Chánh Tri Kiến
Chánh tri kiến là thấy biết một cách sáng suốt. Mọi sự việc muốn được
thấy biết phân biệt rõ ràng, tốt xấu, thiện ác, phải quấy thì cần phải
trau dồi học hỏi. Trau dồi trí tuệ, nói theo thế tục, gọi là học hỏi ở
trong trường hay ngoài đời để tư tưởng ngày thêm phong phú; nói theo đạo
pháp, đó là thanh lọc dòng tâm thức vốn chứa những mầm móng của vô
minh-- là hành trình tu dưỡng thân tâm theo Bát Chánh Đạo. Tinh túy của
trau dồi Trí Tuệ là thanh lọc dòng tâm thức luôn trôi chảy và giảm trừ
nghiệp chướng trong Tàng Thức đã chất chứa nhiều đời nhiều kiếp. Đó là
một hành động thực hiện phương pháp chuyển Thức (Vô Minh: sự tối tăm)
thành Trí (Giác Ngộ: sự sáng suốt) hay pháp chánh tri kiến. Quán sát
điều giác ngộ 1về thế giới quan của Phật Giáo vô thường, khổ, không, và
vô ngã thì con đường tìm đến chơn thường, chơn lạc, chơn tịnh, và chơn
ngã dễ dàng hơn.
Ðiều giác ngộ 1: tư tưởng về thế giới quan của Phật Giáo
Phiên Âm (Hán văn)
Đệ nhất giác ngộ: Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ
không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ, tâm thị ác
nguyên, hình vi tội tẩu; như thị quán sát, tiệm ly sinh tử.
Dịch Nghĩa (Việt văn)
Điều giác ngộ thứ nhất: Thế gian vốn vô thường, cõi nước rất mong
manh, bốn đại lại khổ không, năm ấm là vô ngã, luôn sinh diệt biến đổi,
giả dối không có chủ, tâm là nguồn việc ác, thân là rừng nghiệp tội; nếu
quán sát như thế, lần lần lìa sinh tử.
a). Thề gian vô thường.
Thế gian cũng đồng nghĩa với vũ tru. Thời gian từ xưa đến nay gọi là
vũ; không gian bốn phương trên dưới gọi là tru. Chúng ta sống trong
không gian vô cùng và thời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế
gian. Thế gian là một thế giới hiện tượng.lưu chuyển mãi không ngừng
nghỉ từng sát-na sanh diệt bất thường như vậy. Không gian luôn biến đ
ổi. Chúng ta cũng chứng kiến được ruộng dâu biến thành bể cả và ngược
lại. Thời gian huyễn hóa làm cho sự vật trở thành sanh trụ họai diệt;
con người thì sanh già bịnh chết. Chúng ta nhận thức đúng đắn và chơn
thật rằng thế gian quả là vô thường.Thế giới hiện tượng vô thường mà sự
vật hiện hữu do nhân duyên kết hợp, do đó chúng không có lúc nào tự mình
độc lập tồn tại.
Chúng tôi muốn bàn đến thời gian và không gian là yếu tố quan trọng
trong vấn đề sanh diệt nhân quả (vô thường). Mọi vật trong không gian
nầy đều bị nhân quả của năng lực Thời Không chi phối. Như trong không
gian có vũ trụ, thái dương hệ.. . , địa cầu. Mọi vật trong địa cầu đều
bị sức hút (trọng lực) làm ảnh hưởng đến chất và lượng của bản thân
chúng; ngay cả trái đất cũng lệ thuộc vào vận hành của thái dương hệ và
chuyển động quanh quỹ đạo v. v.. đều nằm trong không gian. Trọng lực của
trái đất (không gian) và lực cản của sự vật (nội chất), dung chứa trong
không gian là hai lực mâu thuẫn Hút và Cản, tạo ra sự sanh diệt của sự
vật. Lực Kéo của vũ trụ vô cùng to lớn -- trong khi lực Cản của sự vật
quá nhỏ, ngay cả núi Thái Sơn, đối với không gian bao la vô tận cũng
không thấm vào đâu. Cho nên theo thời gian, sự vật sẽ bị lực Kéo (không
gian) hủy diệt mà thôi. Chúng tôi không muốn đề cập đến những nhân duyên
phụ khác (không đáng kể trong trạng thái bình thường so với trọng lực)
như ánh sáng, âm thanh, không khí v. v.. . Tất cả sự vật được dung chứa
trong không gian đều có lực cản của chính nó và bị trọng lực thu hút và
ảnh hưởng của sáu đại khác, có thể gây thêm cho sự vật ấy di động với
những tốc độ khác nhau và có thể làm tổn hại đến chính nó và các sự vật
khác. Trung Không Diệu Hữu cũng có nghĩa là trong không gian chứa biết
bao điều huyền diệu. Trong không gian dung chứa tất cả mầm sanh diệt hay
không gian đồng hóa với mầm sanh diệt tức là không gian coi như là mầm
sanh diệt, vô thường.
