KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI


Lê Sỹ Minh Tùng PL. 2556 DL. 2012
30/06/2012 14:07 (GMT+7)
Số lượt xem: 112355
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

The Explanation of the Saddharmapundarika Sutra (Lotus Sutra)

PHẦN GIỚI THIỆU

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà & Mỹ Ngân

 

          Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh vô cùng quan trọng đối với Phật giáo Đại thừa vì kinh ẩn chứa rất nhiều ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duy và suy luận của con người bình thường. Vì thế có rất nhiều luận giải, trước tác rất công phu và giá trị đã ra đời. Hãy xoay ngược dòng lịch sử thì sau khi đức Phật nhập diệt, các Trưởng lão giảng giải giáo lý Phật Đà tùy theo khuynh hướng và sự hiểu biết Phật pháp của họ nên Phật giáo bắt đầu có sự khác biệt vì lúc bấy giờ chưa có văn tự mà chỉ dùng khẩu thuyết truyền lại từ đời này sang đến đời khác. Từ đó Phật giáo bắt đầu rạng nứt và phân chia thành ra Phật giáo bộ phái. Một số Tỳ kheo theo khuynh hướng bảo thủ thì tuân giữ giáo luật và những lời dạy của Phật rất nghiêm minh. Trong khi đó cũng có những nhóm Tỳ kheo khác có khuynh hướng biến giáo lý đức Phật thành ra một nền triết học rất phức tạp vì lúc bấy giờ đạo Bà la môn đang chuyển từ thời kỳ Vệ Đà sang Áo Nghĩa Thư nghĩa là chuyển từ hệ thống cúng tế thờ phượng rườm rà phức tạp sang lãnh vực triết học, luận giải. Nhóm Tỳ kheo thuộc phái bảo thủ quan niệm rằng con đường giải thoát duy nhất là phải xuất gia và khẳng định rằng cho dù đức Phật có nói gì đi chăng nữa thì không ai có thể thành đạt mức độ chứng ngộ như đức Phật tức là thành Phật được. Vì thế mọi người chỉ cần tự giải thoát khỏi những trói buộc của hư vọng và khổ đau trong cuộc đời này là tốt lắm rồi. Thêm nữa, các Tỳ kheo thuộc nhóm bảo thủ lại xa lánh cuộc đời, lên tận núi cao rừng thẳm để tu cầu giải thoát cho riêng mình trong khi đại đa số Phật tử tại gia thì vẫn chìm trong đau khổ. Vì nhận thấy Phật giáo đang đi lệch và mất hẳn tinh thần hoạt động tích cực như thời đức Phật còn tại thế, những Tỳ kheo thuộc nhóm cải cách và tín đồ tại gia đã nô nức dựng lại cái tinh thần “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian giác” bằng cách thành lập Phật giáo Đại thừa. Những ai không thuộc Đại thừa thì gọi là Tiểu thừa và từ đó có sự va chạm rất lớn giữa Phật giáo mới và Phật giáo củ. Tiểu thừa cho rằng “Phật giáo Đại thừa là một sai lầm” vì họ diễn giải kinh điển theo đường lối vay mượn tư tưởng của Ấn Độ giáo nghiêng về triết học trừu tượng siêu hình rất khó hiểu, sai đường lối của Phật bởi vì đạo Phật là đạo diệt khổ cho nên đức Phật chỉ dạy Tứ Thánh Đế và Bát Thánh Đạo để giúp chúng sinh thực hành mà có an lạc Niết bàn. Ngược lại, Đại thừa chê Tiểu thừa là giáo lý chỉ thích hợp cho những người căn cơ “thấp” và lý tưởng giải thoát A la hán là ích kỷ không phản ảnh tâm đại từ bi như lý tưởng Bồ Tát.

          Kinh Pháp Hoa xuất hiện trong thời điểm và hoàn cảnh đó như là một nỗ lực để kết hợp Phật giáo trở thành Phật thừa. Những thừa như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát bây giờ dưới cái nhìn của Pháp Hoa chỉ là phương tiện lúc ban sơ, nhưng cuối cùng muốn hoàn thành Phật đạo thì tất cả đều phải quy về nhất thừa Phật đạo. Kinh Pháp Hoa nói lên một triết lý rất thâm sâu và được diễn bày như là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời dưới dạng của một vỡ kịch kết hợp tư tưởng rất chặt chẻ trải suốt chiều dài của kinh. Kinh được viết theo thể loại Vị Tằng Hữu để diễn tả những hiện tượng, cảnh giới siêu hình, không có thật đối với thế giới con người bình thường nhưng ẩn chứa một triết lý rất thâm sâu huyền diệu mà có lẽ vượt ra ngoài ngôn ngữ của con người. Ở đây, giáo lý Nguyên thủy được xem như là những bài tình ca quê hương mộc mạc với tiếng đàn tranh, đàn bầu nhẹ nhàng thanh thoát. Bây giờ các triết gia nổi tiếng xuất chúng của Phật giáo Đại thừa đem những bài tình ca đó hòa âm lại với tiếng đàn Piano, tiếng vĩ cầm, với dàn nhạc thính phòng vì thế nếu thấu hiểu rốt ráo thì tuy nghe nhạc theo lối Tây phương, nhưng âm hưởng vẫn thoanh thoát quyện theo nét nhạc quê hương vậy. Người tu dựa theo tinh thần Pháp Hoa là thành Phật chớ không phải thành A la hán hay Bồ Tát. Ai cũng có thể thành Phật vì ai cũng đều có sẵn Trí Tuệ Phật giống y như Phật. Vì thế tư tưởng Pháp Hoa ra đời như là cuộc cách mạng giải phóng những ràng buộc mà các bộ phái Nguyên thủy đè ép lên con người vì dựa theo tinh thần Pháp Hoa thì thành Phật không chỉ dành riêng ưu đãi cho thành phần xuất gia mà bất cứ ai cũng có thể thành Phật. Trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có nàng Long nữ mới vừa tám tuổi con gái của Long Vương đã thành Phật là một thí dụ cụ thể. Hãy lắng nghe lời Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Trí Tích rằng “Có con gái của Long Vương mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí-đức, trong khoảnh khắc pháp Bồ đề tâm là được bất thối chuyển, biện-tài vô-ngại, từ bi rộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến quả Bồ Đề”. Sự thành Phật nhanh chóng đó của nàng Long nữ chẳng những làm cho Bồ Tát Trí Tích sững sờ mà còn làm cho Tôn giả Xá Lợi Phất kinh ngạc.

          Trước hết khi nói về lịch sử của kinh thì ngày nay hầu hết các học giả Đông Tây trên thế giới đều đồng ý rằng kinh Pháp Hoa, một bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa được biên soạn vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và kinh đã trải qua một tiến trình rất dài để đi đến hoàn tất. Hầu hết các học giả sau khi nghiên cứu kỹ về nội dung của kinh Pháp Hoa đều có chung một quan điểm rằng kinh này có hai phần là phần nguyên bản và phần bổ sung.

Theo lập luận của Sir Charles Eliot (Hinduism and Buddhism: An Historical Sketch (1921)) và học giả Maurice Winternitz (1863-1937) thì phần thứ nhì của kinh Pháp Hoa đã được thêm vào các phẩm thứ 25 (Bồ Tát Quán Thế Âm) và 26 (Đà-la-ni). Lý do là vì toàn bộ kinh Pháp Hoa  xiễn dương Tri Kiến Phật tức là khai mở, chỉ bày khiến cho chúng sinh mở toang tri kiến Phật của họ và giúp cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó. Đây là tinh thần tự giác, tự độ trong khi phẩm Quán Thế Âm và Đà-la-ni nghiêng về tha lực nên không dung hòa được với tư tưởng Pháp Hoa.

Trong khi đó, học giả Nhật Bản Hajime Nakamura (1912-1999) xác định rằng bản kinh Pháp Hoa mà được sang dịch ra nhiều thứ tiếng hiện nay là được tạo ra trong khoảng thời gian cuối của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và bản gốc bao gồm 27 phẩm rõ ràng đã xuất hiện vào năm 150 sau công nguyên. Xa hơn nữa, học giả Nakamura còn nói thêm rằng 22 phẩm đầu của kinh Pháp Hoa đã có trước năm 100 sau công nguyên. Bằng những chứng cớ sử liệu đó đã minh họa toàn bộ bức tranh về nền tảng lịch sử của kinh diệu Pháp Liên Hoa khiến các học giả đưa đến kết luận rằng kinh Pháp Hoa không phải do chính đức Phật thuyết mà thật ra kinh được biên soạn rất trễ về sau khoảng 700 năm sau ngày đức Phật nhập diệt.

