IX. PHẨM VÀO PHÁP MÔN KHÔNG HAI
Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng: Thế nào là Bồ
Tát vào Pháp Môn Không Hai? Xin cứ theo chỗ hiểu biết và tùy ý thích mà nói.
Phẩm này là trọng yếu của Kinh Duy Ma Cật, là trung tâm điểm
của giáo lý Ðại Thừa chủ trương bỏ tướng trạng để nhập Tánh Thể. Phẩm này tuy
dài nhưng tóm lại có thể chia ra làm ba phần:
1) Phần đầu trình bầy các chủ trương, chỗ thích ý hoặc xu
hướng công phu tu tập hoặc sự tu chứng của 31 vị Bồ Tát để vào Pháp Môn Không
Hai.
2) Phần thứ hai là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trình bầy ý kiến của Ngài.
3) Phần thứ ba là chủ trương của ông Duy Ma Cật.
Danh từ không hai (Bất Nhị) có nghĩa là không phải là hai,
không có đối đãi giữa một và hai. Không Hai có phải là một không? Nói Một cũng
không đúng, chỉ tạm dùng thôi, vì nói một là ám chỉ có cái khác, không phải
một, là hai, là ba, bốn gì đó. Thí dụ: Một là đối với nhiều, sáng đối với tối,
xấu đối với tốt... nói bên này là nghĩ tới bên kia, luôn luôn có hai cái đối
đãi với nhau.
Chúng ta hãy học vài ý kiến của một số vị Bồ Tát.
Bồ Tát Ðức Thủ nói: Ngã, ngã sở là hai. Nhân có ngã mới có
ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở, đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Ngã là ta, ngã sở là cái của ta. Vì chấp có ngã, cái ta là
thật có, nên chấp luôn có ngã sở nghĩa là những cái của ta, thuộc về ta, chúng
cũng thật có. Chấp có ngã và ngã sở thì phải bảo vệ chúng, cưng chiều chúng, ai
đụng đến là không được, mong cho chúng được tốt đẹp, sống lâu giầu bền, hơn mọi
người khác. Nhưng mọi mong cầu đâu có được như ý muốn, sinh già bệnh chết, vô
ngã vô thường... ai mà tránh được. Càng chấp ngã và ngã sở nhiều thì càng đau
khổ lắm. Nếu xả bỏ được lòng cố chấp, hiểu ngã và ngã sở là Không, là không có
thật, là giả huyễn, được không vui, mất không buồn, hiểu biết luật Trời, nắm
vững Chánh Pháp, an nhiên tự tại, hết khổ được vui, hết đối đãi thị phi, mà
vượt lên trên tất cả để thể nhập vào Chân Như vô cùng vô tận, đó là vào Pháp
Môn Không Hai.
Bồ Tát Bất Thuấn nói: Thọ, không thọ là hai. Nếu các pháp
không thọ thì không có được, vì không có được nên không thủ xả không gây không
làm, đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Thọ là nhận, là chịu. Không thọ là không nhận, không chịu.
Ðược khen thì vui, bị chê thì buồn, đó là có thọ. Khen không vui, chê không
buồn là không thọ. Vui buồn, sướng khổ, nổi sân si là tâm bị động, là có thọ.
Nếu đối cảnh mà tâm không động là không thọ. Ăn rau chê nhạt miệng, ăn thịt
khen ngon, đó là có thọ. Chấp ăn chay là phải, ăn thịt là trái cũng là có thọ,
vì còn thấy phải trái, khen chê. Ăn để sống, không chấp chay mặn, không chấp
mặn nhạt ngon dở, thì là không thọ. Nói vậy không có nghĩa là khuyến khích
người ăn chay trường nên ăn thịt, vì quý vị đó không thể ăn thịt được nữa, mà
chủ yếu là giữ tâm không động, không phân biệt, không chấp trước. Các tu sĩ Bắc
Tông ăn chay trường là y theo giới luật Bắc Tông, không nên chấp thọ khó chịu
nếu thấy các tu sĩ Nam Tông còn ăn thịt cá do Phật Tử cúng dường, vì Nam Tông
chủ trương đi khất thực ai cúng gì ăn nấy, bất tùy phân biệt, không phạm giới
cấm. Nếu khởi tâm phân biệt chay mặn cao thấp là còn thọ. Các tu sĩ Nam Tông
đắp y, để hở vai bên phải là cung kính. Các tu sĩ Bắc Tông mặc áo phải kín cả
hai tay mới là tề chỉnh, hở vai là thô lỗ, không kín đáo đúng phép. Nếu biết
tùy phong tục địa phương mà giữ tâm không động, không chê cười, là không thọ.
