KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Chín
Phẩm THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà
Đến đây đức Phật bắt đầu thọ ký cho những
người hữu học và vô học sẽ thành Phật. Hữu học có nghĩa là đang còn
phải học hỏi và tu chứng. Đó là các vị tu chứng các quả như Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm và A Na Hàm. Còn những người vô học là những bậc đã chứng
thánh quả A la hán.
Lúc bấy giờ A-nan và La-hầu-la nghĩ
thầm:“Nếu mỗi chúng ta đều được thọ ký thì sung sướng biết bao”. Hai vị
liền đến trước Phật làm lễ, bạch rằng: “Chúng con nghĩ cũng có phần
được thọ ký, vì bao giờ cũng quy hướng về Như Lai. Lại chúng con là
người quen biết của tất cả trời, người và A-tu-la trong thế gian. A-nan
là người hầu và hộ trì tạng pháp, còn La-hầu-la là con của Phật, nếu
hai chúng con được thọ ký thì nguyện của chúng con sẽ mãn mà chỗ trông
mong của chúng con cũng được đầy đủ”.
Hai ngàn đệ tử Thanh Văn, bậc hữu học
và vô học cũng đứng dậy lễ Phật, chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan Thế
Tôn, tỏ ý cùng một sở niệm với A-nan và La-hầu-la.
Tôn giả A Nan và La Hầu La là hai người
rất thân thích của đức Phật và là những vị Tỳ kheo rất trẻ so với các vị
trưởng lão Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…Trong khi ngài A Nan xao lãng
việc tu hành thì Tôn giả La Hầu La vừa mới ngoài hai muơi đã chứng Thánh
quả, trở thành đệ nhất mật hạnh trong số 10 đại đệ tử của Phật Đà. Mật
hạnh là giới hạnh, là đạo đức sâu kín bên trong chớ không biểu lộ ra
ngoài. Một người bên ngoài thì nhìn rất bình thường, thậm chí đôi khi
còn tầm thường nữa là khác, nhưng bên trong thì có đầy đủ đức hạnh từ bi
hỷ xả, dứt trừ phiền não vô minh, tâm hồn trong sáng tự tại thì mới là
mật hạnh. Ngược lại trong thế gian nầy có rất nhiều người bên trong thì
dẫy đầy Tham-Sân-Si, mạn, nghi, tật đố, hỷ nộ ái dục nhưng bên ngoài thì
làm ra vẽ trang nghiêm điềm đạm, nói năng đạo đức quân tử. Thời nay thì
những người giả nhân giả nghĩa hay ngụy quân tử nầy rất nhiều nên nhà
Phật mới có câu:
“Giả trang thiền tướng,
Cầu bỉ cung kính” là vậy.
Vì thế đạo Phật khuyên chúng sinh nên
phát triển mật hạnh của chính mình vì đây chính là chất xúc tác để mở
con mắt tâm mà thấy được Chân Lý.
Thấy hai vị đứng dậy mong được Phật thọ
ký thì trong pháp hội có 2.000 đệ tử vừa hữu học vừa vô học đồng hưởng
ứng cùng mong được Phật thọ ký.
Phật bảo A-nan:
-Đời sau, ngươi sẽ được làm Phật
hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai… Ngươi sẽ cúng dường 62
ức Phật, hộ trì tạng pháp, rồi sau được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
giáo hóa 20 ngàn muôn ức hằng hà sa Bồ tát…khiến những Bồ tát ấy thành
tựu đạo Bồ đề.
Nước của Phật Sơn Hải Huệ tên là
Thường Lập Thắng Phan, thanh tịnh đất bằng lưu ly. Kiếp của Phật tên
Diệu Âm Biến Mãn, thọ mạng của Phật vô lượng và mười phương Như Lai đồng
ca ngợi công đức của Phật”.
Trước hết Phật thọ ký cho Tôn giả A Nan
sau khi cúng dường 62 ức Phật, hộ trí Chánh Pháp rồi sẽ thành Phật hiệu
là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai tại thế giới Thường Lập Thắng
Phan và kiếp của Phật là Diệu Âm Biến Mãn có thọ mạng vô lượng.
Tôn giả A Nan tuy chưa thành A La hán,
nhưng ngài nổi danh là đệ nhất đa văn nghĩa là sự hiểu biết của ngài
rộng lớn, cao như núi, rộng như biển cho nên khi thành Phật thì Phật
hiệu của ngài cũng tương xứng như vậy nghĩa là trí tuệ của ngài rộng lớn
bao la sâu thẩm như biển rộng, cao siêu như núi lớn, thông suốt tự tại,
bất tư nghì tức là Sơn Hải Tuệ. Nhưng làm thế nào có thể cúng dường
62 ức Phật được? Tìm đâu cho ra 62 ức Phật để cúng dường? Phật mà kinh
nói ở đây không phải là ứng thân Phật như đức Phật Thích Ca trong thế
giới Ta Bà này mà chính là Pháp thân Phật, là Như Lai Viên Giác Diệu
Tâm, là cái tâm Phật vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh. Vì thế khi làm một
việc thiện, nói lời lành, ý nghĩ trong sáng thì ngay thời điểm đó chính
ta đã cúng dường cho Phật tâm, Phật tánh của chúng ta rồi. Mỗi ngày
trong tâm của chúng ta có biết bao tâm niệm, miệng ta nói biết bao nhiêu
lời và thân ta làm biết bao hành động. Bây giờ nếu con người sống trong
tĩnh thức chánh niệm thì mỗi ngày họ nên chuyển tất cả những ý niệm
thành ra ý niệm lành, chỉ nói lời nói thiện và dĩ nhiên làm những việc
tốt thì chính họ đã cúng dường vô lượng vô biên chư Phật trong tâm của
họ rồi. Vì thế nếu chúng sinh biết giữ tâm ý khiến cho thân khẩu ý được
thanh tịnh thì chính họ đã cúng dường cho vô lượng hằng sa Phật. Có được
như vậy thì tâm mới Định và từ đó trí tuệ sẽ phát sinh để chứng nghiệm
chân lý tức là thành Phật.
