KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Mười Bốn
Phẩm AN LẠC HẠNH
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà
Phẩm này là một trong những phẩm được
người đời sau thêm vào vì tính kỳ thị nữ giới và có những đoạn diễn đạt
tư tưởng rất tầm thường không thuộc về Pháp Hoa, là hệ tư tưởng tối
thượng thừa của Phật giáo Đại thừa. Các hàng Bồ Tát ở phẩm trên đã phát
nguyện sau khi Phật nhập Niết bàn sẽ đem kinh Pháp Hoa giáo hóa cho
người đời sau cho dù có gặp chướng ngại các ngài vẫn không thoái chuyển.
Hạnh Bồ Tát là những công hạnh to lớn đòi hỏi Bồ Tát phải có sức kiên
trì, lòng dũng mãnh để đối đầu với những chúng sinh kiên cường khó giáo
hóa. Ngược lại chẳng những Bồ Tát không độ được đời mà có thể bị đời độ
lại nghĩa là bị đời lôi cuốn nhận chìm trong bể ái sông mê rồi gánh chịu
bao phiền não khổ đau. Do đó An Lạc Hạnh là phương pháp hộ trì Pháp Hoa
để cứu độ chúng sinh và đem lại cho mọi người sự an vui trong cuộc
sống. Bởi vì thanh tịnh Niết bàn ở tại tâm chớ không phải là một cảnh
giới xa xôi nào khác. Vì vậy chủ yếu của phẩm này là Phật dạy cho Bồ Tát
hay cho những ai phát tâm truyền bá, giảng nói, xiễn dương kinh Pháp
Hoa những phương pháp để đem lại sự an lạc vừa cho mình và vừa cho người
nghe. Thật vậy, học Phật và tu Phật là để có an lạc vì thế trong tiến
trình tu học Chánh pháp mà không có an lạc, phiền não luôn dấy khởi
nghĩa là hành giả không áp dụng, thực hành đúng những gì mình đã học,
cần phải sửa lại.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật:
-Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này làm việc
khó có là phát nguyện hộ trì, đọc nói kinh Pháp Hoa trong đời ác trược
về sau. Thế Tôn! Làm thế nào mà các vị Bồ-tát này nói được kinh Pháp Hoa
trong đời ác trược?
Phật bảo Văn Thù:
-Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát, ở đời ác trược, muốn nói kinh này thì nên an trú vào 4 pháp sau đây:
Tuy kinh nói trong đời ác trược
về sau, nhưng thật ra bất cứ ở đâu và bất lúc nào hễ có con người là có
tranh giành, chấp thủ, lợi mình hại người. Người tranh với người, nhà
này tranh chấp với nhà kia, nước này tranh với nước nọ, thế giới này
tranh với thế giới kia không bao giờ ngừng nghĩ. Hãy nhìn ngược lại dòng
lịch sử nhận loại, hễ hết bình thì tới loạn. Con người cũng vì tham
vọng mà đưa đến bao nhiêu cuộc chiến tranh, tàn sát giết hại lẫn nhau.
Vì thế Phật mới ví thế giới này là nhà lửa bởi vì hằng ngày lửa tham
đắm, lửa hận thù, lửa si mê ái dục ầm ỉ cháy trong tâm của tất cả mọi
người. Do đó muốn vào nhà lửa mà không bị cháy, Bồ Tát phải mặc đồ chống
lửa thì mới có thể viên thành hạnh Bồ Tát được.
1)Hành Xứ: Bồ-tát hành xứ là
đứng vững trên đất nhẫn nhục, diệu hoà thuận thảo mà không nóng nảy, tâm
cũng chẳng sợ sệt, lại ở trong muôn vật mà lòng không xao xuyến, xem
muôn vật trống không như “thật tướng”, không nghĩ ngợi gì mà cũng không
phân biệt.
Nhẫn nhục là để đối trị với sân hận, giận
hờn. Đây là đức tính tốt đẹp được tán thán nhiều nhất trong hầu hết các
kinh sách Phật giáo. Con người có sự bất mãn hay sung sướng là do sự
đánh giá sự vật qua cái nhìn sai lầm mà cái Ta là chủ động chính. Thiếu
kiên nhẫn và kém chịu đựng chính là do tâm Sân mà ra. Khi chúng sinh
thấu hiểu luật nhân quả và lý duyên khởi thì họ sẽ tránh gây ra nghiệp
cho mình khi nghịch cảnh đến. Nếu hành xử theo luật con người là lấy oán
báo oán thì hận thù càng ngày càng chồng chất biết đến bao giờ. Khi tu
hạnh nhẫn nhục là tránh gây tạo nghiệp cho mình thì chúng sinh mặc dù
không trả thù báo oán mà vẫn an nhiên tự tại vì luật nhân quả sẽ trói
chặt kẻ đó rồi đâu cần họ phải ra tay. Do đó muốn thực hành hạnh nhẫn
nhục cho hữu hiệu chúng sinh cần cảnh giác để nhận biết sự phản ứng sinh
khởi của mình khi đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng. Đối với:
*Thân nhẫn: Con người khi đối
diện với nắng mưa, đói khát, đau ốm bệnh tật hoặc bị người đánh đập hành
hạ mà vẫn cam chịu, không phàn nàn hay chống cự lại tức là tu theo thân
nhẫn.
*Khẩu nhẫn: Cho dù thân đã nhẫn
không chống lại người khi bị hành hạ đánh đập và trước những lời nhục mạ
mắng nhiếc chua cay mà miệng cũng không thốt ra những lời nguyền rủa
độc ác thì đây chính là tu theo khẩu nhẫn.
*Ý nhẫn:Cái khó và quan trọng
nhất là tu nhẫn trong tâm. Khi tâm hồn không còn căm hờn, oán hận thì
tâm sẽ trong sáng và an nhiên tự tại để loại bỏ đi những tư tưởng hắc ám
khiến con người tạo nghiệp. Vì thế kinh Hoa Nghiêm có câu:”Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai” tức là một niệm sân hận nổi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.
