KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Bảy
Phẩm HÓA THÀNH DỤ
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà & Mỹ Ngân
Hóa Thành Dụ là ví dụ hóa ra cái thành
tạm cho kẻ du hành đi trên con đường dài mệt mỏi tạm nghỉ chân để rồi
tiếp tục cuộc hành trình cho đến nơi đến chốn. Giáo lý Phật Đà cũng thế,
đức Phật chỉ có một con đường để chúng sinh thành tựu Nhất Thiết Trí là
Phật thừa, nhưng đường còn xa mà chúng sinh quá mỏi mệt nên đức Phật
mới tạo ra hóa thành, đó là Niết bàn của Tiểu thừa. Nhưng ngặt nổi, khi
nếm được hương vị Niết bàn của Tiểu thừa, hàng Thanh Văn lại thỏa mãn ở
cảnh giới tạm thời này, cho đó là cứu cánh nên không muốn tiếp tục tu
nữa. Vì thế đức Phật nói Hóa Thành Dụ nhằm nhắn nhủ hàng Thanh Văn,
Duyên Giác rằng Niết bàn họ có chỉ là tạm, không phải cứu cánh. Cứu cánh
phải là đạt đến quả vị Phật và Niết bàn bây giờ mới là bảo sở nghĩa là
nơi chứa đầy châu báu tức là Vô thượng Niết bàn.
Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:
-Thuở quá khứ, vô lượng
vô biên bất khả tư nghì a-tăng-kỳ kiếp. Hồi ấy có đức Phật hiệu là Đại
Thông Trí Thắng Như Lai. Nước của Phật tên là Hảo Thành. Kiếp tên Đại
Tướng. Từ đức Phật đó diệt độ đến nay rất lâu xa. Ví như đất của cõi tam
thiên đại thiên, giả sử có người đem mài mực rồi đi khỏi 1.000 cõi nước
ở phương Đông, chấm một điểm chừng như hạt bụi, lại đi qua 1.000 cõi
nước nữa chấm một điểm, cứ như thế, lần lượt chấm cho hết nước mực nói
trên.
-Nầy các Tỳ-kheo! Những cõi nước
của người đó qua, hoặc có chấm mực hoặc không có chấm mực, đều đem
nghiền nát ra làm bụi. Một hạt bụi kể là một kiếp. Từ đức Phật đó diệt
độ đến nay lâu hơn số đó vô lượng nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng
sức Tri Kiến Như Lai xem việc lâu xa đó, dường như việc ở hiện nay.
A tăng kỳ kiếp là kiếp không thể dùng con
số mà nói ra được. Nó vượt ra ngoài số lượng của toán học. Thí dụ số
lớn nhất trong toán học là vô cực, vô tận (∞, infinity). A tăng kỳ đã là
vô lượng, nhưng ở đây kinh lại cộng thêm vô lượng vô biên bất khả tư
nghì vào A tăng kỳ thì thời gian ấy quả là dài vô tận không có ngôn ngữ
nào của con người có thể diễn tả cho được. Đức Phật Thích Ca kể lại câu
chuyện của một vị Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng từ kiếp xa xưa. Từ đó
đến nay quá xa. Ví như lấy tam thiên đại thiên quả địa cầu đem nghiền
nát ra thành mực, rồi cứ đi về phương Đông cách khoảng 1000 cõi nước
liền chấm một điểm nhỏ và cứ thế mà chấm cho đến khi hết mực. Bây giờ
đem những thế giới chấm mực và không chấm mực nghiền nát thành bụi và
mỗi hạt bụi kể là một kiếp. Thế thì có vô vàn thế giới, vô vàn hạt bụi
và có vô vàn kiếp không thể nào nói hết được. Đó là thời gian từ khi đức
Phật Đại Thông Trí Thăng ra đời cho đến nay. Dài vô hạn không biết là
bao nhiêu mà nói. Thế mà đức Phật Thích Ca dùng Tri Kiến Phật nhớ thời
gian dài lâu vô cùng vô tận đó như việc đang xảy ra bây giờ. Nếu dựa
theo Sự mà nói thì có thời gian dài ngắn. Thí dụ như ngày, tháng, năm
chẳng qua là khái niệm về thời gian do con người đặt ra chớ không có chi
là thật cả. Bởi vì một ngày trên những hành tinh khác rất dài so với
một ngày trên quả địa cầu này cho nên ngày nào là ngày thật? Ở đây, kinh
nói về Lý là nói về chân lý tuyệt đối không biến thiên theo thời gian
và không gian. Bởi vì trong tánh không thì không có hình tướng, không
sanh, không diệt, không già, không trẻ nên không có khái niệm về thời
gian. Đó là Phật nói về Pháp tánh bất sinh bất diệt chớ không phải pháp
tướng sinh diệt.
Phàm nhân nhìn đời, thế gian, vũ trụ bằng
nhục nhãn cho nên họ thấy thế giới hiện tượng là thật tức là thấy có
nhà cửa, xe cộ, trời trăng, mây nước, chim bay, cá lặn…Vì thấy thế gian
là thật có nên từ đó mới phát sinh ra khái niệm về không gian và thời
gian. Bây giờ hãy lấy bình hoa làm thí dụ. Khi mắt nhìn bình hoa hoa thì
con người nghĩ rằng bình hoa được kết thành bởi nhiều nhánh hoa, nào là
hoa hồng, hoa huệ, hoa cúc với màu xanh, màu đỏ, màu vàng khiến cho ta ý
niệm về không gian. Tuy bình hoa hôm nay còn tươi đẹp, nhưng tuần sau
nó bắt đầu héo úa rồi rơi rụng tả tơi. Khi thấy sự vô thường của bình
hoa khiến cho con người phát sinh ra khái niệm về thời gian. Nói tóm lại
con người dựa trên phương diện vật chất mà thấy có không gian rộng
chật, dài ngắn và thời gian mau chậm. Có khái niệm về thời gian là có ý
niệm về sự vô thường tạm bợ, của sự bất toại ý dẫn đến biết bao những
nỗi khổ đau của con ngýời. Vì thế nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển trong bài Thu
Hát Cho Người có câu:”Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người; Biệt
ly nào không muộn phiền trên dấu môi?”.
Nhưng ở đây, đức Phật dùng Phật nhãn để
quán tức là Ngài dùng Nhất Thiết Chủng Trí để nhận biết rằng thật tướng
của vạn pháp là không tướng. Mà trong không tướng, thế giới trở thành
không sanh, không diệt nên không hề bị giới hạn của thời gian, không
gian. Vì vậy cho dù kinh có nói thời gian dài vô lượng kiếp xa xưa thì
đức Phật vẫn nhớ như thấy hiện tại, đang xảy ra ngay bây giờ.
Ngày xưa, đức Phật tọa thiền 49 ngày đêm
dưới cội Bồ Đề đến khi sao mai mọc thì Ngài chứng Lục Thông và đắc Tam
Minh trở thành bậc Vô thượng Bồ Đề cho nên Lục Thông (lục thần thông) là
sáu diệu dụng vô ngại tự tại của Phật. Đó là:
1)Thần túc thông: Năng lực hiện thân tùy ý muốn tự tại vô ngại.
Dựa theo Luận Đại Tì Bà Sa thì có 3 thứ thần dụng:
-Vận thân thần dụng: Thân bay lên hư không giống như chim bay, bay nhẹ nhàng như tiên.
-Thắng giải thần dụng: Ở xa mà thấy như gần, nương vào năng lực này thì tuy thân ở thế giới Ta Bà mà tay với tới mặt trăng, mặt trời.
-Ý thế thần dụng: Nhãn thức có thể lên tới những siêu việt vô biên thế giới.
Còn theo Luận Đại Trí Độ của ngài Long Thọ thì có 3 thứ Như ý:
-Năng đáo: Thân
bay đi được, giống như chim bay vô ngại. Dời xa lại gần, không đi mà
đến. Biến mất nơi đây, xuất hiện nơi khác. Trong một niệm là đến nơi.
-Chuyển biến: Lớn biến thành nhỏ, nhỏ biến thành lớn. Một biến thành nhiều, nhiều biến thành một cho nên mọi vật đều có thể chuyển biến.
-Thánh như ý:
Tức năng quán vật bất tịnh không đáng ưa thích của 6 trần là tịnh, quán
vật thanh tịnh đáng ưa là bất tịnh. Pháp thánh như ý này chỉ Phật mới
có.
2)Thiên nhĩ thông: Có thể nghe tất cả những ngôn ngữ, âm thanh, vui, sướng, khổ của chúng sinh trong 6 đường.
3)Thiên nhãn thông: Có
thể thấy được tướng khổ, vui, sống, chết của chúng sinh trong 6 đường và
thấy tất cả hình sắc, chủng loại trong thế gian không gì ngăn ngại.
4)Tha tâm thông: Có thể biết sự suy nghĩ của chúng sinh trong 6 đường.
5)Túc mạng thông: Có thể biết thọ mạng, việc làm của chính mình và chúng sinh trong 6 đường, từ trăm nghìn muôn kiếp.
6)Lậu tận trí chứng thông: Đoạn trừ hết Kiến Hoặc và Tư Hoặc trong 3 cõi, chẳng bị sự sinh tử trong 3 cõi trói buộc mà được sức thần thông lậu tận.
Tuy nói Lục Thông, nhưng ba pháp Thiên nhãn thông, Túc mạng thông và Lậu tận thông còn được gọi là Tam Minh.
Bây giờ hãy triển khai ý nghĩa của Lục Thông ở trên để có thể áp dụng vào trong đời sống của chúng ta.
Thần có nghĩa bất tư nghì, việc làm mà
người thường không thể làm được. Thông có nghĩa là vô ngại, thông suốt
tức là không còn ngăn ngại.
-Thiên nhãn thông: Khi mắt thấy biết rằng
thực tướng của vạn pháp là vô tướng nên trong cái thấy đó không có sự
ngăn ngại bởi không gian và thời gian vì thế giới bây giờ trở thành một,
đó là một là tất cả và tất cả là một.
-Thiên nhĩ thông: Nếu chúng sinh dùng lỗ
tai (thịt) để nghe thì chắc chắn sẽ bị ngăn ngại. Tại sao? Bởi vì khi
nghe những tiếng nói không hài hòng khiến tâm bực bội, khó chịu. Thí dụ
vợ chồng, con cái bất ổn, thường hay cải vã, lời qua tiếng lại cũng vì
tư tưởng khác đồng chuyển qua lời nói làm cho người nghe chịu không nổi,
đâm ra bực tức, rồi sinh ra chửi bới, đánh đấm…cuối cùng dẫn nhau ra
tòa ly dị…hoặc vào tù ra khám. Đó cũng tại vì chấp lời nói là thật nên
bị ngại. Bây giờ nếu hiểu Phật pháp thì không chấp vào lời nói thị phi
của người khác. Tại sao? Bởi vì trên thế gian này chỉ có ta mới thật sự
hiểu rõ ta mà thôi, không một người nào khác có thể biết ta bằng ta
được. Thí dụ một người chê ta, khen ta là người xấu, người tốt thì họ
chỉ dựa theo kiến giải và kinh nghiệm bản thân họ mà so sánh, đánh giá
người khác chớ làm sao họ biết ta bằng chính ta. Mình tốt bao nhiêu mình
biết, mình xấu bao nhiêu thì cũng chính mình biết. Vì thế nếu mình là
người xấu mà có người khen tặng mình thì thì lời nói kia đâu có giá trị
gì chỉ tạo cho ta sống trong ảo tưởng. Ngược lại nếu mình là người tốt
mà có ai chê ta thế này thế kia thì ta cứ mặc họ. Nên nhớ những tiếng
thị phi, những lời khen chê ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có chẳng khác
nào thời tiết nóng lạnh bất thường. Do đó người biết tự chủ tâm mình là
người không chạy theo khách trần phiền não cho nên nghe mà như không
nghe gì hết, trong ngoài tự tại, không còn ngăn ngại thì chính ta đã
chứng được Thiên nhĩ thông rồi.
Tóm lại, thấy thì cái gì cũng thấy, thấy
tất cả mà như không thấy gì hết, tâm không dính mắc, không còn ngăn ngại
là có Thiên nhãn thông.
Kinh điển thường nói “Nhục nhãn ngại phi
thông. Còn thiên nhãn thông phi ngại” nghĩa là nhìn thấy bằng mắt thịt
thì sẽ bị ngăn ngại, không thông suốt tại vì tâm còn chấp. Ngược lại,
dùng thiên nhãn tức là dùng mắt trí tuệ để quán xét thì tất cả sẽ thông
suốt, không còn ngăn ngại. Từ đó cuộc sống sẽ an vui tự tại.