b). Cõi Nước Rất Mong Manh.
Cõi nước mong manh (nguy thúy) là điều tất nhiên vì quốc độ nằm trong
(hư không) không gian và ảnh hưởng của thời gian, nên nó cũng biến diệt
và không bền vững. Thế gian vô thường thì quốc độ làm sao an ổn. Do sự
vận hành của vũ tru mà ảnh hưởng của thời gian và không gian làm biến
đổi cõi nước không được an ổn và không còn thật là nó nữa, như động đất,
cháy rừng, đại hống thủy, núi lửa, phong ba bảo tố làm làng xóm hư hại
gây cảnh đau khổ và nguy hại cho con người.
c). Bốn Ðại Khô Không.
“Tứ Ðại Giai Không” là tư tưởng nói đến bản chất và hiện tượng của mọi vật và con người.
Tứ Đại: Catudhatuvavatthana (p)—Mahabhuta (skt)— Four tanmatra(theo
TÐVA)—Bốn yếu tố lớn cấu tạo nên vạn hữu. Bốn thành phần nầy không tách
rời nhau mà liên quan chặt chẽ lẫn nhau. Tuy nhiên, thành phần nầy có
thể có ưu thế hơn thành phần kia. Chúng luôn thay đổi chứ không bao giờ
đứng yên một chỗ trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Theo Phật giáo thì vật
chất chỉ tồn tại được trong khoảng thời gian của 17 chập tư tưởng,
trong khi các khoa học gia thì cho rằng vật chất chỉ chịu đựng được 10
phần 27 của một giây. Nói gì thì nói, thân thể của chúng ta chỉ là tạm
bợ, chỉ do nơi tứ đại hòa hợp giả tạm lại mà hành, nên một khi chết đi
rồi thì thân tan về cát bụi, các chất nước thì từ từ khô cạn để trả về
cho thủy đại, hơi nóng tắt mất, và hơi thở hoàn lại cho gió. Chừng đó
thì thần thức sẽ phải theo các nghiệp lực đã gây tạo lúc còn sanh tiền
mà chuyển vào trong sáu nẻo, cải hình, đổi xác, tiếp tục luân hồi không
dứt. Vì nó do nhân duyên hoà hợp, nên giả tạm, như huyễn, không chân
thật. Trong cái hư giả ấy, con người lại phải chịu hành hạ bởi tám thứ
khổ: Sinh, già, bệnh, chết, ân ái chia lìa, oán thù gặp gỡ, ước muốn
không thành, thân tâm đều khổ. Cho nên nói: Bốn đại khổ không là vậy.
d). Ngũ Ấm Vô Ngã
Theo giáo lý Phật, vạn pháp cấu tạo hình thành theo quy luật DUYÊN
SANH, Y THA KHỞI. Dù hình dạng của sự vật sai khác, nhưng căn bản do ngũ
uẩn hay ng ũ ấm hợp thành..Chính đức Phật đã xác định trong các kinh
điển rằng ngũ ấm hay ngũ uẩn tuy khác nhau về mặt hình thức như uẩn thì
thuộc loại trược khí , ấm thì thuộc loại thanh khí (như sắc ấm là thân
trung ấm), nhưng chúng giống nhau về tánh chất.
Trong kinh A-hàm, Phật dạy ngũ ấm là vô ngã.Phật phân tích cho thấy
thân này có năm phần, gọi là năm ấm. Năm ấm luôn luôn phủ che Phật tánh
có sẵn nơi mọi người.