Trong ba thứ nhẫn nầy thì ý nhẫn là khó
thực hành nhất bởi vì đôi khi thân có thể chịu đựng được cực hình, nhưng
miệng vẫn lẩm bẩm lời nguyền rủa. Mà miệng có nói cũng là do tư tưởng
chuyển đến mà thôi. Có người tuy miệng không thốt ra lời nguyền rủa
nhưng tâm thì tức giận bừng cháy cả tim gan. Thế thì con người muốn kiềm
chế để tu theo hạnh nhẫn nhục viên mãn thì phải kiềm chế tư tưởng được
trong lành. Có như thế thì ý nhẫn mới kiềm chế khẩu nhẫn và sau cùng họ mới thành công với thân nhẫn.
Vì ý là nhân mà thân, khẩu là quả của nó. Thêm nữa người tu theo hạnh
nhẫn nhục sẽ có đủ trí tuệ để áp dụng Từ-Bi-Hỷ-Xả vào trong cuộc sống.
Chính trí tuệ nầy sẽ đối trị và làm tiêu tan sự bất mãn và tâm sân
hận.
Ngày xưa Đức Phật đã trải qua biết bao chông gai cực khổ trước khi Ngài chứng quả Bồ-đề. Nếu không tu theo hạnh nhẫn nhục thì làm sao Ngài thành Phật được?
Thời gian tu hành đối với phàm nhân để viên thành Phật đạo kéo dai gần
như là vô tận vì thế nếu không có đức tính kiên nhẫn phi thường thì
không thể nào thành công được. Các vị Bồ tát tu hạnh nhẫn nhục để tâm
không bị phiền nhiễu bởi những bất trắc xảy ra trong cuộc đời. Các Ngài
không phiền hà khi người khác nói những lời thô lổ, nói dối hay mắng
nhiếc nhục mạ họ. Thậm chí Bồ tát vẫn kiên trì chịu đựng khi thân thể bị
hành hạ, bị tra tấn và ngay cả đến cái chết các Ngài vẫn an nhiên tự
tại.
2)Thân Cận Xứ: Bồ-tát không gần gũi:
-Hạng người quyền thế ( vua, con vua, quan lớn, quan nhỏ)
-Hạng người tu theo ngoại đạo ( Phạm-chí, Ni-kiền-tử…)
-Hạng văn nhân, thi sĩ của thế tục
-Các phái Lộ-già-da-đà, Nghịch-lộ già-da-đà.
-Hạng người chơi hung, lấy sự đâm chém, đánh đá làm thích.
-Bọn Na-la quen chơi với sự tà thuật biến hoá.
-Bọn Chiên-đà-la.
-Hạng người làm sai giới luật như nuôi heo, dê, gà, chó, đi săn, chài lưới
Những người trong các giới ấy,
nếu có lúc họ đến với mình, thì Bồ-tát phải vì họ mà giảng dạy cho họ
nghe, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì.
Khi nói về cầu thân với người quyền thế
thì Bồ Tát Di Lặc là một thí dụ điển hình. Tuy xuất gia nhưng ngài Di
Lặc không chú tâm tu hành mà muốn kết thân, cầu danh với những hàng danh
gia vọng tộc, quan quyền, giàu có. Đây là bài học điển hình cho các tu
sĩ còn ham chuộng danh lợi, chạy theo uy quyền, tham gia chính trị, phế
bỏ cả đời tu của mình. Người tu sĩ mà thích kết thân, giao du và dựa hơi
với hạng quan quyền, người giàu có mà cho đó là phước đức, danh vọng,
địa vị của mình là thiếu đức hạnh. Đối với người tu sĩ chân chính là
phải tách mình ra khỏi xã hội, không chạy theo danh văn lợi dưỡng, không
nhiễm ô tham đắm thế tình mà phải luôn bồi dưỡng trí tuệ thì mới là
sống đúng theo chánh pháp để có thể diệt được cái bản ngã tối tăm.
Thuở ấy, có vị tỳ-kheo Hạt-tha-ca thường
hay tranh-luận với các du-sĩ ngoại-đạo, nhưng vì đuối lý nên chẳng thắng
được họ. Tỳ-kheo Hạt liền hẹn với họ, sẽ gặp nhau lại ở một nơi khác.
Đến gần giờ hẹn, ông Hạt liền đến sớm, chưa thấy các du-sĩ tới nơi, mới
vênh-váo bảo mọi người là bọn ngoại-đạo đã chịu thua tài biện-luận của
mình, nên chẳng đến nơi hẹn. Mánh-lới nầy đến tai Đức Phật. Ngài liền
cho gọi tỳ-kheo Hạt-tha-ca đến và bảo: "Nầy tỳ-kheo Hạt-tha-ca, tại sao
ông lại có thái-độ giả-dối như thế? Chẳng phải cạo trọc đầu mà có được
danh-nghĩa Sa-môn. Kẻ đã dứt trừ xong mọi ác-ý mới là Sa-môn."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
Cạo đầu chưa hẳn là Sa-môn,
Nếu hay nói dối, thiếu giới-hạnh,
Tham-dục, luyến-ái vẫn còn mạnh,
Sao được xứng-danh là Sa-môn.
(Kệ số 264-kinh Pháp Cú)
Ai khắc-phục, hoàn-toàn lìa bỏ,
Hành-động ác, cả lớn lẫn nhỏ,
Đã vượt qua hết các điều tà,
Mới xứng-danh là bực Sa-môn.
(Kệ số 265-kinh Pháp Cú)
Trong phẩm "Tịnh Lự" trong "Pháp Uẩn Túc Luận" đề cập đến bốn hạng người xuất gia như sau:
a. Thân xuất gia mà tâm không xuất gia
"Có một loại người đối với những dục
cảnh, thân người ấy tuy đã xa lìa những dục cảnh, nhưng tâm vẫn còn đắm
trước. Như có người cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca sa, chánh tín xuất gia,
người ấy tuy thân tướng là xuất gia, nhưng tâm vị ấy vẫn còn tham luyến
nhớ nghĩ về những dục cảnh mà người ấy đã được cảm thọ trước đây. Những
người này, gọi là thân xuất gia mà tâm chưa xuất gia".
