chẳng
được tu pháp môn thù thắng giác ngộ. Bộ Kinh này trình bày cảnh giới
chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu
khó hiểu, cần trải qua nhiều công phu tu hành thanh tịnh mới hy vọng nếm
được chút Ðạo Vị.
Chính
bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất
gia và tại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai. Lời
Kinh cao đẹp, ý nghĩa thâm huyền, chỉ có Phật mới hiểu được trọn vẹn
lời Phật. Chúng tôi là Phật Tử tại gia hậu học, chướng dày huệ mỏng, làm
sao giải được hết ý của Phật, thật không dám múa bút qua mặt những vị
Tôn Ðức cao minh, nhưng lời Phật dạy trong Kinh vẫn văng vẳng bên tai:
"Nếu ai tin hiểu, thọ trì đọc tụng, giảng nói Kinh này cho người khác
thì được chư Phật hộ niệm, đó gọi là Pháp Cúng Dường, quý hơn hết các
việc cúng dường khác." Chính lời Phật dạy này đã thúc đẩy chúng tôi đủ
can đảm đem chỗ hiểu biết nông cạn của mình viết ra quyển sách này, chỉ
mong giúp các người đi sau hiểu được phần nào nghĩa ẩn của Kinh, nếm
được giọt nước cam lồ của biển Pháp mênh mông. Nếu việc giải Kinh này có
đem lại chút công đức nào, xin hồi hướng cho tất cả chúng sinh trong
pháp giới đồng thành Phật đạo.
Quyển
sách này chắc chắn có nhiều sai lầm thiếu sót, kính xin chư vị Thiện
Tri Thức hoan hỷ chỉ bảo bổ khuyết cho, chúng tôi xin chân thành cảm tạ.
Mùa Phật Ðản 2535
Năm Tân Mùi 1991
MINH TÂM
LỜI NÓI ÐẦU
Lịch sử truyền bá tư tưởng Phật Giáo thường được chia làm ba thời kỳ:
1)
Thời Nguyên Thủy: Ðức Phật Thích Ca còn tại thế, Ngài cùng các đệ tử đi
truyền Ðạo rộng rãi khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn, núi rừng đồng
ruộng, đem Pháp mầu giáo hóa chúng sinh; giáo lý của Ngài chỉ có một vị
là đem lại sự giác ngộ và giải thoát cho những người nào nghe theo và
thực hành. Ngài rất hoạt động, đi vào cuộc đời để cứu độ đời.
2)
Thời các bộ phái: Thời kỳ này còn được gọi là Phật Giáo Tiểu Thừa hoặc
Nam Tông. Ðức Phật đã nhập Niết Bàn, các đại đệ tử của Ngài cũng lần
lượt từ trần, tinh thần nhập thế cứu độ chúng sinh không còn được thi
hành tích cực, mà các vị tu sĩ Phật Giáo chỉ đề cao công đức xuất gia,
ẩn tu trong núi rừng, tìm đường giải thoát cho chính mình mà thôi. Phật
Giáo chia ra làm nhiều bộ phái, mỗi bộ phái giảng giải lời Phật hoặc các
giới luật theo ý của vị Trưởng Lão cầm đầu bộ phái, phát sinh những ý
kiến bất đồng. Chí hướng của người tu theo Phật Giáo của thời kỳ này là
tự lợi, tự giác, xa lánh cuộc đời tội lỗi xấu xa, tìm sự giải thoát cho
riêng mình, mục đích cao tột là đạt quả vị A La Hán, hưởng thú vui Niết
Bàn, ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Các Phật Tử tại gia được dạy bảo nên
cầu phước báo cõi Trời và cõi người, bằng cách cúng dường chư Tăng, làm
lành lánh dữ, mà không có ý mong cầu xuất thế, đạt tới những gì cao
siêu huyền diệu.