Dựa trên cơ sở nào mà các học giả lý luận như thế?

1)Lý luận thứ nhất là họ cho rằng các triết gia, luận sư xuất chúng của Phật giáo lúc bấy giờ đã sáng tạo ra kinh Pháp Hoa để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của giới tín đồ nhằm duy trì sức sống của Phật giáo trong khi phải đương đầu với sự đàn áp của các tôn giáo hữu thần, đặc biệt là đạo Bà la môn tức là Hindu (Ấn độ giáo) ngày nay trong khoảng cuối thế kỷ thứ hai sau dương lịch. Với những danh tự mới, bối cảnh mới và lối giải thích mới, kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã thổi một luồng sinh khí tươi mát và sống động vào trong thế giới Phật giáo lúc bấy giờ. Tuy vậy, nội dung của kinh được mô phỏng và phát triển không ngoài những tư tưởng và lời dạy của đức Phật. Do đó giới biên tác ẩn danh không dám đề tên của họ như là tác giả của kinh mà cho đó là do Phật nói ở núi Linh Thứu. 

2)Đứng về phương diện tâm lý, tuy các triết gia thời đó có lỗi lạc đến đâu thì vẫn không chánh danh bằng đức Phật, người đã khai sáng ra đạo Phật. Do đó tuy kinh Pháp Hoa được biên soạn bởi những triết gia, luận sư nổi tiếng nhất của Phật giáo lúc bấy giờ, nhưng họ vẫn nói kinh này là do Phật thuyết nếu không thì kinh thuộc về ngoại đạo rồi. Vì thế khi kinh xuất hiện đã được đại chúng đón chào nồng nhiệt, kính trọng và tin tưởng. Kết quả, kinh Pháp Hoa đã được Phật giáo đồ khắp mọi nơi, mọi thời gian tôn sùng và tu tập triệt để.

Có rất nhiều dự kiện chứng minh rằng các bản dịch kinh Pháp Hoa từ Phạn ngữ sang tiếng Hán được thực hiện rất sớm trong những năm 234-235 sau dương lịch, nhưng những dịch phẩm ấy đã mất tích, không còn hiện hữu. Dựa theo bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục (K’ai-yuan-shih-chao-lu) do ngài Trí Thăng  (Chih-sheng) biên soạn năm 730 sau dương lịch có ghi chép khá chi tiết là có tất cả sáu bản dịch toàn vẹn của kinh Pháp Hoa từ tiếng Phạn (Sanskrit) sang tiếng Hán mà hiện tại ba bản vẫn còn lưu hành. Đó là:

          1)Chánh Pháp Hoa Kinh (Cheng-fa-hua-ching) do ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa) dịch vào năm 286 sau dương lịch gồm 7 hoặc 10 tập với 27 phẩm.

          2)Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (Mio-fa-lien-hua-ching) do ngài Cưu Ma La Thập (Kumàràjìva) dịch vào thời Diêu Tần năm 383 hoặc 406 sau dương lịch gồm có 7 tập và 27 phẩm, hoặc 8 tập và 27 phẩm vì không có phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa.

          3)Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (T’ien-pen-miao-lien-hua-ching) do ngài Xà La Quật Đa (Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta) dịch vào năm 601 sau dương lịch, gồm có 7 tập và 27 phẩm.

Trong phần lời tựa của bản dịch Anh ngữ “Scripture of The Lotus Bolssom of The Fine Dharma” của học giả Leon Hurvitz có đề cập đến nhiều thời điểm mà kinh Diệu Pháp Liên Hoa được dịch sang tiếng Hán. Đó là các năm 255, 286, 290, 335, 406 và 601 sau công nguyên. Nhưng trong sáu bản dịch đó thì chỉ còn có ba bản tồn tại là Chánh Pháp Hoa Kinh (286 AD), Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 406 AD) và Thiên Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (601 AD).

          Tuy ba bản dịch ở trên rất khả tín, nhưng kinh Pháp Hoa bằng Phạn ngữ chỉ có 27 phẩm mà sau đó bản dịch sang tiếng Hán lại có đến 28 phẩm. Các học giả cho rằng bắt đầu từ phẩm thứ 23 trở về sau, có những phẩm mới đã được người đời sau thêm vào. Thí dụ Đề-Bà-Đạt-Đa là người phạm giới, phá hoại tăng đoàn, làm Phật chảy máu, xuối vua A Xà Thế giết cha hại mẹ vì thế theo nguyên tắc ông phải bị đọa. Nhưng dựa theo tinh thần Pháp Hoa thì ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Vì thế phẩm thứ 12 này mới được thêm vào mà trong đó Đề-Bà-Đạt-Đa được Phật thọ ký và về sau cũng sẽ thành Phật.

          Để giải thích sự khác biệt, thêm bớt trong Hán kinh, sư Đạo Tuệ viết trong quyển Tòng Đa Lục rằng có vị sư tên là Thích Pháp Hiển của chùa Thượng Định Lâm tìm thấy được bản kinh Pháp Hoa bằng tiếng Phạn có phẩm này. Sau đó, sư Pháp Ý ở chùa Ngõa Quan dịch phẩm này ra tiếng Hán, nhưng mãi đến khi sư Trúc Pháp Hộ ở Đôn Hoàng, dịch kinh Chính Pháp Hoa vào đời Vũ Đế triều Tấn thì mới đặt phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa vào sau phẩm Kiến Bảo Tháp.

Khai Nguyên Thích Giáo Lục là Mục Lục gồm có 20 quyển do ngài Trí Thăng biên soạn vào năm 730 đời Tống. Đây là loại sách chuyên liệt kê tên, số quyển và niên đại phiên dịch của tác phẩm kinh điển Phật giáo. Toàn bộ Mục lục được chia làm hai phần:

          1)Tổng quát Quần Kinh Lục: từ quyển 1 đến quyển 10, tương đương với Đại Lục. Phần nầy theo thứ tự thời gian phiên dịch để nêu lên 176 tên người dịch cho 2278 bộ kinh, luật, luận từ Tiểu thừa đến Đại thừa. Tổng cộng 7046 quyển trong thời gian 664 năm từ năm 67 đời Đông Hán đến năm 730 đời Đường. Trong đó, những tư liệu liên quan đến những bộ kinh điển đã được sưu tập rất đầy đủ nói về số lượng quyển, tên người dịch, nơi phiên dịch và những người có quan hệ đến việc phiên dịch của những bộ kinh đó. Đặc biệt còn phân biệt các kinh có bản dịch và mất bản dịch, dịch một lần hay dịch nhiều lần.

          2)Biệt phần Thừa Tạng Lục: từ quyển 10 đến 20, phần này phỏng theo cách phân loại mục lục của Pháp Kinh Lục. Trong phần này có Hữu dịch hữu bản lục (có tên người dịch, có bản dịch), Hữu dịch vô bản lục (có tên người dịch, nhưng không có bản dịch) cho đến Nhập Tạng Mục Lục.

          Trong phần Nhập Tạng Mục Lục của 1076 bộ kinh điển được dịch từ nguyên bản tiếng Phạn sang chữ Hán gồm 5048 quyển. Trong đó, kinh Đại thừa được chia làm 5 bộ lớn là Bát Nhã, Bảo Tích, Đại Tập, Hoa Nghiêm và Niết Bàn. Trong số 1076 bộ kinh đó có đến 392 là kinh giả và 14 kinh khác có nguồn gốc đáng nghi ngờ. Như thế số kinh giả và không đáng tin cậy đã chiếm đến một phần ba. Nếu con số nêu trên là đúng thì kinh điển Đại thừa thật sự có vấn đề.

Ngoài ra, để phòng ngừa sự nhầm lẫn, ngài Trí Thăng còn dùng Thiên tự văn để ghi số hiệu mục lục được nhập Tạng của sách này và soạn thành Khai Nguyên Thích Giáo Lục Lược Xuất gồm 4 quyển. Từ đời Bắc Tống về sau, bộ Lược Xuất này được làm chỗ y cứ cho việc in khắc số hiệu của Đại Tạng Kinh.

          Trong ba bản dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập là phổ thông nhất tại các quốc gia ở Á Châu như Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và ngay cả ở Việt Nam. Các học giả Đông Tây ngày nay đều cho rằng kinh Diệu Pháp Liên Hoa có lẽ đã trải qua một tiến trình tương đối hơi dài để đi đến hoàn tất mỹ mãn. Vì tầm quan trọng cũng như giá trị của kinh khiến cho kinh được tôn xưng như là vua của tất cả các kinh trong khu vườn kinh điển Đại thừa, nhưng chính nó cũng phản ảnh một ngộ nhận căn bản là coi thường các kinh khác.