Các thông còn lại cũng y như vậy. Vì thế
chúng sinh hằng ngày nên bồi dưỡng trí tuệ của mình bằng cách sống trong
Tĩnh thức Chánh niệm để chứng từng món thông mà biến cuộc đời từ phiền
não ưu bi trở thành thanh tịnh, thánh thoát, an vui, tự tại. Thí dụ muốn
có Thiên nhãn thông thì mắt vẫn thấy sắc như nhà to, xe đẹp, áo lụa,
quần là…Nếu là người thường thì dễ bị nó lôi cuốn, nhận chìm, mê hoặc
vào đó, nhưng đối với người có tư duy chánh niệm thì nhận thức được hiện
tượng của vạn pháp là vô thường, khổ, không, bất tịnhnên tâm họ không
hề dính mắc. Nói cách khác họ quán rằngvạn pháp là không, duyên sanh như
huyễnnghĩa là tất cả mọi vật thể trong thế gian này dù to lớn như mặt
trời, mặt trăng hay nhỏ như hạt cát như vi trần đều do duyên khởi tác
tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinh khởi hay tồn tại được cho nên
vật thể là vô ngã, không có tự thể nên tuy là có, là thấy sờ sờ ở đó
nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa, tiêu hoại nên gọi là không. Do
đó,cái không của Phật giáo là không tham đắm, si mê, không chấp thủ chạy
theo hình sắc sinh diệt chớ không phải dùng thần thông hay quán làm
biến đi tất cả.Vì thế, người có tư duy, có chánh niệm khi thấy đóa hoa
đẹp thì họ vẫn biết cái đẹp của hoa đấy chứ, nhưng họ quán rằng đóa hoa
là nhờ trùng trùng duyên khởi mà thành cho nên đến tuần sau đóa hoa bắt
đầu héo úa, tàn phai rồi trở thành phân bón cho nên nhìn đóa hoa thì họ
cũng nhìn, cũng biết nó đẹp, nhưng không đắm nhiễm say mê, lúc nào cũng
tự tại với sắc đẹp. Do đó lấy đóa hoa làm tiêu chuẩn để nhìn tất cả
những hình sắc khác trên thế gian này cho nên tuy mắt nhìn các loại trân
châu quý báu, đẹp đẽ đến đâu thì nó cũng là loại vô thường hoại diệt.
Ngược lại nếu nhìn theo con mắt của phàm nhân thì tham đắm, say mê rồi
bảo thủ đem về làm của riêng cho mình đưa đến tranh chấp, chiến tranh
giết hại lẫn nhau. Nói tóm lại, người biết đạo thấy đẹp thì cũng biết là
đẹp, nhưng họ biết vật chất đó từ “Không” mà “Có” vì thế một ngày nào
đó từ “Có” sẽ trở thành “Không” cho nên thấy tất cả vật chất nhưng không
bị chúng lôi cuốn nhận chìm nên họ mới có an nhiên tự tại được. Đó
chính là “Kiến sắc phi can sắc” vậy.
Vì vậy thần thông được hiểu là bất tư
nghì, vô ngại tự tại. Vô ngại tự tại đối với những việc khó tự tại để
vượt qua những thử thách mà người thường không thể nào tự tại được. Tóm
lại, Người có thần thông là người mà lục căn được sức tự tại vô ngại một
cách bất tư nghì (không thể nói được) mà đối với một người thường không
nghĩ đến được, không thực hành được, không thể chiến thắng được những
dục vọng làm ô nhiễm tâm ý. Đó là mắt đối với sắc, tai đối âm thanh,
lưỡi đối với mùi vị, mũi đối với hương vị, thân đối với cảm xúc và ý đối
với pháp trần mà vẫn được tự tại vô ngại một cách bất tư nghì thì người
đó chứng được lục thông.
Đối với Phật giáo, việc gì đến
sẽ đến, khỏi trông chờ mong đợi chi hết cũng như khi đào ao xong có nước
trong thì ánh trăng hiện xuống. Vì thế nếu hành giả tu theo chánh pháp
mà tâm cầu các thứ thần thông thì sẽ che lấp tâm thanh tịnh của mình.
Cái tâm mong cầu này gọi là Vũ tâm trong sáu mươi tướng vọng tâm sai
biệt của phàm phu (Lục Thập Tâm).
Ngày nay với đà phát triển của
văn minh khoa học, con người có thể trực tiếp nói chuyện với người thân
tận bên kia quả kia cầu. Xa hơn nữa, con người có thể lên cung trăng
thăm chị Hằng, chú Cuội. Có những chiếc tàu ngầm chạy bằng nguyên tử lực
có thể lặn sâu ở dưới lòng đại dương cả năm trời. Thế thì thần thông
không nhất thiết phải là thấy xa, nghe rộng hay là bay cao nhảy xa giống
như ảo thuật mà phải được hiểu là khả năng đoạn trừ mọi tham đắm, si
mê, không bị lôi cuốn nhận chìm trong ái dục và dĩ nhiên lúc nào cũng
sống trong tĩnh thức chánh niệm tức là luôn làm chủ tâm mình. Đây mới
chính là những thứ tự tại vô ngại, bất khả tư nghì mà người thường không
thể làm được.
-Đức Đại Thông Trí Thắng thọ năm
trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp. Lúc ngồi đạo tràng, phá xong ma
quân, sắp thành Vô Lượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà Pháp Phật chẳng hiện
ra. Tiếp tục Ngài ngồi kiết già “thân tâm bất động trải một tiểu kiếp,
rồi mười tiểu kiếp mà pháp Phật vẫn chẳng hiện ra.
Thuở đó, các trời Đao Lợi, vì
Phật trang trí một tòa sư tử dưới cội cây Bồ-đề, Phật ngồi lên tòa thì
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các chư thiên tiếp tục rải hoa
cúng dường. Các Trời Tứ Thiên Vương… cũng trổi nhạc đánh trống… mãn 50
tiểu kiếp đến lúc Phật nhập Niết Bàn.
Nầy các Tỳ-kheo ! Đại Thông Trí
Thắng Phật, trải quá trình “bất động” mười tiểu kiếp pháp Phật mới hiện
ra. Lúc Phật chưa xuất gia, có 16 người con trai. Người con cả tên là
Trí Tích. Các người con đều có các thứ đồ chơi tốt đẹp và báu lạ, nghe
cha chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đều bỏ đồ chơi báu của
mình, đến chỗ Phật. Các bà mẹ khóc lóc theo đưa.
Ông nội là Chuyển Luân Thánh
Vương cùng 100 vị đại thần và muôn ức nhân dân khác cùng nhau đến đạo
tràng, gần gũi Đại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung kính tôn
trọng ngợi khen.
Tại sao đức Đại Thông Trí Thắng thiền
định một thời gian dài gần như vô hạn, phá hết vọng tưởng điên đảo mà
vẫn không thể thành Phật được? Nhắc lại, đức Phật Thích Ca chỉ thiền
định suốt 49 ngày đêm đến khi sao mai mọc thì Ngài hoát nhiên đại ngộ,
chứng được Tam Minh mà thành Chánh Giác. Học Phật trước là tiên là học
làm người vì thế Phật mới dạy Bát Chánh Đạo trước cho nên con đường tu
nhơn thành Phật thì Định và Tuệ cũng như hai cánh của một con chim. Muốn
chim bay nhẹ nhàng thanh thoát thì hai cánh phải vận chuyển tương quan,
tương tục. Thiền định có mục đích đưa hành giả trở về trạng thái yên
lặng của tâm, dứt bặt tâm thức tức là có Định. Nhưng nếu dậm chân tại
chỗ ở Định thì đây là “khô định” nghĩa là thứ định không có trí tuệ. Vì
thế cứu cánh của người tu Phật là phải phát triển trí tuệ. Có trí tuệ
mới nhận thức đúng chân lý tức là có giác ngộ. Bất chấp hành giả tu theo
pháp môn nào trong đạo Phật mà trí tuệ không phát sinh để trực nhận
chân lý thì cũng như người đi vòng chung quanh tòa lâu đài nguy nga
tráng lệ mà không tìm thấy chía khóa để mở cửa vô bên trong thì cho dù
có đi vòng ngoài suốt cả đời vẫn không bao giờ chính mình biết tòa lâu
đài ấy đẹp lộng lẫy đến mức nào.
Ngày xưa có vị Thiền sư rất tinh tấn tu
hành. Vì thấy vị nầy đạo cao đức trọng nên có một Phật tử tự nguyện cất
cho Thầy một cái am để tu. Vị Phật tử nầy là một bà già sống với một đứa
cháu gái cách cái am không xa. Hằng ngày bà sai đứa cháu gái đem cơm
nước dâng cúng đều đặn. Ngày qua tháng lại, mà vị Thiền sư đã tu tại am
nầy trên ba năm rồi. Muốn biết sự tiến tu của vị Thiền sư như thế nào
cho nên một ngày nọ bà già dặn đứa cháu gái ở tuổi trăng tròn rằng:
- Cháu đem cơm vô cho Thầy, để mâm cơm xuống rồi cháu ôm cứng lấy ông ta và hỏi:”Ngài cảm thấy thế nào?”. Nghe trả lời xong cháu về thuật lại cho bà nghe.
Đứa cháu gái vâng lời làm y như thế thì vị Thiền sư trả lời bằng hai câu thơ:
“Khô mộc ỷ hàn nham
Tam xuân vô noãn khí”.
Dịch là:
Cây khô tựa trên núi lạnh
Ba mùa xuân qua rồi mà không có chút hơi ấm.
Khi đứa cháu gái về thuật lại hai câu thơ trên thì bà già nổi giận bèn đuổi vị Thiền sư, đốt luôn cái am và phàn nàn:
-Uổng công ta nuôi ông Thầy phàm phu.
Đối với hành động đạo đức và công phu tu
tập của vị Thiền sư thì chúng ta chắc chắn sẽ nghiêng mình kính phục,
nhưng tại sao bà già lại tức giận đốt am?
Vị Thiền sư nói bây giờ ông cũng như là
cây khô trên núi lạnh dầu trải qua ba mùa xuân rồi mà không có có một
chút hơi ấm có nghĩa là không có việc gì có thể làm cho ông ta khởi động
niệm được. Thế thì nhờ tinh tấn tu hành mà vị Thiền sư nầy đã đoạn trừ
tất cả phiền não, tâm hằng vắng lặng chẳng khác chi một cây khô. Nhưng “Vô tâm duy cách nhất trùng quan”
tức là mặc dầu tu tới chỗ “vô tâm” có nghĩa là dứt hết phiền não nhưng
vẫn còn cách một lớp rào nữa chứ chưa phải là viên mãn. Tu hành như thế
mà còn bị bà già chê. Tại sao? Trong tam vô lậu học Giới Định
Tuệ thì trí tuệ bát nhã mới là cứu cánh của người tu hành vì nếu không
phát sinh được trí tuệ thì người tu vẫn còn lênh đênh trên mặt nước chớ
chưa đến được bờ bên kia tức là bờ giác ngộ. Vì tâm không khởi động niệm
có nghĩa là tuy có Định lực cao nhưng vẫn thiếu chất xúc tác là Trí tuệ
để khai thị con mắt tâm. Con mắt tâm không mở thì suốt đời vẫn không
thấy được tánh giác thanh tịnh sáng suốt triệt để của mình. Nhờ bà già
đốt am mà vị Thiền sư kia mới thấy được chỗ mắt kẹt của mình là dậm chân
tại chỗ ở Định mà quên đi cứu cánh là Tuệ.
Vì thế Trí tuệ chính là cứu cánh của
người tu Phật cho nên trước khi nhập diệt, Đức Phật đã tha thiết khuyên
các đệ tử của Ngài phải trau dồi trí tuệ. Trong Kinh Di Giáo, Phật có
dạy rằng:
-Trí tuệ là chiếc thuyền kiên cố
đưa con người thoát khỏi biển già, đau, chết. Chính nó là ngọn đèn lớn
chói sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là
chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy các ngươi phải lấy sự nghe, sự
suy nghĩ, sự tu tập mà tăng ích cho trí tuệ của mình.