Hạng người thứ nhất này, thân thể tuy là
hình tướng của người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo càsa, nhưng tâm
tánh của người ấy chưa xuất gia vì tham ái ngũ dục lục, tìm cầu lợi
dưỡng. Ðứng trên phương diện tu tập trong Phật giáo, người này không
phải là hạng người chân chánh xuất gia.
b. Tâm xuất gia mà thân chưa xuất gia
"Có một hạng người, đối các những dục
cảnh, tâm tuy đã xa lìa mà thân vẫn chưa xa lìa. Như có người, tuy có vợ
con, ruộng vườn, nhà cửa, trang sức châu báu, xoa ướp hương thơm, ăn
uống những thứ thượng diệu, có người hầu hạ v.v... nhưng người ấy đối
với các dục cảnh, tâm không sanh nhiễm trước, tham ái. Người ấy, thân
tuy là tại gia mà tâm đã xuất gia, người này gọi là tâm xuất gia mà thân
chưa xuất gia".
Hạng người thứ 2 này, thân thể người ấy
khi còn hình tướng là người tại gia, nhưng tâm đã xuất gia, không còn
tham luyến ngũ dục của thế gian. Ðối với hạng người này hình tướng tuy
chưa xuất gia nhưng tâm đã dược an lạc, giải thoát như Ngài Duy Ma Cật.
c. Thân và tâm đều xuất gia
"Có hạng người đối với những dục cảnh.
Như có người, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, chánh tín xuất gia. Người ấy
đối với những dục cảnh tâm không tưởng nhơ,ù luyến ái những dục cảnh
trước đây đã thọ dụng, tâm vị ấy thường ăn năn sám hối những lỗi lầm,
sống trong chánh niệm. Người ấy được gọi là thân và tâm điều xuất gia".
d. Thân và tâm không xuất gia
Có một hạng người, đối với các dục cảnh.
Như người có vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, châu báu, trang sức vàng ngọc,
xoa ướp hương thơm, an uống thượng diệu, có người hầu hạ v.v... đối với
các dục cảnh, người ấy sanh tâm tham luyến. Người này được gọi là thân
và tâm không xuất gia".
Hạng người thứ 4 này, đức Phật muốn ám chỉ người thế tục, không hiểu và tu theo Phật Pháp.
Theo quan điểm Phật giáo, đức Phật chỉ đề
cao khen ngợi hạng người thứ 3 là "Thân xuất gia và tâm xuất gia" và
hạng người thứ 2 là "Tâm xuất gia mà thân chưa xuất gia". Vì hai hạng
người này, tâm của họ đã thật sự xa rời không còn tham ái đối với ngũ
dục lạc, do vì không còn tham luyến đối với ngũ dục, cho nên tất cả
những sầu, bi, khổ, não không còn nữa, tâm vị ấy đã thật sự giải thoát.
Hai hạng người này là đệ tử chân chính của đức Phật, một đại diện cho
người xuất gia và một đại diện cho người tại gia, là hai hạng người đến
với đức Phật với mục đíc mong cầu giải thoát, không phải vì lợi dưỡng
hay địa vị. Hai hạng người còn lại là hạng người thứ nhất và thứ tư bị
Phật chê trách, vì cuộc sống của họ không hướng đến mục đích tối thượng
là sự giải thoát. Hạng người thứ nhất tuy thân đã xuất gia nhưng tâm vẫn
còn tham đắm 5 thứ dục lạc là: 1. tiền tài, 2. sắc đẹp, 3. địa vị, 4.
ăn uống, 5. ngủ nghĩ. Vì theo Phật giáo 5 thứ này là những thứ làm
chướng ngại con đường tiến tu đạo nghiệp, do đó Phật khuyên mọi người
nhất là hạng người xuất gia tránh xa ngũ dục. Do vậy, đối với những
người tuy đã cạo bỏ râu tóc, mặt aó của người xuất gia, nhưng tâm vẫn
chưa rời ngũ dục, người âý chắc chắn không gặt hái kết quả tốt nào mà
đạo Phật mang đến, như người vào rừng trầm hương để nhặt trầm hương,
nhưng khi người ấy vào rừng, chỉ mang về một số cỏ gai, chùm gởi mà
thôi. Sự thật, hạng người thứ nhất này, xưa cũng như hiện nay không phải
là không có trong Tăng già. Là người Phật tử chân chính chúng ta cần có
thái độ thận trọng, đến với đạo Phật là đến với mục đích mong cầu giải
thoát, và phục vụ chung, không phục vụ cho tư lợi, bất cứ cá nhân nào và
riêng ai.
Phải biết rằng :
Niệm mà không chấp có niệm, đó là chánh niệm.
Hành mà không chấp có hành, đó là chánh tinh tấn.
Độ mà không chấp có độ, đó là chánh tư duy.
Tu mà không chấp có tu, đó là chánh kiến.
Còn người tu sĩ mà có uy quyền ghê gớm,
danh vọng ghê gớm, đạo đức ghê gớm, tiền của ghê gớm thì người này là đệ
tử của đạo “sự nghiệp uy quyền” chớ đâu phải đệ tử của Phật Thích Ca là
đạo giải thoát giác ngộ. Nhưng nếu muốn có sự nghiệp uy quyền thì cứ
hoàn tục trở về với gia đình mà tha hồ thỏa chí bình sinh, sống đời vinh
thân phì da chớ đừng núp dưới cội Bồ-đề mà làm ô uế cửa thiền.
Ngày xưa đức Phật và biết bao đệ tử của
Ngài từ bỏ giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng để xuất gia cầu đạo
và sống đời thanh bần an lạc mà hoằng pháp lợi sanh. Ngày nay người đệ
tử Phật thì ngược lại muốn xuất gia để có được quyền uy, danh vọng, ăn
trên ngồi trước, giàu sang phú quý. Như thế đủ biết tinh thần : ”Xã phú cầu bần xã thân cầu đạo” chỉ còn là kỷ niệm, là cái bóng của quá khứ.
