VIII. PHẨM PHẬT ĐẠO
Bấy giờ Ngài Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Bồ Tát thế nào
là thông đạt Phật Ðạo? Ông Duy Ma Cật đáp: Bồ Tát thực hành phi đạo là thông
đạt Phật Ðạo.
Phật Ðạo là con đường đưa đến chỗ giác ngộ, là những hạnh
lành tốt phước huệ song tu, là Chân Lý nhiệm mầu huyền diệu không thể nghĩ bàn.
Thông thường người ta cần bỏ ác làm lành, bỏ trái làm phải; ở đây, ông Duy Ma
Cật lại nói ngược lại: Bồ Tát thực hành phi đạo là thông đạt Phật Ðạo. Phi đạo
là chẳng phải Phật Ðạo, là con đường trái ngược xấu ác, là những phiền não tội
lỗi nhiễm ô. Ðoạn này người tu phải học hiểu cho cẩn thận rốt ráo, nếu hiểu lầm
thì rất nguy hiểm.
Bồ Tát là những bậc siêu phàm đạt đạo, đầy đủ sức phương
tiện để thị hiện vào nghịch cảnh, làm những việc phi đạo trái với lẽ thường,
nhưng các Ngài vẫn an nhiên tự tại, không dính mắc vào tội lỗi nhơ bẩn. Các
Ngài thị hiện vào nghịch cảnh để làm những việc khó làm, với mục đích cứu độ
chúng sinh đang ngụp lặn trong cảnh xấu ác đó. Bồ Tát ví như mẹ hiền thương con
dại, con ngoan cũng thương, con hư còn thương nhiều hơn, người tốt cũng cứu độ,
người xấu còn cần được cứu độ gấp hơn, vì vậy các Ngài hiện thân vào cõi đời ô
trược, vào nhà điếm quán rượu, vào địa ngục để hóa độ chúng sinh; các Ngài
không vào thì ai vào? Ðừng quên là chỉ có các bực Bồ Tát đầy đủ đạo lực và trí
huệ phương tiện mới làm nổi những việc khó làm, nếu người thường mà vào những
nơi đầy cám dỗ thì dễ bị sa ngã lắm. Khó lắm, phải cẩn thận. Mình chưa đủ bản
lãnh rnà đi độ đời thì dễ bị đời độ lại nghĩa là đắm chìm trong đời. Chưa biết
bơi thì đừng nhẩy xuống sông vớt người bị chìm, không có mũ áo phòng lửa thì
đừng xông vào nhà cháy cứu người, kẻo cùng bị chết thiêu.
Thông đạt là hiểu rõ con đường phải đi, thấy biết những việc
phải làm để tới mục đích. Thông đạt Phật Ðạo là thực hành những pháp môn tu
hành, biết rõ con đường chân chánh phải đi để tới được quả vị Phật, là hiểu
tường tận những việc cần làm để thành tựu được mục đích tối hậu của người tu,
đó là thành Phật, không phải chỉ riêng mình thành Phật mà tất cả chúng sinh đều
thành Phật. Trong bốn lời thệ nguyện lớn của người phát Bồ Ðề Tâm, lời thề thứ
tư là: Phật Ðạo vô thượng thệ nguyện thành. Phần đông chúng ta đều nghĩ rằng
muốn thông đạt Phật Đạo, muốn biết rõ con đường dẫn tới quả vị Phật thì phải
tinh tấn làm lành lánh dữ, bỏ ác theo thiện, dứt trừ tham sân si... nhưng ở
đây, ông Duy Ma Cật lại nói phải thực hành phi đạo, nghĩa là trái đạo, chẳng
phải đạo, thế là làm sao, có mâu thuẫn không?
Bồ Tát có hai lối thị hiện: hiện thân trong thuận cảnh hoặc
nghịch cảnh. Hóa độ chúng sinh trong thuận cảnh thì dễ, gặp người hiền lành tử
tế chăm chỉ tu hành thì Bồ Tát chỉ nương theo đó mà hướng dẫn thêm, không khó
khăn nhọc mệt, ví như thuyền trôi theo dòng nước, đủ buồm lái người chèo. Nhưng
trong cảnh nghịch thì khó khăn hơn nhiều, làm thế nào mà vào cảnh khổ hoặc vào
những nơi nhiều cám dỗ hưởng thụ dục lạc mà tâm không khởi vọng, không chấp
trước phân biệt, không bị ngoại cảnh chi phối, vẫn thanh tịnh sáng suốt tự tại.