Tại sao cho dù Đức Đại Thông Trí Thắng có
ngồi thiền từ mười tiểu kiếp này đến bao tiểu kiếp nọ vẫn không thể
thành Phật cho đến khi chư thiên xuất hiện vì Ngài mà trang trí một tòa
sư tử dưới cội Bồ Đề? Bởi vì trong Ngài, các tâm sở thiện phải có cơ
hội phát triển, hoạt động, trí tuệ có hiễn bày thì mới có cơ hội thành
Phật được. Thiền định là phải sinh trí tuệ vì vậy cho dù có ngồi thiền
như tượng đồng, tượng đá mà trong ta không phát triển những chủng tử
lành (Tâm sở thiện) thì có ngồi đến bao lâu cũng vẫn là phàm phu, không
bao giờ thành Phật. Tâm sở thiện cảnh gồm có: Tín, Tinh tấn, Tàm (tự xấu
hổ), Quí (thẹn với người), Vô tham, Vô sân, Vô si, Khinh an, Bất phóng
dật (không buông lung, phóng túng), Hành xả (làm rồi không chấp trước),
Bất hại (không tổn hại ai). Tuy kinh nói chư thiên, nhưng chư thiên ở
đây là ám chỉ những vị trời ở trong tâm của ta, là những biến hành của
tâm sở thiện cảnh khiến tâm dần dần đạt đến chỗ thanh tịnh.
Tại sao kinh điển Phật giáo thường nói
các đức Phật thường xuất thân từ các giai cấp quý tộc như Thái tử hay
vua chúa? Thật sự không nhất thiết phải là vua hay Thái tử mới thành
Phật được mà bất cứ ai cũng đều có Tri Kiến Phật cả. Lúc Phật nói pháp
là vào thời kỳ phong kiến nên vua được xem là vị chủ tể của một nước nắm
trọn quyền sinh sát trong tay. Cả giang san đất nước là của nhà vua vì
thế uy quyền nhà vua trùm khắp thiên hạ. Nói thế thì bản ngã của nhà vua
trùm khắp và ngã sở hữu cũng trùm khắp. Nhưng bây giờ muốn thành Phật
thì phải bỏ hết, buông xả tất cả. Đây là sự bố thí vô tiền khoáng hậu
trong lịch sử nhân loại mà người thường không bao giờ làm được. Trong
khi đó, chúng ta không thể bỏ được những vật dụng trong nhà mà cứ đòi
thành Phật. Ngày nay các sư xây chùa to, đạo tràng lớn, tuy tiền của là
do bá tánh cúng dường mà các sư cho là chùa của mình, của Ta thì làm sao
buông xuống được? Một điểm đặc thù khác mà ngày nay rất nhiều người vẫn
chưa thâm hiểu cơ chế Đạt lai Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng. Không có
một vị Phật nào vừa làm Phật vừa làm lãnh tụ của một quốc gia. Bạn không
thể nào bắt cá hai ta được. Điều này kinh điển Phật giáo đã chứng minh
rõ ràng rồi. Người thực hành giáo pháp sai chớ đạo không nói sai bao
giờ. Nếu muốn có tự tại Niết bàn thì phải chấp nhận buông xuống, ngược
lại đeo đuổi công danh phú quý thì phải gánh chịu phiền não thế thôi.
Đạo Phật không phải là đạo lý thuyết mà là đạo thực hành vì thế khi hành
giả thực nghiệm sự thanh tịnh tự tại của Niết bàn rồi thì tất cả của
cải thế gian chỉ là phù du giả tạm, họ bỏ xuống cũng như bỏ đôi dép
rách, không chút luyến tiếc.
Nhà vua mà đi xuất gia là bỏ cái bản ngã
vô cùng độc tôn của cả một dân tộc, bỏ cái ngă sở hữu của một giang sơn
cẩm tú. Hành động bố thí quá vĩ đại như thế đã biểu lộ lục thông quá rõ
ràng. Đó là nhà vua bỏ hết cung vàng điện ngọc tức là vô ngại tự tại về
sắc, bỏ hết lời khen tiếng nịnh, bỏ cả cung đàn điệu nhạc êm đềm tức là
vô ngại tự tại về thanh, bỏ hết những làn hương tức là vô ngại tự tại về
hương, bỏ hết các thức ăn cao lương sơn hào mỹ vị tức là vô ngại tự tại
về vị, bỏ hết nệm ấm chăn êm tức là vô ngại tự tại về xúc, không còn
thương nhớ nghĩ ngợi lo gần lo xa là có vô ngại tự tại về pháp. Do đó
hành động xuất gia là đã có đủ lục thần thông rồi. Vì vậy kinh điền nói
vua là với ý nầy chứ không nhất thiết chỉ có vua mới tu thành Phật được.
Mục đích thiền định là để phát sinh trí
tuệ cho nên nếu tu Định mà trí tuệ chưa sanh thì chỉ có công dụng hàng
phục ma quân mà không thấy được chân lý. Thế nào là ma quân?
1)Phiền não ma: Đây là
loại ma rất thông dụng mà ai cũng bị nó nhát hằng ngày. Đó là các ma
tham, ma sân, ma si, ma mạn, ma nghi, ma ác kiến, ma phẫn (giận), ma hận
(hờn), ma phú (che giấu), ma não (buồn buồn), ma tật (tật đố), ma xan
(bỏn xẻn), ma cuống (dối), ma siểm (nịnh hót), ma hại (tổn hại), ma kiêu
(kiêu căng)…Nó là những con ma vô hình, nhưng nó có mãnh lực vô song để
đe dọa, hù nhát làm cho cuộc sống con người trở thành thất điên bát
đảo. Ma ở trong tâm để sai khiến con người phục vụ, thỏa mãn những nhu
cầu của bản ngã. Chỉ khi nào con người phát triển tâm đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả đến cao độ thì những con ma này từ từ biến mất để trả ta
về với con người thật của ta, là Phật tánh sáng suốt trong ta. Phải thấu
hiểu vạn pháp giai không, duyên sanh như huyễn để loại bỏ tánh tham,
tật đố, tránh xa tham dục thì tâm được thanh tịnh.
2)Ngũ uẩn ma: Năm món
sắc, thọ, tưởng, hành, thức quay cuồng, thay đổi không ngừng nên tâm
sanh ra vọng tưởng làm con người đau khổ. Quán chiếu ngũ uẩn giai không
để sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì tuy có thân tâm mà
không chạy theo ngoại trần.
3)Pháp hành ma: Con
người vì chạy theo tham dục nên gây ra nghiệp mà phải chịu quả khổ đời
đời. Chính mình là người thợ tự vẻ cho cuộc đời của mình ở kiếp sau cho
nên nếu muốn được an vui hạnh phúc thì đừng tạo nghiệp.
4)Tứ diệt ma: Vì thân là
vô thường nên con người phải đối diện với sinh lảo bệnh tử. Cứ một giây
trôi qua, chúng ta già đi một chút. Con người hàng ngày chết lần chết
mòn chứ đâu phải đợi đến xuôi tay nhắm mắt mới gọi là chết. Biết thân là
vô thường thì tâm không lo âu, phiền muộn.
5)Tử ma: Có sinh là có
tử ngay cả ông Bành Tổ mà còn phải chết thì luật vô thường không thương
xót một ai. Có người khéo tu thì khi chết mình làm chủ được thần thức
trong thân trung ấm nên dễ dàng đi tái sinh vào cõi lành. Còn người tạo
nhiều nghiệp bất thiện thì nghiệp lực đưa đẩy thần thức họ tái sinh vào
nơi xứng đáng với quả nghiệp của họ để thọ nhận cảnh khổ. Còn người chưa
đủ nhân duyên hay đánh mất cơ hội đi tái sinh nên thần thức lang thang
lẫn thẩn, lúc ẩn lúc hiện tức là ma. Khi nhân duyên mới đến thì thần
thức nầy sẽ được tái sinh.
6)Chư thiên ma: Loại ma
nầy có nhiều phước đức nên được ở trên các cõi Trời để hưởng ngũ dục
lạc. Họ có nhiều thần thông nhưng tâm không thiện nên thường quấy phá
hay gây những chướng ngại cho người tu hành cao.
Kinh Pháp Hoa có đoạn giới thiệu nhiều vị
Phật được thành Phật ở trong kiếp mà họ đang làm vua. Cũng như Phật
Thích Ca, rời cung điện là một Thái tử, tu hành rồi thành Phật ngay
trong kiếp này cho nên tuy là thành Như Lai Thế Tôn, các Ngài vẫn còn
cha mẹ, con cái, ông bà như tất cả chúng sinh. Ở đây, lúc đức Đại Thông
Trí Thắng chưa thành Phật, Ngài có 16 người con trai. Đến khi Ngài thành
Phật, tất cả 16 người con ngay cả ông nội và đại thần đều đến để cung
kính cúng dường tán thán Ngài. Ngày nay ý nghĩa chữ “Xuất Gia” không
được thông hiểu hay thực hành nghiêm túc làm cho đạo Phật chao đảo chông
chênh khiến cho đạo không ra đạo, đời không ra đời.
Một người được xem là xuất gia một khi thực sự đã xuất ra được:
1)Phiền não chi gia: ra khỏi nhà phiền não, khổ đau.
2)Vô minh chi gia: ra khỏi nhà vô minh, tăm tối.
3)Tam giới chi gia: ra khỏi nhà ba cõi, đó là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
4)Thế tục chi gia: ra khỏi nhà
thế tục tức là rời bỏ gia đình, vợ con, thân bằng quyến thuộc. Rời bỏ
ngay cả những địa vị trong xã hội để vào chùa, giữ giới trì trai, tiêu
diệt phiền não, đập phá vô minh, vượt qua tam giới để chứng đạt giải
thoát giác ngộ.
Tuy xuất gia là cố thoát ra khỏi nhà tam
giới, nhà phiền não, tham, sân, si, mạn, nhưng mục đích tối hậu vẫn là
chứng đạt quả Bồ-đề và tâm thanh tịnh an lạc của vô thượng Niết bàn. Vì
thế xuất gia thì phải:
1)Thân xuất gia, tâm xuất gia tức là phải xuất gia theo Chánh pháp và sống đúng với Chánh pháp.
2)Thân xuất gia, tâm không xuất gia tức là có hình tướng người xuất gia mà sống không đúng với Chánh pháp.
3)Tâm xuất gia, thân không xuất gia: tuy
vẫn còn gia đình, thế tục tức làm thân cư sĩ mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề
thì cũng xem như xuất gia, thọ cụ túc giới và sống đúng Chánh pháp.
4)Tâm không xuất gia, thân cũng chẳng
xuất gia thì trôi nổi trầm luân trong lục đạo luân hồi, đời nầy qua thì
đời khác đến không tìm ra lối thoát.
Nghĩ đến sự an ổn lợi ich cho Trời, người, 16 vị vương tử thỉnh cầu đức Thế Tôn chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh.
Phật bảo các tỳ-kheo ! Lúc Đại
Thông Trí Thắng thành Phật, cõi nước của chư Phật trong mười phương đều
chấn động sáu cách. Những chỗ tối tăm bừng sáng, các chúng sanh đều được
thấy nhau, và đồng nói: “Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh”. Do
ánh sáng cùng khắp mười phương. Bấy giờ chư Thiên, trời Phạm ở phương
Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc,
Tây Bắc, phương trên, phương dưới tìm đến chỗ Phật, dâng các thứ hương
hoa, trân bảo, kỷ nhạc, tràng phan, cung điện… cúng dường cung kính tôn
trọng ngợi khen và một lòng cầu xin đức Đại Thông Trí Thắng Phật chuyển
pháp luân độ thoát cho hàng Trời, Người.
Đức Đại Thông Trí Thắng nhận lời của hàng chư Thiên và 16 vị vương tử.