Người tu hành cần tìm nơi thanh vắng để
tỉnh tâm vì thế những điều ở trên chẳng qua chỉ là nhắc lại để Bồ Tát
đừng dính mắc nơi thế trần. Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng nhiều lần được vua
Vỏ Tắc Thiên thỉnh vào cung, nhưng ngài đều từ chối. Trong lời từ chối,
có câu “Tôi nguyện được trọn đời ở chốn núi rừng”. Tứ Tổ Đạo Tín cũng
được vua Đường Thái Tông thỉnh vào cung, nhưng ngài cũng cự tuyệt. Thế
thì những vị tu chứng, đạo cao đức trọng lúc nào cũng hành xử giống
nhau. Ngược lại, những người khác thì cầu mong được làm quốc sư, tăng
thống, thân cận với vua quan, chạy theo vinh hoa phú quý, dấn thân làm
chính trị như Thiền sư Thích Mật Thể. Đến khi thức tỉnh biết mình lầm
đường thì chính trị quay lại giết chết ông.Đạo Phật dưới đời nhà Trần
mang nặng tinh thần nhập thế tích cực qua hệ tư tưởng “Cư Trần Lạc Đạo”.
Đó là các Thiền sư công khai bàn luận chính trị, đề xuất nguyên lý trị
quốc theo kiểu Quốc sư Viên Thông đời Lý (1080-1151). Hệ tư tưởng này
còn được gọi là “Phật giáo thế sự”. Không lẽ nhân tài, hiền đức trong xã hội biến mất hết rồi hay sao mà phải cần những vị “xuất gia” tham gia việc trị quốc an dân? Ngày xưa chính đức Phật đã khuyên Đề Bà Đạt Đa nên hoàn tục vì tuy là người xuất gia, nhưng “tâm không vào đạo”
nên ông luôn nuôi dưỡng những tư tưởng bất thiện, cố tranh giành thế
lực, chia rẽ Tăng đoàn để mưu lợi riêng cho mình. Đối với Tăng đoàn, Đề
Bà Đạt Đa muốn chiếm ngôi vị của Phật, còn đối với thế sự ông xuối vua A
Xà Thế giết cha, hại mẹ, làm chuyện vô luân. Màn vô minh hắc ám che lấp
tâm tánh thuần lương khiến ông làm việc phản sư, phạm giáo mà phải bị
đọa vào địa ngục A tỳ. Phật giáo muôn đời vẫn là Phật giáo, người đệ tử
Phật không thể vì “tham vọng chính trị” mà biến thể đạo Phật dưới bất cứ hình thức nào.
Sau khi đức Phật thành đạo, Ngài trở về
cung thành Ca tỳ la vệ thăm lại vua cha và gia đình. Vua Tịnh Phạn
thương nhớ con nên đề nghị đức Phật ở lại hoàng cung vừa làm Phật vừa
làm vua. Đức Phật từ chối vì Ngài không còn vấn vương đến thế tục, không
còn dính mắc bụi trần mà chỉ muốn làm người khất sĩ, tâm tự tại, thanh
tịnh, an lạc Niết bàn. Xứ Tây Tạng từ khi Phật giáo nắm được chính quyền
thì các vị Đạt Lai Lạt Ma vừa là lãnh tụ của quốc gia vừa là lãnh tụ
của Phật giáo. Mà làm lãnh tụ quốc gia thì phải đối đầu với trăm điều
phiền não, giặc trong giặc ngoài, bày binh bố trận chớ đâu có dễ dàng
như ngồi trong thiền đường để có những giây phút tỉnh tâm. Vì chính
quyền là những tu sĩ Phật giáo nên hệ thống quốc phòng nước Tây Tạng
càng ngày càng suy yếu đến khi Trung Cộng xua quân xâm chiếm Tây Tạng
năm 1950 mà không gặp một sự chống cự nào. Nói chung, hễ không buông
xuống còn chấp thủ quyền lực thì phải khổ bất chấp người đó là ai. Giáo
lý Phật Đà dạy rất rõ ràng cho dù con người có lý luận hay cách mấy mà
không diệt được khổ thì vĩnh viễn không bao giờ có Niết bàn! Các vị Đạt
Lai Lạt Ma Tây Tạng không thực hành đúng lời dạy của đức Phật là buông
xả, còn muốn làm vua, còn chạy theo thế vị của cuộc đời nghĩa là nếu
tay không buông xuống th́ “không bao giờ” có thanh tịnh Niết bàn. Đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 gần đây có tuyên bố chấm dứt hệ thống vua chúa Tây
Tạng và Ngài bây giờ trở thành một công dân Tây Tạng. Dân tỵ nạn Tây
Tạng cho bầu một vị Thủ tướng đại diện cho dân tỵ nạn Tây Tạng ở Ấn Độ.
Như vậy, chẳng những hệ thống quân chủ của các vị Đạt Lai Lạt Ma sau
bao nhiêu năm đã chấm dứt mà truyền thống tuyển chọn người thừa kế cho
các vị Đạt Lai Lạt Ma có lẽ sẽ cáo chung một ngày rất gần đây. Truyền
thống này do ngài Tông Khách Ba vào thế kỷ thứ 14 đã lập hai vị đệ tử
của mình làm Ban Thiền Lạt Ma, đại diện cho trí tuệ và Đạt Lai Lạt Ma là
biểu tượng cho từ bi. Sau đó, bắt đầu vào thế kỷ thứ 15, Phật giáo Tây
Tạng tôn xưng và thần thánh hóa những vị thầy vì họ tin rằng đây là
những vị Bồ Tát hay những vị Tổ tái sinh. Vì thế chỉ có Phật giáo Tây
Tạng mới có quá nhiều truyền thuyết tái sinh tạo thành một sự huyền bí
mà có lẽ vượt ra ngoài khái niệm huyền bí vốn có của Phật giáo Mật tông.
Nhắc lại, đạo Phật không có truyền thống thừa kế vì đây là tư tưởng
phong kiến, quân chủ, cha truyền con nối mà đức Phật là người chống
phong kiến, đập phá sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Vì thế sự
xuất hiện của đức Phật là cái gai trong mắt của người Bà la môn. Đức
Phật dạy rằng ai ai cũng đều có nước mắt cùng mặn và máu cùng đỏ như
nhau cho nên ai cũng đều có cơ hội và khả năng thành Phật vì thế trước
khi nhập diệt Ngài trả lời cho Tôn giả A Nan là sau khi Phật diệt độ thì
hãy lấy Giới làm thầy vì Giới giúp hành giả thành Phật, chớ Phật đâu có
truyền thừa cho Tôn giả Đại Ca Diếp thay mặt mình thống lãnh (thầy)
Tăng đoàn.