Có vài tư tưởng để trao dồi thân tâm, giữ vững chánh niệm:
- Sở dĩ con người đau khổ chính vì họ mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
- Nếu ta không muốn rước phiền não vào
mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho mình được. Vì
chính tâm ta không buông xuống nỗi.
- Chính ta phải luôn mở lòng khoan dung
lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm
tổn thương ta, ta phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực.
-Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.
-Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng
gây thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của người,
tự nhiên sẽ hóa thù thành bạn.
- Thế giới vốn không thuộc về mình, vì
thế ta không cần vứt bỏ nó, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp.
Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.
- Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau
khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Bạn muốn học tinh
thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.
-Chúng ta không thể thay đổi được thế
giới xung quanh, nhưng chúng ta có thể sửa đổi chính mình, đối diện với
tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.
-Khi ta vui, phải biết rằng niềm vui này
không phải là vĩnh hằng. Khi ta đau khổ thì hãy nghĩ rằng nỗi đau này
cũng không trường tồn.
Tại sao thọ mạng của Phật Sơn Hải Tuệ là
vô lượng? Không lẽ Phật sống đời không chết? Nếu nói về ứng thân Phật
như Phật Thích Ca thì phải chịu sinh, lão, bệnh, tử của luật vô thường
của tạo hóa. Nhưng Phật mà kinh nói ở đây chính là Pháp thân Phật. Trong
thế giới bản thể Chơn Không thì không có khái niệm về không gian và
thời gian nên tuổi thọ của Phật là vô lượng.
Cõi nước của ngài là Thường Lập Thắng
Phan nghĩa là thường dựng cây cờ chiên thắng bởi vì với trí tuệ sâu thẳm
như biển cả, núi cao thì không có tà thuyết ngoại đạo nào có thể địch
nổi. Kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn tức là kiếp đó có tiếng nhiệm mầu khắp
cả.
Nói xong, Thế Tôn đọc một bài kệ lập lại nghĩa trên.
Lúc bấy giờ, 8.000 Bồ tát mới phát
tâm, đều nghĩ:“Chúng ta chưa nghe các vị Bồ tát lớn được thọ ký như thế,
cớ sao mà các Thanh Văn lại được như vậy”.
Đức Phật biết tâm niệm ấy, bèn bảo rằng:
-Nầy các thiện nam tử, ấy vì ở
nơi Phật Không Vương, ta và A-nan đã đồng thời phát tâm cầu sự giác ngộ
vô thượng. A-nan thường ưa học rộng, còn ta thì siêng cần tinh tấn, cho
nên ta đã được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, còn A-nan thì theo bản
nguyện, hộ trì pháp ta và trong tương lai, tiếp tục hộ trì pháp tạng của
Chư Phật, để giáo hóa thành tựu chư Bồ tát. Bổn nguyện của ông như thế
nên đặng thọ ký dường ấy.
Trong Phật giáo Đại thừa thì danh từ Bồ
Tát được dùng cho tất cả mọi người phát tâm tu theo con đường đại hạnh
vì người cứu độ chúng sinh. Trong khi đó, Phật giáo Nguyên thủy thì danh
từ Bồ Tát chỉ dành để gọi cho Thái tử Tất Đạt Đa trước khi tu thành
Phật. Con số 8.000 Bồ Tát mới phát tâm là ẩn dụ của kinh bởi vì kinh lấy
số 8 để ám chỉ cho bát thức tâm vương: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt na thức và A lại da thức. Mới phát
tâm nghĩa là còn phải tu đến khi chuyển A lại da thức thành Như Lai
Tạng, Bạch Tịnh Thức tức là Đại Viên Cảnh Trí thì công thành quả mãn.
Nhắn lại trong kinh Lăng Nghiêm, có 52 giai vị mà một Bồ Tát phải trải qua:
Ø Thập Tíncó công năng giúp cho hành giả thành tựu tín hạnh.
1)Tín tâm: Nhất tâm quyết định, mong muốn thành tựu Phật quả.
2)Niệm tâm: Thường tu niệm Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, thiên.
3)Tinh tấn tâm: Nghe Bồ tát tạng, siêng năng tu tập thiện nghiệp không gián đoạn.
4)Định tâm: Tâm an trụ vào sự vào nghĩa, xa lìa cả hư ngụy, phù phiếm và nhớ tưởng phân biệt.
5)Huệ tâm:Nghe Bồ tát tạng, tư duy quán sát, rõ biết các pháp vô ngã vô nhân, tự tánh không tịch.
6)Giới tâm: Thọ trì giới luật của Bồ tát
khiến cho thân, khẩu, ý thanh tịnh, không phạm các lỗi, nếu nó phạm thì
sám hối trừ hết.
7)Hồi hướng tâm: Hồi hướng các thiện căn cho tất cả chúng sinh.