Tinh thần Pháp Hoa ở đây là nhân duyên vốn từ chúng sinh mà đến bởi vì nếu không có chúng sinh thì không có Phật, mà không có Phật thì cũng không có giáo pháp. Vì thế Phật có thuyết pháp cũng vì chúng sinh và nhân duyên là để khiến cho chúng sinh được liễu sinh thoát tử. Do đó trong kinh Pháp Hoa dạy rằng: ”Phật vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” nghĩa là Phật là một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự mà Phật muốn nói ở đây là gì? Phải chăng đó là sự sinh tử của mỗi chúng sinh. Chính trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa xác định rằng “Chư Phật chỉ do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”. Đó là muốn cho chúng sinh “khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến” nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật. Vậy Phật tri kiến mà đức Phật muốn nói ở đây chính là chơn tâm, là Phật tánh thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị vô minh che lấp nên con người không thấy biết chơn tánh hằng giác của mình. Cái bổn tánh này ví như mỏ vàng đang đợi khai phá, chưa được hiển lộ. Vì thế đức Phật muốn chúng sinh khai mở tri kiến Phật của mình để có sự thanh tịnh, an lạc ngay trong cõi đời có tan có hợp này cũng giống y như Phật vậy. Cũng ví như vàng ròng còn trộn lẩn với đất cát sỏi đá, Phật tánh và phiền não cũng vậy. Phiền não còn, Phật tánh biến mất cho nên nếu chúng sinh hóa giải được một phần phiền não thì có được một phần Bồ-đề. Mà có Bồ-đề là có giác ngộ. Dựa theo tinh thần Pháp Hoa, nhân duyên lớn nhất để đức Phật xuất hiện trên thế gian này là khai mở, chỉ bày khiến cho chúng sinh mở toang tri kiến Phật của họ và giúp cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó. Thế thì cái tri kiến Phật mà kinh nói ở đây chính là trí tuệ tức là cái biết như thật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các pháp. Con người có trở về với bổn tánh, chơn tâm hay Phật tánh chỉ khi nào họ đạt được cái trí tuệ này thì lúc đó họ sẽ an trú trong sự thấy biết tánh bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện tượng và tất cả khái niệm hay ý niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân biệt sẽ biến mất. Vì lẽ đó mà kinh Pháp Hoa còn được biết đến như là kinh Trí Tuệ.

Trong lịch sử kinh điển Phật giáo Đại thừa, kinh Bát Nhã xuất hiện trước nhất, rồi mới tới kinh Bảo Tích, kinh Hoa Nghiêm, kinh Duy Ma Cật…và sau cùng kinh Pháp Hoa. Kinh Duy Ma Cật có rất nhiều tư tưởng rất uyên thâm, ngoài tư tưởng Bất Nhị, lý tưởng bất khả tư nghì được diễn bày rất khéo léo và thiện xảo hòa nhịp cùng với tư tưởng Bát Nhã khiến cho kinh có một chỗ đứng rất vững chắc trong kho tàng kinh điển Đại thừa. 

 

HOA SEN TRONG ĐẠO PHẬT

Đức Phật sinh ra trong cung vàng điện ngọc nhưng Ngài thấy rằng những nỗi khổ lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau tuổi trẻ, sức khỏe và đời sống của tất cả mọi chúng sinh. Nỗi khổ là hiện tượng vô hình, nhưng nó lại tác động không kém gì những nhát đao, những thanh kiếm xuyên suốt vào tâm của con người. Cái đau đớn trong tâm hồn nhất thiết không thương sót một ai. Người giàu sang phú quý cưu mang nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo khó cũng phải gánh chịu những nỗi bất hạnh đau đớn dành riêng cho họ. Ông hoàng bà chúa có những nỗi khổ niềm đau  theo lối vua chúa, ngược lại kẻ bần cùng cũng có cái đau cái đớn chẳng khác gì. Nhưng tại sao chúng sinh lại phải khổ?

Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Phật dạy rằng: 

-Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.

Con người vì bị vô minh che lấp nên không nhìn thấy biết đúng và từ đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi chấp thủ, khư khư bám chặt lấy “Cái Ta” và những cái gì gọi là “Cái Của Ta”.  Thí dụ bất cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ, bằng gạch hay bằng xi măng cốt sắt, nhưng đức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải thật sự là “Cái Của Ta
mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó là một hiện tượng mà chúng ta gọi cái nhà trong thế gian vậy thôi. Còn ngôi nhà thật sự của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm thức. Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể thật đẹp, nguy nga tráng lệ, nhưng nó chính là nguyên nhân tạo đến lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn tự lo nọ đến áy náy buồn phiền kia. Vì nó ở ngoài ta tức là vật ngoại thân nên sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại cho nên càng bám víu vào nó thì càng khó dứt bỏ tức là càng khổ đau thêm. Nó không phải là nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh viễn trong đó, bởi vì nó không thật sự thuộc về ta mà là một phần của thế gian. Do đó ái dục làm động cơ thúc đẩy con người đưa đến hành động tạo nghiệp bất thiện bằng chính thân, khẩu hay ý của ta. Chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng của vô minh,  sai khiến con người luyến ái, đeo níu, bám chặt vào đời sống và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con người lặn hụp triền miên trôi nổi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Do đó có sống là có khổ. 

Nhà sản xuất điện ảnh nổi tiếng nhất ở Hollywood  Aaron Spelling khi còn sống đã xây một căn biệt thự lớn nhất vùng Los Angeles có trên năm mươi mấy phòng ngủ, rộng trên 56 ngàn bộ vuông và được thiết kế, trang trí bằng những thứ đắc tiền, quý hiếm nhất trên thế giới. Sau khi ông Spelling qua đời năm 2006, bà quả phụ Candice không thể một mình quản trị được tòa biệt thự quá lớn đó mặc dầu chính bà đã tự tay phát họa chi tiết để vẽ tòa biệt thự này từng phòng một. Đến năm 2008 bà quyết định bán lại với giá 150 triệu đô la. Có lẽ đây là căn nhà đắc tiền nhất trong lịch sử địa ốc ở Hoa Kỳ trong thời cận đại. Trước khi đóng cửa giao chìa khóa nhà lại cho chủ mới, bà thốt rằng “Cái đau đớn nhất của tôi là khi bước những bước sau cùng trước khi ra khỏi căn nhà mà nó đã gắn liền với biết bao kỷ niệm đầm ấm êm đềm khiến tim tôi se thắt và mặc dầu cố gắng tôi vẫn không cầm được nước mắt”. Thế thì có thật nhiều tiền, có nhà đắc tiền nhất thế giới thì sự ràng buộc càng to lớn không dễ gì buông xuống. Tệ hại hơn nữa là từ đây tuy sống trong những căn nhà sang trọng khác, nhưng trong lòng bà sẽ không bao giờ có được những cái hạnh phúc mà bà đã có vì bà tùy thuộc quá nhiều vào những thứ vật chất nầy. Chưa đủ, sau cái chết của ông Spelling, cũng vì tranh chấp tài sản, bà và người con gái duy nhất là Tori không còn nói chuyện với nhau. Có phải ái dục, tiền tài, danh vọng giết chết đạo đức là sức sống thanh cao của con người?

Nói chung khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho con người khó chịu. Hạnh phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả. Những điều mà chúng sinh mong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối tượng mà con người khao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương.

Vào thời đức Phật, một hôm các Tỳ kheo thấy những tội nhân bị trói bằng dây thừng, dây gai, xích lại và trông họ đang chịu đau khổ vô cùng mà không cách nào phá vở gông cùm để thoát thân được nên các Tỳ kheo đem chuyện ấy bạch với Phật.  Nghe thế đức Phật dạy rằng:

-Này chư Tỳ kheo! Các dây trói buộc ấy thật không chặt chẽ đâu, nếu so sánh với những trói buộc của đam mê xấu xa đê tiện, trói buộc của ái dục, trói buộc của lòng luyến ái, bám níu vào tài sản, sự nghiệp, con cái, vợ chồng. Ðó là trói buộc cả trăm lần, hơn nữa, cả ngàn lần chặt chẽ và vững chắc hơn các loại dây mà các ông thấy. Tuy nhiên, dầu các trói buộc ấy có chặt chẽ đến đâu, bậc thiện tri thức vẫn phá vỡ được."