Nếu còn chấp là hở hoặc kín là có thọ. Nơi này cho là phải, là Chân Lý; nơi
khác cho là trái, là phi lý. Ðừng chấp thọ, đừng chê bai, đừng động tâm, đó là
vào Pháp Môn Không Hai.
Bồ Tát Ðức Ðảnh nói: Nhơ sạch là hai. Thấy được tánh chân
thật của nhơ thời không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó là vào Pháp
Môn Không Hai.
Nhơ sạch là tùy người, tùy phong tục địa phương, có điều
mình cho là nhơ thì người khác cho là sạch. Người Việt Nam ăn cơm bằng
bát đũa, cho là sạch; nếu bốc cơm bằng tay thì cho là nhơ. Người Ấn Ðộ bốc cơm
bằng tay cho là sạch, dùng bát đũa cho là nhơ. Người lương thiện cho đồng tiền
kiếm được một cách bất chính là nhơ, kẻ trộm cướp cho là sạch. (Có người nói:
đồng tiền không có mùi. Xin để quý vị phê bình). Nếu còn thấy có nhơ sạch đối
đãi là còn chấp tướng, khi thấy được Thể Tánh chân thật của các pháp thời không
chấp hai tướng nhơ sạch nữa, thuận theo tướng diệt, đó là vào Pháp Môn Không
Hai.
Bồ Tát Phất Sa nói: Thiện, Bất Thiện là hai. Nếu không khởi
Thiện và Bất Thiện, vào gốc không tướng mà thông suốt được, đó là vào Pháp Môn
Không Hai.
Thiện và Bất Thiện đôi khi cũng khó phân biệt, cùng một việc
làm mà người cho là thiện, người cho là bất thiện. Hồi Pháp thuộc, có vị sư
giúp những thanh niên ái quốc chống Pháp ẩn náu trong chùa, do lòng từ bi, đó
là thiện, nhưng đối với nhà cầm quyền Pháp thì đó là vi phạm luật pháp, là bất
thiện. Xử tử kẻ giết người được coi là đúng luật là thiện; đối với người giữ
giới sát sinh thì giết một sinh vật đã là phạm tội huống chi giết người. Giữ
tâm thanh tịnh không động không chấp, không ích kỷ thì sẽ không bị thiện ác chi
phối, không bị hình tướng bề ngoài che đậy, có cái thấy thông suốt vào Thể
Tánh, đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Bồ Tát Sư Tử nói: Tội, phước là hai. Nếu thông đạt được tánh
của tội thì tội cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu tướng ấy,
không buộc không mở, đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Tội và phước là được coi trong vòng tương đối mà thôi, vì có
việc người này cho là tội thì người khác cho là phước. Giết trâu bò gà lợn để
cúng tế thần linh hoặc tổ tiên được coi là đúng tục lệ, có hiếu, nhưng giáo lý
Ðạo Phật lại cho là phạm tội sát sinh, không được phước gì cả. Nếu thông đạt
được Tánh của tội thì tội cùng phước không khác. Phát huy được trí huệ sáng
suốt như ngọc kim cang thì vượt lên trên tội phước tương đối, không còn trói
buộc mà phải mở, đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Bồ Tát Thiện ý nói: Sinh tử, Niết Bàn là hai. Nếu thấy được
tánh sinh tử thời không có sinh tử, không buộc không mở, không sinh không diệt,
hiểu như thế đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Ðứng về tướng trạng thì có sinh tử khổ đau. Niết Bàn an lạc.
Người nào còn chán sinh tử, ưa Niết Bàn, mà chưa ra khỏi sinh tử chưa tới Niết
Bàn thì khổ đau phiền não. Nếu thấy được Tánh của sinh tử là Không, cuộc đời là
mộng huyễn, sinh cũng không mà tử cũng không, Niết Bàn cũng không thể ra khỏi
vòng sinh diệt mộng tưởng đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Bồ Tát Phổ Thủ nói: Ngã, vô ngã là hai. Ngã còn không có
thời phi ngã đâu có được. Thấy được Thật Tánh của ngã không còn có hai tướng,
đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Chúng ta chấp có ngã, có cái ta do năm uẩn họp thành. Rồi từ
cái chấp ngã đó mà tạo vô lượng tội lỗi. Ðể phá cái chấp đó, Ðức Phật dạy lý vô
ngã, giúp chúng sinh xa lìa chấp ngã và ngã sở. Ðó là phương tiện lấy độc trị
độc mà thôi. Khi Bồ Tát thâm nhập Trí Huệ Ba La Mật thì thấy năm uẩn là Không,
ngã không có thì làm gì có phi ngã. Thật Tánh của các pháp là bất sinh bất
diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, không có hai tướng, thấy được như
vậy là vào Pháp Môn Không Hai.