8)Hộ pháp tâm: Phòng hộ tâm mình, không khởi phiền não.
9)Xả tâm: Buông xả tất cả.
10)Nguyện tâm: Lúc nào cũng nguyện tu tập các điều thanh tịnh.
Ø Mười Thánh vị sau là Thập Trụ:
1)Sơ Phát Tâm Trụ: Khi đã phát được tín
tâm ở trên thì bây giờ Bồ Tát phát triển thêm trí tuệ, khế hợp với chân
lý Và tin vào tự tâm của mình là Phật, phát tâm rộng lớn và tu hành viên
mãn để hoàn thành Phật đạo.
2)Trị Địa Trụ: Nương theo tâm tánh chân thật để trừ sạch những thói quen, những tập khí mê lầm.
3)Tu Hành Trụ: Tâm tánh hiện tiền, mọi việc sáng tỏ, dạo khắp mười phương làm Phật sự mà không chướng ngại.
4)Sinh Quý Trụ: Nhờ diệu hạnh ở trước khế hợp với diệu lý nên sinh vào nhà Phật làm Pháp vương tử.
5)Phương Tiện Cụ Túc Trụ: Tu tập vô lượng thiện căn, tự lợi, lợi tha, phương tiện đầy đủ.
6)Chính tâm trụ: Tâm tướng đồng như Phật, từ bi hóa độ chúng sinh cũng đồng như Phật.
7)Bất thoái trụ: Phát triển cả từ bi lẫn trí tuệ để cho ngày một thêm tiến mãi đến chỗ diệu viên.
8)Đồng Chân Trụ: Có đầy đủ mười thân của
Như Lai là Bồ Đề thân, Nguyện thân, Hóa Thân, Lực thân, Trang nghiêm
thân, Uy thế thân, Ý sanh thân, Phúc thân, Pháp thân và Trí thân. Tuy
chưa được Nhất thiết Chủng trí, nhưng hành giả có đầy đủ trí thể nghĩa
là tâm ấy là Phật.
9)Pháp Vương Tử Trụ: Ra khỏi thánh thai, chính mình làm Phật tử.
10)Quán Đảnh Trụ: Bồ Tát đã là Phật tử, làm được Phật sự cho nên Phật dùng nước trí Quán Đảnh cho vị ấy.
Ø Mười Thánh vị sau là Thập Hạnh:
1)Hoan hỉ hạnh: Hành giả dựa theo phương
tiện đầy đủ tu hành, lìa bỏ được ý riêng mà tùy theo căn cơ dục vọng của
chúng sinh mà hóa độ họ.
2)Nhiêu ích hạnh: Khi tiêu trừ hết các
phiền não khổ đau thì có cái an lạc Bồ Đề để làm những việc lợi ích cho
tất cả chúng sinh.
3)Vô sân hận hạnh: Phật giáo Đại thừa chủ
trương tự giác cốt để giác tha nghĩa là tùy duyên, tùy thời hóa độ,
không trái với căn cơ của chúng sinh.
4)Vô tận hạnh: Tùy thuận các loài mà hiện thân hóa độ, phát Bồ Đề nguyện rộng lớn không cùng.
5)Ly si loạn hạnh: Thấu hiểu thật tướng
của vạn pháp là vô tướng tức là Không tướng nên tùy theo căn cơ mà dạy
bảo tất cả pháp môn, không có sai lầm.
6)Thiện hiện hạnh: Biết không có pháp thì
thân khẩu ý vắng lặng, không còn trói buộc, không đắm trước mà không bỏ
việc giáo hóa chúng sinh.
7)Vô trước hạnh: Trải qua các cõi nhiều
như số hạt bụi cho nên cúng Phật cầu pháp mà tâm không nhàm chán. Vì
vắng lặng quan sát các pháp nên không đắm trước đối với tất cả.
8)Tôn trọng hạnh: Tôn quý tu tập các pháp
như thiện căn, trí tuệ…nên tất cả đều thành tựu, nhờ đó càng tiến tu
hạnh tự lợi và lợi tha.
9)Thiện pháp hạnh: Thành tựu các pháp như
Tứ vô ngại…thành tựu các thiện pháp giáo hóa, giữ gìn chánh pháp, không
là tuyệt hạt giống Phật.
10)Chân thật hạnh: Thành tựu Đệ Nhất
Nghĩa Đế như lời nói mà thực hành, thực hành như lời nói tức là lời nói
đi đôi với hành động. Tất cả các hạnh đều không rời thật tướng, không có
sinh, không có ngăn trở, tất cả đều là tự tánh thanh tịnh bản nhiên.
Tóm lại, tu Thập Hạnh hành giả có 4 mục đích:
1)Nhàm chán thế giới hữu vi.
2)Cầu Bồ Đề, đầy đủ Phật đức.
3)Muốn cứu độ chúng sinh trong đời hiện tại và vị lai.
4)Cầu Thật tế, chứng Pháp Như.
Ø Mười Thánh Vị sau đó là Thập Hồi Hướng:
1)Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Ly Chúng
Sinh Tướng Hồi Hướng: Hành giả tu hành, trí tuệ mở mang, phương tiện đầy
đủ, trong Nhất Nhân Pháp Giới làm các Phật sự, đồng thời xa lìa những
vọng tưởng còn lại. Trong khi hóa độ chúng sinh diệt cho hết các ý niệm
tướng năng độ, sở độ mà xoay tâm vô vi hướng về tự tánh Niết bàn.