1- Sắc ấm: là phần thể xác con người do bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành.
2- Thọ ấm: là phần cảm giác khổ vui, gặp cảnh thuận thì thân tâm cảm
thấy thoải mái, vui thích đắm trước; gặp cảnh nghịch thì thân tâm cảm
thấy bực bội buồn bã sân hận. Khi vui thì nói tôi vui, khi buồn thì nói
tôi buồn. Chấp cái vui cái buồn đó là tâm ta.
3- Tưởng ấm: là nhớ tưởng về chuyện quá khứ, mơ ước những chuyện tương lai, rồi chấp chặt cái nhớ tưởng đó là tâm ta.
4- Hành ấm: là sự nghĩ suy tính toán phát ra hành nghiệp, rồi chấp chặt cái suy nghĩ tính toán đó là tâm ta.
5- Thức ấm: là sự phân biệt cái này tốt cái kia xấu, cái này hay cái kia dở… rồi chấp cái phân biệt đó là tâm ta.
Như thế, chấp sắc là thân ta, chấp thọ là tâm ta, chấp tưởng là tâm
ta, chấp hành là tâm ta, chấp thức là tâm ta. Chấp như vậy thì một người
có năm cái ta. Một người mà có năm cái ta có hợp lý không? Sắc thân có
đây rồi sẽ hoại diệt tan rã. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là pháp sanh
diệt, chợt hiện chợt mất, không thường không thật, lại mê chấp là thường
là thật là ta. Vì vậy mà bị nó kéo đi mãi trong vòng sanh tử không
dừng.
Giờ đây nghe Phật nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức là cái không thật,
không thường hằng, có đó rồi mất đó, là cái sanh diệt không thật là ta,
là vô ngã. Thấy biết rõ như vậy là giác ngộ. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm,
Phật dụ những cái sanh diệt có rồi mất là khách, vì nó đến rồi đi, nên
không phải là chủ. Nếu là chủ thì không mất, lúc nào cũng hằng hữu. Thế
mà chúng ta nhận cái chợt có chợt không đó là mình, tức là nhận khách
làm chủ; do mê lầm như thế nên trầm luân sanh tử. Chúng ta thấy rõ sắc,
thọ, tưởng, hành, thức không phải là ta, nó là tạm bợ, có rồi mất, đó là
chúng ta đã thấu suốt được lý vô ngã mà Phật đã dạy.
Theo “Bát Nhã Tâm Kinh Qua Lăng Kính Thời Không: Quán Tự Tại hành
thâm Bát Nhã Ba La Mật Ða thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất
thế khổ ách.
Quán Tự Tại Bồ Tát, chủ thể quan sát, hay hành giả, trong quá trình
tư duy sâu sắc (Trí quan sát) mới thấy được ngũ uẩn đều không, nên vượt
qua mọi khổ ách.
Khi hành thâm: tức qua một thời gian thực hành nghiền ngẫm với Trí
rộng khắp nhiều phương diện, lúc ấy mới thấy được ngũ uẩn đều không.
Không ở đây là hai giai tầng thực tại của Tánh Không. Tánh Không thứ
nhất là Tướng Không của ngũ uẩn (dung thể Không của ngũ uẩn chiếm trong
không gian: Tướng không của Sắc và Sắc là Một, tức Sắc không khác Không
và Không không khác Sắc) tức là Tự tính Tuyệt đối; còn Tánh Không thứ
hai là không thật là nó nữa (như Sắc tức thị không nghĩa là Sắc trong 1
sát-na đã biến thành không thật là Sắc nguyên thủy: Sắc 0 tuổi và Sắc
+1sát-na tuổi) là thực tại giả lập do lịch trình huyễn hóa ngũ uẩn. Cho
nên suy xét kỹ thì thấy rõ mọi khổ ách (là quá khứ: Sắc tức thị không=
Sắc qua 1 sát-na thì không còn thật Sắc nguyên thuỷ nữa) -- khi ở thể
không tuyệt đối (hư không) -- không thể chạm vào hư không được dù hiện
tại hay quá khứ. Còn ở thực tại giả lập, khổ ách quá khứ thì hiện tại
không còn nữa. Sự đau khổ đã qua đi,chúng ta chỉ còn vương vấn trong ký
ức và luôn lập lại bằng ảo giác âm vang trong tâm thức mà thôi.