3)
Thời phát triển của Ðại Thừa, còn gọi là Phật Giáo Bắc Tông: Tinh thần
hoạt động của Phật Giáo Nguyên Thủy được phục hưng, đề cao và vận động
phong trào học Phật, tu Phật, khuyến khích cả hai giới xuất gia và tại
gia thực hành Bồ Tát Ðạo. Tư tưởng cấp tiến này đem lại một luồng gió
mới, chủ trương đem Phật Pháp vào thế gian, tìm sự giác ngộ và giải
thoát ở ngay cuộc đời này; người xuất gia cũng như tại gia có bổn phận
tự lợi rồi lợi tha, tự giác rồi giác tha, vì tất cả chúng sinh đều có
liên hệ mật thiết với nhau, dính chùm với nhau, không thể tách rời ra
được. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật,
vậy phải đem Ðạo vào đời, người tu hành không lìa đời mà tìm thấy giác
ngộ, còn chúng sinh đau khổ thì Bồ Tát còn phải ở đời để tìm cách cứu
độ, mà không được vui hưởng Niết Bàn riêng mình.
Kinh
Duy Ma Cật được phát hiện và truyền bá rộng rãi trong thời kỳ chuyển
hướng tư tưởng từ thời kỳ các bộ phái sang thời kỳ phát triển Ðại Thừa,
chống tư tưởng yếm thế sợ vào đời dễ bị động tâm của các Tỳ Kheo chỉ
mong tự lợi tự giác, rút vào rừng sâu, mà Kinh này chủ trương nhập thế,
tích cực vào đời, ở đâu tu cũng được, ở chùa, ở nhà, ở rừng, ở ruộng,
nơi nào cũng là đạo tràng thanh tịnh, miễn làTÂM THANH TỊNH thì
quốc độ tịnh, hoàn cảnh nào tu cũng được, giàu nghèo, sang hèn, nam nữ,
già trẻ, .... ai cũng tu được, con đường giải thoát thênh thang rộng mở
cho người có chí muốn tu, con đường tu hạnh Bồ Tát lợi tha chung cho cả
hai giới xuất gia và tại gia, mà giới tại gia lại được tán thán hơn, vì
có nhiều gia duyên ràng buộc mà vẫn tu được. Kinh này chủ trương chuyển
Tâm chứ không chuyển Cảnh, Tâm tịnh thì cả thế giới thanh tịnh. Có lẽ từ
bộ Kinh này mà người Việt Nam có câu:
Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa
Nhưng
nói vậy không phải là chống đối, khinh thị lối tu xuất gia, mà chỉ muốn
nhấn mạnh ở điểm là ở đâu tu cũng được, miễn là giữ tâm thanh tịnh,
không để hoàn cảnh chi phối, tâm an thì thế giới bình, khi được giác ngộ
và giải thoát thì ai cũng bằng nhau, giống nhau, vì tất cả là một, Bất
Nhị.
Kinh Duy Ma Cật được dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán, lưu truyền cho đến nay còn ba bộ:
1) Bộ thứ nhất được gọi là Phật Thuyết Duy Ma Cật Kinh, do Ngài Trí Khiêm đời Ngô dịch.
2)
Bộ thứ hai được gọi là Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh hay Bất Khả Tư Nghị
Giải Thoát Kinh, do Ngài Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch.
3) Bộ thứ ba được gọi là Thuyết Vô Cấu Xứng Kinh, do Ngài Huyền Trang đời Ðường dịch.
Trong
ba bản dịch trên, bản của Ngài Cưu Ma La Thập được phổ cập hơn cả, vì
Ngài dịch rất sát nghĩa, văn chương trang trọng lưu loát sáng sủa như
ngọc lưu ly, mỗi chữ mỗi câu như thêu hoa dệt gấm; ngoài giá trị của một
pháp môn giải thoát siêu đẳng, bộ kinh này còn là một tác phẩm văn
chương nổi danh trong rừng văn học Phật Giáo.
