KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
The Explanation of the Saddharmapundarika Sutra (Lotus Sutra)
PHẦN GIỚI THIỆU
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà & Mỹ Ngân
Diệu Pháp Liên Hoa là bộ
kinh vô cùng quan trọng đối với Phật giáo Đại thừa vì kinh ẩn chứa rất
nhiều ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duy và suy luận của con
người bình thường. Vì thế có rất nhiều luận giải, trước tác rất công
phu và giá trị đã ra đời. Hãy xoay ngược dòng lịch sử thì sau khi đức
Phật nhập diệt, các Trưởng lão giảng giải giáo lý Phật Đà tùy theo
khuynh hướng và sự hiểu biết Phật pháp của họ nên Phật giáo bắt đầu có
sự khác biệt vì lúc bấy giờ chưa có văn tự mà chỉ dùng khẩu thuyết
truyền lại từ đời này sang đến đời khác. Từ đó Phật giáo bắt đầu rạng
nứt và phân chia thành ra Phật giáo bộ phái. Một số Tỳ kheo theo khuynh
hướng bảo thủ thì tuân giữ giáo luật và những lời dạy của Phật rất
nghiêm minh. Trong khi đó cũng có những nhóm Tỳ kheo khác có khuynh
hướng biến giáo lý đức Phật thành ra một nền triết học rất phức tạp vì
lúc bấy giờ đạo Bà la môn đang chuyển từ thời kỳ Vệ Đà sang Áo Nghĩa Thư
nghĩa là chuyển từ hệ thống cúng tế thờ phượng rườm rà phức tạp sang
lãnh vực triết học, luận giải. Nhóm Tỳ kheo thuộc phái bảo thủ quan niệm
rằng con đường giải thoát duy nhất là phải xuất gia và khẳng định rằng
cho dù đức Phật có nói gì đi chăng nữa thì không ai có thể thành đạt mức
độ chứng ngộ như đức Phật tức là thành Phật được. Vì thế mọi người chỉ
cần tự giải thoát khỏi những trói buộc của hư vọng và khổ đau trong cuộc
đời này là tốt lắm rồi. Thêm nữa, các Tỳ kheo thuộc nhóm bảo thủ lại xa
lánh cuộc đời, lên tận núi cao rừng thẳm để tu cầu giải thoát cho riêng
mình trong khi đại đa số Phật tử tại gia thì vẫn chìm trong đau khổ. Vì
nhận thấy Phật giáo đang đi lệch và mất hẳn tinh thần hoạt động tích
cực như thời đức Phật còn tại thế, những Tỳ kheo thuộc nhóm cải cách và
tín đồ tại gia đã nô nức dựng lại cái tinh thần “Phật pháp tại thế gian,
không lìa thế gian giác” bằng cách thành lập Phật giáo Đại thừa. Những
ai không thuộc Đại thừa thì gọi là Tiểu thừa và từ đó có sự va chạm rất
lớn giữa Phật giáo mới và Phật giáo củ. Tiểu thừa cho rằng “Phật giáo
Đại thừa là một sai lầm” vì họ diễn giải kinh điển theo đường lối vay
mượn tư tưởng của Ấn Độ giáo nghiêng về triết học trừu tượng siêu hình
rất khó hiểu, sai đường lối của Phật bởi vì đạo Phật là đạo diệt khổ cho
nên đức Phật chỉ dạy Tứ Thánh Đế và Bát Thánh Đạo để giúp chúng sinh
thực hành mà có an lạc Niết bàn. Ngược lại, Đại thừa chê Tiểu thừa là
giáo lý chỉ thích hợp cho những người căn cơ “thấp” và lý tưởng giải
thoát A la hán là ích kỷ không phản ảnh tâm đại từ bi như lý tưởng Bồ
Tát.
Kinh Pháp Hoa xuất hiện trong
thời điểm và hoàn cảnh đó như là một nỗ lực để kết hợp Phật giáo trở
thành Phật thừa. Những thừa như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát bây giờ
dưới cái nhìn của Pháp Hoa chỉ là phương tiện lúc ban sơ, nhưng cuối
cùng muốn hoàn thành Phật đạo thì tất cả đều phải quy về nhất thừa Phật
đạo. Kinh Pháp Hoa nói lên một triết lý rất thâm sâu và được diễn bày
như là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời dưới dạng của một vỡ kịch kết
hợp tư tưởng rất chặt chẻ trải suốt chiều dài của kinh. Kinh được viết
theo thể loại Vị Tằng Hữu để diễn tả những hiện tượng, cảnh giới siêu
hình, không có thật đối với thế giới con người bình thường nhưng ẩn chứa
một triết lý rất thâm sâu huyền diệu mà có lẽ vượt ra ngoài ngôn ngữ
của con người. Ở đây, giáo lý Nguyên thủy được xem như là những bài tình
ca quê hương mộc mạc với tiếng đàn tranh, đàn bầu nhẹ nhàng thanh
thoát. Bây giờ các triết gia nổi tiếng xuất chúng của Phật giáo Đại thừa
đem những bài tình ca đó hòa âm lại với tiếng đàn Piano, tiếng vĩ cầm,
với dàn nhạc thính phòng vì thế nếu thấu hiểu rốt ráo thì tuy nghe nhạc
theo lối Tây phương, nhưng âm hưởng vẫn thoanh thoát quyện theo nét nhạc
quê hương vậy. Người tu dựa theo tinh thần Pháp Hoa là thành Phật chớ
không phải thành A la hán hay Bồ Tát. Ai cũng có thể thành Phật vì ai
cũng đều có sẵn Trí Tuệ Phật giống y như Phật. Vì thế tư tưởng Pháp Hoa
ra đời như là cuộc cách mạng giải phóng những ràng buộc mà các bộ phái
Nguyên thủy đè ép lên con người vì dựa theo tinh thần Pháp Hoa thì thành
Phật không chỉ dành riêng ưu đãi cho thành phần xuất gia mà bất cứ ai
cũng có thể thành Phật. Trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có nàng Long nữ mới vừa
tám tuổi con gái của Long Vương đã thành Phật là một thí dụ cụ thể. Hãy
lắng nghe lời Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Trí Tích rằng “Có con
gái của Long Vương mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí-đức, trong khoảnh khắc
pháp Bồ đề tâm là được bất thối chuyển, biện-tài vô-ngại, từ bi rộng
lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến quả Bồ Đề”. Sự thành Phật
nhanh chóng đó của nàng Long nữ chẳng những làm cho Bồ Tát Trí Tích sững
sờ mà còn làm cho Tôn giả Xá Lợi Phất kinh ngạc.
Trước hết khi nói về lịch sử
của kinh thì ngày nay hầu hết các học giả Đông Tây trên thế giới đều
đồng ý rằng kinh Pháp Hoa, một bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại
thừa được biên soạn vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và kinh
đã trải qua một tiến trình rất dài để đi đến hoàn tất. Hầu hết các học
giả sau khi nghiên cứu kỹ về nội dung của kinh Pháp Hoa đều có chung một
quan điểm rằng kinh này có hai phần là phần nguyên bản và phần bổ sung.
Theo lập luận của Sir Charles Eliot (Hinduism and Buddhism: An Historical Sketch (1921))
và học giả Maurice Winternitz (1863-1937) thì phần thứ nhì của kinh
Pháp Hoa đã được thêm vào các phẩm thứ 25 (Bồ Tát Quán Thế Âm) và 26
(Đà-la-ni). Lý do là vì toàn bộ kinh Pháp Hoa xiễn dương Tri Kiến Phật
tức là khai mở, chỉ bày khiến cho chúng sinh mở toang tri kiến Phật của
họ và giúp cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó. Đây là tinh
thần tự giác, tự độ trong khi phẩm Quán Thế Âm và Đà-la-ni nghiêng về
tha lực nên không dung hòa được với tư tưởng Pháp Hoa.
Trong khi đó, học giả Nhật Bản Hajime
Nakamura (1912-1999) xác định rằng bản kinh Pháp Hoa mà được sang dịch
ra nhiều thứ tiếng hiện nay là được tạo ra trong khoảng thời gian cuối
của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và bản gốc bao gồm 27 phẩm rõ ràng
đã xuất hiện vào năm 150 sau công nguyên. Xa hơn nữa, học giả Nakamura
còn nói thêm rằng 22 phẩm đầu của kinh Pháp Hoa đã có trước năm 100 sau
công nguyên. Bằng những chứng cớ sử liệu đó đã minh họa toàn bộ bức
tranh về nền tảng lịch sử của kinh diệu Pháp Liên Hoa khiến các học giả đưa đến kết luận rằng kinh Pháp Hoa không phải do chính đức Phật thuyết mà thật ra kinh được biên soạn rất trễ về sau khoảng 700 năm sau ngày đức Phật nhập diệt.