-Dây làm bằng sắt, gỗ hay gai, ràng buộc không bền chặt. Bậc thiện tri thức nên biết như thế. Ngược lại, dây luyến ái bám níu vào kim cương, đồ trang trí vợ, con, là trói buộc bền chặt hơn nhiều.

-Trói buộc ấy thật bền chặt, bậc thiện tri thức nên biết như vậy. Nó kéo trì xuống, mềm mỏng dịu dàng, nhưng rất khó tháo gỡ. Chính dây ấy, nguời thiện tri thức cũng cắt lìa và từ bỏ thế gian, không luyến ái và từ khước mọi dục lạc. (Kinh Pháp Cú, câu 345 và 346)

          Bởi sự vô thường giả tạm đó, đức Phật dạy rằng:

"Aniccà vata sankhàrà - Uppàdavayadhammino 
Uppajjitvà nirujjhanti - Tesam vupasamo sukho."

Nghĩa là: “Các pháp hữu vi (sankhàrà, các vật được cấu tạo) là vô thường, có sanh rồi hoại, đã có sanh tức có hoại diệt - ngưng nó được là hạnh phúc."

Vì nhận thức như thế Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc cốt là để đi tìm chân lý cứu khổ, một con đường giải thoát trước tiên là cho chính Ngài chớ không phải mang một tâm tư hoài bảo vĩ đại muốn cứu rỗi cho tất cả mọi chúng sinh. Ngài đã ra đi, bỏ lại tất cả, viễn ly mọi ràng buộc thế tình, trở thành một nhà tu khổ hạnh và phải tranh đấu với những hoàn cảnh khắc nghiệt để mong tìm thấy được ánh sánh chân lý. Sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Ngài đã tìm ra con đường giải thoát, có được thanh tịnh Niết bàn và giác ngộ viên mãn. Ban đầu Ngài có khuynh hướng giữ im lặng, không muốn đem giáo pháp Ngài vừa thực chứng dưới cội Bồ-đề giảng giải lại cho thế gian: “Nếu Ta đem con đường Đạo Pháp ra để thuyết giảng mà chẳng có ai hiểu được thì [việc ấy] chỉ mang lại thất vọng và nhọc nhằn cho Ta..." (Trung A Hàm). Thật vậy, "những ai chỉ biết tìm lạc thú trong dục vọng, nấp mình sau tấm màn của u mê thì sẽ không thể nào quán thấy được Sự thực" (Trung A Hàm).

Có lẽ lúc đó Ngài muốn theo đuổi con đường của một vị Độc giác Phật. Sau khi vị Phạm thiên Sahampati năn nỉ rằng: “Xin Vị Thầy Tối thượng chớ nên phiền muộn, hãy nhìn vào chúng sinh đang phải gánh chịu đau buồn và khổ ải [vì vướng mắc] trong sự hình thành và già nua. Hỡi Vị Tối thắng trong cuộc chiến, hãy đứng lên! Hỡi Vị Thầy Tối thượng, hãy hy sinh tất cả để bước vào cái thế giới này. Cứ đem Giáo lý ra thuyết giảng, rồi đây cũng sẽ có người hiểu được" (Trung A Hàm), thì đức Phật mới nhận lời sẽ truyền dạy lại những gì Ngài thật chứng cho chúng sinh để cùng có giải thoát Niết bàn và đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát ra khỏi biển sinh tử trầm luân. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo giải thoát. Giải là cởi mở nghĩa là cởi mở những trói buộc để thoát ra khỏi mọi hình thức đau khổ của cuộc đời. Đức Phật khai thị cho chúng sinh biết đời là bể khổ, nhưng không vì thế mà con người nhìn đời bằng thái độ yếm thế bi quan tiêu cực. Cũng ví như ra chiến trận, nếu không biết địch là ai và ở đâu thì làm sao tiêu diệt chúng được. Phật dạy Khổ Đế để chúng sinh biết đời là bể trầm luân và Tập Đế là những nguyên nhân, cội nguồn phát sinh ra những nỗi khổ này. Nhưng đức Phật cũng từ trong cái khổ mà tìm ra chân lý. Cứu cánh của giáo lý Phật Đà là đức Phật dạy chúng sinh diệt khổ để có an lạc, hạnh phúc ngay trong cái thế giới có sinh có diệt này chớ đức Phật không bao giờ dạy con người trốn khổ nghĩa là cầu nguyện chạy sang một thế giới nào đó để có an lạc mà tự mình không lo hóa giải hết những thứ ô trược đó ở thế giới Ta Bà.

          Đức Phật dạy rằng:

          - Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là khổ đau (dukka):  Sinh là khổ đaugià là khổ đaubệnh tật là khổ đauchết là khổ đauphải kết hợp với những gì mình không thích là khổ đauphải xa lìa những gì mình yêu quý là khổ đau,không đạt được những gì mình thèm muốn là khổ đauTóm lại, năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) của sự bám víu là khổ đau.

            -Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là nguyên nhân của khổ đau : Đấy là sự ''thèm khát" mang lại sự tái-hiện-hữu và sự tái-hình-thànhsự thèm khát ấy phát sinh từ sự ham muốn quá độ và sự thèm khát thì sẽ luôn chạy theo những thụ hưởng mới, lúc thì nơi này lúc thì nơi khác, đấy là sự thèm khát các lạc thú của giác cảm, đấy là sự thèm khát [được] hiện hữu và hình thành, đấy là sự thèm khát không [muốn được] hình thành (trái với sự mong muốn của mình).

            -Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là chấm dứt khổ đau : Đấy là sự chấm dứt hoàn toàn của sự "thèm khát"dứt bỏ được nó, từ bỏ được nó, tự giải thoát ra khỏi nó, cởi bỏ được nó.

            -Này các tỳ kheo, đây là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau : Đấy là Con Đường Cao quý của Tám sự Đúng đắnđấy là : quán thấy đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng và tập trung [tâm thức] đúng.

Thế thì ngay trên cái khổ đó mà con người làm chủ được nó thì gọi là diệt khổ. Nếu chúng sinh không có khả năng diệt khổ thì cái khổ sẽ theo họ như bóng theo hình cho nên bất cứ họ ở đâu cho dù là cõi cực lạc thì họ vẫn phải sống trong cảnh khổ như thường. Vì vậy khi tâm  thanh tịnh, không còn phiền não quấy phá thì nơi ấy chính là cõi Phật thanh tịnh. Đó là “Tâm tịnh thì thế giới tịnh và Tâm an thì thế giới an bình” cho nên kinh Duy Ma Cật có câu “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh. Dục tịnh Phật độ tiên tịnh kỳ tâm”. Đức Phật dạy con người phát triển trí tuệ và sống đúng với Chánh pháp và thuận với Chân lý là “Tuệ Tri” chớ Ngài không dạy chúng sinh sống trong ảo tưởng, hướng về những cảnh giới không bao giờ có trong càn khôn vũ trụ tức là “Tưởng Tri”.

Khi ấy đức Phật dùng tuệ nhãn quan sát khắp cùng xem có ai có thể lãnh hội được Giáo Pháp của Ngài chăng. Trong Bộ Trung A Hàm (Majjhima Nikãya), có bài kinh Ariyapariyesana nói về hoa sen như sau:

-Như trong đầm có những loại sen trắng, sen hồng, sen xanh lẫn lộn. Có những ngó sen chớm nở khỏi bùn, mọc lên trong nước, có những cây khác vừa lém đém ngang mặt nước và cũng có những búp sen đã vượt hẳn lên cao, không còn vướng chút bùn nhơ nước đục. Chúng sanh trong thế gian cũng dường thế ấy dưới tầm mắt của bậc Chánh Biến Tri. Như Lai nhìn thấy chúng sanh đủ hạng, hạng đầy bợn nhơ và hạng tương đối trong sạch, hạng thông minh sáng suốt và hạng tối tăm mờ mịt, hạng tốt hạng xấu, hạng thiện tri thức và hạng cuồng si. Như Lai cũng thấy hạng chúng sanh đang gieo mầm xấu xa và hạng chúng sanh đang gặt quả dữ của nhân đã gieo từ những kiếp quá khứ.