Bản của Ngài Cưu Ma La Thập được dịch nhiều lần sang chữ Việt, đáng lưu ý nhất là bản dịch của Thượng Tọa THÍCH HUỆ HƯNG xuất bản năm 1951 và đã được tái bản nhiều lần.
Nội
dung Kinh này nói rõ cảnh giới của Ðại Bồ Tát chứng nhập, hiển bày pháp
môn Bất Nhị, phá trừ mọi chấp trước: có, không, thường, đoạn,... mục
đích giáo hóa chúng sinh thoát khỏi triền phược khổ não, đồng hưởng an
vui giải thoát. Muốn vậy, điều kiện đặc biệt là Tâm phải thanh tịnh, như
trong Kinh nói: tùy Tâm thanh tịnh mà cõi Phật được thanh tịnh.
Nhân vật chính trong Kinh này là một cư sĩ tại gia tên là VIMALAKIRTI phiên âm là Duy Ma La Cật Lị Ðế, gọi tắt là Duy Ma Cật.
Duy
Ma La nghĩa là Tịnh, Vô Cấu, trong sạch. Cật Lị Ðế nghĩa là danh tiếng
lừng lẫy. Người ta hoặc dùng phiên âm Duy Ma Cật, hoặc dùng tên nghĩa
Tịnh Danh hay Vô Cấu. Tịnh là sạch, không đóng bụi bẩn, vắng lặng không
lay động. Về phương diện vật chất, tịnh được ví như ly nước trong sạch
không có cặn, ánh sáng chiếu thông suốt qua không bị ngăn ngại. Về
phương diện tâm linh, Tịnh là vắng lặng, an nhiên tự tại, tâm không vọng
động không dấy khởi. Danh là tên, là phần tâm linh của các chúng sinh
(Danh là phần tinh thần đối với Sắc là phần vật chất), là đức hạnh, đức
tánh, công hạnh, công đức.
Hai
chữ Tịnh và Danh thường đi đôi với chữ Thanh, hợp thành chữ kép Thanh
Tịnh, Thanh Danh. Thanh Tịnh là trongsạch, không nhiễm ô, không vọng
động. Thanh Danh là tên sạch, không nhuốm bẩn, người có Thanh Danh là
người lương thiện lành tốt, đức hạnh trang nghiêm, không phạm lỗi lầm
nhơ bẩn, không làm tội ác thấp hèn, ai cũng kính trọng.
Danh
hoặc phần Tâm linh chính là chỉ cái Tâm vô hình, vô tướng, bất cấu, bất
tịnh, bất tăng, bất giảm, bao trùm cả ba lần ngàn đại thiên Thế Giới.
Từ Tâm này phát sinh ra mọi sự mọi vật, và cũng chính là nơi cho mọi sự
mọi vật trở về nguồn gốc căn bản, đó là lý Chân Không Diệu Hữu.
Cư
sĩ Duy Ma Cật được đặt tên là Tịnh Danh hoặc Vô Cấu, vì Ngài đã lau
sạch bụi trần, hết nhiễm ô. Ðúng lý ra thì dùng một chữ Tâm hay chữ Danh
là đủ, không cần thêm chữ Tịnh, vì đã là Chân Tâm thì bất cấu bất tịnh,
nhưng ở đây người dịch muốn phân biệt rõ ràng Chân Tâm với vọng tâm hay
vọng thức nên thêm chữ Tịnh đứng trước chữ Danh.
Như
vậy, tên bộ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết có nghĩa đen là bộ Kinh ghi chép
những lời nói của Cư Sĩ Tịnh Danh, nhưng bao hàm nghĩa ẩn là bộ Kinh nói
về Chân Tâm thanh tịnh. Còn cái tên thứ hai Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát
Kinh là bộ Kinh nói về pháp môn không thể nghĩ bàn đưa đến chỗ giải
thoát. Ðức Phật đã lấy cốt tủy và mục đích của Kinh mà đặt tên.
Kinh Duy Ma Cật được xuất hiện vào thời kỳ nào?