2)Bất Hoại Hồi Hướng: Diệt trừ những cái có thể diệt trừ và xa rời tất cả các sự xa rời.
3)Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng: Đống với sự hồi hướng của chư Phật 3
đời nghĩa là tu hành không đắm sinh tử`, không lìa Bồ Đề.
4)Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng: Hồi hướng
thiện căn tu được đến khắp mọi nơi, từ Tam Bảo đến chúng sinh để cúng
dường làm lợi ích.
5)Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng: Tùy hỉ tất cả vô tận thiện căn, hồi hướng làm Phật sự để được vô tận công đức thiện căn.
6)Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi
Hướng: Trong chỗ lý trí viên dung, đồng như Phật địa, pháthuy những nhân
hạnh thanh tịnh, hồi hướng đạo Bồ Đề.
7)Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng
Sinh Hồi Hướng: Tăng trưởng tất cả thiện căn, hồi hướng làm lợi ích cho
tất cả chúng sinh. Hồi hướng thuận theo bản lai tự tánh, quán tất cả
chúng sinh, tất cả chư Phật đều bình đẳng không sai không khác.
8)Như Tướng Hồi Hướng: Thuận theo tướng Chân Như mà hồi hướng thiện căn đã thành tựu.
9)Vô Phược Giải Thoát Hồi Hướng: Đối với
tất cả các pháp không dính mắc, chấp trước, được tâm giải thoát. Hồi
hướng thiện pháp, thực hành hạnh Phổ Hiền, đầy đủ các công đức.
10)Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng: Tu tập
tất cả vô tận thiện căn rồi hồi hướng các thiện căn này, nguyện cầu vô
lượng công đức trong Nhất chân pháp giới vì trong đó tất cả sự vật đều
bình đẳng như hư không.
Tóm lại, hồi hướng nghĩa là dùng tâm đại bi cứu độ tất cả chúng sinh.
Ø Sau cùng, trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói lên mười giai vị của Bồ tát là:
1)Hoan hỷ địa
(Sơ địa) (Pramudità): Khác với lý tưởng của Nguyên thủy là tìm sự giải
thoát Niết bàn cho riêng mình thì ở đây Đại thừa giới thiệu một lý tưởng
cao đẹp hơn nhằm giúp cho tất cả mọi chúng sinh giải thoát mọi phiền
não vô minh. Khi diệt được các pháp tướng mê lầm, chỗ giác ngộ đã đến
cùng tột, diệt trừ được phân biệt ngã chấp, pháp chấp nên tâm bắt đầu có
được pháp lạc nên mới gọi là hoan hỷ địa tức là sơ địa.
2)Ly cấu địa (Uimada): là giác vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não cấu.
3)Phát quang địa
(Prabhàkari): đến đây Bồ-tát thấu biết tánh vô thường của tất cả vạn
vật trong thế gian vũ trụ nên nội tâm càng thanh tịnh thì trí tuệ càng
sáng suốt.
4)Diệm huệ địa
(Arcismati): trong giai đoạn này, Bồ-tát bắt đầu thực hành sự an nhiên
tự tại và cắt dứt những thứ ô nhiễm, vô minh. Đến giai vị này hành giả
đã lìa bỏ kiến giải phân biệt, dùng lửa trí tuệ thiêu đốt củi phiền não
nhờ đó mà ngộ được bản thể trí tuệ. Lúc ấy trí tuệ được sáng suốt tỏ
tường và dĩ nhiên sự giác ngộ được viên mãn.
5)Nan thắng địa
(Sudurjayà): Đến đây, Bồ-tát bắt đầu phát huy tinh thần bình đẳng đồng
nhất và giác ngộ nhờ vào thiền định giúp Bồ-tát biết thấu suốt tục đế và
chân đế viên dung bất nhị.Giác vị này đã thành tựu trí xuất thế gian,
nương vào năng lực phương tiện tự tại mà cứu độ các chúng sinh khó cứu
độ.
6)Hiện tiền địa
(Abhimukhi): Khi vào được giai đoạn này, Bồ-tát sẽ trực diện với thực
tại và sẽ ý thức được sự đống nhất của tất cả mọi hiện tượng. Và bấy giờ
Bồ-tát sẽ nhận biết rằng vô vi chân như hoàn toàn không nhiễm, không
tịnh, thường hằng hiện tiền tức là tự tánh của chân như hiện rõcó được
đại trí.
7)Viễn hành địa
(Dùrangamà): Đến đây Bồ-tát có đủ dữ kiện để tiến vào giải thoát Niết
bàn, nhưng họ dừng lại vì còn trách nhiệm cứu giúp tất cả chúng sinh
cùng được giải thoát như mình. Họ biết rằng đến đây tất cả đều là chân
như, không có gì không phải là chân như, vô cùng vô tận.
8)Bất động địa (Acalà):
Đến đây Bồ-tát thấu biết rốt ráo sự bất sinh của tất cả hiện tượng vạn
hữu trong thế gian. Khi đã trải qua “vô sanh pháp nhẫn” Bồ-tát thấu biết
sự tiến hóa và thoái hóa của nhân sinh vũ trụ. Vì vậy, tâm Bồ-tát
thường trụ không thay đổi, tuyệt đối không bị phiền não làm lay động.