          Để giải thích rõ ràng hơn, trong Bộ Tăng Nhất A Hàm (Angutttara Nikãya) có ghi rõ có bốn hạng người trong số những người có duyên dành được gặp Phật Pháp ví cũng như bốn loại sen ở trên:

1)Ugghãtitannu: sau khi có duyên lành gặp được đức Phật và chỉ nghe qua một vài lời dạy vắn tắt, ngắn gọn và rành mạch của Ngài thì người này tức thì khai tâm mở tánh và có đủ khả năng thành Đạo và Quả ngay. Có thể nói đó là những búp sen trong trắng chỉ chờ tia nắng đầu tiên của buổi ban mai để nở tung ra một cách huy hoàng rực rỡ. Hoa sen tuy từ bùn nhơ nước đục ngoi lên, nhưng không vì thế mà khiến cho hoa sen phải nhạt sắc hương thanh thoát của nó.

2)Vipancitannu: Khác với hạng thượng căn thượng trí ở trên, loại người thứ hai này cần phải được nghe giải thích tường tận và cặn kẽ thì họ mới chứng được đạo quả Bồ-đề.

3)Neyya: Hạng thứ ba này không thể thành đạo mặc dù được giảng giải Giáo Pháp tường tận và tỉ mỉ, nhưng họ đòi hỏi phải chăm chú nghiên cứu, siêng năng học hỏi và tinh tấn thực hành Giáo Pháp trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm mới tìm thấy được ánh sáng chân lý nhiệm mầu. Thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào khả năng phá màn vô minh và tận diệt những tầng ô nhiễm trong tâm thức.

4)Padaparamatuy đã có duyên lành gặp Phật Pháp và nỗ lực học hỏi và thực hành Giáo Pháp, nhưng sau cùng vị này không thể nào thành đạt Thánh Đạo và Thánh Quả trong kiếp sống hiện tiền được. Do đó tất cả những công phu tạo dựng là để vun bồi cho mình một đức tánh cao thượng và dĩ nhiên kết tạo những chủng tử Phật Pháp hữu dụng sẵn sàng chuyển đến cho những đời kế tiếp.  Đây là những búp sen chưa sẵn sàng để nở trong ngày mai khi mặt trời lố dạng. Họ là những ngó sen còn dưới sâu trong bùn non của vòng luân hồi, chưa lên khỏi mặt nước. Cho dù đóa sen còn nằm trong bùn, sắp vọt ra khỏi bùn, vươn lên khỏi mặt nước hay đã nở rộ thì tất cả đều mang theo bên trong mình một tiềm năng để trở thành những đóa sen tươi đẹp, màu sắc rực rỡ và hương thắm dịu dàng.

Thêm nữa, hoa sen là một loại hoa có thể được gọi là “nhân quả đồng thời”. Bởi vì ngay trong búp sen đã có sẵn gương, hột và cánh nhụy rồi. Một đặc tính cao thượng của hoa sen là tuy mọc từ sình lầy tanh hôi, vẫn vươn lên mà không hề bị bùn lầy nước đục làm oen ố sắc hương. Tại sao đạo Phật lại dùng hoa sen làm biểu tượng cho nhân quả đồng thời? Đó là tuy mang thân phàm phu ngũ uẩn, nhưng trong tất cả mọi chúng sinh đều cùng có tri kiến Phật giống y như Phật. Nói cách khác Phật tánh của Phật và chúng sinh bình đẳng không sai khác ví cũng như hoa sen tuy còn búp mà vẫn có cánh sen, gương sen, hột sen, nhụy sen giống y như hoa sen đã nở rộ. Kinh điển Đại thừa hướng dẫn người tu đi từ nhân đến quả, từ các ba-la-mật trải qua nhiều đời mới thành Phật quả, thì lối tu này gọi là Thừa Nhân. Trong khi đó, tu Pháp Hoa là tu trên Quả chớ không phải tu từ Nhân để đi đến Quả nghĩa là hành giả triển khai sự tu hành ngay trên Quả của Phật đã thành vì thế kinh mới được tôn vinh là “vua của các kinh”. Quả mà kinh Pháp Hoa diễn bày ở đây chính là Phật tánh vốn có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh.

Chủ điểm của kinh Pháp Hoa là xác định rằng trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có tri kiến Phật, trí tuệ Phật, Phật tánh bình đẳng như nhau, giống y như Phật. Vì thế nếu con người biết sử dụng tri kiến Phật thích đáng và hữu dụng vào trong cuộc sống để hóa giải hết vô minh phiền não thì chính họ sẽ trở thành Phật chớ không phải quả vị Phật là do bất cứ vị Phật nào ban thưởng cho mình được. Trong Phật giáo không có con đường tắt, hay sự chứng đắc là do ai ban cho mình mà phải bằng sự tinh tấn nỗ lực tu tập của chính mình. Có đi vào thiền định, có tư duy quán chiếu, có gạn lọc ô nhiễm trong tâm thức, có kiểm soát được thân khẩu ý thì hoa sen từ búp sẽ dần dần vươn lên khỏi mặt nước và nở rộ mà tỏa ra hương thơm khắp cùng. Do đó đức Phật là đóa sen đã nở trước, nở toàn diện mà hiển bày nhụy, gương, cánh, hột một cách viên mãn. Còn tất cả chúng sinh là những búp sen, tuy chưa nở rộ, vẫn còn nằm dưới nước, nhưng nếu cố gắng vươn lên thì một ngày nào đó sẽ vượt thoát khỏi chốn bùn nhơ mà thấy được ánh sáng chân lý nhiệm mầu và nở rộ giữa ánh nắng bình minh trong lành thanh thoát.

          Hoa sen tuy từ bùn nhơ nước đục ngoi lên, nhưng không vì thế mà khiến cho hoa sen phải nhạt sắc hương thanh thoát của nó cũng như chúng sinh tuy sống trong thế giới dẫy đầy ô nhiễm, nhưng nếu biết vươn lên thì cũng vượt thoát ra khỏi cảnh bùn lầy tanh hôi tăm tối mà nở hoa tươi thắm, sống trong thanh tịnh an lạc Niết bàn. Hoa sen nói lên đặc tính là sự vật luôn luôn diễn biến và tồn tại vĩnh cữu chớ không có có cái gì mất cả. Cũng như hoa sen khi tàn thì còn lại gương sen. Và khi gương sen khô, hột sen rơi xuống bùn rồi mọc ra bông sen khác. Cứ như thế mà sinh sinh diệt diệt, luân hồi mãi mãi trong thế gian.

Kinh Pháp Hoa nói về hoa sen, nhưng hoa sen ở đây phải chăng là hoa sen nơi chính mình để có thể khai, thị, ngộ, nhập cái hoa sen Phật tánh ấy nơi mình.  Hoa sen sẽ vươn lên và nở rộ cũng như Phật tánh hiển bày cho nên đạo Phật có mặt trên thế gian này để nhắn nhủ với nhân loại rằng tất cả mọi người đã có đủ tri kiến Phật, giống y như Phật. Phải chăng tinh thần khách quan bình đẳng tôn trọng giá trị nhân bản chỉ có duy nhất trong Phật giáo?

 

NHẤT THỪA PHẬT ĐẠO

          Nguyên nhân Phật nói kinh Pháp Hoa là Ngài muốn khai thị cho mọi chúng sinh rằng ai ai cũng đều có tri kiến Phật giống y như Phật. Và sau đó Phật muốn quy tất cả các thừa trở thành Nhất thừa Phật đạo. Nhất thừa Phật muốn nói ở đây là đồng nhất Thanh Văn thừa (xe dê), Duyên Giác thừa (xe hưu) và Đại thừa (xe trâu) trở thành Phật thừa (cỗ xe trâu trắng lớn). Nhất thừa không có nghĩa là giai đoạn cuối cùng của con đường Phật đạo sau khi hành giả đã trải qua ba thừa trước mà nhất thừa là một con đường duy nhất để thành Phật. Do đó tôn chỉ của Pháp Hoa là tu để thành Phật, cứu cánh tối thượng là Phật quả, là Bảo sở chớ không không có con đường nào khác. Vì vậy nhất thừa Phật nghĩa là một là tất cả và tất cả chính là một tức là Bất nhị. Như thế muốn hòa nhập vào trong hội Pháp Hoa, chúng sinh phải thấy mình sống trong cái nhất thừa đó, phải biết mình cũng có đủ tri kiến Phật để giúp mình sáng suốt hóa giải những phiền não đau khổ của thế gian. Nhất thừa đưa hành giả đến chỗ vô phân biệt, không còn thấy mình tu theo Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát mà tất cả quy về thành Phật đạo tức là con đường duy nhất để thành Phật. Nếu con người sống trong tinh thần Nhất thừa thì sẽ không còn tranh chấp giữa các tông phái cũng như trăm sống cùng đổ về biển lớn. Xa hơn nữa, nhất thừa giúp chúng sinh nhìn thế gian rộng rãi rốt ráo hơn. Đó là xóa sạch những dị biệt tư tưởng cho nên tranh chấp, xung đột đưa đến tranh đấu sẽ không còn. Bởi vì nhất thừa là cứu cánh tối thượng của trí tuệ và từ bi và cũng là hòa bình của thế giới.

