XIII. PHẨM PHÁP CÚNG DƯỜNG
Pháp, dịch nghĩa chữ Phạn Sanskrit Dharma hoặc chữ Pali
Dhamma, có nhiều nghĩa hết sức rộng rãi. Cổ đức thường định nghĩa Pháp là: Nhậm
trì tự tánh, quỹ sinh vật giải, nghĩa là nắm giữ tự tánh vật nào đi vật đó, có
những quy tắc riêng biệt để phát sinh lời giải thích của vật đó. Thí dụ: Cái
bàn hình chữ nhật hoặc vuông hoặc tròn, bằng gỗ hoặc sắt hoặc đá, có bốn chân,
dùng để bầy sách vở hoặc bát đĩa ăn cơm, ai thấy cũng biết ngay là cái bàn. Vậy
cái bàn là một pháp.
Không những pháp là những vật có hình tướng, có thể thấy,
nghe, ngửi, nếm, xúc chạm được, mà những vật không hình tướng như tham giận
buồn vui, khổ sướng, các tư tưởng cao siêu hoặc thấp hèn cũng là pháp, cho đến
các vật không có thật như lông rùa sừng thỏ, trứng trâu... cũng là pháp. Tóm
lại, mọi sự mọi vật có thật hay tưởng tượng, vật chất hoặc tinh thần đều là
pháp.
Nhưng chữ Pháp ờ đoạn kinh này chỉ có nghĩa là lời dạy của
chư Phật, là các kinh điển cao quý nhiều lợi ích, là các pháp môn tu hành đưa
chúng sinh tới bờ giác.
Cúng dường là lối đọc trệch của hai chữ Cung Dưỡng. Cung là
cung cấp, lo cho đầy đủ. Dưỡng là nuôi lớn. Cung dưỡng là cung cấp vật thực để
nuôi lớn thân tâm. Ngoài lương thực, tiền bạc, quần áo, thuốc men, nhà ở, vật
dụng để nuôi thân, còn có kinh kệ sách vở, lời khuyên dạy, nếp sống thanh cao
để làm gương... để nuôi lớn tâm tánh, tất cả đều là vật cúng dường. Tại sao lại
đọc trệch ra cúng dường? Vì hai chữ cung dưỡng chỉ có ý nghĩa tầm thường như
con cung dưỡng cha mẹ, người dưới cung dưỡng người trên các thức ăn vật chất để
nuôi thân cho no ấm mà thôi, không có vấn đề khuyến khích tu hành, tu tâm dưỡng
tánh. Dùng chữ cung dưỡng e tầm thường thấp thỏi quá nên người xưa đọc trệch ra
cúng dường để tỏ bầy lòng tôn kính ngôi Tam Bảo Phật Pháp Tăng. Cúng dường bao
gồm mọi sự hy sinh tiền bạc, vật thực, thời giờ, sức khỏe, có khi luôn cả thân
thể và sinh mạng nữa. Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ Tát, ngài Hỷ Kiến
Bồ Tát đốt tay rồi đốt thân để cúng dường Phật. Nãm 1963 tại Sài Gòn, Bồ Tát
Thích Quảng Ðức tự thiêu để cúng dường Tam Bảo và nguyện dùng ngọn lửa từ bi
soi sáng nhà cầm quyền lúc đó đừng kỳ thị tôn giáo. Ðây là những tỷ dụ nói lên
sự hy sinh cao cả, quên thân mình, vì chúng sinh.
Cúng dường có hai thứ:
1) Tài cúng dường, gồm tiền bạc, vật thực, quần áo, thuốc men....
2) Pháp cúng dường.
Tài cúng dường đem lợi ích an lạc cho thân. Pháp cúng dường
đem lợi ích an lạc cho tâm. Pháp cúng dường có nhiều cách, nhiều ý nghĩa từ
thấp lên cao:
1) In kinh, dịch sách Phật để ấn tống, truyền bá Pháp Bảo.
2) Nghe lời Phật dạy, tin hiểu, thọ trì, giải nói, thuyết pháp độ sinh.
3) Truyền dạy các pháp môn tu hành như niệm Phật, tu thiền, trì chú, tụng kinh,
để mọi người y pháp tu hành.
4) Tinh tấn tu hành, giữ gìn Chánh Pháp, trưởng dưỡng Pháp Thân, tiếp nối ngôi
Tam Bảo.
5) Theo Kinh Hoa Nghiêm, Pháp cúng dường là cúng dường bằng cách sống và làm
theo lời Phật dạy để lợi ích và hóa độ chúng sinh, chịu thay thế hết thảy đau
khổ cho chúng sinh, siêng tu thiện căn, không rời sự nghiệp Bồ Tát, không bỏ
Tâm Bồ Ðề rộng lớn. Thực hành cúng dường như vậy mới là chân thật cúng dường,
đó là Pháp Cúng Dường bậc nhất.