Dựa trên cơ sở nào mà các học giả lý luận như thế?
1)Lý luận thứ nhất là họ cho rằng các
triết gia, luận sư xuất chúng của Phật giáo lúc bấy giờ đã sáng tạo ra
kinh Pháp Hoa để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của giới tín đồ nhằm duy trì
sức sống của Phật giáo trong khi phải đương đầu với sự đàn áp của các
tôn giáo hữu thần, đặc biệt là đạo Bà la môn tức là Hindu (Ấn độ giáo)
ngày nay trong khoảng cuối thế kỷ thứ hai sau dương lịch. Với những danh
tự mới, bối cảnh mới và lối giải thích mới, kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã
thổi một luồng sinh khí tươi mát và sống động vào trong thế giới Phật
giáo lúc bấy giờ. Tuy vậy, nội dung của kinh được mô phỏng và phát triển
không ngoài những tư tưởng và lời dạy của đức Phật. Do đó giới biên tác
ẩn danh không dám đề tên của họ như là tác giả của kinh mà cho đó là do
Phật nói ở núi Linh Thứu.
2)Đứng về phương diện tâm lý, tuy các
triết gia thời đó có lỗi lạc đến đâu thì vẫn không chánh danh bằng đức
Phật, người đã khai sáng ra đạo Phật. Do đó tuy kinh Pháp Hoa được biên
soạn bởi những triết gia, luận sư nổi tiếng nhất của Phật giáo lúc bấy
giờ, nhưng họ vẫn nói kinh này là do Phật thuyết nếu không thì kinh
thuộc về ngoại đạo rồi. Vì thế khi kinh xuất hiện đã được đại chúng đón
chào nồng nhiệt, kính trọng và tin tưởng. Kết quả, kinh Pháp Hoa đã được
Phật giáo đồ khắp mọi nơi, mọi thời gian tôn sùng và tu tập triệt để.
Có rất nhiều dự kiện chứng minh rằng
các bản dịch kinh Pháp Hoa từ Phạn ngữ sang tiếng Hán được thực hiện rất
sớm trong những năm 234-235 sau dương lịch, nhưng những dịch phẩm ấy đã
mất tích, không còn hiện hữu. Dựa theo bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục
(K’ai-yuan-shih-chao-lu) do ngài Trí Thăng (Chih-sheng) biên soạn năm
730 sau dương lịch có ghi chép khá chi tiết là có tất cả sáu bản dịch
toàn vẹn của kinh Pháp Hoa từ tiếng Phạn (Sanskrit) sang tiếng Hán mà
hiện tại ba bản vẫn còn lưu hành. Đó là:
1)Chánh Pháp Hoa Kinh
(Cheng-fa-hua-ching) do ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa) dịch vào năm 286
sau dương lịch gồm 7 hoặc 10 tập với 27 phẩm.
2)Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
(Mio-fa-lien-hua-ching) do ngài Cưu Ma La Thập (Kumàràjìva) dịch vào
thời Diêu Tần năm 383 hoặc 406 sau dương lịch gồm có 7 tập và 27 phẩm,
hoặc 8 tập và 27 phẩm vì không có phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa.
3)Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh (T’ien-pen-miao-lien-hua-ching) do ngài Xà La Quật Đa
(Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta) dịch vào năm 601 sau dương
lịch, gồm có 7 tập và 27 phẩm.
Trong phần lời tựa của bản dịch Anh ngữ
“Scripture of The Lotus Bolssom of The Fine Dharma” của học giả Leon
Hurvitz có đề cập đến nhiều thời điểm mà kinh Diệu Pháp Liên Hoa được
dịch sang tiếng Hán. Đó là các năm 255, 286, 290, 335, 406 và 601 sau
công nguyên. Nhưng trong sáu bản dịch đó thì chỉ còn có ba bản tồn tại
là Chánh Pháp Hoa Kinh (286 AD), Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 406 AD) và
Thiên Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (601 AD).
Tuy ba bản dịch ở trên rất
khả tín, nhưng kinh Pháp Hoa bằng Phạn ngữ chỉ có 27 phẩm mà sau đó bản
dịch sang tiếng Hán lại có đến 28 phẩm. Các học giả cho rằng bắt đầu từ
phẩm thứ 23 trở về sau, có những phẩm mới đã được người đời sau thêm
vào. Thí dụ Đề-Bà-Đạt-Đa là người phạm giới, phá hoại tăng đoàn, làm
Phật chảy máu, xuối vua A Xà Thế giết cha hại mẹ vì thế theo nguyên
tắc ông phải bị đọa. Nhưng dựa theo tinh thần Pháp Hoa thì ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật”
nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có
thể thành Phật. Vì thế phẩm thứ 12 này mới được thêm vào mà trong đó
Đề-Bà-Đạt-Đa được Phật thọ ký và về sau cũng sẽ thành Phật.
Để giải thích sự khác biệt,
thêm bớt trong Hán kinh, sư Đạo Tuệ viết trong quyển Tòng Đa Lục rằng có
vị sư tên là Thích Pháp Hiển của chùa Thượng Định Lâm tìm thấy được bản
kinh Pháp Hoa bằng tiếng Phạn có phẩm này. Sau đó, sư Pháp Ý ở chùa
Ngõa Quan dịch phẩm này ra tiếng Hán, nhưng mãi đến khi sư Trúc Pháp Hộ ở
Đôn Hoàng, dịch kinh Chính Pháp Hoa vào đời Vũ Đế triều Tấn thì mới đặt
phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa vào sau phẩm Kiến Bảo Tháp.
Khai Nguyên Thích Giáo Lục là Mục Lục
gồm có 20 quyển do ngài Trí Thăng biên soạn vào năm 730 đời Tống. Đây là
loại sách chuyên liệt kê tên, số quyển và niên đại phiên dịch của tác
phẩm kinh điển Phật giáo. Toàn bộ Mục lục được chia làm hai phần:
1)Tổng quát Quần Kinh Lục:
từ quyển 1 đến quyển 10, tương đương với Đại Lục. Phần nầy theo thứ tự
thời gian phiên dịch để nêu lên 176 tên người dịch cho 2278 bộ kinh,
luật, luận từ Tiểu thừa đến Đại thừa. Tổng cộng 7046 quyển trong thời
gian 664 năm từ năm 67 đời Đông Hán đến năm 730 đời Đường. Trong đó,
những tư liệu liên quan đến những bộ kinh điển đã được sưu tập rất đầy
đủ nói về số lượng quyển, tên người dịch, nơi phiên dịch và những người
có quan hệ đến việc phiên dịch của những bộ kinh đó. Đặc biệt còn phân
biệt các kinh có bản dịch và mất bản dịch, dịch một lần hay dịch nhiều
lần.
2)Biệt phần Thừa Tạng Lục:
từ quyển 10 đến 20, phần này phỏng theo cách phân loại mục lục của Pháp
Kinh Lục. Trong phần này có Hữu dịch hữu bản lục (có tên người dịch, có
bản dịch), Hữu dịch vô bản lục (có tên người dịch, nhưng không có bản
dịch) cho đến Nhập Tạng Mục Lục.
Trong phần Nhập Tạng Mục Lục
của 1076 bộ kinh điển được dịch từ nguyên bản tiếng Phạn sang chữ Hán
gồm 5048 quyển. Trong đó, kinh Đại thừa được chia làm 5 bộ lớn là Bát
Nhã, Bảo Tích, Đại Tập, Hoa Nghiêm và Niết Bàn. Trong số 1076 bộ kinh đó
có đến 392 là kinh giả và 14 kinh khác có nguồn gốc đáng nghi ngờ. Như
thế số kinh giả và không đáng tin cậy đã chiếm đến một phần ba. Nếu con
số nêu trên là đúng thì kinh điển Đại thừa thật sự có vấn đề.
Ngoài ra, để phòng ngừa sự nhầm lẫn,
ngài Trí Thăng còn dùng Thiên tự văn để ghi số hiệu mục lục được nhập
Tạng của sách này và soạn thành Khai Nguyên Thích Giáo Lục Lược Xuất gồm
4 quyển. Từ đời Bắc Tống về sau, bộ Lược Xuất này được làm chỗ y cứ cho
việc in khắc số hiệu của Đại Tạng Kinh.
Trong ba bản dịch kinh Diệu
Pháp Liên Hoa thì bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập là phổ thông nhất
tại các quốc gia ở Á Châu như Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và ngay cả ở
Việt Nam. Các học giả Đông Tây ngày nay đều cho rằng kinh Diệu Pháp Liên
Hoa có lẽ đã trải qua một tiến trình tương đối hơi dài để đi đến hoàn
tất mỹ mãn. Vì tầm quan trọng cũng như giá trị của kinh khiến cho kinh
được tôn xưng như là vua của tất cả các kinh trong khu vườn kinh điển
Đại thừa, nhưng chính nó cũng phản ảnh một ngộ nhận căn bản là coi
thường các kinh khác.