 

CẤU TRÚC CỦA KINH PHÁP HOA

       Kinh Pháp Hoa là một tuyệt tác của Phật giáo Đại thừa. Kinh được diễn tả dưới hình thức một vở kịch nhằm phát huy một chân lý tối thượng bằng cách trình bày những ý niệm trừu tượng dưới dạng cụ thể, dễ hiểu giúp người đọc dễ nắm được ý kinh. Tên kinh dựa theo Phạn ngữ lúc ban đầu là Saddharma Puṇḍarīka Sūtra (Lotus Sutra). Khi dịch qua Hán tự thì nó có tên là “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”, gọi gọn lại là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh hay gọn nữa là Kinh Pháp Hoa. Diệu Pháp là Pháp, Liên Hoa là dụ. Diệu Pháp là pháp môn huyền diệu tức là pháp mầu. Nói về sự, Pháp là tất cả các sự vật hiện hữu và xảy ra trong thế gian vũ trụ. Nói về lý, Pháp là một chân lý, một sự thật vĩnh hằng ảnh hưởng vào tất cả các sự vật trong thế giới này. Pháp là lời dạy của Phật mà nó chính là nền tảng, là khuôn mẩu cho con người noi theo vì nó tiềm ẩn những năng lực giúp chúng sinh có thể tiêu trừ những dục vọng tham-sân-si là căn nguyên của phiền não khổ đau nên gọi là pháp mầu. Pháp này có thể giúp con người phá trừ được ngã chấp hẹp hòi, ích kỷ nên gọi là pháp mầu. Pháp này giúp con người thấu hiểu tánh duyên khởi vô tánh vì tất cả sự vật trong thế gian này là do nhân duyên hòa hợp giả tạo nên không có gì là bền chắc cả, có đó rồi mất đó nên gọi là pháp mầu. Pháp này giúp chúng sinh thấy biết và sống thật bản tâm của chính mình vì mỗi chúng sinh là một vị Phật sắp thành nên gọi là pháp mầu.

          Vì sự huyền diệu nhiệm mầu đó cho nên Diệu Pháp gồm những ý nghĩa như sau:

          1)Thật tướng bình đẳng: Tuy thế giới vũ trụ có tướng trạng khác nhau, màu sắc khác nhau, kích thước nặng nhẹ khác nhau, nhưng thật tướng của vạn pháp là vô tướng (không tướng) nên tất cả đều bình đẳng như nhau. Vì thế nếu con người biết quán tưởng thật tướng là không tướng thì những phạm trù đối đãi nhị nguyên trong tâm thức dần dần sẽ biến mất.

          2)Đại huệ bình đẳng: Khi con người ngộ nhập được bản thể chân như của vạn pháp tức là thật tướng là vô tướng thì họ sẽ trở về sống với chơn tâm, Phật tánh hay Tri kiến Phật (thấy biết của Phật) tức là cái linh tri, linh giác có sẳn trong tất cả mọi người.

          3)Khai quyền hiển thật, hội tam quy nhất: Trong hội Pháp Hoa, đức Phật khai thị chúng sinh để đưa tam thừa về nhất thừa Phật đạo. Bây giờ sẽ không còn Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát mà chỉ còn Phật thừa tức là con đường duy nhất giải thoát giác ngộ viên mãn trở thành Phật. Nếu chúng sinh ngộ được Phật tri kiến thì họ thẳng tiến về Phật địa và sẽ thành Phật. Vì thế giáo pháp nầy mới gọi là huyền diệu nhiệm mầu tức là Diệu Pháp vậy. Đã là Diệu Pháp thì không những toàn bộ kinh là Diệu Pháp mà mỗi câu mỗi chữ cũng là Diệu Pháp bởi vì mỗi thành phần cấu tạo, xây dựng tạo thành toàn bộ một chân lý rằng:”Tất cả chúng sinh đều thành Phật”.

          Phật giáo Đại thừa lấy Bồ Tát Hạnh làm cao điểm, là lý tưởng phục vụ để cảm nhận mà phát triển tâm từ vì thế kinh Pháp Hoa diễn tả một chân lý sinh động qua các hạnh của các vị Bồ Tát. Dưới tuệ nhãn của bậc giác ngộ, đức Phật nhìn tất cả chúng sinh đều có Phật tánh cho nên tất cả việc làm thiện của họ cho dù là một việc thiện rất nhỏ cũng là yếu nhân đưa đến sự giải thoát thành Phật.

          Kinh Pháp Hoa là sự hợp nhất của chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, của căn bản trí (vô sư trí) và hậu đắc trí (sai biệt trí). Nhưng cốt tủy của kinh không ngoài mục đích xiễn dương giáo lý “Chân Không Diệu Hữu”. Chân Không là biểu tượng cho thể tánh thanh tịnh tức là trí tuệ, còn Diệu Hữu là biểu tượng cho sự diệu dụng bất khả tư nghì trong thế giới hiện tượng này tức là từ bi. Nếu đứng về mặt chơn đế mà quan sát, xuyên suốt bản thể của mọi hiện tượng vạn hữu thì hiện tượng nào cũng là hiện tượng của bản thể và không có bản thể nào ngoài hiện tượng cả nghĩa là sóng biển nhấp nhô lên xuống là nước và thể tánh yên lặng êm đềm ở dưới lòng đại dương cũng là nước, bất tức bất ly. Vì thế an vui thanh tịnh tự tại Niết bàn cũng phát xuất từ tâm và phiền não khổ đau cũng không ra ngoài cái tâm ấy nghĩa là mê là là phiền não còn giác là Bồ Đề.

          Kinh Pháp Hoa đánh đổ tất cả những tư tưởng có khuynh hướng thiếu chánh đáng để phê phán đạo Phật. Tại sao? Bởi vì không có nhân bản nào hơn nhân bản kinh Pháp Hoa, không có nhân vị nào hơn nhân vị kinh Pháp Hoa, không có dân chủ nào hơn dân chủ kinh Pháp Hoa và không có bình đẳng nào hơn tinh thần bình đẳng của kinh Pháp Hoa. Đó là trong tất cả mọi người cho dù là bạc địa phàm phu, tội lỗi tràn ngập  cũng đều có sẵn Tri Kiến Phật giống y như Phật và tất cả mọi người là Phật, tất cả mọi người đã thành Phật và tất cả mọi người sẽ thành Phật.

 

TÍCH MÔN VÀ BỔN MÔN

          Dựa theo sự phân tích của Trí Giả Đại sư của Thiên Thai tông thì kinh Pháp Hoa được chia làm hai phần: Phần đầu gồm 14 phẩm, gọi là Tích môn. Phần còn lại là Bổn môn. Nhưng trên thực tế kinh không sắp xếp đúng theo thứ tự mà có rất nhiều phẩm của Tích môn chạy vào phần Bổn môn và ngược lại. Điều này chứng minh là có rất nhiều phẩm đã được người đời sau thêm vào làm mất đi tính chất liên tục của kinh. 

Tích môn là giáo lý của đức Phật Thích Ca, là đức Phật lịch sử cũng bắt đầu bằng thân phận bình thường của một con người, cũng chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của kiếp người. Ngài cũng phải đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh khác. Sau cùng, Ngài tìm kiếm một con đường giải thoát và đạt đến hạnh phúc Niết bàn, chứng đắc trí tuệ viên mãn và thoát ly sinh tử luân hồi. Do đó tinh yếu của Tích môn là trí tuệ của đức Phật.

