với chân tánh của mình mà tánh giác là cái thể chân
thật của mỗi người, không có hình dáng, tướng mạo. Nếu đã không có hình
dáng tướng mạo thì lửa làm sao đốt hay nước nào nhận chìm được. Nước mà
kinh nói ở đây là nước ái, nước non lòng yếu dạ mà con người thường bị
nhận chìm trong bể ái sông mê. Còn lửa là lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa
dục vọng đang bừng cháy trong tâm của chúng ta chớ không phải lửa lò
hay lửa nhà cháy.
Con người của chúng ta hiện nay là một
hiện sinh của biết bao sự sinh tử trong quá khứ cho nên sinh để rồi chết
và chết để rồi lại tái sinh vì thế cuộc sống con người chẳng khác nào
một điểm trên một con đường thẳng không có điểm bắt đầu và không có ngày
cùng tận. Vì thế người thực hành Tri Kiến Phật tức là đang sống với Trí
Tuệ Phật thì làm gì còn sanh tử, tâm hằng thanh tịnh tự tại Niết bàn.
Ai nghe phẩm “ Dược Vương Bổn Sự”
này mà biết tuỳ hỉ khen ngợi, người đó trong đời hiện tại, miệng thường
thoảng mùi thơm hoa sen, và các lỗ chân lông thường tiết mùi trầm.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vua của tất cả
các kinh cho nên người biết nghe mà tùy hỷ thì chính họ đã có biết bao
lợi ích. Biết sống với Trí Tuệ Phật thì cuộc đời sẽ không còn đau khổ,
tất cả vô minh phiền não dần dần tan biến cho nên nếu người đó đem kinh
PhápHoa nói cho mọi người nghe thì mọi người cũng đều có rất nhiều lợi
ích vì thế lời nói Phật pháp cũng như miệng thoảng mùi thơm (Phật pháp)
là vậy. Ngược lại nếu mình sống trong vô minh bất giác, làm nô lệ cho tư
kỷ cá nhân, chạy theo tham đắm dục tình, cho dù mình có đánh răng bằng
những loại kem thơm nhất trên thế gian thì lời nói mình cũng không ai
nghe, chẳng thơm tho chi hết. Còn lỗ chân lông thường tiết mùi thơm là
người biết nói kinh Pháp Hoa làm cho mọi người thích thân cận, gần gũi
với họ. Trong khi có người mặc đồ thời trang nhất, mắc tiền nhất, sang
trọng nhất mà có ý nghĩ bất tịnh, xấu xa thì chẳng có ai thích đến gần.
Tú Vương Hoa, ta giao phó phẩm “
Dược Vương Bổn Sự” cho ngươi: Năm trăm năm sau khi ta diệt độ, phải đem
ra truyền bá nói rộng ở cõi Diêm-phù-đề và đem sức thần thông mà giữ
gìn, vì đây là phương thuốc hay cho người bệnh thế gian, ai bệnh mà nghe
được kinh này thì bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
Có thật ai bệnh mà nghe được kinh này thì
bệnh liền biến mất và còn không già không chết? Có phải kinh này là
thuốc thần, thuốc trường sinh bất tử chăng? Thế thì cứ đem kinh vào bệnh
viện đọc hết cho bệnh nhân nghe thì thế gian này tìm đâu ra người bệnh.
Nhưng kinh Pháp Hoa ra đời gần mấy ngàn năm mà tại sao ngày nào, giờ
nào cũng có người bệnh và giây phút nào cũng có người già, người chết?
Vậy ý nghĩa của nó là gì?