Cái Ngã có hiện hữu trong ngũ ấm của chúng ta hay không? Ngũ ấm có
thể chia ra thành những tư tưởng về Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, Quá khứ,
Hiện tại và Vị lai. Cái Ngã không thể là tổng số các thời liệu đó, vì lẽ
nó không hề có vào bất cứ đ ịa h ạt vào thời điểm đặc biệt nào. Ngũ ấm
giai không nên không thể là năm cái tôi. Quá khứ đã qua không còn nữa,
làm sao cái tôi thuộc về Ký ức. Tương lai chưa đến, thì làm sao có cái
Tôi được. Chỉ còn hiện tại. Để tồn tại, cái tôi cần phải có đặc tánh rõ
ràng, phải thường hằng bất biến chứ không phải chợt có chợt không .
Nhưng nó không có hình thể, màu sắc nơi chốn ,nhất đ ịnh. Càng tìm, càng
không tìm ra nó. Cái Tôi chỉ là một cái nhãn hiệu dán lên ng ũ ấm một
sự hiện hữu liên tục. Nhận định như vậy giúp con người giảm nhẹ đi ý
niệm xem "cái Tôi" như là một thực thể tối thượng bắt buộc chúng muốn
những gì chúng ta thích và ghét bỏ những gì chúng ta không ưa. Cảm giác
về cái Tôi đó khiến cho con người tách rời ra khỏi thiên hạ. Và cũng
chính từ những tình cảm yêu ghét sai lạc đó, dấy lên những tư tưởng và
tình cảm khởi điểm cho những lời nói và hành động đưa đến Đau Khổ. Khám
phá bằng kinh nghiệm trực tiếp, bằng phân tích, bằng thiền định rằng cái
"Ngã" không thật có (hay cái vô ng ã), sẽ là một diẽn trình đi đến giải
thoát. Như giải thích trong kinh Bát Nhã thì ngữ uẩn hay ng ũ ấm đều có
tánh không hay ngũ ấm vô ngã.
e). Sinh Diệt Biến Dị.
- Sự Sanh Diệt Từ Vật Chất
Hiện tượng vô thường của sự vật hiện hữu do nhân duyên kết hợp, do đó
chúng không có lúc nào tự mình độc lập tồn tại. Rõ ràng chúng có sanh
ra thì có lúc phải hủy diệt vì lẽ có sự trao đổi vật chất và năng lượng
với môi trường chung quanh. Trong vật lý học, việc bảo tồn năng lượng
cho biết năng lượng không sanh ra và không biến đi mà chỉ có thể thay
đổi. Khi sự giao lưu năng lượng và vật chất của mỗi hữu thể với bên
ngoài, hữu thể đó tạm thời ổn định cân bằng vì phải tiêu tán năng lượng
và vật chất, nên thay cũ đổi mới để tồn tại. Sự trao đổi vật chất và
năng lượng của hữu thể trong không gian là lịch trình sanh trụ hoại
diệt. Sự giao lưu vật chất và năng lượng của xác thân con người với bên
ngoài được tạm thời hiện hữu là lịch trình sanh lão bịnh tử. Sự vật hiện
hữu do duyên họp, khi duyên tan thì hoại không, theo lý Duyên Khởi
Sự Sanh Diệt Từ Vật Chất Đến Phi Vật Chất
Sự giao lưu năng lượng và vật chất với bên ngoài nên bản thân sự vật
không những lệ thuộc vào nhân duyên nội tại mà phải bị ảnh hưởng nhiều
bởi môi trường ngoại giới. Như ảnh hưởng vật chất từ thức ăn đến sinh
dục con người, mà những yếu tố sinh lý ấy ảnh hưởng lớn đến tư tưởng
tình cảm và hành động. Khi không thỏa mãn dục tính hoặc đói khát, sanh
ra đau khổ, phiền não; còn khi đã thỏa mãn sinh lý thì cảm thấy sung
sướng và khoái lạc.Hệ thống cân bằng sinh lý của con người được tạm thời
ổn định là lịch trình tiêu tán của trạng thái đau khổ và khoái lạc. Lý
Duyên Khởi được nhận thức sâu sắc qua Sự sanh diệt làm biến dị sự vật và
chúng sanh.