          Bổn môn là giáo lý thường có vĩnh hằng vượt khỏi thời gian và không gian, là cội nguồn của tất cả giáo pháp. Vì đức Phật bây giờ không là đức Phật lịch sử, mà đức Phật chân chính là một thực thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn tức là “Pháp thân”. Cho nên đức Phật lịch sử chỉ là nhân vật được “đức Phật chân chính” gởi đến với thế gian để tạo thành một nhân vật có hình thể là một con người, có một đời sống sinh hoạt giống hệt như một con người thường tục để thuyết giảng Chánh Pháp cho nhân thế. Do đó đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước chớ không phải mới thành Phật tại thế giới này nhờ công phu tu thiền định. Trong phẩm 16, Như Lai Thọ Lượng, xác định rằng Như Lai vẫn tiếp tục giảng pháp trong khắp cả vũ trụ kể từ thời vô thỉ. Nói cách khác, đức Phật dựa theo tinh thần bổn môn là chân lý của vũ trụ, hiện hữu khắp mọi nơi trong vũ trụ và sẵn sàng cứu độ tất cả chúng sinh trong thế gian vũ trụ này.  Đây mới chính là Bổn Phật và vị Bổn Phật này xuất hiện bằng nhiều hình tướng khác nhau tương ứng với từng thời gian và nơi chốn đặc biệt nào đó trong vũ trụ để cứu độ tất cả chúng sinh bằng những phương tiện thích ứng với khả năng thấu hiểu của họ về giáo lý của Ngài. Vì thế đức Bổn Phật xuất hiện trong suốt chiều dài của sự hình thành vũ trụ nghĩa là không có đâu là điểm bắt đầu và dĩ nhiên không biết bao giờ là ngày cùng tận.

          Để có cái nhìn sâu xa hơn, Bổn môn là đứng về mặt bản thể, còn Tích môn là mặt hiện tượng. Vì thế trong tất cả mọi chúng sinh, Bổn môn là ai ai cũng đều có Phật tánh bình đẳng như Phật, còn Tích môn là con đường thực hành của chúng sinh để đi vào Phật tánh đó. Đứng về phương diện Bổn Môn thì đức Phật Thích Ca là đức Bổn Phật, đã thành Phật từ vô thỉ đến vô chung cho nên mỗi chúng sinh vốn có cái Phật tánh thiêng liêng này. Còn về mặt Tích môn là đức Phật lịch sử đản sanh ở Ấn Độ cách đây hơn 2500 năm tức là nhân tu hành của mỗi chúng sinh.  

          Một điểm đặc thù khác giúp người đọc kinh có thể biết đoạn kinh nào nói về Tích môn và đoạn kinh nào thuộc về Bổn môn. Đó là đoạn nào trong kinh mà đại chúng nhìn xuống đất, nhìn vào núi đồi hùng vĩ, cây cối…thì lúc đó kinh đang diễn tả về thế giới sinh diệt Tích môn. Ngược lại, khi mắt mọi người nhìn lên không trung, nhìn lên tháp Đa Bảo ở trên không hay các Bồ Tát vọt lên từ mặt đất rồi lơ lững trên hư không thì lúc đó kinh đang đưa chúng sinh vào thế giới vô sinh vô diệt, vào thế giới của thời gian vô tận và không gian vô cùng của pháp giới Bổn môn.

 

ẢNH HƯỞNG KINH PHÁP HOA Ở  Á CHÂU

          1)Trung Hoa: Kinh Pháp Hoa du nhập vào Trung quốc rất sớm và được các nhà dịch thuật nổi tiếng như Trúc Pháp Hộ bắt đầu dịch kinh vào năm 286 và một thế kỷ sau đó có ngài Cưu Ma La Thập lại dịch sang tiếng Hán một bản nữa, nhưng mãi đến khi Trí Khải Đại Sư của phái Thiên Thai, kinh Pháp hoa mới đạt đến địa vị tột đỉnh của nó trong tàng kinh điển Đại thừa ở Trung Hoa.

Tông Thiên Thai được khởi xướng từ Bắc Tế do ngài Huệ Văn Thiền sư dựa vào bộ Trí Độ Luận của ngài Long Thọ mà lập ra pháp “Nhất tâm tam quán”. Pháp này được truyền lại cho ngài Nam Nhạc Huệ Tư Thiền sư và sau đó Huệ Tư truyền lại cho Trí Khải. Nhất tâm tam quán bao gồm: Không quán, Giả quán và Trung quán do Ngài Huệ Văn rút từ bài kệ trong bộ Trung luận của ngài Long Thọ rằng:

          Nhân duyên sở sanh pháp

          Ngã thuyết tức thị không

          Diệc danh vi giả danh

          Diệc thị Trung đạo nghĩa.

Dịch là:

          Các pháp do nhân duyên sanh

          Nên ta bảo là không

          Mà cũng là giả danh

          Đó cũng là nghĩa của Trung đạo.

          Đối với tông Thiên Thai, ba pháp quán này là thành phần nồng cốt trong sự thực hành cho nên nếu hành giả không đạt đến chỗ rốt ráo tận cùng của  ba pháp quán này thì không thành tựu được.

          1)Không quán: Đây là đứng về mặt chân đế mà quan sát. Nếu từ góc độ chân đế mà quan sát thì vạn pháp vốn là không, nhưng con người vì mê lầm chấp trước nên cho là có thật. Từ đó mà kiến hoặc, tư hoặc phát sinh nên phải trôi nổi trong sinh tử luân hồi. Do đó phải dùng “Không quán” để thấu biết rõ ràng rằng vạn pháp là không.

          2)Giả quán: Bây giờ đứng về mặt tục đế mà quan sát. Tuy vạn pháp là không và vô sở đắc, nhưng nếu đứng về thế tục mà nhìn thì thấy bản tánh vốn đủ các pháp, muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Pháp quán này giúp hành giả dứt trừ được trần sa hoặc bởi vì hành giả biết rằng tuy vạn pháp trong thế gian nhiều như cát bụi, nhưng tất cả đều không thật, có đó rồi mất đó nên vững tâm tu tập.

          3)Trung quán: Đây là đứng về phương diện trung đế để quan sát các pháp. Trung đế hay còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế là sự thật trung chánh, không gì hơn, bao gồm tất cả các sự thật khác. Khi đứng về hai mặt tục đế hay chân đế mà quán sát sự vật thì không phải là không đạt đến chân lý, nhưng chân lý đó chỉ đúng ở một khía cạnh này hay khía cạnh kia mà thôi. Do đó đứng trên phương diện tổng thể, hai chân lý “tục, chân” đôi khi mâu thuẫn, đối chọi nhau. Bây giờ dựa theo trung quán mà quan sát thì nhận thức được cả hai khía cạnh Có và Không nghĩa là hành giả nhận chân rất rõ ràng các pháp không phải Chơn mà cũng không phải Tục tức là Chơn tức Tục, Sắc tức là Không, dung thông cả hai, bất tức bất ly. Pháp quán này sẽ diệt trừ được vô minh lậu.

          Khi đã nhận rõ Chân như nằm trong hiện tượng (vạn pháp) nghĩa là phàm, thánh không “Hai”, uế độ tức tịnh độ thì hành giả không cần cầu sanh về cảnh giới thanh tịnh nào khác, phát tâm tinh tấn tu hành, trải qua nhiều đời nhiều kiếp sẽ thành Phật.

          Phật giáo Đại thừa quan niệm về chữ “thành Phật” tương đối khá rộng rãi đôi khi dễ bị hiểu lầm. Thí dụ như Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói rằng “thấy tánh thì thành Phật”, nhưng Phật mà Tổ nói ở đây không phải là “Cứu cánh tức Phật” tức là thực sự thành Phật mà chỉ là Phật nhân tức là “Lý tức Phật”. Còn muốn đạt đến “Cứu cánh tức Phật” thì hành giả phải dụng công tu tập trải qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp để tiêu diệt cho hết cái mầm gốc tham sân si thì lúc đó mới thành Phật quả được. Ở đây tông Thiên Thai đề xướng tư tưởng “Lục tức Phật” để giúp người đệ Phật thấu hiểu rõ ràng hơn ý nghĩa của chữ “tức Phật” :

          1)Lý tức Phật: Trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy rằng:”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.

          2)Danh tự tức Phật: Danh tự là lời Phật dạy trong kinh điển vì tất cả các pháp đều là Phật pháp. Do đó nếu lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật.

          3)Quán hạnh tức Phật: Quán là quán tưởng, hạnh là tu hành nghĩa là thực hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.

          4)Tương tợ tức Phật: Trong khi tu hành, tuy chưa thực chứng được lý tánh, nhưng tâm thể được yên lặng gần như đã thực chứng nên gọi là tương tợ tức Phật.

          5)Phần chứng tức Phật: Theo phái Thiên Thai thì vô minh như là một tấm màn dày đặc gồm có 41 lớp. Nhờ công phu tu tập, nếu hành giả phá được một lớp là chứng được một phần trung đạo tức là phần chứng tức Phật. Hành giả đến đây là đã vượt qua các bậc Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng giác.

          6)Cứu cánh tức Phật: Đây là chứng được chỗ mầu nhiệm tột cùng của đạo Phật. Đó là bậc Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn tức là thành Phật.