Theo sự phân chia của Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư thì có năm thời kỳ thuyết pháp của Ðức Phật:
1.
Thời Hoa Nghiêm dài 21 ngày: Ngay sau khi thành Ðạo, Ðức Phật Thích Ca
đem giáo lý tối thượng thừa ra giảng, chỉ có hàng Ðại Bồ Tát hiểu được,
còn hàng Thanh Văn, Duyên Giác (Nhị Thừa) sơ cơ không hiểu gì cả.
2.
Thời A Hàm, dài 12 năm: Ðức Phật phải phương tiện giảng giáo lý từ thấp
lên cao, tạm chia Phật Thừa ra làm ba thừa để thích hợp với căn cơ
chúng sinh. Thời A Hàm thuộc Phật Giáo Tiểu Thừa, còn được gọi là Nguyên
Thủy hay Nam Tông.
3.
Thời Phương Ðẳng hay Phương Quảng, dài 8 năm: Ðức Phật chuyển giáo lý
TIểu Thừa bước sang Ðại Thừa. Kinh Duy Ma Cật thuộc thời này.
4. Thời Bát Nhã, dài 22 năm: Ðức Phật phá mọi chấp trước để hiển lộ lý KHÔNG, đề cao trí huệ sẵn có của các chúng sinh.
5. Thời Pháp Hoa và Niết Bàn, dài 8 năm: Ðức Phật quy ba thừa về Nhất Thừa hay Phật Thừa, bỏ phương tiện để đạt cứu cánh.
Theo
như trên thì Kinh Duy Ma Cật thuộc thời Phương Ðẳng là giao thời giữa
Tiểu Thừa và Ðại Thừa, phá chấp các tướng trạng để bước sang thời Bát
Nhã. Bộ Kinh này thuyết minh rằng những lý thuyết, phương pháp tu hành
trước kia cho là đúng, là phải chỉ là những phương tiện tạm dùng trong
buổi sơ cơ, nay đã đến lúc phải bỏ những điều ấy, phải lìa Tướng nhập
Tánh, lìa Sự chứng Lý, lìa tương đối Ngộ tuyệt đối, bỏ ngã chấp và pháp
chấp mà tu Bồ Tát Ðạo, quên mình vì chúng sinh, tự giác giác tha để tới
giác hạnh viên mãn, thấy tất cả là Một, tất cả đều liên hệ với nhau,
trùng trùng duyên khởi.
Bộ
Kinh Duy Ma Cật cũng góp nhặt các đường lối tu hành khác nhau để quy về
một lối, trăm sông đổ vào một biển và hòa tan trong đó. Bộ Kinh cũng
gián tiếp trả lời những điểm công kích của ngoại đạo hoặc các phe phái
khác nhau trong Phật Giáo, để đề cao Nhất Thừa Phật Ðạo, tùng Tướng nhập
Tánh, Lý Sự viên dung.
Kinh
này do Ðức Phật Thích Ca nói ở Thành Tỳ Xá Li, phiên âm chữ Phạn
Veisali, nghĩa là Thành Quảng Nghiêm, do Ngài A Nan được nghe và nói
lại. Kinh Duy Ma Cật thuộc loại quyền giáo, nghĩa là Ðức Phật dùng những
thí dụ (parables) để diễn tả Chân Lý cao siêu tuyệt vời mà những danh
từ, ngôn ngữ, tâm duyên không thể dùng để đạt tới được.
Thí
dụ: Muốn tả con cọp cho một người chưa thấy cọp bao giờ, chúng ta liền
chỉ con mèo, nói là con cọp giống con mèo, nhưng lớn và dữ tợn hơn
nhiều, mạnh mẽ hung bạo có thể ăn thịt người. Nhưng nếu người đó chấp
con mèo là con cọp thì hoàn toàn sai, giống như người chấp ngón tay là
mặt trăng. Thí dụ khác: Muốn tả máy bay trực thăng, chúng ta chỉ con
chuồn chuồn, nói là máy bay trực thăng có hình giống con chuồn chuồn,
nhưng to lớn hơn nhiều, có thể chuyên chở nhiều người. Ðây là mượn một
vật cụ thể để diễn tả một vật hữu hình hữu tướng mà còn khó khăn mới
mường tượng ra được, nếu mượn một vật hữu hình đễ diễn tả một một caí gì
vô hình, vô tướng, siêu việt, thì thật muôn ngàn lần khó hơn.