9)Thiện huệ địa
(Sàdhumti): Đến đây Bồ-tát có thể phát hiện ra vô số thân để hóa độ
chúng sinh với đấy đủ bốn trí vô ngại. Đó là Ý thức thành ra Diệu Quan
Sát Trí, tiền ngũ thức thành ra Thành Sở Tác Trí, Mạt na thức trở thành
Bình Đẳng Tánh Trí và A Lại da thức sẽ thành Đại Viên Cảnh Trí.Bồ tát
dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp, hoàn thành hạnh lợi tha và trí tuệ
được tự tại.
10)Pháp vân địa
(Dharmameghà): Khi Bô-tát công phu đầy đủ, công đức trí tuệ và từ bi
viên mãn có thể che chở cho vô lượng chúng sinh thì gọi là nhập vào Pháp
vân địa tức là Thập địa Bồ-tát vậy. Lúc ấy Bồ tát được đại pháp thân,
có năng lực tự tại.
Đến đây Bồ-tát đã có đồng một giác tánh
bình đẳng với Như Lai nên gọi là Đẳng giác Bồ-tát. Sau cùng Bồ-tát chỉ
cần giác ngộ sinh tướng vô minh thì tức thì chứng được Nhân địa Như Lai
tức là đạt được Diệu giác. Bồ-tát chuyển Dị Thục thức thành ra Bạch Tịnh
thức rồi vào Kim Cương địa mà phát sinh Nhất thiết chủng trí, Nhất
thiết trí trí, tùy duyên hóa hiện, độ thoát chúng sinh mà không rời tự
tánh thanh tịnh Niết bản cho đến tột đỉnh nhân quả đồng thời là hoàn
thành Phật đạo tức là thành Phật.
Dựa theo Phật giáo Đại thừa thì sự chứng
đắc của các vị Bồ Tát từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng
còn thấp hơn các vị A la hán trong hàng Thanh Văn. Các vị Bồ Tát từ Sơ
Địa đến Thập Địa thì gọi là Bồ Tát Đăng Địa trong đệ nhi A Tăng Kỳ. Và
sau cùng Bồ Tát từ Bát Động Địa đến Pháp Vân Địa thì gọi là Bồ Tát đệ
tam A Tăng Kỳ tức là Đại Bồ Tát hay Ma Ha Bồ Tát. Những vị Bồ Tát này
trí tuệ cao hơn các vị A la hán.
Vì thế đoạn kinh trên nói rằng vào thời
Phật Không Vương, Tôn giả A Nan cùng với Phật Thích Ca đồng phát tâm Vô
thượng Bồ Đề. Nhưng A Nan chỉ thích học rộng nghe nhiều nên chưa thành
Phật. Phật Thích Ca tinh tấn nỗ lực tu hành nên ngày nay Ngài đã thành
Phật. Còn A Nan thì còn hộ trì pháp Phật, giáo hóa các vị Bồ Tát . Do
vậy các vị A la hán có thể giáo hóa cho Bồ Tát cho đến các vị Bồ Tát
Đăng Địa.
Đạo Phật là đạo thực hành cho nên trước
hết đức Phật giảng giải cho biết giáo lý Ngài muốn nói cho đến khi đệ tử
thấu hiểu rõ ràng. Lần thứ hai hiểu rồi thì phải cố gắng tu. Lần thứ ba
tu rốt ráo thì sẽ chứng đắc, tự mình nghiệm chứng được chân lý. Do
đónếu người tu Phật dậm chân tại chỗ ở giai đoạn thứ nhất tức là chỉ học
cho biết thì không bao giờ hưởng được hương vị giải thoát cũng như nói
ăn mà không ăn thì không bao giờ no được. Tiến trình được gọi là Văn,
Tư, Tu. Ngược lại, nếu người tu mà thiếu phần học thì cũng như người mù
đi trong sa mạc dễ sa hầm sụp hố, chính mình không lợi ích mà cũng chẳng
giúp được cho người.
Lòng rất vui mừng, A-nan tức thời nhớ lại tạng pháp của vô lượng ngàn muôn ức Phật thuở quá khứ, luôn cả lời nguyện của mình.
Ở trước Phật, ông A Nan thay lời đại
chúng, xin được nói lên một bài kệ tán dương Đức Phật, cùng phát nguyện
và trình lên những điều tâm đắc của tận đáy lòng :
Diệu trạm tổng trì bất động Tôn
Thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành bảo vương.
Hoàn độ sa thị hằng sa chúng.
Tương thử thâm tâm phụng trần sát.
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhất chúng sinh vị thành Phật.
Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn.
Đại hùng đại lực đại từ bi
Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc
Linh ngã tảo đăng vô thượng giác
Ư thập phương giới tọa đạo tràng.
Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong
Thước-ca-la tâm vô động chuyển.
Dịch là :
Cao quý hay! Thủ Lăng Nghiêm Vương ít có
Là pháp diệu trạm, bất động tổng trì
Đây là những lời tán thán Pháp thân thanh
tịnh nhiệm mầu, vắng lặng ứng hiện đến khắp tất cả nên gọi là Diệu
trạm. Tuy nói Pháp thân mà vẫn trọn vẹn ba thân. Vì Pháp thân là thể của
các pháp và có đầy đủ ba đức nên gọi là Tổng trì. Thân Phật biến khắp
pháp giới, ứng hiện đến với tất cả quần sanh và tùy duyên cảm ứng khắp
mọi nơi mà luôn an trú ở cội Bồ-đề nên gọi là bất động. Trọn câu này là
muốn chỉ cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ông A Nan vì thấy Phật có 32 tướng tốt và
80 vẻ đẹp nên sanh tâm yêu thích mới phát tâm xuất gia nên Đức Phật mới
chỉ cho ông thấy tuy thân Phật rực rỡ huy hoàng, nhưng cũng chỉ là ứng
thân sinh diệt cho nên sự phát tâm xuất gia như vậy là hư vọng, không
chính đáng. Nay nhờ ơn Phật khai thị nên diệu ngộ được tâm mình mà thấy
được Pháp thân Phật. Ban đầu, A Nan thỉnh Phật khai thị con đường tu tập
thiền định thì Phật dạy rằng : ”Có pháp tam-ma-đề gọi là Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm Vương” sẽ giúp ông phá vọng hiển chơn để thấu tột nguồn
nhất chân mà chứng nhập chân lý. Vì đã ngộ được thể của định nên ông
khen ngợi pháp này là hiếm có.