Tôn chỉ của đạo Phật là tự giác rồi giác
tha cho nên không có việc gia bì, cầu nguyện, chú nguyện trong Phật
giáo. Bằng chứng là ở đoạn kinh này, tuy Ngài Đại Thông Trí Thắng đã
thành Phật, nhưng con Ngài, ông nội Ngài và các công tôn vương tử khác
nếu muốn có sự lợi ích thì chính họ cũng phải đến nghe Phật thuyết pháp
để khai tâm mở tánh, làm lành lánh dữ chớ Phật không thể làm phép, bắt
ấn để chú nguyện ban phép lành cho ai cả. Cái tuyệt vời và rất khoa học
của đạo Phật là ở chỗ này bởi vì ai ăn người ấy no, ai khác người ấy
phải tự uống chớ Phật không thể ăn, uống dùm cho họ được. Người tu Phật
phải sáng suốt để thấy cái đạo lý này thì con đường tu hành mới thành
tựu được. Khi Phật Thích Ca thành đạo thì Ngài trở về cung thành Ca tỳ
la vệ thăm lại phụ thân, vợ con và gia quyến. Sau khi nghe Phật thuyết
pháp, giảng giải chân lý cứu khổ thì vợ Ngài, con Ngài và biết bao vương
tôn công tử từ bỏ công danh phú quý noi theo bước chân Phật, xuất gia
tu hành trở thành Thánh giả chớ Phật không gia bì, chú nguyện cho bất cứ
ai. Đạo Phật là đạo bình đẳng, pháp Phật giống như trận mưa đổ xuống
cho tất cả muôn loài chớ không thiên vị ai cả. Vì thế bất cứ ai nếu y
giáo phụng hành thì sẽ có lợi ích thiết thực chớ không phân biệt kẻ thân
người sơ, kẻ ăn mày hay ông hoàng bà chúa. Câu “Lúc Đại Thông Trí Thắng thành Phật, cõi nước của chư Phật trong mười phương đều chấn động sáu cách” không
có chi là hoang đường mà ngụ ý là sáu cách tức là sáu căn phải chuyển
biến. Khi một vị thành Phật thì lúc ấy lục căn của họ chuyển biến, thay
đổi khác xa với ngày xưa lúc chưa thành đạo. Đó là mắt thấy sắc mà không
đam mê theo sắc tức là kiến sắc phi can sắc, tai nghe âm thanh mà không
còn bị quyến rũ, không chạy theo tiếng thị phi phải quấy, không còn bị
ảnh hưởng bởi những lời đường mật ru ngủ cho nên nghe thì nghe tất cả mà
như không nghe gì hết. Các căn còn lại cũng thế đều chuyển biến, không
còn dính mắc. Theo giáo lý Phật Đà thì trí tuệ ví như hào quang vì thế
khi một vị thành Phật thì trí tuệ của Phật bừng tỏa cũng như hào quang
chiếu sáng khắp nơi. Bóng đen thường đồng nghĩa với vô minh cho nên khi
ánh sáng trí tuệ chiếu sáng thì màn đen vô minh trong tâm biến mất, vọng
tưởng tiêu trừ. Trong tâm chúng sinh lúc nào cũng có thể xuất hiện 10
pháp giới cho nên khi ánh sáng trí tuệ chiếu soi khiến tâm trong sáng
tức là cái gốc tham sân si bị tiêu trừ thì ngay cả những cảnh giới âm u
nặng nề như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng tan biến không còn.
Ngày xưa, sau 49 ngày đêm thiền định dưới
cội Bồ-đề, đức Phật Thích Cađã tìm ra con đường giải thoát, có được
thanh tịnh Niết bàn và giác ngộ viên mãn. Ban đầu Ngài có khuynh hướng
giữ im lặng, không muốn đem giáo pháp Ngài vừa thực chứng dưới cội Bồ-đề
giảng giải lại cho thế gian. Có lẽ lúc đó Ngài thấy nghiệp chướng chúng
sinh quá sâu dày vì vậy Ngài nghĩ mình không kham nổi trách nhiệm hoằng
pháp độ sanh nên có ý địnhtheo đuổi con đường của một vị Độc giác Phật.
Sau khi vị Phạm thiên Sahampati năn nỉ,đức Phật mới nhận lời sẽ truyền
dạy lại những gì Ngài thật chứng cho chúng sinh để cùng có giải thoát
Niết bàn và đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát ra khỏi sinh tử trầm
luân. Do đó câu chuyện của Phật Đại Thông Trí Thắng và Phật Thích Ca là
một, không sai khác.
Trước hết, Đại Thông Trí Thắng Phật vận dụng ba lần chuyển pháp Tứ Đế với 12 hành:
-Đây là khổ. Đây là khổ tập. Đây là khổ diệt. Đây là đạo diệt khổ”.
Kế tiếp, Phật chuyển về 12 nhân duyên:
-Vô minh duyên hành. Hành duyên
thức. Thức duyên danh sắc. Danh sắc duyên lục nhập. Lục nhập duyên
xúc. Xúc duyên thọ. Thọ duyên ái. Ái duyên thủ. Thủ duyên hữu. Hữu duyên
sanh. Sanh duyên lão, tử, ưu bi khổ não”.
-Vô minh diệt, hành diệt. Hành
diệt, thức diệt. Thức diệt, danh sắc diệt. Danh sắc diệt, lục nhập
diệt. Lục nhập diệt, xúc diệt. Xúc diệt, thọ diệt. Thọ diệt, ái diệt.
Ái diệt, thủ diệt. Thủ diệt, hữu diệt. Hữu diệt, sanh diệt. Sanh diệt ,
lão tử, ưu bi, khổ não diệt.”
Phật nói pháp đó có 600 vạn ức na-do-tha người, không thọ tất cả pháp, mà phiền não hết tâm được giải thoát.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng thửa xa xưa
và ngay cả đức Phật Thích Ca ngày nay sau khi thành đạo cũng bắt đầu
dùng phương tiện nói chân lý Tứ Đế để giáo hóa chúng sinh nghĩa là đức
Phật Thích Ca và ba đời chư Phật đều có chương tình và hành động giống
nhau. Tại sao? Bởi vì tuy chư Phật trong mười phương rất nhiều, nhưng
đạo lý giác ngộ đồng nhau, không sai khác.
1)Khổ đế: Khổ là chỉ
chung cho trạng thái thân tâm bị bức bách khổ não. Đức Phật đã đưa ra
tam khổ, bát khổ là những biểu tượng căn bản khiến con người không bao
gờ được toại ý vừa lòng.
2)Tập đế: Nói về sự sinh
khởi và chứa nhóm và là nguồn gốc của tất cả các khổ mà con người ở thế
gian phải gánh chịu. Ở phần này, đức Phật giới thiệu Kiến Hoặc và Tư
Hoặc là những căn bản phiền não khiến cho con người điên đảo hằng ngày.
3)Diệt đế: Diệt là tịch diệt. Nếu chúng sinh đoạn trừ cội gốc những nỗi khổ thì chứng nhập vào cảnh giới tịch diệt thanh tịnh Niết bàn.
4)Đạo đế: Đạo là thông suốt. Vì thế Diệt đế là sự thật về con đường về diệt khổ, chính là Bát Chánh đạo.
Sau khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ
đề, Ngài đã đem chân lý Tứ đế giảng dạy cho nhóm ông Kiều Trần Như trong
lần chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn nai ở xứ Ba la nại. Phật
giáo Nguyên thủy xem Tứ đế là con đường duy nhất để có giải thoát giác
ngộ chứng đắc Thánh quả A la hán. Trong khi đó, Phật giáo Đại thừa chỉ
xem nó là giáo lý cơ bản Phật dạy trong lúc ban sơ mà giáo lý Bát Nhã
nói về Tánh Không mới là cứu cánh tối thượng.
Chân lý Tứ đế được chia làm 3 giai đoạn
và mỗi giai đoạn có 4 hành tướng nên gọi là Tam chuyển thập nhị hành
tướng. Đó là Thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển.
1)Thị chuyển là Phật chỉ
bày rõ ràng bốn lẽ thật có tánh cách khách quan. Phật dạy: Đây là khổ
đế, đây là tập đế, đây là diệt đế và đây là đạo đế.
2)Khuyến chuyển là Phật
khuyên nhủ và khuyến khích 5 vị Tỳ kheo bây giờ hãy chánh tư duy để phát
sinh trí tuệ. Đây là khổ đế các ông phải biết. Đây là tập đế các ông
phải đoạn. Đây là diệt đế các ông phải chứng. Đây là đạo đế các ông phải
tu.
3)Chứng chuyển là Phật
nói đối với các pháp Tứ Đế các ông đã biết, đã tu, đã đoạn và đã chứng.
Đây là khổ ta đã biết, đây là khổ tập ta đã đoạn. Đây là khổ diệt ta đã
chứng và đây là khổ đạo ta đã tu.
Những gì đức Phật dạy phát xuất từ đời
sống kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân vì thế Ngài dạy chúng sinh
những ý chí sắc đá, trí tuệ cao siêu, đức sống vị tha, sự thoát ly và
đặc biệt là sống đời gương mẫu làm lợi ích cho mình, cho người. Con
người vĩ đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ đó, phương pháp giáo
dục siêu việt đó của đức Phật đã làm cho thế giới kính phục Ngài như
một đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại. Đạo Phật là đạo thực
hành nên đức Phật không dạy chúng sinh những giáo lý ảo tưởng, hoang
đường mà Ngài dạy những phương trình, những công thức rất thực dụng để
chúng sinh tùy theo căn cơ, sở nguyện của mỗi người mà áp dụng để có
thực chứng.Vì thế phương pháp “tam chuyển thập nhị hành tướng”
phản ảnh rất trung thực đường lối giáo hóa của đức Phật. Trước hết đức
Phật giảng giải cho biết giáo lý Ngài muốn nói cho đến khi đệ tử thấu
hiểu rõ ràng. Lần thứ hai hiểu rồi thì phải cố gắng tu. Lần thứ ba tu
rốt ráo thì sẽ chứng đắc, tự mình nghiệm chứng được chân lý. Đến lúc ấy,
thầy cũng không cần, kinh điển sách vở cũng không cần nữa vì chứng
nghiệm được chân lý là thấy biết tất cả.
Do đó nếu người tu Phật dậm
chân tại chỗ ở giai đoạn thứ nhất thì không bao giờ hưởng được hương vị
giải thoát cũng như nói ăn mà không ăn thì không bao giờ no được.
Về sau, Đại sư Trí Khải của Thiên Thai
tông dựa theo thuyết của kinh Thắng Man, kinh Niết Bàn mà lập ra 4 loại
Tứ đế sâu cạn khác nhau, được phối hợp với Tứ giáo: Tạng, Thông, Biệt,
Viên.
1)Sinh diệt Tứ đế: Do Tạng giáo
chủ trương, dựa vào sự sinh diệt của các pháp hữu vi mà quán nhân quả
của Tứ đế là thật có sinh diệt.
2)Vô sinh Tứ đế: Do Thông giáo
chủ trương, dựa vào các pháp do nhân duyên sinh sinh là “Không” tức là
vô sinh mà quán nhân quả mê ngộ của Tứ đế đều là Không (Vô) và Vô sinh
diệt.
3)Vô lượng Tứ đế: Do Biệt giáo
chủ trương. Họ dựa vào hằng sa vô lượng sự sai biệt của giới nội, giới
ngoại mà quán tất cả hiện tượng đều do nhân duyên sinh, có vô lượng sự
sai biệt cho nên Tứ đế cũng có vô lượng tướng.
4)Vô tác Tứ đế: Do Viên giáo
chủ trương, dựa vào đương thể của mê ngộ tức thật tướng mà quán sự mâu
thuẫn đối lập giữa mê và ngộ là phi mâu thuẫn và đều là Thật tướng.
Tại sao tư tưởng Đại thừa quan
niệm 37 phẩm trong phần Đạo đế làtrợ đạo? Đây là điểm khác biệt giữa hai
tư tưởng Đại thừa và Nguyên thủy. Nguyên thủy cho rằng Đạo đế là con
đường vững chắc đưa hành giả đoạn trừ hết vô minh phiền não, tận diệt từ
Kiến Hoặc, Tư Hoặc đến Vô Minh Hoặc, tâm trí bừng sáng, đạt Lục thông,
đắc Tam Minh trở thành Thánh giả. Chính đức Phật cũng từ con đường này
mà thành tựu đạo quả Bổ Đề và có biết bao các Tỳ kheo khác cũng theo con
đương này mà trở thành A la hán. Vì thế dựa theo Phật giáo Nguyên thủy,
đức Phật là vị A la hán đầu tiên trong số hàng ngàn vị A la hán khác.
Trong khi đó,Đại thừa cho rằng 37 phần
trợ duyên chỉ là những điều kiện phụ thuộc, phải làm nó mới có, nhưng nó
không phải là Bồ Đề Niết bàn. Thí dụ trợ duyên giống như những máy móc
tân kỳ của dàn khoan dầu hỏa ở ngoài biển khơi. Nhờ những máy móc tân kỳ
đó, những dàn khoan hiện đó mà tìm ra dầu hỏa, chớ dàn khoan không phải
là dầu hỏa được. Bởi vì dầu hỏa tự nó đã có rất lâu dưới lòng đại dương
mà mãi đến nay con người mới có đủ kỹ thuật tân tiến để tìm và lấy nó.