Lần lượt 31 vị Bồ Tát phát biểu ý kiến của mình, tuy có 31
câu trả lời nhưng tất cả đều quy vào một điểm: đứng về tướng thì có phân biệt
đối đãi: Ngã và ngã sở, thọ và không thọ, nhơ và sạch, thiện và ác, tội và
phước, sinh tử và Niết Bàn... rõ ràng có hai bên, hai phía; nhưng đứng về Thể
Tánh, Thật Tướng thì vượt lên trên sự phân biệt, nhìn thấu suốt qua hình tướng
để vào Bản Thể Chân Như thì không thấy hai, mà cũng không thấy một (vì thấy một
là ám chỉ hai), chỉ thấy tất cả là Không. chẳng phải hai chẳng phải một, đó là
Bất Nhị, Không Hai.
Chúng sinh thấy có sinh có diệt là hai, đó là phần tướng.
Các Bồ Tát đứng về phần Tánh thấy chẳng có gì sinh chẳng có gì diệt, mà sinh
diệt chỉ là hiện tượng giả lập huyễn hóa mộng tưởng, nằm mộng thấy có, tỉnh
giác biết là giả, không có thật. Chúng sinh thấy sắc và không là hai, một bên
có một bên không. Khi thâm nhập Bát Nhã thì sắc tức là không, không tức là sắc.
Khi đứng về tướng là còn trong vòng đối đãi phân biệt, nhưng đứng về Tánh nghĩa
là đặt mình trong Chân Lý rốt ráo tột cùng, nhập vào Lý Thể chân thật duy nhất
vắng lặng như như bình đẳng thì không có tướng trạng, không phân biệt tốt xấu
tội phước, chẳng có không gian và thời gian, mà chỉ thấy một sự bình đẳng tuyệt
vời, một pháp giới bao la vô cùng vô tận vô biên, trong đó tất cả mọi pháp đều
dung thông hòa hợp, tất cả là một, một là tất cả, danh từ một cũng là gượng
dùng mà thôi, vì nói một là bao hàm có hai, có khác, nhưng ngoài danh từ một
thì chẳng có danh từ nào khác để chỉ cái Thể Tánh Chân Như đó.
Chúng ta cần bỏ qua sự dùng giác quan và ý thức tầm thường
mà chúng ta vẫn quen dùng để phân biệt mọi vật có hình tướng khác nhau: cao
thấp, rộng hẹp, vuông tròn, xấu đẹp, đen trắng... mà phải cố gắng vươn lên
trên, dùng trí huệ mà nhận xét đến chỗ tận cùng thì thấy tất cả mọi sự mọi vật
đều giả hợp, vô ngã vô thường, không thật có, không bền vững, trước còn sau
mất, trước có sau không. Ðó mới là giai đoạn đầu của quá trình chuyển Thức
thành Trí, tùng Tướng nhập Tánh. Tiến lên một bước nữa thì thoạt nhìn qua tướng
trạng bề ngoài mà đã thấy ngay cái Bản Thể Nhất Như, không cần chờ phân tích
các tướng tan hoại. Ðó là cái Lý Thể chân thật duy nhất vắng lặng như như bình
đẳng lìa hẳn mọi sai khác đối đãi. Cái Lý Thể đó không thể dùng danh từ ngôn
ngữ tâm duyên để diễn tả, nhưng nếu không diễn tả thì làm sao người khác hiểu
được, cho nên các Bồ Tát gắng gượng tạm dùng danh từ Không Hai.
Sau khi 31 vị Bồ Tát tạm dùng danh từ ngôn ngữ để diễn tả
thế nào là Bồ Tát vào Pháp Môn Không Hai, đến lượt Ngài Văn Thù. Vị Bồ Tát này
được xưng tụng là Ðại Trí, có trí huệ lớn nhất trong các hàng Ðại Bồ Tát, Ngài
nói: Ðối với tất cả các pháp không nói không rằng, không chỉ không biết, xa lìa
các vấn đáp, đó là vào Pháp Môn Không Hai.