Kinh
Duy Ma Cật là một bộ kinh thuộc Ðại Thừa do Ðức Phật nói cho hàng Bồ
Tát và các đệ tử đã phát Bồ Ðề Tâm nghe, tả rõ cảnh giới của các Ðại Bồ
Tát chứng nhập, vậy là nói về một cái gì huyền diệu nhiệm mầu cao tột mà
không thể dùng tri thức phàm phu hiểu được. Muốn tạm hiểu vài ba phần,
chúng ta cần phải cố gắng vươn lên cao, bỏ qua những hình tướng bề ngoài
để thấy cái Thể bên trong, bỏ Tướng để nhập Tánh, bỏ cái vọng thức suy
nghĩ phân biệt của phàm phu để nhập vào Ðại Trí Huệ (Ma Ha Bát Nhã).
Vì Kinh này thuộc quyền giáo nên một câu hỏi thường đặt ra: Cư Sĩ Duy Ma Cật có phải là một nhân vật lịch sử có thật không?
Chúng
ta đã biết Ðức Phật Thích Ca và các đệ tử như Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên, A Nan, Ca Diếp, Kiều Trần Như,.... là những nhân vật lịch sử có
thật, bằng xương bằng thịt, sống ở Ấn Ðộ vào một niên đại lịch sử được
ghi chép rõ rệt, thuộc dòng họ nào, ở địa phương nào, đời sống ra sao từ
sinh đến chết, có để lại những di vật được cất giữ cẩn thận. Còn Ðức
Phật A Di Ðà, Ðức Phật Dược Sư, chư Bồ Tát Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, Văn
Thù, Phổ Hiền, Ðịa Tạng.... không phải là những nhân vật lịch sử bằng
xương bằng thịt: sở dĩ chúng ta biết được các Ngài là do Ðức Phật Thích
Ca nói cho biết. Chúng ta tin Phật không nói sai, nhưng có lúc Ngài nói
thật, có lúc nói quyền, vậy đừng lấy quyền làm thật, đừng chấp con mèo
là con cọp, đừng chấp con chuồn chuồn là máy bay trực thăng mà chúng ta
còn suy ngẫm để tìm ra sự thật qua các thí dụ cũng giống y như các câu
chuyện ngụ ngôn.
Dĩ
nhiên là chư Phật, chư Ðại Bồ Tát thường dùng mọi thân hình thị hiện
trong thế gian để độ chúng sinh mà không ai biết đó là Phật hay Bồ Tát,
vì các Ngài dùng một thân tầm thường như mọi chúng sinh khác để dạy dỗ
hướng dẫn tu hành, chứ không hiện thần thông bay trên trời, chiếu hào
quang rực rỡ. Khi rời bỏ xác phàm, các Ngài để lại một bài kệ, mọi người
mới biết đó là Phật hoặc Bồ Tát giáng trần thị hiện cứu độ chúng sinh.
Chư
Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền đã có hai loại (lịch sử có thật hoặc
do Ðức Thích Ca nói cho biết) thì các chúngsinh tới nghe Phật nói Kinh
Duy Ma Cật cũng có hai loại:
1)
Thính chúng hiển hiện là các đệ tử sinh thời với Ðức Phật Thích Ca,
như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan, Ca Diếp, Kiều Trần Như,... cùng
các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ, đại chúng ...
2)
Thính chúng ẩn mặt là các Bồ Tát Văn Thù, Di Lặc, Quán Thế Âm, Ðại Thế
Chí... chư Thiên Long Bát Bộ, Thiên Thần Hộ Pháp, Ðịa Thần, Quỷ Thần,
Thụ Thần,... từ các cõi khác đến nghe Pháp.