Tinh thần Pháp Hoa ở đây là nhân duyên
vốn từ chúng sinh mà đến bởi vì nếu không có chúng sinh thì không có
Phật, mà không có Phật thì cũng không có giáo pháp. Vì thế Phật có
thuyết pháp cũng vì chúng sinh và nhân duyên là để khiến cho chúng sinh
được liễu sinh thoát tử. Do đó trong kinh Pháp Hoa dạy rằng: ”Phật vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế”
nghĩa là Phật là một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự mà
Phật muốn nói ở đây là gì? Phải chăng đó là sự sinh tử của mỗi chúng
sinh. Chính trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa xác định rằng “Chư
Phật chỉ do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”. Đó là muốn
cho chúng sinh “khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến” nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái thấy biết của
Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong
tất cả mọi chúng sinh. Đó là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có
đầy đủ tri kiến Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật. Vậy Phật
tri kiến mà đức Phật muốn nói ở đây chính là chơn tâm, là Phật tánh
thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị vô minh che lấp nên con người không
thấy biết chơn tánh hằng giác của mình. Cái bổn tánh này ví như mỏ vàng
đang đợi khai phá, chưa được hiển lộ. Vì thế đức Phật muốn chúng sinh
khai mở tri kiến Phật của mình để có sự thanh tịnh, an lạc ngay trong
cõi đời có tan có hợp này cũng giống y như Phật vậy. Cũng ví như vàng
ròng còn trộn lẩn với đất cát sỏi đá, Phật tánh và phiền não cũng vậy.
Phiền não còn, Phật tánh biến mất cho nên nếu chúng sinh hóa giải được
một phần phiền não thì có được một phần Bồ-đề. Mà có Bồ-đề là có giác
ngộ. Dựa theo tinh thần Pháp Hoa, nhân duyên lớn nhất để đức Phật xuất
hiện trên thế gian này là khai mở, chỉ bày khiến cho chúng sinh mở toang
tri kiến Phật của họ và giúp cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến
Phật đó. Thế thì cái tri kiến Phật mà kinh nói ở đây chính là trí tuệ
tức là cái biết như thật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các pháp.
Con người có trở về với bổn tánh, chơn tâm hay Phật tánh chỉ khi nào họ
đạt được cái trí tuệ này thì lúc đó họ sẽ an trú trong sự thấy biết tánh
bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện tượng và tất cả khái niệm hay ý
niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân biệt sẽ biến mất. Vì lẽ đó mà
kinh Pháp Hoa còn được biết đến như là kinh Trí Tuệ.
Trong lịch sử kinh điển Phật giáo Đại
thừa, kinh Bát Nhã xuất hiện trước nhất, rồi mới tới kinh Bảo Tích, kinh
Hoa Nghiêm, kinh Duy Ma Cật…và sau cùng kinh Pháp Hoa. Kinh Duy Ma Cật
có rất nhiều tư tưởng rất uyên thâm, ngoài tư tưởng Bất Nhị, lý tưởng
bất khả tư nghì được diễn bày rất khéo léo và thiện xảo hòa nhịp cùng
với tư tưởng Bát Nhã khiến cho kinh có một chỗ đứng rất vững chắc trong
kho tàng kinh điển Đại thừa.
HOA SEN TRONG ĐẠO PHẬT
Đức Phật sinh ra trong cung vàng điện
ngọc nhưng Ngài thấy rằng những nỗi khổ lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau
tuổi trẻ, sức khỏe và đời sống của tất cả mọi chúng sinh. Nỗi khổ là
hiện tượng vô hình, nhưng nó lại tác động không kém gì những nhát đao,
những thanh kiếm xuyên suốt vào tâm của con người. Cái đau đớn trong tâm
hồn nhất thiết không thương sót một ai. Người giàu sang phú quý cưu
mang nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo khó cũng phải gánh chịu những nỗi
bất hạnh đau đớn dành riêng cho họ. Ông hoàng bà chúa có những nỗi khổ
niềm đau theo lối vua chúa, ngược lại kẻ bần cùng cũng có cái đau cái
đớn chẳng khác gì. Nhưng tại sao chúng sinh lại phải khổ?
Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Phật dạy rằng:
-Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở
đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và
phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc.
Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.
Con người vì bị vô minh che lấp nên
không nhìn thấy biết đúng và từ đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi chấp
thủ, khư khư bám chặt lấy “Cái Ta” và những cái gì gọi là “Cái Của Ta”.
Thí dụ bất cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ, bằng gạch
hay bằng xi măng cốt sắt, nhưng đức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải
thật sự là “Cái Của Ta
mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó là
một hiện tượng mà chúng ta gọi cái nhà trong thế gian vậy thôi. Còn ngôi
nhà thật sự của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm thức. Một cái
nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể thật đẹp, nguy nga tráng lệ, nhưng nó
chính là nguyên nhân tạo đến lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn tự lo
nọ đến áy náy buồn phiền kia. Vì nó ở ngoài ta tức là vật ngoại thân nên
sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại cho nên càng bám víu vào nó thì
càng khó dứt bỏ tức là càng khổ đau thêm. Nó không phải là nơi chốn mà
ta có thể sống vĩnh viễn trong đó, bởi vì nó không thật sự thuộc về ta
mà là một phần của thế gian. Do đó ái dục làm động cơ thúc đẩy con người
đưa đến hành động tạo nghiệp bất thiện bằng chính thân, khẩu hay ý của
ta. Chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng của vô minh, sai khiến
con người luyến ái, đeo níu, bám chặt vào đời sống và lòng ham muốn khát
khao ấy lôi cuốn con người lặn hụp triền miên trôi nổi từ kiếp sống này
đến kiếp khác. Do đó có sống là có khổ.
Nhà sản xuất điện ảnh nổi tiếng nhất ở Hollywood Aaron Spelling khi
còn sống đã xây một căn biệt thự lớn nhất vùng Los Angeles có trên năm
mươi mấy phòng ngủ, rộng trên 56 ngàn bộ vuông và được thiết kế, trang
trí bằng những thứ đắc tiền, quý hiếm nhất trên thế giới. Sau khi ông
Spelling qua đời năm 2006, bà quả phụ Candice không thể một mình quản
trị được tòa biệt thự quá lớn đó mặc dầu chính bà đã tự tay phát họa chi
tiết để vẽ tòa biệt thự này từng phòng một. Đến năm 2008 bà quyết định
bán lại với giá 150 triệu đô la. Có lẽ đây là căn nhà đắc tiền nhất
trong lịch sử địa ốc ở Hoa Kỳ trong thời cận đại. Trước khi đóng cửa
giao chìa khóa nhà lại cho chủ mới, bà thốt rằng “Cái đau đớn nhất
của tôi là khi bước những bước sau cùng trước khi ra khỏi căn nhà mà nó
đã gắn liền với biết bao kỷ niệm đầm ấm êm đềm khiến tim tôi se thắt và
mặc dầu cố gắng tôi vẫn không cầm được nước mắt”. Thế thì có thật
nhiều tiền, có nhà đắc tiền nhất thế giới thì sự ràng buộc càng to lớn
không dễ gì buông xuống. Tệ hại hơn nữa là từ đây tuy sống trong những
căn nhà sang trọng khác, nhưng trong lòng bà sẽ không bao giờ có được
những cái hạnh phúc mà bà đã có vì bà tùy thuộc quá nhiều vào những thứ
vật chất nầy. Chưa đủ, sau cái chết của ông Spelling, cũng vì tranh chấp
tài sản, bà và người con gái duy nhất là Tori không còn nói chuyện với
nhau. Có phải ái dục, tiền tài, danh vọng giết chết đạo đức là sức sống
thanh cao của con người?
Nói chung khổ là trạng thái không thỏa
mãn, bất toại nguyện làm cho con người khó chịu. Hạnh phúc mà con người
đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát
sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả.
Những điều mà chúng sinh mong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối
tượng mà con người khao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có
đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt
một làn hương.
Vào thời đức Phật, một hôm các Tỳ kheo
thấy những tội nhân bị trói bằng dây thừng, dây gai, xích lại và trông
họ đang chịu đau khổ vô cùng mà không cách nào phá vở gông cùm để thoát
thân được nên các Tỳ kheo đem chuyện ấy bạch với Phật. Nghe thế đức
Phật dạy rằng:
-Này chư Tỳ kheo! Các dây trói buộc ấy
thật không chặt chẽ đâu, nếu so sánh với những trói buộc của đam mê xấu
xa đê tiện, trói buộc của ái dục, trói buộc của lòng luyến ái, bám níu
vào tài sản, sự nghiệp, con cái, vợ chồng. Ðó là trói buộc cả trăm lần,
hơn nữa, cả ngàn lần chặt chẽ và vững chắc hơn các loại dây mà các ông
thấy. Tuy nhiên, dầu các trói buộc ấy có chặt chẽ đến đâu, bậc thiện tri
thức vẫn phá vỡ được."