6) Hy sinh tất cả mọi sự mọi vật để đạt tới Chân Lý, rồi đem Chân Lý ra truyền
bá cứu giúp mọi loài chúng sinh khiến họ bỏ dữ làm lành, được giác ngộ giải
thoát, đó là pháp cúng dường cao cả nhất.
Bấy giờ, Thích Ðề Hoàn Nhân bạch Phật, tán thán Kinh này và
phát nguyện cúng dường ủng hộ những người nào tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, giải
nói kinh này. Ðức Thế Tôn khen ngợi vị Trời này và dạy thêm: Kinh này rộng nói
đạo vô thượng chánh đằng chánh giác bất khả tư nghị của chư Phật quá khứ, hiện
lại và vị lai. Nếu ai thọ trì đọc tụng cúng dường Kinh Pháp này thời chính là
cúng dường chư Phật quá khứ, hiện tạì và vị lai vậy.
Thích Ðề Hoàn Nhân, phiên âm chữ Phạn Sakya Devanam Indra,
dịch là Ðế Thích, một vị Trời cai quản cõi Trời Ðạo Lợi, thuộc Dục Giới. Vị Trời
này thường hay tới nghe Phật thuyết pháp hiện thân ra tán thán, phát nguyện hộ
trì Phật Pháp.
Bất khả tư nghị tự tại thần thông quyết định Thật Tướng là
bộ kinh diễn tả Thật Tướng, Bản Thể, Chân Lý một cách cao siêu không thể nghĩ
bàn được, nếu ai thực hành đúng theo thì nhất định có được thần thông tự tại
nghĩa là tự do quyết định sự đi lại ra vào ba cõi, không còn bị sinh tử luân
hồi chi phối nữa.
Ðức Phật so sánh tài cúng dường nghĩa là dùng tiền bạc, vật
thực, bảy báu, dựng tháp cúng dường vô lượng chư Phật trong nhiều kiếp... không
bằng Pháp cúng dường. Tại sao? Tài cúng dường dù lớn lao đến đâu chăng nữa cũng
chỉ đem lại phước báo hữu lậu nơi cõi Trời và người, khi hết phước báo vẫn còn
phải chịu luân hồi sinh tử. Tài cúng dường chỉ gieo nhân tốt để rồi hưởng quả
lành là phước báo nơi thân, còn pháp cúng dường làm nẩy sinh công đức vô lậu
nơi Tâm, đưa đến quả vị giác ngộ và giải thoát. Phước báo và công đức khác nhau
rất xa, như tích truyện giữa Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma và Vua Lương Võ Ðế đã nói rõ.
Phước báo có hạn lượng, dù lớn bao nhiêu cũng có lúc hết, còn công đức tức là
quả Bồ Ðề thì không có hạn lượng, không tính đếm được. Do đó, pháp cúng dường
cao quý hơn tài cúng dường rất nhiều.
Đức Phật nói thêm với vị Vua Trời: Về quá khứ: có Phật hiệu
là Dược Vương ra đời, có Vua Bảo Cái cúng dường Ðức Phật các đồ cần dùng mãn
năm kiếp, rồi bảo ngàn người con cũng phải đem thân tâm cúng dường Phật. Các
con vâng lời, trong đó có môt người con tên là Nguyệt Cái suy nghĩ có việc cúng
dường nào thù thắng hơn không? Trên hư không có tiếng nói: Pháp cúng dường là
hơn hết. Vương Tử Nguyệt Cái không biết liền đến hỏi thì được Phật Dược Vương
dạy rằng: Pháp cúng dường là kinh thâm diệu của chư Phật nói ra, là ấn Ðà La
Ni, trên hết các kinh, nếu ai nghe tin hiểu thọ trì đọc tụng phân biệt giải nói
chỉ bày rành rẽ cho chúng sinh, giữ gìn Chánh Pháp, đó gọi là Pháp cúng dường.
Nắm vững lý bốn đế, mười hai nhân duyên, vô thường vô ngã, y theo bốn điều (Tứ
Y), đó là pháp cúng dường thù thắng hơn hết.
Vương Tử Nguyệt Cái nghe pháp xong liền cởi áo đẹp và đồ
trang sức nơi thân đem cúng dường Phật Dược Vương, được thọ ký sau này giữ gìn
được thành trì Chánh Pháp. Vương Tử Nguyệt Cái liền xuất gia tu hành, hóa độ
trăm muôn ức ngườì, chính là tiền thân của Ðức Thich Ca.