f). Thân Là Rừng Nghiệp Tội;
Nghiệp và Quả Báo—Karmas and Recompenses. Nghiệp là sản phẩm của
thân, khẩu, ý, như hạt giống được gieo trồng, còn quả báo là kết quả của
nghiệp, như cây trái. Khi thân làm việc tốt, khẩu nói lời hay, ý nghĩ
chuyện đẹp, thì nghiệp là hạt giống thiện. Ngược lại thì nghiệp là hạt
giống ác. Chính vì vậy mà Đức Phật dạy: “Muốn sống một đời cao đẹp, các
con phải từng ngày từng giờ cố gắng kiểm soát những hoạt động nơi thân
khẩu ý chớ đừng để cho những hoạt động nầy làm hại cả ta lẫn người.”
Nghiệp và quả báo tương ứng không sai chạy. Giống lành sanh cây tốt quả
ngon, trong khi giống xấu thì cây xấu quả tệ là chuyện tất nhiên. Như
vậy, trừ khi nào chúng ta hiểu rõ ràng và hành trì tinh chuyên theo luật
nhân quả hay nghiệp báo, chúng ta không thể nào kiểm soát hay kinh qua
một cuộc sống như chúng ta ao ước đâu. Theo Phật Pháp thì không có thiên
thần quỷ vật nào có thể áp đặt sức mạnh lên chúng ta, mà chúng ta có
hoàn toàn tự do xây dựng cuộc sống theo cách mình muốn. Nếu chúng ta
tích tụ thiện nghiệp, thì quả báo phải là hạnh phúc sướng vui, chứ không
có ma quỷ nào có thể làm hại được chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta gây
tạo ác nghiệp, dù có lạy lục van xin thì hậu quả vẫn phải là đắng cay
đau khổ, không có trời nào có thể cứu lấy chúng ta. Ý (Tâm) khởi niệm,
thân làm theo, tất cả hành vi đã làm hoặc khởi niệm mà chưa làm đều gọi
là nghiệp. Tạo thiện nghiệp được phước báo, tạo ác nghiệp bị khổ báo,
gọi là nghiệp báo. Hành vi do thân tâm sở khởi, sở tác, huân nhiễm nơi
thức thứ tám thành chủng tử, tức là nghiệp nhân. Gặp duyên mà hiện hành,
tức là nghiệp quả. Bất cứ thiện nghiệp hoặc ác nghiệp đều là chướng
ngại sự kiến tánh giải thoát, nên gọi là nghiệp chướng, nên điều giác
ngộ 1, Phật dạy, nếu quán sát như thế, lần lần lìa sinh tử
Giải Thoát Tri Kiến
Giải thóat là xa lìa mọi sai lầm của các pháp của tâm thức, không bị
xúc thọ ái ràng buộc."trong sự giải thoát là sự hiểu biết." Rỏ ràng hơn
trong sự giác ngộ bằng nhận thức các tri kiến dù là chánh tri kiến đi
nữa thì chỉ là những tri thức thuàn lý, chưa giải thoát khỏi tri thức
bên trong của tâm trí. Ðó là pháp học để có kiến thức, và chỉ là sự giác
ngộ cái bóng dáng của tri kiến, mà cần phải thực hành để thâm nhập vào
tâm trí những tri kiến thật sự, để diệt tận mọi hình thái tri kiến giả
danh.Thật vậy, sự hiểu biết sáng suốt, là tuệ tri, là cái biết rõ ràng,
cái biết sát na hiện tiền, cái biết vô thời không. Khi hành giả tuệ tri
(biết của Trí) về tri kiến và không có thời gian, thì xúc, thọ, ái không
có kẻ hở để khởi sanh. Như hành giả quán, " tuệ tri ' Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái
này nữa" thì dòng tâm thức ngừng chảy (vô thời không), tức là không suy
nghĩ thêm quan niệm , hay tư tưởng gì về tri kiến đó. Khi xúc, thọ, ái
không khởi sanh trong tâm, thì đoạn diệt được thân kiến cũng như chúng
không ràng buộc và gây ba độc, thì lúc ấy được giải thoát khỏi các lậu
hoặc và không có chấp thủ. Giác Ngộ là Biết Gặp Thực Tướng của Vạn Hữu,
là Giải Thoát khỏi nhận thức sai lầm về Tự Tính Giả Lập hay Tùy Thuộc
của chúng, không còn hệ lụy đến sở tri hay tự ngã, không còn dính dáng
đến vô minh khổ ưu sanh tử luân hồi.