Thế thì chúng sinh có bệnh gì? Phàm là
con người thì ai cũng phải có bệnh về thân và bệnh về tâm. Nếu là thân
bệnh thì đã có thuốc, có bác sĩ, có bệnh viện. Còn tâm bệnh như là cực
tham, cực sân, cực si mà cái gốc của nó là do chấp Ngã mà ra. Do đó ở
phần trước Bồ Tát Hỷ Kiến đốt thân hay đốt hai cánh tay là đốt hết những
quan hệ về chấp ngã và những cặp phạm trù đối đãi phân biệt nhị nguyên
là nguồn gốc phát sinh ra vô minh phiền não. Vì thế nếu biết thực hành
kinh Pháp Hoa đứng đắn thì tất cả những bệnh tham, sân, si sẽ bị tiêu
diệt, biến mất và hành giả sẽ trở về sống với chân tánh, Phật tánh của
mình tức là có giải thoát giác ngộ và chấm dứt chu kỳ sinh, lão, bệnh,
tử của luật vô thường. Con người vì chạy theo ái dục nên tạo nghiệp và
phải chịu sinh tử luân hồi đến khi diệt sạch Ngã-pháp thì chặt đứt dây
sinh tử luân hồi.
Trong tam độc tham, sân, si thì con rắn
si mê là độc hại hơn hết bởi vì người không có trí tuệ khi họ làm việc
đúng thì họ không biết là họ làm đúng và làm việc sai thì họ cũng không
biết là họ đang làm việc sai. Họ gây ra nhân mà không hề biết cái quả sẽ
xảy ra như thế nào. Muốn trừ con rắn si mê thì người đệ tử Phật phải có
Chánh niệm, luôn sống trong tỉnh thức sáng suốt để quán biết những biến
hành của tâm. Trong kinh Niệm Xứ (Satipatthnasutta) đức Phật dạy rằng:
-Này các Tỳ kheo! Đây là con
đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não,
diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh tri, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Tứ Niệm
Xứ.
Nhưng thế nào là Tứ Niệm Xứ? Đức Phật dạy tiếp rằng:
-Này các Tỳ kheo! Ở đây Tỳ kheo sống “quán thân”trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán thọ”trên các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác; chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán tâm”trên tâm, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán pháp”trên các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Nói chung trong phần này Phật dạy chánh
niệm để đối trị với những tâm hành sinh diệt, nhưng cốt tủy vẫn đưa
chúng sinh đến một cứu cánh tột đỉnh là thức tỉnh tức là “BIẾT”. Vậy
biết cái gì? Khi tâm tham phát khởi là biết có tham, không tham thì cũng
biết trong tâm không có tham. Sân và si cũng vậy. Nói cách khác khi lục
căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị xúc pháp thì vọng tâm dấy khởi. Ở
đây đức Phật dạy chúng sinh thực hành chánh niệm để biết rốt ráo tận
cùng những biến đổi của tâm mà không cần phải tiêu diệt chúng. Thí dụ
thấy tiền nhiều tâm tham liền nổi dậy, nhưng nếu có chánh niệm thì biết
ngay sự hiện hữu hình thành trạng thái tham của tâm cho nên tâm tham bây
giờ không còn tác động hoành hành được nữa. Nói cách khác, bất cứ một ý
niệm vừa khởi lên, chánh niệm cho ta “biết” đó là vọng tưởng. Khi đã
biết bộ mặt thật của ý thức thì con người chỉ cần không theo vọng thì
vọng tự mất mà không cần phải tiêu diệt chúng. Nói cách khác, không theo
vọng, vọng tự tiêu tan tức là mê biến thì thời điểm đó giác tự hiển
bày.
Thấy ai thọ trì kinh nầy, Tú
Vương Hoa nên dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải trên người ấy và
nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu quyết định sẽ trải cỏ ngồi nơi Đạo
tràng, phá các ma quân, thổi ốc pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả
chúng sanh ra khỏi sanh già bệnh chết ưu bi khổ não.
Người thọ trì kinh Pháp Hoa nghĩa là
trong thì phá chấp Ngã ngoài thì phá chấp pháp, trong ngoài tự tại thì
người đó sẽ ngồi đạo tràng và được mọi người cúng dường các thứ hoa báu.
Tu theo Pháp Hoa là tu thành Phật nên hành giả thọ trì kinh Pháp Hoa
đến chỗ rốt ráo thì sẽ thành Phật và sẽ nói pháp độ chúng sinh ra khỏi
sinh, già, bệnh, chết.