Khi Trí Khải vừa được hai mươi ba tuổi, ngài vào núi Đại Tô ở Quảng Châu lễ bái Tôn giả Tuệ Tư làm thầy. Trong thời gian thọ giáo 7 năm, Trí Khải được dạy pháp môn Tứ An Lạc Hạnh tức là phẩm thứ 14 của kinh Pháp Hoa. Đây là pháp quán chiếu an lạc mà chính sư phụ Tuệ Tư đã viết ra giúp hành giả thể nghiệm được lý kinh Pháp Hoa. Nhờ tu tập quán chiếu, Tuệ Tư đã thực chứng pháp đẳng trì. Vì thế Trí Khải tinh tấn nỗ lực tu hành cho nên khi tụng đến phẩm Dược Vương Bồ Tát bổn sự, ngài hốt nhiên thấy thân tâm thanh tịnh và nhập định. Trong định, Trí Khải thấy chính mình ở tại núi Linh Thứu và đang nghe đức Thế Tôn thuyết pháp. Đây là một thực nghiệm sâu xa huyền bí chuyển biến quan trọng trong đời Trí Khải. Từ đó, Trí Khải phát triển năng khiếu vượt bực trong thiền quán và giáo thuyết. Trí Khải đạt đến trí tuệ và tài năng xuất chúng là do sự tận tâm dạy dỗ và truyền cả sở học của thầy Tuệ Tư. Lúc ấy Trí Khải vừa ba mươi tuổi. Đến năm 587, Trí Khải lần đầu tiên giảng toàn bộ kinh Pháp Hoa và được người đệ tử ghi lại dưới tên là Pháp Hoa Văn Cú (Fa Hue Wen chu). Nhưng mãi đến năm 593, lúc ấy, Trí Khải vừa được 56 tuổi, ngài soạn ra bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa và năm sau ngài cho ra đời cuốn Ma Ha Chỉ Quán tại Tu Thiền Tự (Yu Chuan Ssu) ở Kinh Châu. Ma Ha Chỉ Quán là tác phẩm thâm viễn và có hệ thống nhất về con đường thực hành giáo và hành của Trí Khải. Đặc biệt với bài tựa của Quán Đảnh phản ảnh lại con đường đến với pháp mà Trí Khải đã hành trì với chính tâm mình và cũng là nền tảng để lập nên truyền thống Thiên Thai.

Một đặc điểm khác là Trí Khải đã dung hòa các học thuyết Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo vào nguồn minh triết viên dung muôn âm diệu của Đại Sư.

          Qua tác phẩm Huyền Nghĩa, trước hết Trí Khải nhấn mạnh rằng Nhất thừa là biểu trưng cho vị trí tối thượng mà nơi đó con người có thể thấy được Pháp thân của chính mình. Pháp thân là năng lực dung hợp bao trùm tất cả những học thuyết Phật giáo khác nhau và đưa ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát trở thành một.

          Kế đến, Trí Khải cho rằng chân lý của Thể, Tướng và Dụng là bất khả tư nghì vì nó không phải một, không phải khác nhưng thật sự chỉ là một. Vì thế chân lý này mới được gọi là vi diệu.

          Thứ ba, Trí Khải cho rằng sự nhận thực chân lý đồng nghĩa với Phật tánh. Trí Khải khẳng định điều vi diệu này là tịch và chiếu. Để giải thích Trí Khải nói rằng Phật luôn là tịch nhưng có thể chiếu soi vào chúng sinh hữu tình bằng cảm ứng để khơi dậy trí tuệ vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh.

          Sau cùng, chân lý theo Trí Khải là Phật tánh, là cái có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Trí Khải giải thích rằng Phật tánh là chân lý tối hậu mà chúng sinh có thể đạt đến và Phật tánh cũng là “mục tiêu cứu rỗi“ sau cùng cho nên bất cứ nơi đâu cũng không bỏ chúng sinh.

          Trí Khải chú giải kinh Pháp Hoa dựa theo năm ý nghĩa mà ngài gọi là Ngũ Huyền hay Ngũ Trùng Huyền Nghĩa. Đó là phương cách khảo sát nghiêm túc trong việc chú giải kinh Phật và được áp dụng như là một phương tiện thiện xảo để sắp xếp tư tưởng của Trí Khải Đại Sư.

          Trí Khải sống trong thời kỳ vua Văn Đế. Mặc dầu nhà vua đã lập Thái tử Yang Yun, nhưng hoàng tử thứ nhì Yang Kuang nhờ sự hổ trở của Trí Khải mà trở thành Thái tử. Năm 591 Trí Khải cử hành nghi thức thọ Bồ Tát giới và cho Kuang pháp danh Tổng Trì. Để đáp lại. Kuang tôn Trí Khải là Trí Giả (Chih-che) Đại Sư. Sau này Kuang lên ngôi tức là vua Tùy Dạng Đế.

          2)Nhật Bản: Bản kinh Pháp Hoa do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đầu thế kỷ thứ 4 sau công nguyên được du nhập vào Nhật Bản vào những năm 577. Sau đó, bộ Pháp Hoa Nghĩa Sớ bằng tiếng Nhật ra đời lần đầu tiên và được viết bởi Thái tử Shotuku (574-622). Có lẽ đây là bộ sách cổ xưa nhất do một người Nhật viết hiện vẫn còn lưu giữ. Sau đó có ngài Saicho (Tối Trường: 767-822) lập ra tông phái giống hệt như là Phật giáo Trung Hoa và căn cứ vào giáo nghĩa Pháp Hoa. Năm 804 ngài được lệnh hoàng gia Nhật Bản phái sang Trung Hoa, nhờ nhân duyên đó, ngài nghiên cứu giáo lý tông Thiên Thai. Sau khi về lại Nhật Bản, ngài giảng giải lại cho hoàng gia và thỉnh cầu cho thành lập tông Thiên Thai ở Nhật Bản. Năm 806, ngài được hoàng đế tấn phong danh hiệu Truyền Giáo Đại Sư (Dengyò-Daishi). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản danh hiệu Đại sư được sử dụng. Nhưng đặc biệt nhất là tông phái Nhật Liên do ngài Nhật Liên (Nichiren)(1222-1282) thành lập không chỉ xưng tán kinh Pháp Hoa như thánh điển trên tất cả thánh điển mà còn ngâm vịnh tựa đề kinh như là những lời thánh biểu hiện nhân và quả của Phật giới. Tông phái này lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng chính cho việc tu học và thực hành, nhưng đặc biệt nhất là họ chú trọng về thực hành mà phương pháp chính của họ là niệm Pháp thay vì niệm Phật như các tông phái Tịnh độ. Kinh Pháp Hoa đã đạt đến một địa vị tối quan trọng trong kho tàng kinh điển Đại thừa và được xem là vua của các kinh cho nên niệm kinh này là niệm tất cả các kinh. Tuy nhiên kinh là do Phật nói vì thế niệm Pháp tức là niệm Phật và đồng thời cũng là niệm Tăng. Hành giả chí thành niệm như thế thì niềm tin trong tâm sẽ gia tăng. Tông phái Nhật Liên cho rằng nội dung và tinh thần của kinh Pháp Hoa rất thánh diệu ngay cả việc thực hành giáo lý kinh cũng thánh diệu. Điều này cho thấy Phật giáo Nhật Bản chịu ảnh hưởng tư tưởng của Trí Khải khi giải thích về tựa đề kinh Pháp Hoa trong tác phẩm nổi tiếng Huyền Nghĩa Pháp Hoa của ngài. Từ khi Nichiren thị tịch vào năm 1282, tông phái này cũng giảm đi năng lực rất nhiều và có lẽ tinh thần Pháp Hoa dần theo thời gian cũng bị quên lãng. Ngày nay một số tín đồ ở Nhật Bản vẫn còn tin rằng họ có thể được cứu độ chỉ bằng cách gõ trống tay và lập đi lập lại câu:’Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh – Tôi quy y kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Họ tuyệt đối tin rằng những cầu xin của họ sẽ được đáp ứng nếu họ chỉ cần thờ kính bài chú tụng mà Nichiren đã viết ở trên.

          3)Việt Nam: Ở miền Bắc Việt Nam vào đời Hậu Lê cũng có tông phái gọi là Liên Tông do Lân Giác Đại Sĩ thành lập. Tục truyền rằng khi đào đất để xây nhà, ngài tìm thấy một cọng sen ở trong đất nên nghĩ rằng đây là ý của Phật muốn ngài xây dựng một thiền phái để tu học. Vì thế ngài đã khởi công xây cất một tùng lâm và thành lập một tông phái gọi là Liên tông.

Âm lịch

Ảnh đẹp