Nguyệt Cái là cái lọng hình tròn như mặt trăng, các Vua Quan
dùng để che mưa nắng bụi bậm. Bảo Cái là lọng lớn hơn, quý hơn, tượng trưng cho
Vua Cha, còn Nguyệt Cái nhỏ hơn, tượng trưng cho người con. Lọng chịu đựng cho
nắng mưa gió bụi bám vào để che chở cho Vua Quan; Vương Tử có tên là Nguyệt Cái
là có ý nói vị Vương Tử này tu hạnh nhẫn nhục, chịu đựng mọi khổ não thử thách
để giữ gìn Chánh Pháp. Vị này cởi áo đẹp và đồ trang sức nơi thân để cúng dường
Phật, tỏ lòng tôn kính và biết ơn. Phật Dược Vương đâu có cần dùng các y phục
và đồ trang sức, đây có ý diễn tả Vương Tử Nguyệt Cái hy sinh tất cả tài sản
quý báu cùng các thú vui vật chất từ trước vẫn cột chặt nơi thân, nay đem bỏ đi
để đổi lấy Chánh Pháp của Phật, tu hạnh nhẫn nhục để hàng phục mọi ma oán, cám
dỗ của năm sự ham muốn (ngũ dục lạc): tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon,
ngủ nghỉ, vị Vương Tử này đã bỏ những thú vui vật chất nơi thân để được những
công đức nơi Tâm, giữ gìn và truyền bá rộng rãi Chánh Pháp của Phật, hóa độ vô
lượng chúng sinh, trải qua nhiều đời nhiều kiếp được thành Phật hiệu là Thích
Ca Mâu Ni.
Ðức Phật Thích Ca kết luận: Này Thiên Ðế, Pháp cúng dường là
thù thắng cao cả hơn hết trong các việc cúng dường, không gì sánh kịp, các ông
phải lấy Pháp cúng dường mà cúng dường các Đức Như Lai. Thực hành Pháp cúng
dường là gieo nhân lành đưa đến quả vị Phật hoàn toàn giác ngộ và giải thoát.
Ẩn ý của phẩm này là đề cao Pháp cúng dường, nghĩa là đem
Chánh Pháp ra cúng dường. Cúng dường ai? Phật đâu cần chúng ta cúng dường, Ngài
chỉ muốn chúng ta đem Chánh Pháp ra hoá độ chúng sinh, vì cứu giúp chúng sinh
tức là cúng dường mười phương chư Phật. Cúng dường chư vị Tăng Ni chăng? Dâng
cúng tiền bạc, quần áo, thuốc men, giường nằm dĩ nhiên sẽ đem lại phước báo,
nhưng nhân vật chất hữu lậu chỉ đem lại quả vật chất hữu lậu mà thôi, thí dụ:
được giầu sang, mạnh khỏe, danh vọng, sống lâu... nhưng khi hưởng hết phước thì
lại theo dòng đời trôi chảy mà chịu quả báo luân hồi. Đừng nghĩ rằng đem tài
vật cúng dường chư vị Tăng Ni là đủ rồi, chư vị đó sẽ cứu độ cho mình thoát
khỏi cảnh khổ, được nhiều hạnh phúc an lạc. Như trên đã nói, tài cúng dường đem
lợi lạc cho thân, mà thân thì vô ngã vô thường, không bền lâu, chỉ có Pháp cúng
dường mới đem lại công đức cho Tâm, nhân vô lậu đem lại quả vô lậu, không có
hạn lượng.
Muốn thực hành Pháp cúng dường không phải dễ, không
phải chỉ in kinh, đọc kinh, giải nghĩa kinh, mà phải sống theo kinh, mang tự
lực ra tu hành các pháp môn chân chánh, nhẫn nhục chịu đựng nhiều thử thách
đắng cay, phát Tâm Bồ Đề quên mình vì chúng sinh, chẳng cầu phước báo Trời
người mà chỉ phát nguyện mở mang trí huệ để hóa độ chúng sinh; thực hành Pháp
cúng dường còn phải hy sinh nhiều thứ quý báu của mình, có khi mất một phần
thân thể hoặc tính mạng nữa, có bỏ cái này mới có cái kia, có bỏ của báu thế
gian mới có của báu xuất thế gian, bỏ phước báu Trời người để vào trí huệ Hiền
Thánh, bỏ sinh tử đổi lấy Niết Bàn, bỏ tự lợi để rộng truyền Chánh Pháp...
Người nào thực hành được Pháp cúng dường như thế là đi đúng con đường của chư
Phật, chư Bồ Tát đã đi, tiếp nối hạnh nguyện của bậc Thánh Hiền là tiếp tục
thắp sáng ngọn đèn trí huệ chỉ đường cho chúng sinh thoát kiếp luân hồi, đi về
nẻo giác.