Lúc đức Phật nói phẩm “ Dược Vương Bổn Sự” nầy có 84.000 Bồ-tát được Đà-la-ni “Giải nhất thiết chúng sanh ngôn ngữ”.
Đức Phật Đa Bảo trong tháp báu khen Tú Vương Hoa Bồ-tát:
-Lành thay ! Lành thay !
Tú Vương Hoa, ngươi thành tựu những công đức không thể nghĩ bàn mới
hỏi được đức Phật Thích Ca việc như thế, làm lợi ích cho tất cả chúng
sinh.
Phẩm Chúc Lụy nói rằng Phật Đa
Bảo hoàn nguyên bản vị tức là đã về lại chỗ củ thế mà bây giờ kinh lại
nói Phật Ða Bảo ở trong tháp khen ngợi Bồ Tát Tú Výõng Hoa? Vậy kinh có
nhầm lẫn không? Phật Ða Bảo là Pháp thân Phật mà Pháp thân là bản thể
chân như, bao trùm khắp cả cho nên không có nơi nào trong thế gian vũ
trụ mà vắng bóng Ngài.
Tóm lại, phẩm Dược Vương Bồ Tát
Bổn Sự là phẩm rất quan trọng của kinh Pháp Hoa vì nó phản ảnh giai
đoạn cuối cùng của kinh là “Nhập” tức là thực hành để tiến thẳng về cứu
cánh tối thượng là thành Phật. Phẩm này đã giới thiệu hai nguyên lý cốt
lũy của giáo lý Phật Đà là chấp “Ngã” và những cặp phạm trù đối đãi phân
biệt nhị nguyên là nguồn gốc phát sinh ra vô minh phiền não đưa con
người trôi nổi triền miên trong sinh tử luân hồi. Vì thế hành giả đi
trên con đường giải thoát giác ngộ phải chứng Ngã Không, Pháp Không và
phải lìa xa tất cả vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức lìa cả nơi vấn
đáp để chính mình thực nghiệm rõ ràng cái thực thể bất sinh bất diệt Tri
Kiến Phật vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Sau đó Bồ Tát Dược
Vương thành tựu được một tam muội khác là Giải Nhất Thiết Chúng Sinh
Ngôn Ngữ Đà La Ni nghĩa là ngài có khả năng thấu hiểu được ngôn ngữ của
tất cả mọi loài chúng sinh. Hiện nay trên thế giới loài người có trên
mấy trăm quốc gia và mỗi quốc gia có rất nhiều thổ ngữ. Thí dụ ở Trung
Hoa ngôn ngữ chính là Quang Thoại ngoài ra còn có trên trăm thổ ngữ khác
nhau. Ở Việt Nam tiếng Việt là chính, nhưng dân thiểu số vẫn có những
ngôn ngữ riêng cho họ. Ở Hoa Kỳ hay Úc Đại Lợi cũng thế, ngoài tiếng Anh
còn có rất nhiểu thổ ngữ từ những bộ lạc trải khắp mọi nơi. Vì đã thực
hành tánh nghe và biết lắng nghe đến chỗ rốt ráo nên Bồ Tát Dược Vương
có thể hiểu được tất cả ngôn ngữ của con người. Tuy con người có sống
trong những môi trường gia đình, xã hội khác nhau, nhưng nếu chúng ta
biết lắng nghe tiếng nói phát xuất từ trong tự tâm, biết nhận thức sâu
sắc những tâm tư của kẻ khác thì chúng ta sẽ không bị kẹt vào những hình
thức của ngôn ngữ và kết quả sẽ đưa con người gần lại với nhau hơn. Nói
cách khác nếu nhìn theo sự tướng thì thế gian có biết bao ngôn ngữ,
nhưng bây giờ cùng quay về với Tri Kiến Phật tức là bản thể chân như
trùm khắp thì mọi người cùng nói và sống bằng một ngôn ngữ là chơn tâm,
Phật tánh.