Trừ hết tướng điên đảo ức kiếp của con
Không trải A Tăng Kỳ mà được pháp thân
Xưa ông A Nan chấp vọng tưởng điên đảo mà
cho là chân thật, nay nhờ liễu ngộ nên phiền não biến mất, điên đảo
tiêu trừ. Xưa chỉ biết thân tâm huyển vọng, nay cũng thân ngũ uẩn mà ngộ
được pháp thân mà không cần trải qua A Tăng Kỳ kiếp.
Tôi nguyện từ nay cho đến khi thành Phật
Độ chúng sinh như số cát sông Hằng
Đem thân tâm phụng sự vi trần quốc
Thế mới đủ đáp đền thâm ân Phật.
Phật giáo Đại Thừa luôn khuyến khích
người đệ tử Phật vì chúng sinh hoằng pháp độ sinh. Tâm niệm rằng :
”Thượng cầu thành Phật, hạ hóa chúng sinh” là cách đền ơn Phật thực tiễn
nhất.
Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho :
Đời ác trược tôi thề vào trước
Còn một chúng sinh chưa thành Phật
Thì tôi không nhận hưởng Niết Bàn
Đời ác trược ngũ thế mà tôn giả A Nan
nguyện vào để cứu chúng sinh còn trầm luân trong chốn bụi trần, thống
khổ chớ không lo an lạc thanh tịnh Niết bàn cho riêng mình. Ngài nguyện
độ tất cả chúng sinh rồi mới thành Phật. Đây là lời thề nguyện rộng lớn
mà có lẽ chưa có vị A la hán nào trong hàng Thanh Văn phát nguyện như
vậy. Ngài Địa Tạng Bồ-tát cũng phát nguyện rằng : ”Khi nào còn chúng
sinh trong chốn u minh thì Ngài nguyện sẽ không thành Phật”.
Bạch đấng Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Tôi hy vọng xét trừ vi tế hoặc
Để sớm lên Vô Thượng Bồ-đề
Tôi sẽ làm Phật sự khắp mười phương
Tôn giả A Nan tuy ngộ được Pháp thân,
nhưng đây mới chỉ là kiến đạo chớ chưa phải là chứng đạo. Vì thế trong A
Nan vẫn còn vô minh vi tế ẩn núp thâm sâu rất khó tiêu trừ cần phải
dùng oai lực dũng mãnh của thiền định mới có thể phá được. Một khi những
kiến hoặc đã tiêu tan thì con đường để viên thành Phật quả sẽ không còn
xa. Khi thành Phật thì Ngài sẽ độ chúng sinh mười phương thế giới bao
la vô cùng vô tận.
Hư không dù hết, nguyện tôi không cùng.
Thuấn-nhã-đa là hư không. Thước-ca-la là
kiên cố. Đây là lời thệ nguyện để nói lên tâm bất thối kiên cố. Tuy hư
không, vô hình vô tướng, bao la vô cùng vô tận mà còn có thể tiêu tan,
còn tâm kiên cố và nguyện lực của Ngài A Nan không bao giờ lay chuyển.
Bấy giờ Phật bảo La-hầu-la:
-Đời sau ngươi sẽ đặng làm Phật
hiệu là Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai. Ngươi sẽ cúng dường chư Phật Như Lai
đông như vi trần trong mười thế giới và thường vì các đức Phật mà làm
trưởng tử như hiện nay.
Đức Phật Đạo Thất Bảo Hoa đó, cõi
nước trang nghiêm, kiếp số thọ mạng, giáo hóa đệ tử, chánh pháp và
tượng pháp cũng đồng như Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không
khác. Ngươi sẽ làm trưởng tử cho Phật Sơn Hải Huệ, rồi về sau sẽ được Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng một bài kệ…
Sau đó Phật liền thọ ký cho Tôn giả La
Hầu La sẽ cúng dường các đức Phật nhiều như số hạt bụi của mười thế
giới. Vì Ngài trong đời quá khứ đã phát nguyện làm trưởng tử cho mỗi vị
Phật ra đời cho nên trước khi thành Phật, ngài sẽ là trưởng tử cho Phật
Sơn Hải Huệ. Khi tu mật hạnh viên mãn, Ngài sẽ thành Phật Ngài hiệu là
Ðạo Thất Bảo Hoa Như Lai nghĩa là vị Phật bước đi trên hoa bảy báu. Đời
này A Nan với La hầu La liên hệ tình chú cháu, nhưng vô lượng về sau thì
La Hầu La sẽ làm con của A Nan trước khi La Hầu La thành Phật.