-Dây làm bằng sắt, gỗ hay gai, ràng
buộc không bền chặt. Bậc thiện tri thức nên biết như thế. Ngược lại, dây
luyến ái bám níu vào kim cương, đồ trang trí vợ, con, là trói buộc bền
chặt hơn nhiều.
-Trói buộc ấy thật bền chặt, bậc thiện
tri thức nên biết như vậy. Nó kéo trì xuống, mềm mỏng dịu dàng, nhưng
rất khó tháo gỡ. Chính dây ấy, nguời thiện tri thức cũng cắt lìa và từ
bỏ thế gian, không luyến ái và từ khước mọi dục lạc. (Kinh Pháp Cú, câu
345 và 346)
Bởi sự vô thường giả tạm đó, đức Phật dạy rằng:
"Aniccà vata sankhàrà - Uppàdavayadhammino
Uppajjitvà nirujjhanti - Tesam vupasamo sukho."
Nghĩa là: “Các pháp hữu vi
(sankhàrà, các vật được cấu tạo) là vô thường, có sanh rồi hoại, đã có
sanh tức có hoại diệt - ngưng nó được là hạnh phúc."
Vì nhận thức như thế Ngài từ bỏ cung
vàng điện ngọc cốt là để đi tìm chân lý cứu khổ, một con đường giải
thoát trước tiên là cho chính Ngài chớ không phải mang một tâm tư hoài
bảo vĩ đại muốn cứu rỗi cho tất cả mọi chúng sinh. Ngài đã ra đi, bỏ lại
tất cả, viễn ly mọi ràng buộc thế tình, trở thành một nhà tu khổ hạnh
và phải tranh đấu với những hoàn cảnh khắc nghiệt để mong tìm thấy được
ánh sánh chân lý. Sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Ngài đã tìm
ra con đường giải thoát, có được thanh tịnh Niết bàn và giác ngộ viên
mãn. Ban đầu Ngài có khuynh hướng giữ im lặng, không muốn đem giáo pháp
Ngài vừa thực chứng dưới cội Bồ-đề giảng giải lại cho thế gian: “Nếu
Ta đem con đường Đạo Pháp ra để thuyết giảng mà chẳng có ai hiểu được
thì [việc ấy] chỉ mang lại thất vọng và nhọc nhằn cho Ta..." (Trung A Hàm). Thật vậy, "những ai chỉ biết tìm lạc thú trong dục vọng, nấp mình sau tấm màn của u mê thì sẽ không thể nào quán thấy được Sự thực" (Trung A Hàm).
Có lẽ lúc đó Ngài muốn theo đuổi con đường của một vị Độc giác Phật. Sau khi vị Phạm thiên Sahampati năn nỉ rằng: “Xin
Vị Thầy Tối thượng chớ nên phiền muộn, hãy nhìn vào chúng sinh đang
phải gánh chịu đau buồn và khổ ải [vì vướng mắc] trong sự hình thành và
già nua. Hỡi Vị Tối thắng trong cuộc chiến, hãy đứng lên! Hỡi Vị Thầy
Tối thượng, hãy hy sinh tất cả để bước vào cái thế giới này. Cứ đem Giáo
lý ra thuyết giảng, rồi đây cũng sẽ có người hiểu được" (Trung A Hàm), thì đức
Phật mới nhận lời sẽ truyền dạy lại những gì Ngài thật chứng cho chúng
sinh để cùng có giải thoát Niết bàn và đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải
thoát ra khỏi biển sinh tử trầm luân. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo
giải thoát. Giải là cởi mở nghĩa là cởi mở những trói buộc để thoát ra
khỏi mọi hình thức đau khổ của cuộc đời. Đức Phật khai thị cho chúng
sinh biết đời là bể khổ, nhưng không vì thế mà con người nhìn đời bằng
thái độ yếm thế bi quan tiêu cực. Cũng ví như ra chiến trận, nếu không
biết địch là ai và ở đâu thì làm sao tiêu diệt chúng được. Phật dạy Khổ
Đế để chúng sinh biết đời là bể trầm luân và Tập Đế là những nguyên
nhân, cội nguồn phát sinh ra những nỗi khổ này. Nhưng đức Phật cũng từ
trong cái khổ mà tìm ra chân lý. Cứu cánh của giáo lý Phật Đà là đức
Phật dạy chúng sinh diệt khổ để có an lạc, hạnh phúc ngay trong cái thế giới có sinh có diệt này chớ đức Phật không bao giờ dạy con người trốn khổ nghĩa
là cầu nguyện chạy sang một thế giới nào đó để có an lạc mà tự mình
không lo hóa giải hết những thứ ô trược đó ở thế giới Ta Bà.
Đức Phật dạy rằng:
- Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là khổ đau (dukka): Sinh là khổ đau, già là khổ đau, bệnh tật là khổ đau, chết là khổ đau, phải kết hợp với những gì mình không thích là khổ đau, phải xa lìa những gì mình yêu quý là khổ đau,không đạt được những gì mình thèm muốn là khổ đau. Tóm lại, năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) của sự bám víu là khổ đau.
-Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là nguyên nhân của khổ đau : Đấy là sự ''thèm khát" mang lại sự tái-hiện-hữu và sự tái-hình-thành, sự
thèm khát ấy phát sinh từ sự ham muốn quá độ và sự thèm khát thì sẽ
luôn chạy theo những thụ hưởng mới, lúc thì nơi này lúc thì nơi khác,
đấy là sự thèm khát các lạc thú của giác cảm, đấy là sự thèm khát [được]
hiện hữu và hình thành, đấy là sự thèm khát không [muốn được] hình thành (trái với sự mong muốn của mình).
-Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là chấm dứt khổ đau : Đấy là sự chấm dứt hoàn toàn của sự "thèm khát", dứt bỏ được nó, từ bỏ được nó, tự giải thoát ra khỏi nó, cởi bỏ được nó.
-Này các tỳ kheo, đây là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau : Đấy là Con Đường Cao quý của Tám sự Đúng đắn, đấy
là : quán thấy đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng, hành động đúng, phương
tiện sinh sống đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng và tập trung [tâm thức] đúng.
Thế thì ngay trên cái khổ đó mà con
người làm chủ được nó thì gọi là diệt khổ. Nếu chúng sinh không có khả
năng diệt khổ thì cái khổ sẽ theo họ như bóng theo hình cho nên bất cứ
họ ở đâu cho dù là cõi cực lạc thì họ vẫn phải sống trong cảnh khổ như
thường. Vì vậy khi tâm thanh tịnh, không còn phiền não quấy phá thì nơi
ấy chính là cõi Phật thanh tịnh. Đó là “Tâm tịnh thì thế giới tịnh và
Tâm an thì thế giới an bình” cho nên kinh Duy Ma Cật có câu “Tùy kỳ tâm
tịnh tắc Phật độ tịnh. Dục tịnh Phật độ tiên tịnh kỳ tâm”. Đức Phật dạy
con người phát triển trí tuệ và sống đúng với Chánh pháp và thuận với
Chân lý là “Tuệ Tri” chớ Ngài không dạy chúng sinh sống trong ảo tưởng,
hướng về những cảnh giới không bao giờ có trong càn khôn vũ trụ tức là
“Tưởng Tri”.
Khi ấy đức Phật dùng tuệ nhãn quan sát
khắp cùng xem có ai có thể lãnh hội được Giáo Pháp của Ngài chăng. Trong
Bộ Trung A Hàm (Majjhima Nikãya), có bài kinh Ariyapariyesana nói về
hoa sen như sau:
-Như trong đầm có những loại sen
trắng, sen hồng, sen xanh lẫn lộn. Có những ngó sen chớm nở khỏi bùn,
mọc lên trong nước, có những cây khác vừa lém đém ngang mặt nước và cũng
có những búp sen đã vượt hẳn lên cao, không còn vướng chút bùn nhơ nước
đục. Chúng sanh trong thế gian cũng dường thế ấy dưới tầm mắt của bậc
Chánh Biến Tri. Như Lai nhìn thấy chúng sanh đủ hạng, hạng đầy bợn nhơ
và hạng tương đối trong sạch, hạng thông minh sáng suốt và hạng tối tăm
mờ mịt, hạng tốt hạng xấu, hạng thiện tri thức và hạng cuồng si. Như Lai
cũng thấy hạng chúng sanh đang gieo mầm xấu xa và hạng chúng sanh đang
gặt quả dữ của nhân đã gieo từ những kiếp quá khứ.