Ngài Văn Thù đã chứng ngộ Chân Lý, biết rằng ngôn từ không diễn
tả được Thực Thể phải xa lìa các lời nói năng vấn đáp, phải trải qua kinh
nghiệm sống, phải thân chứng mới biết cái Thực Thể bất Sinh bất diệt tiềm ẩn
trong mọi loài chúng sinh, cái đó ở Phật không hơn, ở chúng sinh không kém. Tuy
Ngài Văn Thù biết các pháp xa lìa các vấn đáp, nhưng Ngài vẫn dùng tiếng nói để
đáp lại câu hỏi của các vị Bồ Tát, dùng ngôn ngữ để nói về cái mà ngôn ngữ
không diễn tả được.
Ðến lượt ông Duy Ma Cật thì ông im lặng không nói năng chi
cả. Ðây là chỗ cao tột của bộ Kinh này, đưa chúng sinh vượt qua ngôn ngữ mà vào
Thể Tánh Chân Như, ví như thiền sư vượt đầu sào trăm trượng để nhảy vào hư
không. Ðây chính là chỗ Tổ Sư Ðạt Ma ngồi tham thiền quay mặt vào tường chín
năm không nói, Ngài Ðại Ca Diếp mỉm cười khi Ðức Thích Ca dơ cành hoa sen trong
hội Linh Sơn, và chính Ðức Thích Ca cũng diễn tả bằng câu nói: "Trong 49
năm trời thuyết pháp, ta chưa hề nói lời nào". Ðứng về tướng thì có nói,
nhưng đứng về Tánh thì không nói, vì Chân Lý vượt ra ngoài ngôn ngữ thì dùng
ngôn ngữ diễn tả Chân Lý làm sao được. Sở dĩ phải dùng lời nói, thuyết pháp, in
kinh dịch sách... là tạm dùng phương tiện để dắt dẫn chúng sinh trong bước đầu
tu học, sau đó thì người tu phải tự mình tìm một phương pháp thích hợp với căn
cơ của mình để vươn lên, vượt ra khỏi vòng tương đối để nhập vào Tuyệt Ðối, đó
là vào Pháp Môn Không Hai.
Ông Duy Ma Cật im lặng không nói, nhưng để chứng minh sự
nhập Thể cao tột đó, Ngài Văn Thù khen ngợi: đó mới là vào Pháp Môn Không Hai.
Ðây là Ngài Văn Thù muốn chỉ rõ cho chúng sinh biết rằng ông Duy Ma Cật đã vượt
lên trên ngôn ngữ để nhập Thể Tánh chứ không phải ông Duy Ma Cật không biết,
không trả lời nổi câu hỏi. Cũng trong tinh thần siêu việt đó, kinh sách có câu:
Ngôn ngữ Ðạo đoạn, nghĩa là lời nói làm đứt Ðạo.
Chủ ý của Phẩm này là khuyên chúng sinh rời bỏ những chấp
trước tầm thường trong danh từ ngôn ngữ, mà cần thâm nhập vào nghĩa ẩn của lời
Phật trong kinh, vượt ra ngoài khuôn sáo nhỏ hẹp để vươn lên, nhập vào Bản Thể
Chân Như vô cùng vô tận. Ðây cũng là chỗ thấy của hàng Bồ Tát phát lòng đại từ
đại bi đại hỷ đại xả, vì thấy chúng sinh đang bị đau khổ trong địa ngục vô
minh, làm sao các Ngài tự tại an vui được; vì sao? vì Bồ Tát và chúng sinh là
một, không hai, Bất Nhị.
Lấy thêm một thí dụ cụ thể thường ngày cho dễ hiểu:
Chúng ta đứng ở dưới đất thì phân biệt rõ ràng người này với người kia, vật này
với vật nọ, nào kích thước, mầu sắc, xấu đẹp, quý tiện... khác nhau rất nhiều.
Ðó là chúng ta nhận xét, so sánh, phân biệt tương đối. Nếu chúng ta đứng trên
sân thượng một tòa nhà mười tầng thì lúc đó sự so sánh phân biệt đã bớt rõ, chỉ
thấy người đi qua đi lại mà không thấy mặt mày xấu đẹp, quần áo sang hèn mới cũ
được nữa. Nếu chúng ta đứng trên nóc một tòa nhà chọc trời 100 tầng thì chỉ
thấy lờ mờ những điểm nhỏ di động, không khác biệt nhau bao nhiêu, sự tương đối
so sánh phân biệt đã giảm đi rất nhiều. Nay nếu chúng ta ngồi trên một máy bay
phản lực siêu thanh bay thật mau trên độ cao mười cây số thì chúng ta không còn
phân biệt gì bên dưới, mà chỉ thấy một màu trắng trinh nguyên, đồng nhất vô sai
biệt.