Chân lý Đức Phật sáng tỏ và vượt ra khỏi
đạo thế gian và xuất thế gian.Người tăng thượng mạn là những người kiêu
căng tự phụ, có ít nói nhiều, chưa chứng nói chứng, chứng ít nói nhiều
để thỏa mãn bản ngã của mình. Vì chạy theo bản ngã nên những người nầy
khi gặp dâm nộ sát thì bị chìm đắm sa đọa ngay nên Phật mới khuyên họ
nên tránh xa những thứ nầy. Ngược lại nếu người không còn chấp ngã, chấp
pháp, tâm hằng tự tại thì dâm nộ sát sẽ là phương tiện rốt ráo đi đến
giải thoát giác ngộ.
Cũng không nên làm thân với những
người cầu được làm Thanh Văn, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di, cũng không nên hỏi chuyện họ. Dầu ở trong phòng, dầu lúc đang
đi kinh hành, dầu lúc ở giảng đường, bất luận ở đâu, không nên cùng họ
đứng dừng một chỗ. Nếu gặp lúc họ đến với mình thì tuỳ nghi mà thuyết
pháp, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì.
Văn Thù Sư Lợi - Bồ-tát lại còn
không nên ngó thân người nữ mà sanh lòng ham muốn rồi nói pháp cho họ
nghe, cũng đừng ưa thấy nữ nhân. Khi vào nhà người, đừng nói chuyện với
trẻ gái nhỏ, con gái lớn và đàn bà goá. Cũng không nên gần những người
“bất nam”. Đừng một mình vào nhà người. Nếu có duyên cớ cần phải vào nhà
người một mình, thì phải giữ một tâm niệm Phật.
Khi nói Pháp cho đàn bà, con gái
nghe, đừng cười hở răng, đừng bày hông, ngực. Thậm chí đối với người vì
pháp mà đến, cũng không nên gần gũi thân mật với họ, hà huống là đối
với những người đến vì chuyện khác.
Không nên thích nuôi những đệ tử
ít tuổi, những sa-di trẻ con. Cũng không nên ưa dùng chúng một thẩy, mà
nên ưa người ngồi thiền ở chỗ vắng lặng, sửa nắm tâm mình.
Đó là “thân cận xứ” thứ nhất của Bồ-tát
Lại nữa, Bồ-tát phải thấy muôn
vật đều “không” như “ thật tướng” không điên đảo, không động, không
thối, như hư không, thấy muôn vật không có thực tánh, chẳng sanh, chẳng
xuất, chẳng khởi, vô danh, vô tướng, thực không có gì cả, vô lượng vô
biên, vô ngại, vô chướng: thấy những danh từ lời nói dùng để chỉ vật này
sự nọ, đều là trái với chân lý (ngữ ngôn đoạ đoạn), chỉ vì cái nguyên
nhân đảo điên nên mới thế này thế nọ. Phải vui xét cái tướng của vạn
vật là như thế.
Đó là “ Thân cận xứ” thứ nhì của bồ tát.
Đoạn kinh trên dạy Bồ Tát nên cẩn thận
khi giao tiếp với phái nữ vì nếu tâm mình không vững chắc thì dễ bị dục
vọng lôi cuốn nhận chìm. Ở hải ngoại có rất nhiều câu chuyện nói về
nhiều nhà sư dính dáng với phụ nữ bị tòa án Hoa Kỳ phạt vừa tù vừa đền
tiền cho nạn nhân. Đó là chưa kề nhiều sư công khai có vợ có con mà vẫn
còn mặc cà sa thuyết pháp và tự xưng là pháp sư.
Nhưng đây không phải là tư tưởng tối
thượng Đại thừa vì ngay cả kinh Duy Ma Cật dạy Bồ Tát phải làm những
việc khó làm thì mới là Bồ Tát. Thấy biết sanh tử, ưu bi, khổ não là
việc đáng sợ, người trí phải tìm cho mình một con đường mà y theo nghị
lực và công đức của Như Lai để cứu độ chúng sinh thoát khổ. Muốn độ
chúng sinh trước hết chính mình phải dũng mãnh trừ bỏ phiền não, thực
hành chánh niệm để biết rằng thân là vô thường, vô ngã, do tham dục,
phân biệt, mộng tưởng điên đảo tạo thành. Mà mộng tưởng điên đảo là do
vô trụ làm gốc, nhưng sau cùng thì vô trụ cũng không có gốc. Không có
gốc ở đây có nghĩa là chẳng có gì mà sanh ra tất cả các pháp. Do đó vạn
pháp gốc của nó là chẳng có gì nghĩa là Không. Nói một cách khác bản
chất của vạn pháp là giai không. Chơn Không mà sinh ra tất cả nghĩa là
bất biến mà tùy duyên tức là Chơn Không mà sinh ra Diệu Hữu vậy.
3)An Lạc Hạnh:
Phật nói tiếp:
-Sau Như Lai diệt độ, trong đời
mạt pháp muốn nói kinh nầy, Bồ-tát phải ở yên trong “ An lạc hạnh”.
Nghĩa là, khi nói cũng như khi đọc kinh này, chẳng nên vừa nói đến sự
sai quấy của người và của kinh điển, cũng chẳng nên có lòng khinh
rẻ, kiêu ngạo đối với các Pháp sư, chẳng nên nói đến sự tốt xấu, hay dở
của người khác, đối với hành Thanh Văn, chẳng nên kêu đích danh mà vạch
sự sai lầm, gàn dở của họ, cũng không nên kêu đích danh mà khen tặng
cái hay của họ, lại cũng không sanh tâm thù hiềm. Khéo sửa lòng cho được
an lạc như vậy thì không làm nghịch lý người nghe. Còn có ai vấn nạn
thì đừng giải đáp bằng pháp Tiểu Thừa mà bằng pháp Đại Thừa, để cho
người hỏi được Chánh Giác.