Vì thế Phật giáo Đại thừa lý luận rằng Phật tánh đã có sẵn trong tất cả
mỗi chúng sinh từ vô thỉ rồi chớ không phải tu hành mới có cho nên tu
hành chỉ là trợ duyên để tìm thấy Phật tánh vốn sẵn có của mình. Đó
chính là tôn chỉ của kinh Pháp Hoa vìai ai cũng đều có Tri Kiến Phật
(Phật tánh) và từđó đức Phật Thích Ca mới dám thọ ký cho tất cả chúng
sinh sẽ thành Phật. Vì lý luận như thế nên tư tưởng Đại thừa không chú
trọng vào Diệt đế, Đạo đế mà chủ yếu là Phật tánh, nhưng cái gốc tham
sân si không nhỗ sạch thì làm sao thành Thánh giả? Không lẽ nói “trong
tâm có Phật” rồi thành Phật được sao? Đây chẳng qua chỉ là “Lý tức Phật”
trong “Lục tức Phật” do Trí Khải viết ra, còn đến “Phần chứng tức Phật”
thì phải phá cho hết 41 lớp vô minh dày đặc trong tiến trình của Thập
địa.
Quan niệm của Phật giáo Nguyên
thủy cho rằng con người phải cố gắng siêng năng làm việc, càng siêng
năng càng cần kiệm thì sẽ có nhiều tiền. Đó là phải diệt trừ cho hết cái
gốc của phiền não vô mình thì tâm sẽ bừng sáng, chứng đắc Thánh quả, có
được Niết bàn. Trong khi đó quan điểm của Đại thừa cho rằng bạn có làm
nhiều tiền hay ít không thành vấn đề vì trước sau bạn sẽ trở thành triệu
phú bởi vì trong bạn đã có sẵn một gia tài to lớn. Chẳng khác nào anh
chàng Cùng Tử trong kinh Pháp Hoa nghĩ mình nghèo khổ trong khi người
cha là đại phú gia sẵn sàng giao lại cho anh ta một gia tài khổng lồ. Vì
vậy, đối với Phật giáo Đại thừa không có vấn đề chứng đắc vì chứng đắc
chẳng qua là trở về với Bổn Phật của mình chớ không có thêm bớt được gì.
Nếu đứng về phương diện tích cực mà nói thì tư tưởng Phật tánh (Tri
Kiến Phật) trong kinh Pháp Hoa đem lại sự bình đẳng cho tất cả mọi người
vì ai cũng đều là Phật. Do đó không có nhân bản nào hơn nhân bản kinh
Pháp Hoa, không có nhân vị nào hơn nhân vị kinh Pháp Hoa, không có dân
chủ nào hơn dân chủ kinh Pháp Hoa và không có bình đẳng nào hơn tinh
thần bình đẳng của kinh Pháp Hoa. Đó là trong tất cả mọi người cho dù là
bạc địa phàm phu, tội lỗi tràn ngập cũng đều có sẵn Tri Kiến Phật giống
y như Phật và tất cả mọi người là Phật, tất cả mọi người đã thành Phật
và tất cả mọi người sẽ thành Phật. Bây giờ nếu đứng về phương diện tiêu
cực mà nói thì Bổn Phật là đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước
chớ không phải mới thành Phật tại thế giới này nhờ công phu tu thiền
định. Nói cách khác Bổn Phật không phải là đức Phật lịch sử, mà là một
thực thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn tức là “Pháp thân Tỳ lô Giá Na”. Cho nên đức Phật Thích Ca chỉ là nhân vật được “đức Bồn Phật”
gởi đến với thế gian để tạo thành một nhân vật có hình thể là một con
người, có một đời sống sinh hoạt giống hệt như một con người thường tục
để thuyết giảng Chánh Pháp cho nhân thế. Như vậy, giáo pháp này đâu có
khác gì Thiên Chúa giáo vì thế trong kinh Pháp Hoa mới có phẩm Tín Giải
tức là do giải ngộ mà có đức tin sâu xa không thoái chuyển. Nói thế thì
người đệ tử Phật thật sự có vấn đề, bởi vì những gì Phật làm thì chỉ có
Phật mới làm được vì Ngài là Superman, còn chúng sinh là phàm phu tục tử
thì đừng hoài công, vô ích. Mà không tự mình làm được thì sinh ra cầu
nguyện, van xin, (lập ban hộ niệm)?
Bồ Tát Mã Minh ra đời vào cao điểm của
thời kỳ phân hóa giữa các bộ phái Phật giáo và cũng là thời điểm thịnh
hành của Bà la môn giáo, đã thần thánh hóa đức Phật là con người vũ trụ
trong bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận. Ngược lại giáo lý Nguyên thủy xác định
đức Phật Thích Ca là một con người bình thường như trăm
vạn chúng sinh khác trong thế gian này chớ Ngài không phải là thần linh
hay Superman gì cả. Trong Trường Bộ Kinh Tập 1, Kinh Đại Bổn 14 có
câu:”Này các Tỳ kheo! Pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng
mẹ sanh ra, chư thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp
nhĩ là như vậy”. Như thế theo kinh tạng Nguyên thủy, sự đản
sanh của đức Phật là một con người bình thường, Hoàng hậu Ma-da cũng
hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đến ngày khai hoa nở nhụy, Thái
tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi đứa trẻ khác trên thế
gian này. Đức Phậtsinh ra và lớn lên trong cung vàng điện ngọc,nhưngNgài
thấy rằng những nỗi khổ lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau tuổi trẻ, sức
khỏe và đời sống của tất cả mọi chúng sinh.Vì nhận thức như thế Ngài từ
bỏ cung vàng điện ngọc cốt là để đi tìm chân lý cứu khổ, một con đường
giải thoát trước tiên là cho chính Ngài chớ không phải mang một tâm tư
hoài bảo vĩ đại muốn cứu rỗi cho tất cả mọi chúng sinh. Ngài đã ra đi,
bỏ lại tất cả, viễn ly mọi ràng buộc thế tình, trở thành một nhà tu khổ
hạnh và phải tranh đấu với những hoàn cảnh khắc nghiệt để mong tìm thấy
được ánh sánh chân lý. Sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Ngài
đã tìm ra con đường giải thoát, có được thanh tịnh Niết bàn và giác ngộ
viên mãn. Ban đầu Ngài có khuynh hướng giữ im lặng, không muốn đem giáo
pháp Ngài vừa thực chứng dưới cội Bồ-đề giảng giải lại cho thế gian. Có
lẽ lúc đó Ngài muốn theo đuổi con đường của một vị Độc giác Phật. Sau
khi vị Phạm thiên Sahampati năn nỉ,đức Phật mới nhận lời sẽ truyền dạy
lại những gì Ngài thật chứng cho chúng sinh để cùng có giải thoát Niết
bàn và thoát ra khỏi sinh tử trầm luân. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo
giải thoát. Giải là cởi mở nghĩa là cởi mở những trói buộc để thoát ra
khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống. Ở đây, đức Phậtxiễn dương tình
thần khách quan bình đẳng vì ai cũng đều có máu đỏ và nước mắt cùng
mặnnhư nhau.
Giáo lý Nguyên thủy lấy trí tuệ
làm nền tảng chớ không phải đức tin. Trong kinh Kalama (Tăng Chi
III.65) đức Phật dạy rằng: “"Không được tin bất cứ gì Ta nói là
đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những
lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau
khi quán xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới
nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính
trọng ta mà mang ra thực hành".
Theo Nguyên thủy thì không thể
có 2 đức Phật cùng xuất hiện nên chủ trương thuyết “Nhất Phật”, đó là
chỉ có duy nhất Phật Thích Ca trong thế giới này vì thế không có Phật A
Di Đà hay Phật Dược Sư trong hệ thống Nguyên thủy. Nhưng Phật giáo Đại
thừa thì cho rằng có nhiều vị Phật xuất hiện cùng lúc, phía Tây có Phật A
Di Đà, phía Đông có Phật A Súc và vô số Phật tồn tại mà kinh điển gọi
là “Thập phương hằng sa chư Phật”. Chẳng những thế, tam thế chư Phật có
1000 vị Phật trong quá khứ, 1000 vị Phật ở hiện tại và 1000 vị Phật ở vị
lai. Tổng cộng 3 kiếp là 3000 vị Phật.
Nói chung, giáo lý Đại thừa rất hay, rất
cao siêu vì được trước tác và biên soạn bởi những triết gia, luận sư rất
nổi tiếng nhất của Phật giáo khoảng từ 600 năm đến gần 1000 năm sau
ngày đức Phật nhập diệt là Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước và Thế Thân để
đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của giới tín đồ nhằm duy trì sức sống của Phật
giáo trong khi phải đương đầu với sự đàn áp của các tôn giáo hữu thần,
đặc biệt là đạo Bà la môn. Với những danh tự mới, bối cảnh mới và lối
giải thích mới, kinh điển Đại thừa đã thổi một luồng sinh khí tươi mát
và sống động vào trong thế giới Phật giáo lúc bấy giờ, nhưng thật chất
con đường trở về với Phật tánh đâu có dễ như lý thuyết vì có bao người
thành tựu được như Lục Tổ đâu? Không là Thánh giả thì làm sao tâm không
dính mắc được? Tư Hoặc chưa diệt thì lòng si mê, tham đắm vẫn còn cho
nên ngày nay đạo Phật chao đảo chông chênh khiến cho đạo không ra đạo,
đời không ra đời là vậy. Cửa chùa dựa theo tinh thần Bát Nhã phải là cửa
Không mà thật sự có là cửa Không chăng?
Tóm lạiTứ Đế là chân lý thoát khổ, giúp
chúng sinh lìa khổ được vui, tâm hằng thanh tịnhan vui tự tại, chứng đắc
giải thoát Niết bàn
Sau đó Phật nói pháp “Thập Nhị Nhân Duyên” , đó là mối quan hệ “nương nhau, đợi nhau”
của tất cả các pháp. Kinh Tạp A Hàm 12 cho rằng pháp Duyên Khởi là chân
lý vĩnh hằng bất biến, chính đức Phật nhờ quán sát chân lý này mà được
khai ngộ. Pháp Duyên Khởi chỉ cho sự khổ não loài người được hình thành
như thế nào (Lưu chuyển môn) và việc diệt trừ khổ não như thế nào để đạt
đến chứng ngộ (Hoàn diệt môn).
1)Chiều lưu chuyển: Nguyên
nhân của tất cả mọi sự khổ não và sinh tử trầm luân bắt đầu từ vô minh
duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục
nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ
duyên hữu, hữu duyên sanh và sau cùng sanh duyên lão tử. Đây là con
đường sinh ra ưu bi khổ não.
2)Chiều hoàn diệt: là
con đường dứt khổ để chứng đạt thanh tịnh Niết bàn. Cũng bắt đầu từ vô
minh, nhưng bây giờ nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức
diệt…cho tới sanh diệt thì lão tử diệt cho nên ưu bi khổ não tiêu tan
biến mất.
Con người từ trong vô thỉ chạy theo Vô Minh si mê tăm tối mà tạo ra những việc thiện, ác tức là Hành
(nghiệp) tích tụ trong Tàng thức. Do đó đời quá khứ thì có Vô Minh sinh
ra Hành để chuyển qua đời hiện tại. Vậy nó chuyển như thế nào? Nếu
chúng sinh còn tạo nghiệp cho dù là thiện hay ác thì bắt buộc phải thọ
báo vào đời hiện tại để thọ nhận quả báo lành hay dữ. Khi con người chết
đi của đời quá khứ thì thân vật lý tan vở không còn, nhưng Thức (A
lại da thức) tiếp tục tồn tại dưới dạng thần thức trong Thân Trung Ấm
(thân tư tưởng chớ không có xác thịt). Do tập khí ái nhiễm nên thần thức
nhất định phải tìm một cảnh để yêu cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do
chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi
chiêu cảm cảnh ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng”
bắt đầu hình thành. Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng”
trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha
thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu”
và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng
tử thọ hình. Khi đã thành chủng tử thọ hình nghĩa là có Danh Sắc
tức là mới tượng hình nhưng chưa đủ sáu căn. Do nghiệp ái làm nhân,
cảnh ái làm duyên mà ở trong thai cho đến 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ
và có hình dáng của con người. Thời điểm này gọi là Lục Nhập nghĩa là một cái bào thai tượng hình đã có đủ sáu căn. Khi đứa bé ra đời thì nó biết cảm giác nóng, lạnh, mềm, cứng…thì gọi là Xúc. Dần theo thời gian đứa bé biết cảm nhận buồn vui, thương ghét, phải quấy, tốt xấu … tức là biết Thọ.