Để giải thích rõ ràng hơn,
trong Bộ Tăng Nhất A Hàm (Angutttara Nikãya) có ghi rõ có bốn hạng người
trong số những người có duyên dành được gặp Phật Pháp ví cũng như bốn
loại sen ở trên:
1)Ugghãtitannu:
sau khi có duyên lành gặp được đức Phật và chỉ nghe qua một vài lời dạy
vắn tắt, ngắn gọn và rành mạch của Ngài thì người này tức thì khai tâm
mở tánh và có đủ khả năng thành Đạo và Quả ngay. Có thể nói đó là những
búp sen trong trắng chỉ chờ tia nắng đầu tiên của buổi ban mai để nở
tung ra một cách huy hoàng rực rỡ. Hoa sen tuy từ bùn nhơ nước đục ngoi
lên, nhưng không vì thế mà khiến cho hoa sen phải nhạt sắc hương thanh
thoát của nó.
2)Vipancitannu: Khác
với hạng thượng căn thượng trí ở trên, loại người thứ hai này cần phải
được nghe giải thích tường tận và cặn kẽ thì họ mới chứng được đạo quả
Bồ-đề.
3)Neyya: Hạng
thứ ba này không thể thành đạo mặc dù được giảng giải Giáo Pháp tường
tận và tỉ mỉ, nhưng họ đòi hỏi phải chăm chú nghiên cứu, siêng năng học
hỏi và tinh tấn thực hành Giáo Pháp trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều
năm mới tìm thấy được ánh sáng chân lý nhiệm mầu. Thời gian dài hay
ngắn tùy thuộc vào khả năng phá màn vô minh và tận diệt những tầng ô
nhiễm trong tâm thức.
4)Padaparama: tuy
đã có duyên lành gặp Phật Pháp và nỗ lực học hỏi và thực hành Giáo
Pháp, nhưng sau cùng vị này không thể nào thành đạt Thánh Đạo và Thánh
Quả trong kiếp sống hiện tiền được. Do đó tất cả những công phu tạo dựng
là để vun bồi cho mình một đức tánh cao thượng và dĩ nhiên kết tạo
những chủng tử Phật Pháp hữu dụng sẵn sàng chuyển đến cho những đời kế
tiếp. Đây là những búp sen chưa sẵn sàng để nở trong ngày mai khi mặt
trời lố dạng. Họ là những ngó sen còn dưới sâu trong bùn non của vòng
luân hồi, chưa lên khỏi mặt nước. Cho dù đóa sen còn nằm trong bùn, sắp
vọt ra khỏi bùn, vươn lên khỏi mặt nước hay đã nở rộ thì tất cả đều mang
theo bên trong mình một tiềm năng để trở thành những đóa sen tươi đẹp,
màu sắc rực rỡ và hương thắm dịu dàng.
Thêm nữa, hoa sen là một loại hoa có thể được gọi là “nhân quả đồng thời”.
Bởi vì ngay trong búp sen đã có sẵn gương, hột và cánh nhụy rồi. Một
đặc tính cao thượng của hoa sen là tuy mọc từ sình lầy tanh hôi, vẫn
vươn lên mà không hề bị bùn lầy nước đục làm oen ố sắc hương. Tại sao
đạo Phật lại dùng hoa sen làm biểu tượng cho nhân quả đồng thời? Đó là
tuy mang thân phàm phu ngũ uẩn, nhưng trong tất cả mọi chúng sinh đều
cùng có tri kiến Phật giống y như Phật. Nói cách khác Phật tánh của Phật
và chúng sinh bình đẳng không sai khác ví cũng như hoa sen tuy còn búp
mà vẫn có cánh sen, gương sen, hột sen, nhụy sen giống y như hoa sen đã
nở rộ. Kinh điển Đại thừa hướng dẫn người tu đi từ nhân đến quả, từ các
ba-la-mật trải qua nhiều đời mới thành Phật quả, thì lối tu này gọi là
Thừa Nhân. Trong khi đó, tu Pháp Hoa là tu trên Quả chớ không phải tu từ
Nhân để đi đến Quả nghĩa là hành giả triển khai sự tu hành ngay trên
Quả của Phật đã thành vì thế kinh mới được tôn vinh là “vua của các
kinh”. Quả mà kinh Pháp Hoa diễn bày ở đây chính là Phật tánh vốn có sẵn
trong tất cả mọi chúng sinh.
Chủ điểm của kinh Pháp Hoa là xác định
rằng trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có tri kiến Phật, trí
tuệ Phật, Phật tánh bình đẳng như nhau, giống y như Phật. Vì thế nếu con
người biết sử dụng tri kiến Phật thích đáng và hữu dụng vào trong cuộc
sống để hóa giải hết vô minh phiền não thì chính họ sẽ trở thành Phật
chớ không phải quả vị Phật là do bất cứ vị Phật nào ban thưởng cho mình
được. Trong Phật giáo không có con đường tắt, hay sự chứng đắc là do ai
ban cho mình mà phải bằng sự tinh tấn nỗ lực tu tập của chính mình. Có
đi vào thiền định, có tư duy quán chiếu, có gạn lọc ô nhiễm trong tâm
thức, có kiểm soát được thân khẩu ý thì hoa sen từ búp sẽ dần dần vươn
lên khỏi mặt nước và nở rộ mà tỏa ra hương thơm khắp cùng. Do đó đức
Phật là đóa sen đã nở trước, nở toàn diện mà hiển bày nhụy, gương, cánh,
hột một cách viên mãn. Còn tất cả chúng sinh là những búp sen, tuy chưa
nở rộ, vẫn còn nằm dưới nước, nhưng nếu cố gắng vươn lên thì một ngày
nào đó sẽ vượt thoát khỏi chốn bùn nhơ mà thấy được ánh sáng chân lý
nhiệm mầu và nở rộ giữa ánh nắng bình minh trong lành thanh thoát.
Hoa sen tuy từ bùn nhơ nước
đục ngoi lên, nhưng không vì thế mà khiến cho hoa sen phải nhạt sắc
hương thanh thoát của nó cũng như chúng sinh tuy sống trong thế giới dẫy
đầy ô nhiễm, nhưng nếu biết vươn lên thì cũng vượt thoát ra khỏi cảnh
bùn lầy tanh hôi tăm tối mà nở hoa tươi thắm, sống trong thanh tịnh an
lạc Niết bàn. Hoa sen nói lên đặc tính là sự vật luôn luôn diễn biến và
tồn tại vĩnh cữu chớ không có có cái gì mất cả. Cũng như hoa sen khi tàn
thì còn lại gương sen. Và khi gương sen khô, hột sen rơi xuống bùn rồi
mọc ra bông sen khác. Cứ như thế mà sinh sinh diệt diệt, luân hồi mãi
mãi trong thế gian.
Kinh Pháp Hoa nói về hoa sen, nhưng hoa
sen ở đây phải chăng là hoa sen nơi chính mình để có thể khai, thị,
ngộ, nhập cái hoa sen Phật tánh ấy nơi mình. Hoa sen sẽ vươn lên và nở
rộ cũng như Phật tánh hiển bày cho nên đạo Phật có mặt trên thế gian này
để nhắn nhủ với nhân loại rằng tất cả mọi người đã có đủ tri kiến Phật,
giống y như Phật. Phải chăng tinh thần khách quan bình đẳng tôn trọng
giá trị nhân bản chỉ có duy nhất trong Phật giáo?
NHẤT THỪA PHẬT ĐẠO
Nguyên nhân Phật nói kinh
Pháp Hoa là Ngài muốn khai thị cho mọi chúng sinh rằng ai ai cũng đều có
tri kiến Phật giống y như Phật. Và sau đó Phật muốn quy tất cả các thừa
trở thành Nhất thừa Phật đạo. Nhất thừa Phật muốn nói ở đây là đồng
nhất Thanh Văn thừa (xe dê), Duyên Giác thừa (xe hưu) và Đại thừa (xe
trâu) trở thành Phật thừa (cỗ xe trâu trắng lớn). Nhất thừa không có
nghĩa là giai đoạn cuối cùng của con đường Phật đạo sau khi hành giả đã
trải qua ba thừa trước mà nhất thừa là một con đường duy nhất để thành
Phật. Do đó tôn chỉ của Pháp Hoa là tu để thành Phật, cứu cánh tối
thượng là Phật quả, là Bảo sở chớ không không có con đường nào khác. Vì
vậy nhất thừa Phật nghĩa là một là tất cả và tất cả chính là một tức là
Bất nhị. Như thế muốn hòa nhập vào trong hội Pháp Hoa, chúng sinh phải
thấy mình sống trong cái nhất thừa đó, phải biết mình cũng có đủ tri
kiến Phật để giúp mình sáng suốt hóa giải những phiền não đau khổ của
thế gian. Nhất thừa đưa hành giả đến chỗ vô phân biệt, không còn thấy
mình tu theo Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát mà tất cả quy về thành
Phật đạo tức là con đường duy nhất để thành Phật. Nếu con người sống
trong tinh thần Nhất thừa thì sẽ không còn tranh chấp giữa các tông phái
cũng như trăm sống cùng đổ về biển lớn. Xa hơn nữa, nhất thừa giúp
chúng sinh nhìn thế gian rộng rãi rốt ráo hơn. Đó là xóa sạch những dị
biệt tư tưởng cho nên tranh chấp, xung đột đưa đến tranh đấu sẽ không
còn. Bởi vì nhất thừa là cứu cánh tối thượng của trí tuệ và từ bi và
cũng là hòa bình của thế giới.