Bồ Tát muốn thuyết pháp phải giữ
lòng an vui, trong sạch, thân thể phải tắm rửa cho sạch, mặc y mới, nói
tóm là trong ngoài phải thanh tịnh, nhiên hậu mới lên ngồi pháp toà, tùy
lời hỏi của người mà giảng. Đối với người vì Đạo thì đem diệu nghĩa ra
mà dạy, mặt mày hoà nhã, đối với người vấn nạn, thì tùy nghĩa mà đáp,
khi thì dùng nhân duyên, khi thì dùng thí dụ mà diễn mà giải rạch ròi,
để lần hồi dắt dẫn họ vào đường sáng (Phật Đạo). Tự mình, phải trừ mọi
ý niệm ỷ lại, mọi tư tưởng lười biếng, xa lìa mọi lo nghĩ, buồn rầu, mở
rộng lòng từ, ngày đêm nói pháp để mở mắt cho chúng sanh mà không bao
giờ mong cầu sự cúng dường, chỉ một lòng tưởng nhớ đến việc lấy pháp
làm nhân duyên để thành Phật đạo, khiến người nghe cũng cùng một tâm
niệm.
Trong thời mạt pháp, Bồ tát nào
thọ trì, đọc tụng kinh này thì không nên chứa chấp sự ganh ghét, tà bậy,
khinh khi người học Phật, không làm cho hạng tu hành chán nản, cũng
không nên đem Đạo Pháp ra bàn chơi, tranh cãi. Phải:
-Đối với tất cả chúng sanh, khởi lòng đại bi.
-Đối với Chư Như Lai, sanh lòng kính trọng như Cha lành
-Đối với Bồ-tát, sanh lòng tôn kính như Thầy.
-Đối với mười phương Bồ-tát, sanh lòng cung kính cúng dường.
Thực hiện đầy đủ pháp “ an lạc”
thứ ba này, thì khi thuyết kinh, không làm cho người nghe hoang mang,
được người cùng theo mình mà đọc tụng, còn đại chúng sẽ tới nghe lãnh
lời kinh, lãnh rồi nắm giữ, giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ thuyết, thuyết
rồi sẽ chép và khiến người cùng chép.
Tư tưởng này cũng không phải của tối
thượng Đại thừa vì còn chấp quá nhiều vào sự tướng.Đối với Phật giáo Đại
thừa, chúng sinh là không thật có, là do duyên giả hợp, nhưng Bồ-tát
vẫn thực hành tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) dùng pháp huyễn để độ
huyễn chúng sinh mà chứng đắc huyễn quả. Nếu đứng về Chân đế mà nói thì
tất cả là giả huyễn, là sinh diệt còn dựa theo Tục đế thì có thế gian,
có người, có ta, có phương pháp tu hành và dĩ nhiên có quả vị để chứng
cho nên các vị Bồ-tát còn phải vào đời để cứu giúp chúng sinh. Vì tướng
trạng của thế gian vũ trụ là sinh diệt nên khi Bồ-tát thực hành tâm từ
thì các ngài thấu suốt những chân lý của thế giới tương đối là Vô
thường, Vô ngã, Không và Khổ để chẳng những mang lại an vui hạnh phúc
cho chúng sinh mà còn giúp họ phát huy ánh sáng trí tuệ hằng sáng trong
họ. Tâm từ của đạo Phật không nhất thiết chỉ thu gọn bằng một chữ làm
lành mà có thể được nới rộng như: Tịch diệt từ, Vô tránh từ, Bất hoại
từ, Kiên cố từ, Thanh tịnh từ, Vô biên từ, La hán từ, Bồ-tát từ, Như Lai
từ, Phật đà từ, Tự nhiên từ, Bồ-đề từ, Vô đẳng từ, Đại bi từ, Vô yểm
từ, Pháp thí từ, Trì giới từ, Nhẫn nhục từ, Tịnh tâm từ, Thiền định từ,
trí tuệ từ, Phương tiện từ, Vô ẩn từ, Thâm tâm từ, Vô cuống từ và An lạc
từ. Lòng bi của một Bồ-tát là khi Bồ-tát làm được bao nhiêu công đức
lành đều cho hết cho chúng sinh. Thấy chúng sinh được lợi lạc, được vui
thì Bồ-tát cùng vui, cùng nhau hoan hỷ nếu sự lợi lạc nầy không xây dựng
trên tư tưởng lợi mình hại người. Sau cùng tâm xả là khi Bồ-tát làm tất
cả việc lợi ích cho chúng sinh mà không thấy mình là kẻ thi ân và không
mong cầu hy vọng ở sự đền ơn đáp nghĩa. Bồ-tát làm xong thì quên, buông
xả hết. Thí dụ nếu chúng ta giúp ai một việc gì mà tâm không chịu buông
xả cứ nhớ hoài vì còn mong sự đền đáp của người. Đây chính là con đường
dẫn đến phiền não khổ đau bởi vì thói thường con người hay quên ơn bội
nghĩa cho nên cái gì cho mình vì mình thì nhớ hoài không quên còn cái gì
cho người thì quên không cần nhớ. Do đó làm rồi quên đi thì không còn
thất vọng và dĩ nhiên phiền não cũng tan biến. Nên nhớ bất cứ việc làm
nào của chúng ta dù thiện hay ác thì cũng đã được ghi nhận lại trong
A-Lại-Da thức cho nên chúng ta có mong đợi hay không thì cái quả kia một
ngày nào đó khi gặp duyên sẽ hiễn hiện ra. Vì thế việc làm của chúng ta
đã có kết quả rồi đâu cần phải mong chờ kẻ đền ơn người đáp nghĩa.
4) Pháp Đại Bi Tâm
Lại nữa này Văn Thù! Trong đời
mạt pháp, ai là người muốn nắm giữ Kinh Pháp Hoa, phải sanh đại bi tâm
đối với hàng xuất gia và tại gia. Đối với người chẳng phải là Bồ-tát
(chưa tu hạnh vị tha), cũng phát đại bi tâm mà nghĩ như vầy:
Như Lai phương tiện tuỳ nghi
thuyết pháp, mà họ lại chẳng nghe, chẳng biết, chẳng tỉnh, chẳng hỏi,
chẳng tin, chẳng giữ, thật là bất lợi vô cùng. Ngày nào ta được Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sẽ dùng thần lực trí lực mà dắt dẫn
họ vào ở yên trong Đạo Pháp.
Đó là pháp “ An Lạc” thứ tư.