Ðây là tạm thí dụ mà thôi, chứ còn thấy mầu trắng là còn
tương đối phân biệt trắng với đen, còn đối đãi với các mầu khác, chưa tới chỗ
tột cùng cao siêu tuyệt đối. Chúng ta là những người còn đứng dưới thấp, các Bồ
Tát là những vị đã ở trên cao, sự thấy biết của chúng ta thua kém cạn hẹp, sai
lầm, còn sự thấy biết của các Bồ Tát thì cao siêu và đúng sự thật. Nhưng nếu
chúng ta chịu tin theo học hỏi và làm đúng các lời dạy của Ðức Phật và chư vị
Bồ Tát thì lần lần chúng ta cũng chuyển phần nào đôi mắt thịt thành cặp mắt trí
huệ, sự hiểu biết của chúng ta cũng cao rộng thêm lên, sự chấp ngã ích kỷ mỏng
dần, rồi có ngày tan vỡ để chúng ta nhập một với Bản Thể của vạn vật, như các
giọt nước gặp nhau trong biển cả, lúc đó chỉ còn một vị nước mặn chứ không còn
phân biệt nước suối hay nước sông, khi đó chúng ta đã vào Pháp Môn Không Hai
vậy.
Ðể áp dụng vào cuộc đời, thực hành Pháp Môn Không Hai trong
xã hội, chúng ta đừng nhìn đời sống có hai mặt đối đãi tốt xấu, thiện ác, quen
lạ, thân sơ, xuất gia tại gia, chiến tranh hòa bình... cái nhìn đó chưa được
toàn diện, còn thiếu sót, mà phải nhìn cuộc sống trong thế gian với Tâm tĩnh
lặng, nhờ trí huệ chiếu soi, không thương ghét thù hận, thấy chúng sinh có hình
tướng sai khác, tính nết khác nhau, nghiệp báo nặng nhẹ, nhưng tất cả đều có
chung một cái cao cả mà không một danh lừ ngôn ngữ nào diễn tả được, nói ra là
sai, vẽ ra là trật, nghĩ đến là biến, gượng dùng các danh từ Bản Thể, Chân Như,
Thật Tướng, Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục, Chân Tâm,... tạm chỉ mà thôi. Chúng ta
dùng các phương tiện như niệm Phật, tụng Kinh, trì Chú, tu Thiền, quán tưởng...
để diệt trừ vọng tưởng, giữ Tâm được an định, phát huy trí huệ sẵn có, bao
nhiêu tạp niệm lắng xuống, chúng ta có cái nhìn đúng đắn về con người, về xã hội,
về mọi hoàn cảnh; nhất là biết rõ chúng ta là ai, có mặt trên thế gian này với
mục đích gì, và sẽ đi về đâu? Hiểu biết được vậy là chúng ta vào Pháp Môn Không
Hai.
Trong phẩm này, các Bồ Tát thị hiện phân biệt nói năng dùng
nhiều danh từ ngôn ngữ, để hướng dẫn chúng sinh trong giai đoạn mới học mới tu,
rồi Ngài Văn Thù phá chấp ngôn ngữ, nó không thể diễn tả Chân Lý mà chỉ là
phương tiện mà thôi, chỉ là chiếc bè đưa qua sông, là ngón tay chỉ mặt trăng,
nhưng Ngài vẫn phải dùng ngôn ngữ hóa độ chúng sinh. Ðến ông Duy Ma Cật mới là
tuyệt đối cao siêu, dùng sự im lặng đưa dắt chúng sinh thể nhập Bản Tánh Như
Như Bất Ðộng, vì không thể nói ra được.
Chúng ta đang sống trong cuộc đời tương đối, chưa thể làm
như ông Duy Ma Cật được, nhưng đừng chấp lời thị phi, lắng lòng soi tâm lặng
lẽ, đừng nói nhiều, không nói những lời vô ích làm buồn người khác, mà nên nói
ít, nói đúng thời, đúng pháp, làm lợi ích chúng sinh. Các bậc Thánh Hiền, các
người hiểu biết thường ít nói hoặc không nói (tri giả bất ngôn), còn chúng ta
nói quá nhiều vì chúng ta chắng biết Chân Lý (ngôn giả bất tri).
Nghe xong phẩm này, trong chúng có năm ngàn Bồ Tát đều vào
Pháp Môn Không Hai, chứng vô sinh pháp nhẫn. Chỉ có các Bồ Tát đã có trí huệ
mới thể nhập Chân Lý, còn các Thanh Văn và Trời người thì không hiểu được.