CẤU TRÚC CỦA KINH PHÁP HOA
Kinh Pháp Hoa là một tuyệt tác
của Phật giáo Đại thừa. Kinh được diễn tả dưới hình thức một vở kịch
nhằm phát huy một chân lý tối thượng bằng cách trình bày những ý niệm
trừu tượng dưới dạng cụ thể, dễ hiểu giúp người đọc dễ nắm được ý kinh.
Tên kinh dựa theo Phạn ngữ lúc ban đầu là Saddharma Puṇḍarīka Sūtra (Lotus
Sutra). Khi dịch qua Hán tự thì nó có tên là “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo
Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”, gọi gọn lại là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh hay
gọn nữa là Kinh Pháp Hoa. Diệu Pháp là Pháp, Liên Hoa là dụ. Diệu Pháp
là pháp môn huyền diệu tức là pháp mầu. Nói về sự, Pháp là tất cả các sự
vật hiện hữu và xảy ra trong thế gian vũ trụ. Nói về lý, Pháp là một
chân lý, một sự thật vĩnh hằng ảnh hưởng vào tất cả các sự vật trong thế
giới này. Pháp là lời dạy của Phật mà nó chính là nền tảng, là khuôn
mẩu cho con người noi theo vì nó tiềm ẩn những năng lực giúp chúng sinh
có thể tiêu trừ những dục vọng tham-sân-si là căn nguyên của phiền não
khổ đau nên gọi là pháp mầu. Pháp này có thể giúp con người phá trừ được
ngã chấp hẹp hòi, ích kỷ nên gọi là pháp mầu. Pháp này giúp con người
thấu hiểu tánh duyên khởi vô tánh vì tất cả sự vật trong thế gian này là
do nhân duyên hòa hợp giả tạo nên không có gì là bền chắc cả, có đó rồi
mất đó nên gọi là pháp mầu. Pháp này giúp chúng sinh thấy biết và sống
thật bản tâm của chính mình vì mỗi chúng sinh là một vị Phật sắp thành
nên gọi là pháp mầu.
Vì sự huyền diệu nhiệm mầu đó cho nên Diệu Pháp gồm những ý nghĩa như sau:
1)Thật tướng bình đẳng:
Tuy thế giới vũ trụ có tướng trạng khác nhau, màu sắc khác nhau, kích
thước nặng nhẹ khác nhau, nhưng thật tướng của vạn pháp là vô tướng
(không tướng) nên tất cả đều bình đẳng như nhau. Vì thế nếu con người
biết quán tưởng thật tướng là không tướng thì những phạm trù đối đãi nhị
nguyên trong tâm thức dần dần sẽ biến mất.
2)Đại huệ bình đẳng:
Khi con người ngộ nhập được bản thể chân như của vạn pháp tức là thật
tướng là vô tướng thì họ sẽ trở về sống với chơn tâm, Phật tánh hay Tri
kiến Phật (thấy biết của Phật) tức là cái linh tri, linh giác có sẳn
trong tất cả mọi người.
3)Khai quyền hiển thật, hội tam quy nhất:
Trong hội Pháp Hoa, đức Phật khai thị chúng sinh để đưa tam thừa về
nhất thừa Phật đạo. Bây giờ sẽ không còn Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát
mà chỉ còn Phật thừa tức là con đường duy nhất giải thoát giác ngộ viên
mãn trở thành Phật. Nếu chúng sinh ngộ được Phật tri kiến thì họ thẳng
tiến về Phật địa và sẽ thành Phật. Vì thế giáo pháp nầy mới gọi là huyền
diệu nhiệm mầu tức là Diệu Pháp vậy. Đã là Diệu Pháp thì không những
toàn bộ kinh là Diệu Pháp mà mỗi câu mỗi chữ cũng là Diệu Pháp bởi vì
mỗi thành phần cấu tạo, xây dựng tạo thành toàn bộ một chân lý rằng:”Tất
cả chúng sinh đều thành Phật”.
Phật giáo Đại thừa lấy Bồ Tát
Hạnh làm cao điểm, là lý tưởng phục vụ để cảm nhận mà phát triển tâm từ
vì thế kinh Pháp Hoa diễn tả một chân lý sinh động qua các hạnh của các
vị Bồ Tát. Dưới tuệ nhãn của bậc giác ngộ, đức Phật nhìn tất cả chúng
sinh đều có Phật tánh cho nên tất cả việc làm thiện của họ cho dù là một
việc thiện rất nhỏ cũng là yếu nhân đưa đến sự giải thoát thành Phật.
Kinh Pháp Hoa là sự hợp nhất
của chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, của căn bản trí (vô sư trí)
và hậu đắc trí (sai biệt trí). Nhưng cốt tủy của kinh không ngoài mục
đích xiễn dương giáo lý “Chân Không Diệu Hữu”. Chân Không là biểu tượng
cho thể tánh thanh tịnh tức là trí tuệ, còn Diệu Hữu là biểu tượng cho
sự diệu dụng bất khả tư nghì trong thế giới hiện tượng này tức là từ bi.
Nếu đứng về mặt chơn đế mà quan sát, xuyên suốt bản thể của mọi hiện
tượng vạn hữu thì hiện tượng nào cũng là hiện tượng của bản thể và không
có bản thể nào ngoài hiện tượng cả nghĩa là sóng biển nhấp nhô lên
xuống là nước và thể tánh yên lặng êm đềm ở dưới lòng đại dương cũng là
nước, bất tức bất ly. Vì thế an vui thanh tịnh tự tại Niết bàn cũng phát
xuất từ tâm và phiền não khổ đau cũng không ra ngoài cái tâm ấy nghĩa
là mê là là phiền não còn giác là Bồ Đề.
Kinh Pháp Hoa đánh đổ tất cả
những tư tưởng có khuynh hướng thiếu chánh đáng để phê phán đạo Phật.
Tại sao? Bởi vì không có nhân bản nào hơn nhân bản kinh Pháp Hoa, không
có nhân vị nào hơn nhân vị kinh Pháp Hoa, không có dân chủ nào hơn dân
chủ kinh Pháp Hoa và không có bình đẳng nào hơn tinh thần bình đẳng của
kinh Pháp Hoa. Đó là trong tất cả mọi người cho dù là bạc địa phàm phu,
tội lỗi tràn ngập cũng đều có sẵn Tri Kiến Phật giống y như Phật và tất
cả mọi người là Phật, tất cả mọi người đã thành Phật và tất cả mọi
người sẽ thành Phật.
TÍCH MÔN VÀ BỔN MÔN
Dựa theo sự phân tích của Trí
Giả Đại sư của Thiên Thai tông thì kinh Pháp Hoa được chia làm hai
phần: Phần đầu gồm 14 phẩm, gọi là Tích môn. Phần còn lại là Bổn môn.
Nhưng trên thực tế kinh không sắp xếp đúng theo thứ tự mà có rất nhiều
phẩm của Tích môn chạy vào phần Bổn môn và ngược lại. Điều này chứng
minh là có rất nhiều phẩm đã được người đời sau thêm vào làm mất đi tính
chất liên tục của kinh.
Tích môn là giáo lý của đức Phật Thích
Ca, là đức Phật lịch sử cũng bắt đầu bằng thân phận bình thường của một
con người, cũng chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của kiếp người. Ngài cũng phải
đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh khác. Sau
cùng, Ngài tìm kiếm một con đường giải thoát và đạt đến hạnh phúc Niết
bàn, chứng đắc trí tuệ viên mãn và thoát ly sinh tử luân hồi. Do đó tinh
yếu của Tích môn là trí tuệ của đức Phật.
Bổn môn là giáo lý thường có
vĩnh hằng vượt khỏi thời gian và không gian, là cội nguồn của tất cả
giáo pháp. Vì đức Phật bây giờ không là đức Phật lịch sử, mà đức Phật
chân chính là một thực thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn
tức là “Pháp thân”. Cho nên đức Phật lịch sử chỉ là nhân vật được “đức Phật chân chính”
gởi đến với thế gian để tạo thành một nhân vật có hình thể là một con
người, có một đời sống sinh hoạt giống hệt như một con người thường tục
để thuyết giảng Chánh Pháp cho nhân thế. Do đó đức Phật đã thành Phật từ
vô lượng kiếp trước chớ không phải mới thành Phật tại thế giới này nhờ
công phu tu thiền định. Trong phẩm 16, Như Lai Thọ Lượng, xác định rằng
Như Lai vẫn tiếp tục giảng pháp trong khắp cả vũ trụ kể từ thời vô thỉ.