Trong thời mạt pháp, nếu có Bồ Tát muốn
thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa cho dù là tại gia hay xuất gia thì Bồ tát
phải sinh tâm đại từ bi khiến cho họ hoan hỷ tin nhận. Thậm chí đối với
những người không tin Phật pháp, hủy báng Phật pháp cũng sinh tâm đại
từ bi. Bởi vì những người đó không nghe, không biết, không hay, không
hiểu Phật pháp là một thiệt thòi to lớn mà họ không biết cho nên Bồ Tát
phát nguyện khi thành Phật thì sẽ dùng phương tiện dẫn dắt và khuyến
khích giúp họ tu.
Như Lai diệt độ rồi, Bồ-tát nào
thành tựu được pháp thứ tư này thì khi thuyết Kinh Pháp Hoa, không bao
giờ có sự sai lầm, mất mát. Người thế gian từ vua tới dân, sẽ cung kính
cúng dường, trong hư không Chư Thiên sẽ luôn luôn hộ vệ cho. Tại sao
thế? Vì kinh nầy được tất cả chư Phật ba đời bảo hộ. Này Văn Thù, trong
vô lượng nước, nghe được tên kinh nầy còn chưa có, hà huống được thấy,
được thọ trì, đọc tụng. Thí như nhà vua dẹp giặc xong, muốn thưởng công
tướng sĩ, có thể cấp cho đất cát, y phục, ngọc ngà, châu báu, xe ngựa,
nô tỳ, nhưng không bao giờ cho viên ngọc vô giá trên mão của vua. Như
Lai cũng thế. Nhờ sức mạnh của thiền định và trí tuệ, Như Lai làm vua “
nước Pháp”, thống ngự ba cõi. Vì ma vương không hàng phục nên Như Lai
mới dùng Hiền Thánh làm tướng để đánh ma vương. Đối với các bậc hữu công
trong trận chiến này, Pháp vương Như Lai ban cho tiền của thiền định,
giải thoát, vô lậu, thành quách niết bàn, tạm nói là dịch độ, để dẩn dắt
tâm họ, khiến mọi người hoan hỷ nhưng chưa vì họ mà nói Kinh Pháp
Hoa. Nhưng khi binh sĩ lập được công to, nhà vua sẽ cho viên ngọc vô
giá. Như Lai cũng thế, thấy đội quân Hiền Thánh đã lập được đại công
chiến thắng ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma, đã diệt ba độc, ra khỏi ba
cõi phá lưới ma, nên ban cho Kinh Pháp Hoa là lời thuyết cao cả nhất của
Như Lai.
Trước khi kết thúc phẩm này, đức Phật
dùng một ví dụ để nói lên cái cao quý của kinh Pháp Hoa mà Phật phải đợi
đúng thời cơ mới truyền lại cho chúng sinh. Ví có một nhà vua sau khi
dẹp tan bọn giậc xâm lấn lãnh thổ nên nhà vua tùy theo công trạng mà
tưởng thưởng cho quan quân đánh giặc. Nhà vua đem vàng bạc, châu báu,
đất đai, y phục mà trao tặng cho tướng sĩ, nhưng đối với vị tướng có
công trạng nhiều nhất thì nhà vua lấy viên ngọc vô giá trên mão của mình
mà trao tặng. Ở đây đức Phật cũng vậy, khi các bậc Hiền Thánh đã đoạn
trừ tất cả các lậu, chiến thắng ngũ uẩn ma, phiền não ma, tử ma, diệt
sạch mầm mống tham sân si, thoát ra khỏi nhà tam giới tức là các ngài đã
lập được đại công cho nên đức Phật mới đem bảo vật cao quý nhất là kinh
Pháp Hoa mà trao tặng.
Thế nào là ngũ uẩn ma?
Ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
năm thành tố kiến tạo ra con người nói riêng và vạn vật vũ trụ nói
chung. Ngũ uẩn là thân và tâm hay còn gọi là “con người”. Đây là một cá
thể do vật chất và tinh thần hợp thành. Nói một cách rộng rãi hơn vật
chất và tinh thần hợp thành vạn vật trong vũ trụ. Nhưng con người thật,
tức là “chân nhân”, không phải chỉ là của xác thịt và
tình cảm mà nó là những thứ bất sanh, bất diệt, không tăng, không giảm,
trước sau như một mà Bát Nhã Tâm Kinh gọi cái đó là “Không” và những
kinh khác gọi là Chơn tâm, Diệu Hữu Chơn Không, Thực Tánh, Phật Tánh,
Linh Quang…
Tất cả những phiền não, lo âu, khổ sở…của
chúng ta mà kinh Pháp Hoa gọi là ma đều do cái thân ngũ uẩn mà ra. Thân
kêu đói, chúng ta lầm tưởng là cái Ta thật đói, thân muốn ăn ngon,
chúng ta lầm tưởng là cái Ta đòi ăn. Ai mắng chửi, mạt sát, chúng ta
giận vì tin rằng họ đụng chạm tới cái Ta của mình. Nhưng tất cả những
phản ứng của cơ thể hoặc của thói quen, quan niệm, hay thành kiến kia
thật ra không dính dấp gì tới cái Ta thật hết. Nếu nhận thấy ngũ uẩn là
không, có nghĩa thân nầy là giả Có thì chúng ta không còn quan tâm lo
lắng và phiền não nữa. Có ai nói nặng nhẹ thì mình cũng thản nhiên vì thân không thật nên chúng ta quan tâm, bảo vệ cái không thật để làm gì?
Chúng ta ăn uống để sống cũng như dùng bè để qua sông chớ không nên
cung phụng, nô lệ cho cái thân giả nầy. Có sơn son, thép vàng cho cái bè
thì cũng phải bỏ chiếc bè khi qua sông mà thôi. Vì thế cho dù chúng ta
có cưng chìu, nâng niu cái thân giả nầy thì một ngày nào đó cũng phải để
lại cho cát bụi mà đi.