Khi đến tuổi trưởng thành, tình yêu nam nữ phát triển, biết thương,
biết yêu, biết thích món này, chạy theo vật nọ, mở tung cánh cửa cho
tham đắm dục tình tức là Ái. Khi biết thương yêu thì
phải đến lúc dựng vợ gã chồng, xây nhà mua xe, tạo dựng tài sản, sinh
con đẻ cháu và bảo vệ những cái này thì gọi là Thủ. Một
khi có tài sản, có gia đình, có sự nghiệp, có danh vọng thì con người
luôn bám vúi vào đó, không muốn buông ra bởi vì nó là của “Ta” nên chết
sống vì nó thì gọi là Hữu. Con người cũng vì mù quáng
mà tin rằng thân họ là chắc thật, tài sản vật chất họ có cũng là chắc
thật, tiền tài danh vọng chung quanh họ cũng là chắc thật nên càng bám
chặt, ôm giữ vào lòng. Nhưng xét cho cùng thì trên thế gian đâu có cái
gì là chắc thật, bền vững muôn đời? Phật dạy vạn pháp giai không nghĩa
là thế gian vũ trụ là giả huyễn vì không có cái gì có tự tánh nên nay có
mai không, không bền không chắc. Ngày nào mình còn là thanh niên tuấn
tú mà bây giờ lưng mỏi gối mềm, da nhăn má hóp, nhớ trước quên sau, ăn
không ngon ngủ không yên giấc. Vì vậy trong đời hiện tại chính Ái, Thủ,
Hữu là những động lực (nhân) khiến con người tác tạo thêm tội nhiệp để
phải chịu tái Sinh cho đời sau để thọ nhận cái vui cái
buồn chính mình đã tạo dựng. Cuộc đời là vô thường, sinh trụ dị diệt cho
nên có sinh thì phải chịu già (Lão), chịu bệnh và sau cùng là chết (Tử).
Tóm lại, từ vô minh dẫn đến hành (nghiệp)
rồi thức đẩy thức đi thọ sanh …và cứ như vậy tạo nghiệp rồi trở lại
sanh, không cùng không tận. Do đó muốn dứt luân hồi thì phải diệt vô
minh. Mà muốn tiêu diệt vô minh thì phải phát triển trí tuệ cho tâm bừng
sáng để thấy biết rốt ráo tận cùng thì hết tạo nghiệp. Nghiệp dừng thì
sinh tử cũng theo đó mà dừng lại tức là có giải thoát. Nhưng chúng ta
đang sống trong hiện tại mà vô minh gốc thuộc về quá khứ nên không thể
diệt được. Vì vậy chỉ có một con đường là diệt vô minh của hiện tại là
Ai, Thủ, Hữu thì gốc vô minh cũng không còn.
Vậy làm thế nào để diệt Ái, Thủ, Hữu?
Trong bộ Trường bộ kinh (Dĩgha Nikàya) đức Phật dạy rằng:
-Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát
sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn
và phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục
lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.
Vì thế dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì
nguồn gốc phát sinh ra ái dục phát xuất từ lục trần (sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp) cho nên nếu bít kín lục trần thì ái dục biến mất. Đó là
lý do tại sao các vị tu sĩ theo phái Nam tông tuyệt đối tránh xa những
cảnh ồn áo náo nhiệt, nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặt đẹp…mắt không muốn
thấy sắc, tai không muốn nghe nhiều mà chỉ muốn tịnh tu, ai cho món ăn
gì cũng trộn lẫn vào nhau trước khi ăn để không còn phân biệt chạy theo
mùi vị…Ngày xưa các vị đại đệ tử Phật sống đời độc cư tại những nơi hẻo
lánh, hang động, khất thực ăn mỗi ngày một bửa, nỗ lực tinh tấn tu hành,
đi sâu vào thiền định, chứng tứ thiền, đắc tam minh mà trở thành A la
hán.
Vào thời đức Phật còn tại thế, ngoài
những phương pháp tu ở trên còn có những đệ tử thực hành pháp môn khổ
hạnh, đặc biệt là Tôn giả Đại Ca Diếp, gọi là Thập Nhất Khổ Pháp gồm có:
1)Ở chốn A-lan-nhã tức là nơi vắng vẻ không có tiếng tranh cãi rất thích hợp cho sự thanh tu.
2)Khất thực.
3)Ngồi một nơi.
4)Ăn một bửa.
5)Ăn đúng giờ ngọ.
6)Khất thực không chọn nhà.
7)Chỉ giữ 3 y.
8)Ngồi nơi gốc cây.
9)Ngồi nơi trống vắng.
10)Mặc y bá nạp tức là vải rách lượm giặc sạch rồi may vá thành y.
11)Ở nơi gò mả.
Tuy ngày nay không có ai áp dụng hoàn
toàn lối tu này, nhưng tùy theo hoàn cảnh hay sở ngộ, người tu Phật có
thể chọn một vài món nào thích hợp nhất cho mình để làm căn bản cho sự
buông xả thì dần dần con người có thể buông xả hết để thành tựu cứu cánh
giải thoát cho mình. Như thế tu dựa theo Phật giáo Nguyên thủy là buông
xả, đoạn diệt tận gốc tham sân si và các căn bản phiền não vô minh thì
chắc chắn sẽ có giải thoát giác ngộ, chứng đắc Thánh quả A la hán.
Con người có khổ, có nhiều tham vọng, có
sống chết bảo vệ những cái có của họ cũng vì họ chấp thế gian là thật,
nhà cửa là thật, xe cộ là thật, thân này là thật ngay cả vọng tưởng cũng
cho là thật. Bây giờ hãy quán rằng “vạn pháp giai không, duyên sanh
như huyễn” nghĩa là thân này là do duyên giả hợp tạm có, thế gian vũ trụ
cũng là tướng duyên hợp không thật ngay cả vọng tưởng cũng là tướng
duyên hợp chợt hiện chợt mất. Có người nói rằng thế gian, nhà cửa, xe
cộ, nam thanh nữ tú sờ sờ ở đó màcho là không thì làm sao nghe được?
Thật racái không của nhà Phật là “không chẳng khác sắc” nghĩa là tất cả
vật thể đều do duyên khởi tác tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinh
khởi hay tồn tại được cho nên vật thể là vô ngã, không có tự thể nên
tuy là có, là thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa,
tiêu hoại nên gọi là không.Do đó cái có bây giờ chỉ là tướng giả có. Vì
vậy khi biết thân này không thật, cảnh vật không thật, vọng tưởng không
thật, tiền tài danh vọng như giấc mộng, như huyễn hóa, như bọt nước, như
bong bóng trời mưa, như làn sương buổi sáng, như ánh điện chóp nhanh,
có đó rồi mất đó, rốt cuộc chẳng có gì thì Ái, Thủ, Hữu theo đó mà dứt. Như vậy cái gốc của vô minh trong đời hiện tại bị diệt thì tất cả những Hành (nghiệp) cũng theo đó mà dứt ngay trong đời này tức là có giải thoát.
Pháp Thập Nhị Nhân Duyên có thể tóm gọn lại như sau:
1)Nhân đời quá khứ là Vô Minh duyên Hành để tạo ra quả của đời hiện tại là Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc và Xúc duyên Thọ.
2)Nhân đời hiện tại là Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu dẫn đến quả cho kiếp tương lai là Sanh và sau cùng đến Lão, Tử.
Chu kỳ này cứ tiếp diễn mãi vô cùng vô
tận, không có lối thoát cho nên con người cứ đắm chìm trong sinh tử trầm
luân, cứ lấy khổ làm vui mà không biết.
Hành giả dùng trí tuệ phá vô minh để
thoát khỏi sinh tử luân hồi, nhưng con đường giải thoát duy nhất trong
Phật giáo là Giới, Định, Tuệ. Đó là giữ giới nghiêm minh, vào định tu
thiền quán thì trí tuệ sẽ phát sinh mà nghiệm chứng chân lý.
Tóm lại, đức Phật khai mở một tôn giáo
không thờ hình tượng mê tín mà là một tôn giáo lấy lý trí làm nền tảng,
một tôn giáo khoa học, một tôn giáo dựa trên tinh thầnvô ngã vị tha. Đạo
Phật là một tôn giáo vô tín ngưỡng cho nên trước khi nhập diệt, đức
Phật dạy rằng:
“Các con là những hải đảo, những ngọn đuốc cho chính mình. Hãy nương tựa vào chính mình, không nương tựa vào nơi nào khác”.
Trong kinh Pháp Cú, Phật lại dạy thêm:
“Các con hãy tự thắp đuốc lên mà
đi! Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tu
giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải
thoát ở một nơi nào khác, ngoài các con”.
Và sau cùng đức Phật dạy rằng:
“Các con hãy tự cố gắng, Như Lai chỉ là kẻ dẫn đường”.
Thế nào là không thọ các pháp?
Không thọ phát xuất từ chữ “Tam muội”
nghĩa là bất thọ, nhất thiết thọ và thị danh chánh thọ. Hằng ngày con
người thọ quá nhiều, không thể đếm hết được. Nào là thọ vui, thọ buồn,
thọ mừng, thọ giận, thọ thương, thọ ghét, thọ thân, thọ sơ, thọ phải,
thọ quấy…Những cảm thọ này được tiếp thu qua sáu căn: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý. Nhưng càng thọ th́ tâm càng vọng đọng và nó là động lực
chính làm cho con người đau khổ, phiền não, ưu bi. Hằng ngày chúng ta
mở tung sáu cảnh cửa để đón nhận gió từ bên ngoài thì chắc chắn gió từ
hướng này hay hướng nọ sẽ thổi bay những vật dụng trong nhà. Do đó nếu
chúng ta mở tung sáu cửa: cửa thấy, cửa nghe, cửa nếm, cửa ngữi, cửa xúc
và cửa biết thì cái nhà tâm linh của chúng ta không bao giờ được yên
ổn. Vì thế muốn được thanh thoát thì con người phải giảm bớt sự thọ dụng
hay cảm thọ cho đến khi có thể dừng hẳn thì sẽ được an vui tự tại. Cho
nên đức Phật cũng dạy rằng:”Hãy học các hạnh của đất. Dù con
người có dẫm đạp, đổ lên đất những thứ nhơ bẩn hôi tanh hay rưới xuống
đất hương hoa thơm tho tinh khiết, đất cũng an nhiên không giận, chẳng
mừng. Biết được như thế sẽ không còn bị mọi cảm thọ bám vào. Biết nhìn
cảm thọ như đối tượng bị nhìn thay vì đồng hóa mình với cảm thọ thì sẽ
luôn thanh thản an nhiên trước mọi sự”.
Lúc Phật nói lần thứ hai, lần thứ ba,
có muôn ức hằng hà sa chúng sanh, cũng vì không thọ tất cả pháp mà vô
minh phiền não hết, tâm được giải thoát. Từ đấy, các chúng Thanh Văn
ngày càng nhiều vô lượng vô số không thể tính kể hết.
Khi hành giả chứng tứ thiền liền vào Diệt
Thọ Tận Định tức là đi vào đại định mà nơi đó không còn cảm thọ và
không còn tri giác tức là không còn có sự hiện diện của thọ và tưởng thì
họ chứng được Niết bàn trở thành A la hán. Ở trong Diệt Tận Định, hành
giả bắt đầu tịnh khẩu, tịnh thân, tịnh ý và sau cùng là tịnh hơi thở.
Người vào trong định này thì hơi thở không còn, nhưng sức nóng trong
người vẫn còn và dĩ nhiên tất cả các căn vẫn trong sáng. Khi xuất Diệt
Tận Định thì ý hành phát khởi trước nhất, rồi đến thân hành và sau cùng
khẩu hành mới tác động. Cái khác nhau giữa người đi vào Diệt Tận Định và
người chết là người đi vào định này cũng chấm dứt hơi thở, thân thể bất
động, miệng không còn nói, nhưng hơi ấm vẫn còn nên không chết.