Theo
lời Kinh thì thưở ấy trong Thành Tỳ Xá Li có ông trưởng giả tên là Duy
Ma Cật tu hành chân chánh, sâu trồng cội lành, được vô sinh nhẫn, biện
tài vô ngại, du hí thần thông... được chư Phật khen ngợi, Trời người
kính trọng. Vì muốn độ người nên ông dùng phương tiện khéo thị hiện làm
thân trưởng giả, có của nhiều để bố thí cho dân nghèo, tu lục độ để
nhiếp độ chúng sinh, tuy là cư sĩ mà giữ giới thanh tịnh của Sa Môn, thị
hiện có vợ con nhưng thường tu phạm hạnh, dạy bảo các hàng Trời người
làm cho tất cả chúng sinh đều được lợi ích.
Ở
phẩm thứ 10 gọi là phẩm Phật Hương Tích, Cư Sĩ Duy Ma Cật sai một vị
Hóa Bồ Tát sang nước Chúng Hương, xa hơn 42 Hằng Hà Sa cõi Phật, có Phật
hiệu Hương Tích, để xin cơm thơm mang về cho đại chúng ăn, chỉ có một
bát cơm mà tất cả chúng hội trăm ngàn người ăn không hết.
Ở
phẩm thứ 12 gọi là phẩm thấy Phật A Súc, Ðức Thích Ca bảo ông Xá Lợi
Phất: "Có cõi nước tên là Diệu Hỷ, Phật hiệu Vô Ðộng, ông Duy Ma Cật này
ở nước đó chết rồi sinh nơi đây...". Cư Sĩ Duy Ma Cật không rời chỗ
ngồi, nhập chánh định, hiện sức thần thông, lấy tay bên hữu nắm lấy cõi
nước Diệu Hỷ, gồm cả Phật Vô Ðộng, chư Bồ Tát Thanh Văn, núi sông, biển,
mặt trời, mặt trăng, tinh tú, Trời, người, cây cối... đem về cõi Ta Bà
này cho mọi người thấy. Cõi nước Diệu Hỷ dù vào cõi Ta Bà này cũng không
chật hẹp, vẫn y nguyên như trước.
Ðó là hai đoạn kinh nói về oai lực siêu phàm của Cư Sĩ Duy Ma Cật. Vậy Duy Ma Cật có thật hay không? Có hai ý kiến:
1)
Cư Sĩ Duy Ma Cật có thật, là một vị trưởng giả ở thành Tỳ Xá Li bên Ấn
Ðộ, có gia đình vợ con, sống cùng thời với Ðức Phật Thích Ca; ông dùng
phương tiện hiện thân có bệnh để mọi người tới thăm, ông nhân dịp đó nói
Pháp để độ chúng sinh. Ông Duy Ma Cật chính là một vị Ðại Bồ Tát đã
chứng Thánh quả, nhưng khéo hiện thân một cư sĩ, làm mọi việc như các cư
sĩ khác, nhưng với Tâm thanh tịnh, không còn nhiễm ô ái dục chấp trước,
tận diệt tham sân si, nên tuy sống ở thế gian mà không gây nghiệp ác,
ông đã chứng minh rằng không cứ phải xuất gia mới đắc Ðạo, mà một người
cư sĩ tại gia tu hành chân chánh thì cũng được giác ngộ và giải thoát.
Sở dĩ Bồ Tát Duy Ma Cật n làm trưởng giả chính là đề cao vi Phật Tử tại
gia, còn sống lẫn lộn trong bụi trần mà không nhiễm ô. Ông phải là một
người bình thường, bằng xương bằng thịt, cho mọi người trông thấy, gặp
gỡ nói chuyện, thấy oai lực thần thông của ông khiến mọi người kính phục
tin theo. Ông đã có dịp gặp các đại đệ tử của Phật là Xá Lợi Phất, Mục
Ken Liên, A Nan... gặp các Bồ Tát Di Lặc, Quang Nghiêm, Trì Thế, Văn
Thù... Ðức Phật Thích Ca nói rõ như vậy thì tất nhiên là đúng, Cư Sĩ Duy
Ma Cật có thật.