Nói cách khác, đức Phật dựa theo tinh thần bổn môn là chân lý của vũ
trụ, hiện hữu khắp mọi nơi trong vũ trụ và sẵn sàng cứu độ tất cả chúng
sinh trong thế gian vũ trụ này. Đây mới chính là Bổn Phật và vị Bổn
Phật này xuất hiện bằng nhiều hình tướng khác nhau tương ứng với từng
thời gian và nơi chốn đặc biệt nào đó trong vũ trụ để cứu độ tất cả
chúng sinh bằng những phương tiện thích ứng với khả năng thấu hiểu của
họ về giáo lý của Ngài. Vì thế đức Bổn Phật xuất hiện trong suốt chiều
dài của sự hình thành vũ trụ nghĩa là không có đâu là điểm bắt đầu và dĩ
nhiên không biết bao giờ là ngày cùng tận.
Để có cái nhìn sâu xa hơn,
Bổn môn là đứng về mặt bản thể, còn Tích môn là mặt hiện tượng. Vì thế
trong tất cả mọi chúng sinh, Bổn môn là ai ai cũng đều có Phật tánh bình
đẳng như Phật, còn Tích môn là con đường thực hành của chúng sinh để đi
vào Phật tánh đó. Đứng về phương diện Bổn Môn thì đức Phật Thích Ca là
đức Bổn Phật, đã thành Phật từ vô thỉ đến vô chung cho nên mỗi chúng
sinh vốn có cái Phật tánh thiêng liêng này. Còn về mặt Tích môn là đức
Phật lịch sử đản sanh ở Ấn Độ cách đây hơn 2500 năm tức là nhân tu hành
của mỗi chúng sinh.
Một điểm đặc thù khác giúp
người đọc kinh có thể biết đoạn kinh nào nói về Tích môn và đoạn kinh
nào thuộc về Bổn môn. Đó là đoạn nào trong kinh mà đại chúng nhìn xuống
đất, nhìn vào núi đồi hùng vĩ, cây cối…thì lúc đó kinh đang diễn tả về
thế giới sinh diệt Tích môn. Ngược lại, khi mắt mọi người nhìn lên không
trung, nhìn lên tháp Đa Bảo ở trên không hay các Bồ Tát vọt lên từ mặt
đất rồi lơ lững trên hư không thì lúc đó kinh đang đưa chúng sinh vào
thế giới vô sinh vô diệt, vào thế giới của thời gian vô tận và không
gian vô cùng của pháp giới Bổn môn.
ẢNH HƯỞNG KINH PHÁP HOA Ở Á CHÂU
1)Trung Hoa:
Kinh Pháp Hoa du nhập vào Trung quốc rất sớm và được các nhà dịch thuật
nổi tiếng như Trúc Pháp Hộ bắt đầu dịch kinh vào năm 286 và một thế kỷ
sau đó có ngài Cưu Ma La Thập lại dịch sang tiếng Hán một bản nữa, nhưng
mãi đến khi Trí Khải Đại Sư của phái Thiên Thai, kinh Pháp hoa mới đạt
đến địa vị tột đỉnh của nó trong tàng kinh điển Đại thừa ở Trung Hoa.
Tông Thiên Thai được khởi xướng từ Bắc
Tế do ngài Huệ Văn Thiền sư dựa vào bộ Trí Độ Luận của ngài Long Thọ mà
lập ra pháp “Nhất tâm tam quán”. Pháp này được truyền lại cho ngài Nam
Nhạc Huệ Tư Thiền sư và sau đó Huệ Tư truyền lại cho Trí Khải. Nhất tâm
tam quán bao gồm: Không quán, Giả quán và Trung quán do Ngài Huệ Văn rút
từ bài kệ trong bộ Trung luận của ngài Long Thọ rằng:
Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc danh vi giả danh
Diệc thị Trung đạo nghĩa.
Dịch là:
Các pháp do nhân duyên sanh
Nên ta bảo là không
Mà cũng là giả danh
Đó cũng là nghĩa của Trung đạo.
Đối với tông Thiên Thai, ba
pháp quán này là thành phần nồng cốt trong sự thực hành cho nên nếu hành
giả không đạt đến chỗ rốt ráo tận cùng của ba pháp quán này thì không
thành tựu được.
1)Không quán:
Đây là đứng về mặt chân đế mà quan sát. Nếu từ góc độ chân đế mà quan
sát thì vạn pháp vốn là không, nhưng con người vì mê lầm chấp trước nên
cho là có thật. Từ đó mà kiến hoặc, tư hoặc phát sinh nên phải trôi nổi
trong sinh tử luân hồi. Do đó phải dùng “Không quán” để thấu biết rõ
ràng rằng vạn pháp là không.
2)Giả quán: Bây
giờ đứng về mặt tục đế mà quan sát. Tuy vạn pháp là không và vô sở đắc,
nhưng nếu đứng về thế tục mà nhìn thì thấy bản tánh vốn đủ các pháp,
muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Pháp quán này giúp hành
giả dứt trừ được trần sa hoặc bởi vì hành giả biết rằng tuy vạn pháp
trong thế gian nhiều như cát bụi, nhưng tất cả đều không thật, có đó rồi
mất đó nên vững tâm tu tập.
3)Trung quán:
Đây là đứng về phương diện trung đế để quan sát các pháp. Trung đế hay
còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế là sự thật trung chánh, không gì hơn, bao
gồm tất cả các sự thật khác. Khi đứng về hai mặt tục đế hay chân đế mà
quán sát sự vật thì không phải là không đạt đến chân lý, nhưng chân lý
đó chỉ đúng ở một khía cạnh này hay khía cạnh kia mà thôi. Do đó đứng
trên phương diện tổng thể, hai chân lý “tục, chân” đôi khi mâu thuẫn,
đối chọi nhau. Bây giờ dựa theo trung quán mà quan sát thì nhận thức
được cả hai khía cạnh Có và Không nghĩa là hành giả nhận chân rất rõ
ràng các pháp không phải Chơn mà cũng không phải Tục tức là Chơn tức
Tục, Sắc tức là Không, dung thông cả hai, bất tức bất ly. Pháp quán này
sẽ diệt trừ được vô minh lậu.
Khi đã nhận rõ Chân như nằm
trong hiện tượng (vạn pháp) nghĩa là phàm, thánh không “Hai”, uế độ tức
tịnh độ thì hành giả không cần cầu sanh về cảnh giới thanh tịnh nào
khác, phát tâm tinh tấn tu hành, trải qua nhiều đời nhiều kiếp sẽ thành
Phật.
Phật giáo Đại thừa quan niệm
về chữ “thành Phật” tương đối khá rộng rãi đôi khi dễ bị hiểu lầm. Thí
dụ như Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói rằng “thấy tánh thì thành Phật”, nhưng Phật
mà Tổ nói ở đây không phải là “Cứu cánh tức Phật” tức là thực sự thành
Phật mà chỉ là Phật nhân tức là “Lý tức Phật”. Còn muốn đạt đến “Cứu
cánh tức Phật” thì hành giả phải dụng công tu tập trải qua bao nhiêu đời
bao nhiêu kiếp để tiêu diệt cho hết cái mầm gốc tham sân si thì lúc đó
mới thành Phật quả được. Ở đây tông Thiên Thai đề xướng tư tưởng “Lục
tức Phật” để giúp người đệ Phật thấu hiểu rõ ràng hơn ý nghĩa của chữ
“tức Phật” :
1)Lý tức Phật: Trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy rằng:”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.
2)Danh tự tức Phật:
Danh tự là lời Phật dạy trong kinh điển vì tất cả các pháp đều là Phật
pháp. Do đó nếu lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển,
văn tự tức là Phật.
3)Quán hạnh tức Phật: Quán là quán tưởng, hạnh là tu hành nghĩa là thực hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.
4)Tương tợ tức Phật:
Trong khi tu hành, tuy chưa thực chứng được lý tánh, nhưng tâm thể được
yên lặng gần như đã thực chứng nên gọi là tương tợ tức Phật.
5)Phần chứng tức Phật:
Theo phái Thiên Thai thì vô minh như là một tấm màn dày đặc gồm có 41
lớp. Nhờ công phu tu tập, nếu hành giả phá được một lớp là chứng được
một phần trung đạo tức là phần chứng tức Phật. Hành giả đến đây là đã
vượt qua các bậc Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng
giác.
6)Cứu cánh tức Phật: Đây là chứng được chỗ mầu nhiệm tột cùng của đạo Phật. Đó là bậc Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn tức là thành Phật.