Bấy giờ 16 vị vương tử đều là đồng
tử, xin xuất gia làm Sa-di. Các Sa-di nầy đều thông minh, bén nhạy. Trí
tuệ sáng suốt, từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Phật, siêng tu hạnh
thanh tịnh, cầu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng bạch Phật
rằng:
-Bạch Thế
Tôn! Chúng Thanh Văn vô lượng đây, việc làm đã thành tựu, Thế Tôn nên vì
chúng con nói pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng con nghe rồi
đồng tu học. Chí nguyện của chúng con thường mong được Tri Kiến Phật. Đó
là chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm của chúng con, mong Phật biết cho.
Lúc bấy giờ, tám muôn ức người trong
số tùy tùng Chuyển Luân Thánh Vương, thấy 16 vị vương tử xuất gia cũng
xin xuất gia. Vua thuận cho.
Phật tánh thì lúc nào cũng ở trong ta cho
nên cúng dường trăm ngàn muôn ức Phật không có nghĩa là phải đi tìm
Phật từ hành tinh này đến hành tinh nọ, cúng dường từng vị Phật để tỏ
lòng thành kính. Mà cúng dường là bồi dưỡng, phát huy trí tuệ, vun bồi
công đức phước đức tức là đã cúng dường cho Phật rồi đấy. Nên làm tất cả
những việc lành, những việc mà lợi mình, lợi người, lợi cho tất cả
chúng sinh. Thân, khẩu, ý nên tránh xa những việc ác, những việc hại
mình, hại người, hại cho tất cả chúng sinh. Vì thế lúc nào cũng nhớ đến
tĩnh thức chánh niệm để kiểm soát thân khẩu ý, làm chủ thân tâm. Làm một
việc thiện là cúng dường cho một vị Phật, tránh một việc ác là cúng
dường một vị Phật. Nghĩ việc lành là cúng dường một vị Phật, không nghĩ
điều bất thiện là cúng dường thêm một vị Phật. Do đó nghĩ thiện, nói tốt
và làm lành là chúng ta đã bồi dưỡng đức tánh giác ngộ đã có sẵn trong
ta. Vì thế nếu có thể nghĩ, nói và làm vô lượng việc lành, việc thiện
tránh xa vô lượng vô biên việc ác thì tâm sẽ nhẹ nhàng thanh thoát tức
là đã cúng dường cho hằng sa số chư Phật rồi. Khi tâm không còn ác niệm
nghĩa là chúng ta đã nghiêm túc giữ gìn giới mà giới nghiêm minh thì tâm
có định và nếu đi sâu vào thiền định thì chắc chắn trí tuệ sẽ phát sinh
mà chứng đạo. Giới trong Phật giáo có nghĩa là biệt biệt giai thoát tức
là giữ được một phần giới luật nên không tạo những ác nghiệp thì người
đó có được một phần giải thoát, tự tại. Còn giữ giới vẹn toàn nghĩa là
không còn nghiệp chướng níu kéo khiến cho tâm được khinh an thơi thới
nhẹ nhàng. Mà tâm trong sáng thì trí tuệ sẽ phát sinh thấy được chân lý.
Tóm lại, học Phật trước tiên là học làm
người nghĩa là phải vun bồi đời sống đạo đức nhân bản thì thân tâm mới
được tự tại cho nên Lục Tổ nói rằng:”Phật Pháp tại thế gian, không lìa thế gian giác” là như vậy. Còn lìa thế gian mà tìm Bồ Đề, Niết bàn chẳng khác nào đi tìm lông rùa sừng thỏ.
Khi nói về thiện ác, Lục Tổ dạy rằng:
Ngột ngột bất tu thiệnnghĩa
là đừng đặt vấn đề thiện vì bất cứ việc gì không trái với chơn tánh thì
con người gán cho nó cái tên là thiện, chớ chẳng có gì thật là thiện ác
cả.
Đằng đằng bất tạo ácnghĩa
là chuyện ác thì ở đâu cũng có chỉ có điều là mình không làm vì thế nếu
không làm ác thì tự nó thành thiện chớ chẳng có cái gì là thiện.
Tịch tịch bất kiến vănnghĩa
là không còn chấp nơi thấy, nghe, hay, biết thì có thanh tịnh nhẹ nhàng
tức là thấy thì thấy tất cả mà như không thấy gì hết. Nghe, ngữi, nếm,
xúc, biết cũng thế. Nói thế thì người chứng đạo cũng biết vui, biết đẹp,
biết xấu, biết dở, biết tất cả đấy chứ, nhưng họ không đưa cái biết ấy
vào tâm để rồi mới sanh ra tham luyến cho nên đối với họ cái gì cũng
biết nhưng coi như không biết gì hết.
Đản đản tâm vô trướcnghĩa
là tâm thênh thang mở rộng như trời cao đất rộng, không còn dính mắc,
chấp trước. Trời thì che chở bao dung cho tất cả mà không có ý niệm che
chở riêng cho bất cứ một chủng loại nào.Đất thì bao dung tất cả cho dù
con nguời có đổ lên đất những thứ hôi tanh nhơ bẩn hay hương hoa thơm
ngát thì đất cũng an nhiên, không giận, chẳng mừng.
Vì thế Phật giáo nhập thế là phải từ cái
thế gian đầy ô nhiễm này mà tự mình thanh lọc thân tâm, quán biết đời là
giả tạm, cố gắng buông bỏ mỗi ngày một chút thì hoa sen nơi chính mình
sẽ vươn lên và nở rộ. Cho dù đóa sen còn nằm trong bùn, sắp vọt ra khỏi
bùn, vươn lên khỏi mặt nước hay đã nở rộ thì tất cả đều mang theo bên
trong mình một tiềm năng để trở thành những đóa sen tươi đẹp, màu sắc
rực rỡ và hương thắm dịu dàng.
Nói chung tuy Phật có thọ ký sẽ
thành Phật hiệu gì, ở quốc độ nào, nhưng tất cả cũng đều có một điều
kiện chung là phải cúng dường hằng hà sa chư Phật thì mới thành Phật
được nghĩa là con người phải bồi dưỡng phát huy tối đa những phước đức
công đức cho đến khi công tròn phước đủ thì trí tuệ mới phát sinh, chứng
ngộ chân lý, trở thành Phật.
Câu“ siêng tu hạnh thanh tịnh“
chỉ là cách nói để nhắc nhở chúng sinh đừng giải đải chớ thật ra không
có gì là tu hạnh thanh tịnh cả. Bởi vì hạnh thanh tịnh là cái vốn có sẵn
vì chúng sinh đã có sẵn chất Phật rồi. Chúng sinh chỉ cần quan tâm cái
bất thanh tịnh là những khách trần phiền não bên ngoài, là những trần
cấu làm vẫn đục tâm thanh tịnh của ta. Vì thế siêng tu hạnh thanh tịnh
là sống đúng với chơn tánh vốn sẵn có của mình.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận lời
thỉnh cầu của 16 vị Sa-di, qua hai muôn kiếp sau, ở trong hàng tứ
chúng, nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ
Niệm.
Phật nói kinh đó suốt tám ngàn kiếp không gián đọan. Nói xong, Phật vào tịnh thất, trụ trong thiền định tám muôn bốn ngàn kiếp.
Sau khi Phật Đại Thông Trí Thắng nhận lời
cho 16 vị vương tử và đại chúng được xuất gia, trở thành những vị Sa di
thì Phật bắt đầu nới kinh Pháp hoa. Nói xong thì Phật trụ trong thiền
định trong thời gian rất lâu chuẩn bị nhập diệt vì sứ mạng thị hiện ở
thế gian của Phật đã viên mãn và cũng chẳng còn kinh gì để nói. Đức Phật
Thích Ca cũng vậy, nói xong kinh Pháp Hoa thì Ngài liền đến thành Câu
Thi Na chuẩn bị nhập Niết bàn. Có thể nói học kinh Pháp Hoa là kinh tối
thượng mà Phật để dành lại cho phần cuối nghĩa là kết thúc chương trình
Phật học. Nghe kinh Pháp Hoa xong rồi, người đệ tử Phật có hai con
đường: Thứ nhất nhờ nghe kinh Pháp Hoa mà phát triển những chủng tử Đại
thừa nên dựa theo hột giống Pháp Hoa làm nền tảng tu hành khiến cho hoa
sen trong lòng nở rộ. Ngược lại, nếu tiếp thu không được thì trở lại
giáo lý Nguyên thủy cũng giống như 5000 vị A la hán định tánh và nam, nữ
cư sĩ rời pháp hội ở phẩm trước.
Mười sáu vị Sa-di bèn thay Phật lên
pháp tòa rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng tám muôn bốn ngàn kiếp.
Mỗi vị độ hằng sa chúng sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Qua tám muôn kiếp, đức Phật Đại Thông xuất định bảo rằng:
-16 vị Sa-di thật là ít có. Vì
các căn thông lợi, trí tuệ sắc bén, các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát nếu biết gần gũi và kính tin thọ trì tu học Pháp của các vị ấy sẽ
được đạo Vô Thượng.
Đức Phật Thích Ca bảo các Tỳ-kheo:
-Hằng sa chúng sanh đã được 16 vị
Sa-di hóa độ, đời đời đều sanh ra cùng chung nghe pháp với các vị ấy và
16 vị ấy nay đã thành Phật với danh hiệu như:
-Phật A Súc và Phật Tu Di Đảnh thành Phật ở phương Đông.
-Phật Sư Tử Âm và Phật Sư Tử Tướng thành Phật ở phương Đông Nam.
-Phật Hư Không Trụ và Phật Thường Diệt thành Phật ở phương Nam.
-Phật Đế Tướng và Phật Phạm Tướng thành Phật ở phương Tây Nam.
-Phật A Di Đà và Phật Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não thành Phật ở phương Tây.
-Phật Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông và Phật Tu Di Tướng thành Phật ở phương Tây Bắc.
-Phật Vân Tự Tại và Phật Vân Tự Tại Vương thành Phật ở phương Bắc.
-Phật Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy thành Phật ở phương Đông Bắc.
-Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật ở cõi Ta Bà.
Mười sáu vị Sa di tinh tấn tu hành, phát
triển trí tuệ, tiếp tục con đường chư Phật nói kinh Pháp Hoa, hành trì
lục độ viên mãn nên nay tất cả đều thành Phật. Sau khi thành Phật, mỗi
vị giáo hóa một phương cho tới mười phương chư Phật và thế giới Ta Bà
này có đức Phật Thích Ca. Thế thì đức Đại Thông Trí Thắng có 16 người
con đều noi theo gương cha xuất gia thành Sa Di và trải qua vô lượng
kiếp vun bồi trí tuệ, tất cả đều trở thành bậc Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Như vậy mười phương chư Phật được thành Phật là do đức Đại
Thông Trí Thắng nói kinh Pháp Hoa cho các Ngài nghe và các Ngài nương
theo diệu lý Pháp Hoa tu hành mà được thành Phật. Nói cách khác đức Đại
Thông Trí Thắng là ngọn đèn tỏa sáng và ánh sáng huyền diệu phát ra từ
ngọn đèn đó là Tri Kiến Phật. Do đó 16 người con thâu nhận ánh sáng
nhiệm mầu từ ngọn đèn trí tuệ và bắt đầu khai tâm mở tánh để nhận ra Bổn
tánh của chính mình. Do đó chư Phật mười phương đều từ Tri Kiến Phật mà
ngộ nhập được Pháp thân Phật. Tuy mỗi vị tu trong vô lượng kiếp, nhưng
khi thành Phật rồi thì mỗi vị đi về mỗi phương để hóa độ chúng sinh
nghĩa là Pháp thân là trùm khắp nên không giới hạn bởi không gian và
thời gian bởi vì ở đâu cũng đều có Phật (tánh) cả.
Đức Phật Thích Ca nói tiếp:
-Các Tỳ-kheo lúc chúng ta làm
Sa-di, mỗi người giáo hóa vô lượng hằng sa chúng sanh, vì đạo vô thượng
mà theo nghe pháp. Những chúng sanh đó, đến nay có người đã ở vào địa
vị Thanh Văn, ta thường lấy pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà giáo
hóa. Hằng sa chúng sanh được giáo hóa thuở đó, nay là Tỳ-kheo các ông
đó. Sau khi ta diệt độ, những Thanh Văn trong đời vị lai cũng là những
chúng sanh đã kết duyên từ thuở ấy. Tuy vậy, cũng có hàng đệ tử không
nghe kinh nầy, không hay không biết những hạnh của Bồ Tát, tưởng được
một ít công đức tu tập là đã diệt độ chứng đắc Niết Bàn.