2)
Cư Sĩ Duy Ma Cật là một nhân vật tượng trưng do Ðức Phật đưa ra để diễn
tả Chân Lý cao siêu tuyệt vời không hai, đó là Pháp Môn Bất Nhị, là
Chân Tâm, Phật Tánh. Ai có được Tâm thanh tịnh thì thấy thế giới thanh
tịnh, thấy được nước Phật (Phật Quốc) và được giác ngộ và giải thoát.
Phật nói Kinh Duy Ma Cật là muốn đưa ra một phương pháp tu hành rốt ráo,
phá trừ chấp có chấp không, tạm dùng truyện ông Duy Ma Cật như câu
truyện ngụ ngôn để mọi người dễ hiểu, dễ nhớ. Hơn nữa, các nhân vật đã
gặp Cư Sĩ Duy Ma Cật thì một phần là nhân vật lịch sử, một phần là nhân
vật ẩn mặt siêu hìnhthì cũng khó mà cho rằng ông Duy Ma Cật là có thật.
Lại nữa, Cư Sĩ Duy Ma Cật có thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, chư
Phật khen ngợi, chư thiên n đều cung kính theo học, nghe lời dạy bảo,
thì trong lịch sử loài người chưa thấy ai được như vậy, ngoài Ðức Phật
Thích Ca.
Ðây
là một vấn đề siêu hình không thể dùng bằng chứng rõ ràng để minh xác,
tùy theo căn cơ của mỗi người mà tin hay không tin, nhưng điều quan
trọng là phải học hiểu, thâm nhập Lý kinh, rồi thực hành các đức tánh
được chỉ dạy trong quyển kinh, lìa chấp có chấp không để thấy được Chân
Lý, trở về Bản Tánh Không Hai, được giác ngộ và giải thoát. Cũng vì có
diệu dụng siêu việt như vậy nên Kinh này còn được gọi là Pháp Môn Giải
Thoát Không Thể Nghĩ Bàn, đây là diệu dụng của Kinh đem ra đặt tên.
Ðã
không thể nghĩ bàn thì xin quý vị đừng bàn suông, cãi vã mất thời giờ
vô ích về việc Cư Sĩ Duy Ma Cật có thật hay không, mà hãy tinh tấn tu
học, suy ngẫm lý ẩn, thực hành những lời dạy trong Kinh, vượt qua ngôn
ngữ để thâm nhập Bản Thể Chân Như, biết mọi sự mọi vật là giả huyễn, là
mộng ảo mà vẫn kiên trì thực hành Bồ Tát Ðạo, tự giác giác tha, tự lợi
lợi tha, giữ Tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh, tới chỗ Bất Nhị thì
chắc chắn sẽ biết Cư Sĩ Duy Ma Cật là nhân vật lịch sử hay tượng trưng.
Ðọc Kinh cầu lý, y nghĩa bất y ngữ, có bỏ qua văn tự mới đạt lý, chứng
tri, nhưng tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, người đã biết, đã tu
chứng thì không chịu nói (vì nói không được), còn phàm phu thì nói rất
nhiều nhưng thật ra lại chẳng hiểu biết thấu đáo.
Trong
khi chờ đợi vấn đề được giải quyết thỏa đáng, kính mời quý vị hãy mở
quyển Kinh Duy Ma Cật ra để cùng học. Quý vị cần có quyển Kinh Duy Ma
Cật do Thượng Tọa Thích Huệ Hưng dịch ra tiếng Việt để đọc trước và dò
theo quyển sách này thì mới đầy đủ Sự và Lý, một bên là Kinh, một bên là
sách luận giải thâm ý huyền nghĩa của Kinh.