Khi Trí Khải vừa được hai mươi ba tuổi,
ngài vào núi Đại Tô ở Quảng Châu lễ bái Tôn giả Tuệ Tư làm thầy. Trong
thời gian thọ giáo 7 năm, Trí Khải được dạy pháp môn Tứ An Lạc Hạnh tức
là phẩm thứ 14 của kinh Pháp Hoa. Đây là pháp quán chiếu an lạc mà chính
sư phụ Tuệ Tư đã viết ra giúp hành giả thể nghiệm được lý kinh Pháp
Hoa. Nhờ tu tập quán chiếu, Tuệ Tư đã thực chứng pháp đẳng trì. Vì thế
Trí Khải tinh tấn nỗ lực tu hành cho nên khi tụng đến phẩm Dược Vương Bồ
Tát bổn sự, ngài hốt nhiên thấy thân tâm thanh tịnh và nhập định. Trong
định, Trí Khải thấy chính mình ở tại núi Linh Thứu và đang nghe đức Thế
Tôn thuyết pháp. Đây là một thực nghiệm sâu xa huyền bí chuyển biến
quan trọng trong đời Trí Khải. Từ đó, Trí Khải phát triển năng khiếu
vượt bực trong thiền quán và giáo thuyết. Trí Khải đạt đến trí tuệ và
tài năng xuất chúng là do sự tận tâm dạy dỗ và truyền cả sở học của thầy
Tuệ Tư. Lúc ấy Trí Khải vừa ba mươi tuổi. Đến năm 587, Trí Khải lần đầu
tiên giảng toàn bộ kinh Pháp Hoa và được người đệ tử ghi lại dưới tên
là Pháp Hoa Văn Cú (Fa Hue Wen chu). Nhưng mãi đến năm 593, lúc ấy, Trí
Khải vừa được 56 tuổi, ngài soạn ra bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa và năm sau
ngài cho ra đời cuốn Ma Ha Chỉ Quán tại Tu Thiền Tự (Yu Chuan Ssu) ở
Kinh Châu. Ma Ha Chỉ Quán là tác phẩm thâm viễn và có hệ thống nhất về
con đường thực hành giáo và hành của Trí Khải. Đặc biệt với bài tựa của
Quán Đảnh phản ảnh lại con đường đến với pháp mà Trí Khải đã hành trì
với chính tâm mình và cũng là nền tảng để lập nên truyền thống Thiên
Thai.
Một đặc điểm khác là Trí Khải đã dung
hòa các học thuyết Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo vào nguồn minh
triết viên dung muôn âm diệu của Đại Sư.
Qua tác phẩm Huyền Nghĩa,
trước hết Trí Khải nhấn mạnh rằng Nhất thừa là biểu trưng cho vị trí tối
thượng mà nơi đó con người có thể thấy được Pháp thân của chính mình.
Pháp thân là năng lực dung hợp bao trùm tất cả những học thuyết Phật
giáo khác nhau và đưa ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát trở thành
một.
Kế đến, Trí Khải cho rằng
chân lý của Thể, Tướng và Dụng là bất khả tư nghì vì nó không phải một,
không phải khác nhưng thật sự chỉ là một. Vì thế chân lý này mới được
gọi là vi diệu.
Thứ ba, Trí Khải cho rằng sự
nhận thực chân lý đồng nghĩa với Phật tánh. Trí Khải khẳng định điều vi
diệu này là tịch và chiếu. Để giải thích Trí Khải nói rằng Phật luôn là
tịch nhưng có thể chiếu soi vào chúng sinh hữu tình bằng cảm ứng để khơi
dậy trí tuệ vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh.
Sau cùng, chân lý theo Trí
Khải là Phật tánh, là cái có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Trí Khải
giải thích rằng Phật tánh là chân lý tối hậu mà chúng sinh có thể đạt
đến và Phật tánh cũng là “mục tiêu cứu rỗi“ sau cùng cho nên bất cứ nơi đâu cũng không bỏ chúng sinh.
Trí Khải chú giải kinh Pháp
Hoa dựa theo năm ý nghĩa mà ngài gọi là Ngũ Huyền hay Ngũ Trùng Huyền
Nghĩa. Đó là phương cách khảo sát nghiêm túc trong việc chú giải kinh
Phật và được áp dụng như là một phương tiện thiện xảo để sắp xếp tư
tưởng của Trí Khải Đại Sư.
Trí Khải sống trong thời kỳ
vua Văn Đế. Mặc dầu nhà vua đã lập Thái tử Yang Yun, nhưng hoàng tử thứ
nhì Yang Kuang nhờ sự hổ trở của Trí Khải mà trở thành Thái tử. Năm 591
Trí Khải cử hành nghi thức thọ Bồ Tát giới và cho Kuang pháp danh Tổng
Trì. Để đáp lại. Kuang tôn Trí Khải là Trí Giả (Chih-che) Đại Sư. Sau
này Kuang lên ngôi tức là vua Tùy Dạng Đế.
2)Nhật Bản:
Bản kinh Pháp Hoa do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đầu thế kỷ thứ 4 sau
công nguyên được du nhập vào Nhật Bản vào những năm 577. Sau đó, bộ Pháp
Hoa Nghĩa Sớ bằng tiếng Nhật ra đời lần đầu tiên và được viết bởi Thái
tử Shotuku (574-622). Có lẽ đây là bộ sách cổ xưa nhất do một người Nhật
viết hiện vẫn còn lưu giữ. Sau đó có ngài Saicho (Tối Trường: 767-822)
lập ra tông phái giống hệt như là Phật giáo Trung Hoa và căn cứ vào giáo
nghĩa Pháp Hoa. Năm 804 ngài được lệnh hoàng gia Nhật Bản phái sang
Trung Hoa, nhờ nhân duyên đó, ngài nghiên cứu giáo lý tông Thiên Thai.
Sau khi về lại Nhật Bản, ngài giảng giải lại cho hoàng gia và thỉnh cầu
cho thành lập tông Thiên Thai ở Nhật Bản. Năm 806, ngài được hoàng đế
tấn phong danh hiệu Truyền Giáo Đại Sư (Dengyò-Daishi). Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản danh hiệu Đại sư được sử dụng.
Nhưng đặc biệt nhất là tông phái Nhật Liên do ngài Nhật Liên
(Nichiren)(1222-1282) thành lập không chỉ xưng tán kinh Pháp Hoa như
thánh điển trên tất cả thánh điển mà còn ngâm vịnh tựa đề kinh như là
những lời thánh biểu hiện nhân và quả của Phật giới. Tông phái này lấy
kinh Pháp Hoa làm nền tảng chính cho việc tu học và thực hành, nhưng đặc
biệt nhất là họ chú trọng về thực hành mà phương pháp chính của họ là
niệm Pháp thay vì niệm Phật như các tông phái Tịnh độ. Kinh Pháp Hoa đã
đạt đến một địa vị tối quan trọng trong kho tàng kinh điển Đại thừa và
được xem là vua của các kinh cho nên niệm kinh này là niệm tất cả các
kinh. Tuy nhiên kinh là do Phật nói vì thế niệm Pháp tức là niệm Phật và
đồng thời cũng là niệm Tăng. Hành giả chí thành niệm như thế thì niềm
tin trong tâm sẽ gia tăng. Tông phái Nhật Liên cho rằng nội dung và tinh
thần của kinh Pháp Hoa rất thánh diệu ngay cả việc thực hành giáo lý
kinh cũng thánh diệu. Điều này cho thấy Phật giáo Nhật Bản chịu ảnh
hưởng tư tưởng của Trí Khải khi giải thích về tựa đề kinh Pháp Hoa trong
tác phẩm nổi tiếng Huyền Nghĩa Pháp Hoa của ngài. Từ khi Nichiren thị
tịch vào năm 1282, tông phái này cũng giảm đi năng lực rất nhiều và có
lẽ tinh thần Pháp Hoa dần theo thời gian cũng bị quên lãng. Ngày nay một
số tín đồ ở Nhật Bản vẫn còn tin rằng họ có thể được cứu độ chỉ bằng
cách gõ trống tay và lập đi lập lại câu:’Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh –
Tôi quy y kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Họ tuyệt đối tin rằng những cầu xin
của họ sẽ được đáp ứng nếu họ chỉ cần thờ kính bài chú tụng mà Nichiren
đã viết ở trên.
3)Việt Nam: Ở
miền Bắc Việt Nam vào đời Hậu Lê cũng có tông phái gọi là Liên Tông do
Lân Giác Đại Sĩ thành lập. Tục truyền rằng khi đào đất để xây nhà, ngài
tìm thấy một cọng sen ở trong đất nên nghĩ rằng đây là ý của Phật muốn
ngài xây dựng một thiền phái để tu học. Vì thế ngài đã khởi công xây cất
một tùng lâm và thành lập một tông phái gọi là Liên tông.