Nên biết, chỉ do Phật thừa mới
được diệt độ, không có thừa nào khác. Nếu có khác thì đó chỉ là phương
tiện của Như Lai vận dụng mà thôi.
Chính Đức Phật Thích Cavà 15 vị Phật
kháccũng phải tu hành trải qua hằng sa kiếp nghĩa là chính các Ngài cũng
phải thực hành Bồ-tát Vạn hạnh rốt ráo để cứu độ chúng sinh trải qua
hằng hà vô số kiếp thì mới thành Phật. Vì thế Phật dạy rằng : ”Trong
cõi tam thiên đại thiên thế giới này, không có nơi nào mà không có dấu
chân ta và cũng không có chỗ nào mà không có xương ta để lại”.
Đây mới chính thật là cuộc hành trình vô cùng vô tận với tâm nguyện cứu
độ tất cả chúng sinh còn lặn hụp trong biển đời sinh tử trầm luân của
chư Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến khi đạt được đạo quả viên tròn.Trong
khi các Ngài còn là Sa Di đã từng giáo hóa cho biết bao chúng sinh trong
vô vàn thế giới. Bây giờ các Ngài đã viên thành Phật đạo thì các chúng
sinh đó trở thành các vị A la hán trong hàng Thanh Văn. Nhưng theo
truyền thống từ hằng sa kiếp trong quá khứ cho đến nay, từ đức Đại Thông
Trí Thắng cho đến đức Thích Ca, chư Phật dùng phương tiện trong lúc ban
sơ mà nói pháp Thanh Văn, Duyên Giác, nhưng sau cùng tất cả cũng quy về
Phật thừa thì mới thành Phật được. Do đó Niết bàn các vị A la hán chứng
đắc chưa phải là Niết bàn mà chư Phật thực chứng vì thế muốn thành
Phật, muốn thành tựu Vô thượng Niết bàn thì phải tu học kinh Pháp Hoa,
phải dựa vào tinh thần Pháp Hoa mà tiến thẳng đến cứu cánh Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Đến đây đức Phật Thích Ca đưa ra một tỷ dụ:
-Có một chỗ chứa nhiều của báu.
Muốn đến nơi đó phải trải qua đường dài những 500 do tuần nhiều nguy
hiểm hoang vắng đáng ghê sợ. Một nhóm người muốn đến nơi ấy để lấy của
báu. Có một người nhiều thông minh hiểu biết dẫn đường. Dù vậy, vì đường
dài, nhóm người ấy mệt nhọc, sợ sệt tỏ ý chán nản muốn lui về. Thương
xót bọn người ấy sao lại có ý bỏ của báu mà muốn lui về. Vị dẫn đường
bèn ở nơi hai phần đường, dùng phép lạ hóa ra một tòa thành và bảo nhóm
người kia vào ở sẽ được an ổn sung sướng. Rồi muốn đi nữa để đến chỗ
châu báu thì cũng tiện.
Nhóm người kia nghe theo, vào thành ở được an ổn và rất bằng lòng.
Khi biết nhóm người kia hết mỏi
mệt, vị dẫn đường mới nói: “Thành ấy là do ta hóa ra để chúng ngươi tạm
nghĩ mệt, chớ chưa phải là chỗ các vị cần đi đến. Hãy cố gắng lên, chỗ
chứa châu báu gần đây”.
Cũng vậy, biết chúng sanh sợ
con đường dài thành Phật, phải tinh tấn và cần khổ lắm mới đi đến chỗ
cuối cùng. Phật như vị dẫn đường, phương tiện nói có hai thứ Niết
Bàn. Một cho Thanh Văn. Một cho Duyên Giác. Chúng sanh lại tưởng hai nơi
đó là cứu cánh, Phật phải đưa sự thật ra mà dạy rõ:
Rằng sự tu hành đến quả vị
Thanh Văn, Duyên Giác là chưa xong, cần phải tiến thêm lên nữa. Tuy vậy
đừng sợ. Từ đây đến chỗ chứa châu báu gần và rất dễ đi.
Để cho các vị Thanh Văn có một ý niệm rõ
ràng sự khác biệt giữa sự chứng đắc của họ và Phật, đức Phật Thích Ca
bây giờ mới đưa ra một thí dụ. Có một đoàn người đi lấy trân bảo, nhưng
đoạn đường đi chẳng những còn xa mà lại rất nguy hiểm nên một số người
chán nản muốn thối lui. Vị dẫn đường là một người rất thông minh, thương
xót những người thoái chí kia đã bỏ lở một cơ hội bằng vàng nên dùng
phép lạ biến hóa ra một cái thành rất khang trang và tiện nghi để các vị
đó tạm nghĩ. Sau khi mọi người được an ổn, bình yên thì vị dẫn đường
bây giờ mới nói rằng thành ấy là do vị ấy biến hóa ra để cho họ tạm
nghĩ, nhưng muốn đến được tòa báu chứa toàn trân bảo thì hãy tiếp tục
lên đường. Khi thấu hiểu thâm ý của vị dẫn đường, đoàn người hoan hỉ
tiếp tục cuộc hành trình. Vị dẫn đường kinh nói ở đây chính là đức Phật
và đoàn người đi tìm trân bảo là những vị A la hán. Còn Niết bàn mà các
vị A la hán chứng đắc chẳng qua chỉ là tiểu Niết bàn tức là Niết bàn tạm
thời trong giai đoạn ban sơ chớ chưa được bảo sở tức là Vô thượng Niết
bàn.
Vì thế bản hoài của chư Phật thị hiện ở
bất cứ thế giới nào là hướng dẫn người tu viên thành Phật đạo tức là
thành Phật chớ không phải thành A la hán hay Bích chi Phật. Tại sao? Bởi
vì các vị Thanh Văn chỉ đoạn được Ngã Không cho nên thế gian vạn pháp
dưới ánh mắt của họ không có gì đáng quý, không có gì đáng tham luyến,
say mê, không có gì đáng giữ gìn, bảo thủ ngay cả tấm thân tứ đại của
họ. Do đó cái “Không” của hàng Thanh văn là vạn pháp không tồn tại,
trường cửu, không bền không chắc của sự vô thường nên họ chứng được ngã
không. Nói cách khác đối với sự vật hiện tượng của thế giới hữu vi như
trời trăng mây nước, chim bay cá lặn thì không có vật gì thoát khỏi luật
vô thường nên tất cả vạn pháp trong thế gian dưới ánh mắt của họ thì
tât cả đều là không. Vì vậy “ngã không” ở đây chính là
nhất thiết pháp vô ngã. Vô ngã nghĩa là vạn pháp ngay cả tấm thân của họ
không có tự thể cố định, trường tồn, vĩnh cửu bởi vì chữ “ngã” trong
đạo Phật là tự tại, thường nhất, bất biến mà vạn pháp trong thế gian nầy
không có cái gì là bất biến, thường nhất, cố định cả. Khi đạt được chân
lý ngã không thì các vị trở thành bậc A la hán.
Các vị A la hán chỉ thấy sự hoại diệt, vô
thường của thế gian mà các Ngài không thấy sự trường tồn vĩnh cửu tức
là sự vô sanh vô diệt của vạn pháp. Thí dụ khi nhìn một nụ hoa thì làm
sao biết được tánh vô sanh của nó? Khi nhìn đóa hoa mới nở thì chắc chắn
là nụ hoa sanh và vài tuần sau, hoa tàn thì nói rằng nụ hoa diệt. Nhưng
đây chỉ là cái nhìn thiển cận của phàm nhân, còn cái nhìn của chư
Phậtngộ được vô sanh là ngay trong lúc nụ hoa mới nở thì cái sinh đã có
diệt trong đó rồi. Ngược lại trong lúc nó tàn úa thì chư Phậtlại nhìn
cái diệt là bắt nguồn cho cái sinh khác. Đó là hiện tượng quy về bản thể
và bản thể duyên khởi thành ra hiện tượng cho nên có cái gì là thật
sinh hay cái gì là thật diệt đâu. Nói cách khác sinh để rồi diệt, diệt
rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh diệt, sống
chết là chuyện thường, chẳng có gì quan trọng nên không còn lo sợ, khổ
đau. Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh tật thì đau khổ buồn phiền.
Ngược lại, đối với chư Phậtsống chết là chuyện bình thường, tử sanh là
trò dâu biển nằm trong chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến
thế thôi. Vì vậy vớiPhật nhãn của chư Phật thì nhìn vạn pháp sanh mà
không thật sanh và diệt nhưng không phải là mất hẳn nghĩa là sinh để rồi
diệt và diệt rồi để lại sanh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận. Các
vị A la hán chỉ nhìn đời bằng một góc độ bằng thế giới hiện tượng nên
chấp vào sự vô thường biến hoại của nó. Ngược lại, trí tuệ Phật là trí
tuệ viên mãn nên các Ngài nhìn vạn pháp bằng hai mặt hiện tượng và bản
thể. Vì thế, nếu đứng về phương diện “chơn đế” mà quan sát để có thể thấy biết bằng tri kiến rộng rãi hơn, xuyên suốt bản thể của mọi hiện tượng vạn hữu thì “hiện tượng nào cũng là hiện tượng của bản thể và không có bản thể nào ngoài hiện tượng cả”. Cũng như sóng biển nhấp nhô là nước và thể tánh yên lặng êm đềm ở dưới lòng đại dương cũng là nước, bất khả phân ly.
Tóm lại, nói về thí dụ thì có ba phẩm:
1)Tam xa dụ:
đức Phật lấy ba thứ xe dê, xe hưu, xe trâu tượng trưng cho ba thừa là
Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Nhưng ba cổ xe trên chỉ là phương tiện
lúc ban sơ mà cứu cánh là Nhất thừa Phật đạo. Đó là mọi người tu thì ai
cũng thành Phật bởi vì trong mỗi chúng sinh đã có chất Phật tức là Tri
Kiến Phật rồi.
2)Dược thảo dụ: Bản hoài của chư Phật thị hiện trên thế gian này là muốn muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập
cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp Hoa vốn
đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh.Đó là trong tất cả mọi chúng sinh,
ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như
Phật.Vì thế mục đích của người tu Phật là thành Phật chớ không phải
thành Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát. Tuy Phật dùng phương tiện nói
pháp Tiểu thừa, nhưng trong đó có hàm ẩn tư tưởng Đại thừa mà người tu
theo Nhị thừa không biết nên cứ tưởng rằng cứu cánh là thành A la hán
chớ không bao giờ thành Phật được. Vì thế Phật mới lấy cây cỏ làm thí
dụ. Tuy trong thế gian có rất nhiều loại cây cỏ lớn nhỏ khác nhau, hấp
thụ nước và chất dinh dưỡng khác nhau, nhưng tất cả cùng hấp thụ một
dòng nước mưa. Dụ này để nói lên rằng lúc nào Phật cũng dạy tất cả chúng
sinh hướng về quả vị Vô thượng Bồ Đề, trong khi đó mọi người tiếp thu
giáo lý Phật khác nhau nên mới có hàng Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát
chớ giáo lý Phật không hề sai khác cũng giống như nước từ trận mưa đổ
xuống tưới đều không bao giờ có phân biệt cây cao hay cây thấp.
3)Hóa thành dụ:
Ở đây Phật xác định rằng giáo lý Phật Đà là dạy chúng sinh để thành
Phật. Nhưng con đường đến quả vị Vô thượng Bồ Đề còn xa khiến chúng sinh
ngán ngẫm, nhiều người không kham nổi. Để khuyến khích cho mọi người
cùng tiến bước, người dẫn đường tức là đức Phật đã hóa ra một cái thành
để mọi người tạm nghĩ. Đến khi mọi người an ổn, người dẫn đường mới chỉ
rõ nơi mà trân bảo quý báu đang chờ đón khiến cho mọi người hoan hỉ tiếp
tục cất bước để hoàn thành Phật đạo tức là thành Phật. Đạo Phật là đạo
tùy duyên cho nên ai muốn cất bước thí cứ lên đường, ai muốn ở lại Phật
cũng không cản. Tóm lại, Niết bàn của Thanh Văn, Duyên Giác là chỗ hóa
hiện ra để nghĩ tạm, nhưng muốn đến cứu cánh tột đỉnh thì phải đến bảo
sở Niết bàn của chư Phật.