Thấy các bậc hữu học, vô học 2.000 người ý căn nhu nhuyễn, tịch nhiên thanh tịnh, một lòng nhìn Phật, Phật bèn nói với A-nan:
-Tất cả những người ấy sẽ cúng
dường chư Phật Như Lai đông như vi trần trong 50 thế giới, cung kính hộ
trì pháp tạng, rốt sau đồng thời, ở các nước trong mười phương, mỗi mỗi
đều được thành Phật, đồng một hiệu là Bảo Tướng Như Lai, sống lâu một
kiếp, cõi nước trang nghiêm số đệ tử Thanh Văn, Bồ Tát và thời gian
chánh pháp, tượng pháp thảy đều đồng nhau.
Lúc đó, các hàng hữu học, vô học nghe đức Phật thọ ký, vui mừng hớn hở như được rưới nước cam lộ.
Sau cùng đức Phật thọ ký cho tất cả 2.000
người hữu học và vô học cúng dường chư Phật hằng sa số trong 50 thế
giới và cung kính hộ trì pháp tạng sẽ thành Phật và có chung Phật hiệu
là Bảo Tướng Như Lai. Trí tuệ quang minh của Phật như đèn sáng chiếu
khắp. Con số 50 thế giới là kinh muốn dùng con số năm để ám chỉ cho ngũ
uẩn mà kinh Lăng Nghiêm có nói 50 ngũ uẩn ma là không thật như hư đóm
trong hư không. Tại sao? Bởi vì một người khi đã chứng đắc quả A la hán
thì tất cả các chủng tử hữu lậu đã tan biến và trong họ chỉ còn chủng
tử vô lậu nghĩa là tất cả phiền não khổ đau và những nguyên nhân đưa đến
phiền não khổ đâu cũng không còn. Đó là các ngài đã chứng chân lý Vô
Ngã nghĩa là trong họ không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta”. Trong thì
Ngã không, ngoài thì Pháp không, trong ngoài tự tại thì hết chấp. Trong
khi đó, phàm nhân thì tin chắc rằng thân ngũ uẩn của mình là thật, là
Ta, là của Ta và là sở hữu của Ta, sống giữ chết mang theo cho nên có
sống chết, tranh đấu để bảo vệ Ta và cái của Ta vì thế mới có phiền não,
khổ đau. Vì thế kinh nói họ phải cúng dường chư Phật nhiều như vi trần
trong 50 thế giới là họ phải tính tấn nỗ lực tu hành thì mới có giải
thoát được. Cứ mỗi việc lành họ thực hành là cúng dường cho một vị Phật,
một tư tưởng thiện là cúng dường cho một vị Phật và cứ thế mà làm. Mỗi
ngày chúng ta phát sinh biết bao tư tưởng, nếu bây giờ chuyển hết hàng
ngàn hàng vạn tư tưởng đó thành ra ý niệm lành thì chúng ta đã cúng
dường cho vô số chư Phật rồi. Lời nói và hành động cũng thế.
Hai ngàn vị Thanh Văn được Phật thọ ký,
lòng dâng lên bao nổi vui mừng cũng như thọ hưởng nước cam lộ mát dịu từ
đức Thế Tôn. Con người cũng vì có ý niệm chấp ngã nên đại đa số ai cũng
muốn sống lâu, sống thọ để hưởng những lạc thú trên thế gian. Phản ứng
tự nhiên khi nghe đến chết là họ nghĩ ngay đến sự chia lìa những gì mình
quý mến thương yêu nhất. Chết là bỏ lại tài sản mà mình vun bồi, xây
dựng bao nhiêu năm, xa cách cha mẹ, vợ chồng, con cái, lo sợ cuộc hành
trình đơn độc này sẽ như thế nào và dĩ nhiên không biết tương lai mình
sẽ đi về đâu? Nhưng xét cho cùng thì thế gian là vô thường, do duyên giả
hợp chớ có cái gì bền chắc muôn đời hay cái gì thật sự là của Ta đâu?
Khi sanh ra Ta thì Ta đâu có vợ chồng con cái, nhà cao cửa rộng vì thế
tất cả là của thế gian chớ đâu phải của riêng Ta cho nên khi duyên tan
rã thì của thế gian trả lại hết cho thế gian ngay cả tấm thân mà Ta gọi
là của Ta cũng phải trả lại cho đời. Đức Phật dạy rằng bóng cây hướng
nào thì cây sẽ ngã theo hướng đó cho nên nếu đời này ta kiến tạo rất
nhiều thiện phước thì kiếp sau sẽ được thọ báo vào chỗ an lành để hưởng
lấy phước lợi. Ngược lại nếu ta tạo nhiều ác nghiệp thì đời sau phải
chịu sinh vào chốn trầm luân, thọ khổ nhiều hơn vui. Do đó nếu không còn
chấp ngã nghĩa là không còn tham luyến cái Ta và những gì thuộc về Ta
thì sự sống chết là chuyện thường, xem chuyện tử sanh là trò dâu bể tức
là Có trở thành Không và Không biến thành Có. Đó là vạn pháp sanh mà
không thật sanh và diệt mà không bao giờ mất hẳn vì thế hãy sống nhẹ
nhàng thanh thoát, an vui tự tại ngay giây phút này chớ đứng quá quan
tâm chết sẽ đi về đâu tức là tự mình tạo ra cho mình thêm nỗi khổ. Vì
vậy nếu chúng sinh diệt được ý niệm sinh diệt trong tâm thì chính họ sẽ
có niềm vui tịch diệt tức là đạt đến cứu cánh Như Như bất động.