Thiền định là phương tiện tối ưu để tuệ quán thực tướng sự vật mà giải thoát khỏi dòng sanh diệt.
Thường xuyên thực hành như sau để giác ngộ thiện pháp trong lúc ngồi thiền:
a)- Ðịnh Niệm Xứ
Tôi Tuệ tri thế giới là vô thường
Tôi Tuệ tri vũ trụ lưu chuyển và thay đổi không cố định
Tôi Tuệ tri không gian là hư ảo
Tôi Tuệ tri thời gan là huyễn hóa
Tôi Tuệ tri cõi nước thì mong manh, biến đổi không bền vững
Tôi Tuệ tri ngũ ấm thì vô ngã
Tôi Tuệ tri sanh diệt biến dị
Tôi Tuệ tri thân là rừng nghiệp tội, v.v...
Hay dùng
b)- Ðịnh Niệm Hơi Thở và Niệm Xứ
Khi thở vô, Tôi biết thế giới là vô thường
Khi thở ra,, Tôi biết thế giới là vô thường
Có thể dùng một đề mục nầy trong thời thiền hoặc dùng nhiều đề mục khác nữa.
Và các niệm sau cũng kết hợp với định niệm hơi thở vô ra như trên.
Tôi biết vũ trụ lưu chuyển và thay đổi không cố định
Tôi biết không gian là hư ảo
Tôi biết thời gan là huyễn hóa
Tôi biết cõi nước thì mong manh, biến đổi không bền vững
Tôi biết ngũ ấm thì vô ngã
Tôi biết sanh diệt biến dị
Tôi biết thân là rừng nghiệp tội, v.v...
Nếu tuệ quán sát như thế, lần lần lìa sinh tử
Kết Luận.
Ðiều gác ngộ thứ nhất về tri kiến thuần lý đưa chúng ta đến tư tưởng
thấm nhuần những bài học về thế giới quan của Phật Giáo, những chân
tướng của vạn hữu mà có những tư tưởng đúng đắn về thế giới vô thường,
thái độ khẳng định tin tưởng con đường đi đến Niết Bàn. Tạo ý nghĩ trong
tâm để rèn luyện trí tuệ thiện pháp để được thanh thản, nhẹ nhàng dòng
tâm thức không bị đè nặng bởi những pháp bất thiện.Trong thế giới quan
được nhận xét là sự sống con người là mỏng manh vô thường. vô vọng và
cần có những tư tưởng nhận định về cuộc sống nầy một cách tích cực không
còn bị lôi kéo bởi các pháp bất thiện. và có pháp giải thoát để đạt đến
cái thường hằng, thường lạc, thường tịnh và thường ngã. Khi giải thoát
được tri kiến thuàn lý thì mở ra con đường giác ngộ thật sự, vượt khỏi
dòng bộc lưu sanh diệt, vì lẻ chúng ta không dùng tưởng tri hay quán
tưởng tri kiến thuần lý vì còn liên hệ đế sở tri và tự ngã mà phải dùng
tuệ tri hay tuệ quán để nhận thức tri kiến chơn thật và vô ngã, lần lần
lìa sanh tử.
Tham khảo
Kinh Bát Ðại Nhân Giác do HT. Thích Thanh Từ v à Thích Minh Quang
Việt dịch trích trong website Quảng Ðức: http://www.quangduc.com
Nhất Nguyên Luận. Phổ Nguyệt trích trong websie Tạng Thư Phật Học:
http: www.tangthuphathoc.net
Thực Tại và Chí Ðạo. Phổ Nguyệt, trích trong website Tạng Thư Phật Học.
TÐPHVA.Tự Ðiển Phật Hoc Việt Anh. Thiện Phúc trích trong website Quảng Ðức