Đức Phật muốn cho chúng ta thấu hiểu
tường tận rằng con người có làm bao nhiêu điều tội lỗi, gây ra lắm
nghiệp căn để phải chịu quả báo khổ đời đời cũng tại vì nhận lầm ngũ uẩn
là thật Có. Chính cái lầm lẫn nầy mà tam độc, tức là Tham-Sân-Si nẩy
sinh để gánh chịu khổ đau. Thật vậy vì ái thân, nên lòng tham phát khởi
để cố gắng tạo nhà thật sang, xe tuyệt đẹp, tiền dư bạc để, danh vọng
cao sang. Mà muốn thỏa mãn lòng tham nầy thì con người phải khổ. Hoặc
nếu không thỏa mãn được lòng tham thì tâm sân sẽ nổi lên để biến cuộc
đời đang an vui thành trăm điều phiền não. Một khi phiền não quấy phá
thì chúng ta đâu còn trí tuệ để xét đoán việc đời bởi vì vô minh, tức là
si mê đã che lấp đỉnh cao trí tuệ làm cho tâm con người u ám, ngu si.
Do đó nếu biết thân nầy là giả Có, tức là
không thật Có thì chúng ta không làm nô lệ cho nó. Chúng ta chỉ dùng nó
như chiếc bè để qua sông. Khi ngồi trên bè thì chúng ta lái nó chớ đừng
cho giòng nước cuốn chiếc bè theo, tức là không chạy theo lục dục thất
tình. Ai khen, ai tâng bốc thì cũng không màng vì thân nầy không thật.
Ai chê, ai mắng thì cũng không giận, không bất mãn vì thân nầy là giả
Có. Ví dụ có người lổ mãng nói xấu hay chửi mắng mà chúng ta vẫn tự
nhiên. Không phải là chúng ta lì hay chai mặt nhưng chúng ta tư duy quán
chiếu thân nầy là giả thì thắng thua để làm gì. Ngày xưa có người Bà la
môn đi theo chửi mắng đức Phật rất thậm tệ. Hắn càng chửi thì đức Phật
càng thản nhiên. Sau cùng hắn chạy theo la lớn:”Này Cù Đàm! Ông có điếc
không? Sao ta chửi mà ông không đáp lại? Đức Phật ôn tồn đáp:”Nếu có
người tặng quà mà người khác không nhận thì món quà ấy thuộc về ai?” Ý
Phật muốn nói là ông chửi thì ông nghe vậy thôi. Ta chẳng hề quan tâm
đến thì đâu có phiền não. Nhìn thân mình là giả cũng không đủ mà phải
nhìn tất cả chúng sinh và vạn hữu cũng đều mang ngũ uẩn giai không thì
tâm mới an được.
Thân của ta là giả Có và tất cả vạn hữu
chung quanh của ta cũng là giả Có. Vì thế cho dù cuộc đời có thăng trầm
khi lên voi hay xuống chó thì tất cả cũng chỉ nằm trong luật vô thường
là thành, trụ, hoại, không mà thôi. Vì vậy nếu được thì cũng thế mà nếu
mất thì cũng không buồn bởi vì tất cả là Không. Không giận, không hờn,
không tham, không si thì tâm sẽ an định, tức là Niết bàn và dĩ nhiên
cuộc đời làm gì còn khổ ách. Đây chính là con đường Quán tự Tại Bồ tát
thoát khỏi khổ ách để đạt Niết bàn.
Tóm lại, trong thế gian nầy, không có cái
gì là thật có cả. Vạn pháp trong thế giới hữu hình nầy chẳng qua là kết
quả của những duyên khởi tức là ngày nay nếu duyên kết là có, ngày mai
duyên tan là mất, là hoại. Vì thế mới có câu:”Vạn pháp giai không, duyên sanh như huyễn”
là vậy. Thế giới vũ trụ, kể cả con người đều là giả huyễn, là hư vọng
thì lục căn, lục trần, lục thức cũng là hư huyễn, là ảo ảnh, là sương
mai, là điện chớp, là phù du mà thôi. Có ai bắt được làn khói đâu? Con
người vì bị vô minh che lấp nên nghĩ rằng cái gì trong đời nầy cũng
thật, cũng bền chắc nên cố tạo tác, giữ gìn, chấp thủ và từ đó tạo ra
nghiệp nhưng đến khi xuôi tay nhắm mắt mới biết tất cả tan biến như
những làn khói lam chiều. Khi biết được như thế thì con người sẽ không
còn bám giữ tức là trong phá được chấp ngã và ngoài chấp pháp rồi. Khi
thực hành được như vậy thì bên trong tâm không hề bị dao động và bên
ngoài không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi thăng trầm của tạo hóa. Được
như thế thì tâm chắc chắn sẽ thanh tịnh tức là chúng ta đang sống với
chơn tâm, với Phật tánh, với Tri Kiến Phật của chính mình vậy.
Nói chung chúng ta đi chùa, lạy Phật, học
đạo cốt là để có an lạc, nhưng nhìn lại nếu thấy bản thân mình chưa có
an lạc, gia đình chưa có an lạc thì hoặc là mình tu chưa rốt ráo hoặc là
cái học và tu của mình chưa đúng Chánh pháp. Nếu hành giả thực hành
đúng Chánh pháp thì chắc chắn sẽ có an lạc, nếu chưa được trọn vẹn thì
ít ra cũng có an lạc từng phần. Bởi vì những lời dạy của đức Phật là
chân thật, đúng theo chân lý nghĩa là sự thật như thế nào thì Ngài nói
như thế ấy. Lời nói của Phật nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi
người chớ không bao giờ lợi mình hại người khác. Lời nói của Phật trước
sau như một luôn nhắc nhở tất cả chúng sinh đi trên con đường giải thoát
giác ngộ phải tinh tấn đạt đến cứu cánh tối thượng là trí tuệ Bồ Đề và
sau cùng lời dạy của Phật là chân chính, không bao giờ lừa đảo. Con
người trong thế gian sở dĩ có lừa đảo, gian dối với nhau cũng vì quyền
lợi, ngược lại đức Phật không có vì một quyền lợi cá nhân nào. Chính
Ngài có thể sẽ là một ông vua quyền thế trong thiên hạ, nhưng Ngài chấp
nhận bố thí hết cho đời để trở thành người Khất sĩ ôm bình bát đi xin ăn
mà giáo hóa chúng sinh. Tiến trình giải thoát để có an lạc là Giới Định
Tuệ vì thế người nào giữ Giới nghiêm minh thì chắc chắn họ sẽ có an vui
tự tại. Giữ một phần Giới thì có một phần an lạc và cứ như thế mà tiến
tu.