Tóm lại về phần thọ ký thì kinh Pháp Hoa có ba phẩm:
1)Trong phẩm Thí Dụ, đức Phật thọ ký cho
Tôn giả Xá lợi Phất sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai rồi đến phẩm
Thọ Ký, đức Phật bắt đầu thọ ký cho các đại đệ tử như Xá Lợi Phất, Đại
Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Mục Kiền Liên.
2)Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký thọ ký thì Phật thọ ký Tôn giả Phú Lâu Na rồi đến 500 vị A la hán khác.
3)Đến phẩm này, đức Phật lại thọ ký cho
ngài A Nan và La Hầu La là hai vị Tỳ kheo trẻ nhất trong số những vị Tỳ
kheo xuất sắc trong Tăng đoàn. Rồi sau đó Phật mới thọ ký cho tất cả mọi
người.
Đức Phật thọ ký cho tất cả mọi người là
vì trong mỗi chúng sinh đã có sẵn tri kiến Phật tức là chất Phật nên đức
Phật mới thọ ký được chớ đừng hiểu rằng đức Phật là một đấng quyền uy
tối thượng muốn ban ơn cho ai thì ban hoặc muốn giáng họa cho ai thì
giáng. Đức Phật là đấng đại từ đại bi thì việc giáng họa cho người dĩ
nhiên không bao giờ có, nhưng còn thương người nào thì ban ơn, chú phúc
cho họ thì cũng không có. Bằng chứng là Tôn giả A Nan cả đời theo chân
làm thị giả cho đức Phật mà vẫn không chứng đắc Thánh quả vì A Nan không
chịu tu mà chỉ muốn học rộng nghe nhiều. Tuy mang tiếng là đệ nhất đa
văn, nhưng ông không tu thiền na, không có đại định nên không thể tiêu
diệt những vẫn đục của thập triền, thập sử mà cứ dậm chân tại chỗ ở quả
nhập lưu là Tu Đà Hoàn. Vì thế không thể hiểu Phật như là một đấng thần
linh, một đấng siêu nhiên thì con đường học Phật mới tiến bộ được.
1)Thập triền: là mười
món phiền não nương vào tham, sân, si mà khởi, tương ưng với tâm nhiễm
ô, tạo các ác hạnh để trói buộc chúng sinh trong sinh tử.
-Vô tàm: Không biết hổ thẹn.
-Vô quý: Không biết hổ thẹn đối với những tội lỗi do mình tạo ra khi bị người khác thấy biết.
-Tật: Tâm đố kỵ đối với những việc hưng thịnh của người khác.
-San: Bỏn sẻn, keo kiệt.
-Hối: Hối hận vì những lỗi xấu của mình đã làm, khiến tâm bất an.
-Miên: Mê ngủ khiến tâm mờ tối, không có năng lực tỉnh xét.
-Điệu cử: Thân dao động khiến tâm không yên, không thể nào thành tựu các thiền quán.
-Hôn trầm: Thần thức u mê, thân tâm không có năng lực an trụ trong thiện pháp.
-Phẫn: Đối với cảnh trái ý mình thì sinh tâm tức giận, đánh mất chánh niệm.
-Phú: Che đậy tội lỗi của mình.
Nếu hằng ngày chúng sinh không giữ vững
chánh niệm, sống trong tĩnh thức thì mười món này sẽ trói buộc (triền)
con người không có lối thoát.
2)Thập sử: Căn bản phiền
não có sáu món là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Phần ác kiến lại
chia làm năm phần: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm
thủ. Thập sử là tên gọi dựa theo Duy Thức Học còn tên thông thường là Tư
Hoặc và Kiến Hoặc trong phần Tập Đế. Do đó con đường duy nhất để có
giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi là phải phá cho được Tư Hoặc và Kiến
Hoặc chứng đắc thánh quả A la hán. Năm món tham, sân, si, mạn, nghi gọi
là năm món “độn sử” bởi vì nó ngấm ngầm sai sử con
người cũng như than đỏ trong tro làm chướng ngại ba món vô lậu Giới Định
Tuệ. Ví dụ, cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà có người dám làm những
chuyện tày trời, phạm luân thường đạo lý, không kể hậu quả sau này sẽ
vào tù ra khám. Khi cơn giận nổi lên thì bất chấp phải trái ngay cả giết
người họ cũng làm. Hoặc một khi lòng si mê tham đắm dục tình bùng cháy
trong tâm, người đàn bà có thể giết chồng, bỏ con để chạy theo tiếng gọi
của con tim. Nói chung hằng ngày tham, sân, si, mạn, nghi sai sử chúng
ta trên mọi phương diện, từng giây từng phút, từng sát na. Vì thế chỉ có
chánh niệm tỉnh thức mới đánh thức con người để quay về sống đúng với
chơn tánh của mình tức là chính mình đã chặt đứt những sợi dây vô hình
cột chân cột tay chúng ta vào con đường bất thiện.
Tóm lại, học Phật là để nhận thức Chân
lý, để chuyển hóa tất cả những vọng thức phân biệt đối đãi (vọng tâm
điên đảo) để có cuộc sống an vui, tự tại và cuối cùng đạt đến cứu cánh
tối thượng là giải thoát giác ngộ tức là giải thoát hoàn toàn ra khỏi
mọi hệ lụy của phiền não khổ đau và tâm trí bừng sáng để thấy biết rốt
ráo tận cùng, trực nhận Chân lý.