Các Bồ Tát giữ được tâm như như bất động vì các Ngài tự nguyện thị hiện vào
nghịch cảnh chứ không bị đọa lạc lôi cuốn vào, chỉ dùng phương tiện vào đó để khuyên
bảo người, làm gương trong sạch dạy dỗ chúng sinh, nhờ bản tâm an định sáng
suốt mà làm việc lợi tha. Bồ Tát vào những nơi đau khổ nhơ uế không phải do
nghiệp lực, do luật nhân quả mà chỉ do lòng đại bi, oai thần thị hiện nên không
lúc nào bị vô minh chi phối, các Ngài cảm hóa chúng sinh đi theo con đường chân
chánh. Có vào những nơi đó thì mới gần gũi, cảm thông với người trong đó, có
thân cận thì nói họ mới chịu nghe, chứ cứ ở nơi xa, cảnh ngoài thì chỉ là nói
suông, khó gây ảnh hưởng. Những người đồng cảnh bao giờ cũng thông cảm nhau,
nghe nhau hơn.
Bồ Tát có thể thị hiện gây phạm năm tội vô gián là năm tội
lớn nhất trong Phật Giáo: Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá sư hòa hợp của
chư Tăng và làm thân Phật chảy máu. Ai tạo năm tội này phải đọa vào địa ngục vô
gián (A Tỳ) chịu các sự khổ không lúc nào ngừng nghỉ. Bồ Tát dùng phương tiện
giả dạng phạm năm tội lớn này mà không buồn giận, chỉ nương đó chỉ dạy chúng
sinh đừng bao giờ làm những việc đó. Các Ngài thị hiện trong ba đường khổ: địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hiện thân trong ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô
sắc, nhưng vẫn an nhiên giải thoát, không bị sinh tử luân hồi. Các Ngài thị
hiện tham sân si, phá giới, điên loạn, kiêu mạn... để chúng sinh thấy đó mà sợ,
không làm theo. Các Ngài giả bộ giận dữ, la hét, đáng mắng để dạy các người
lười biếng cứng đầu khiến họ phục tòng vâng lời, động cơ thúc đẩy các Bồ Tát là
lòng từ bi, là tình thương chứ không phải độc ác. Tùy theo căn tánh chúng sinh
mà Bồ Tát thị hiện thuận hay nghịch, mục đích duy nhất là khiến chúng sinh vâng
theo, làm lành lánh dữ mà thôi, các Ngài không tham chấp, không mong cầu, tâm
lúc nào cũng thanh tịnh.
Các người tu theo hạnh Thanh Văn thì không dám làm những
việc phi đạo, thí dụ phạm giới giết người để cứu nhiều người khác, phạm giới
nói dối để cứu người đang bị truy tầm oan ức... các Bồ Tát thì dám làm dù mình
có bị thiệt thòi, bị tội, nhưng cứ lợi tha là được. Dương Lễ thị hiện kiêu mạn
để dạy Lưu Bình, khéo léo dùng phương tiện để giáo hóa bạn bớt ăn chơi lười
biếng, chăm học thi đỗ. Các Bồ Tát tự ví như cầu đò, hạ mình làm việc thấp hèn,
dù bị người đời khinh bỉ giẫm đạp nhưng vẫn chịu đựng như cây cầu, chiếc đò bị
người bước lên trên mà vẫn mặc nhiên, vẫn giúp người đi sang bờ bên kia.
Các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật chỉ mong cầu tự giác,
thoát vòng sinh tử luân hồi cho là đủ rồi, đắc Niết Bàn là rốt ráo, không có
chí nên tu thêm nữa, cho nên các Bồ Tát thị hiện làm hàng Thanh Văn, Bích Chi
Phật nhưng không ngừng bước hài lòng với kết quả nửa chừng, mà tiến tu thành
Phật để làm gương cho hàng Nhị Thừa tu theo.
Ðôi khi các Bồ Tát thị hiện tham ăn, tham sắc, lười biếng...
bị khinh chê, rồi hối hận sửa đổi tính nết, trở thành người tốt, để dạy chúng
sinh thấy rằng những người xấu như vậy mà còn tu được thì ai mà chẳng tu được?
Có khi Bồ Tát thị hiện làm người ngu đần ít học, tới chùa chỉ làm công quả gánh
nước, bổ củi, nấu cơm... mà về sau cũng chứng quả. Có khi Bồ Tát thị hiện làm
ăn buôn bán kiếm lời nhưng không tham đắm, giúp một số người có công ăn việc
làm, lời không vui, lỗ không buồn, chỉ làm trợ duyên cho người khác có phương
tiện tu hành. Cứ nơi nào mà chúng sinh cần thì Bồ Tát đến, vì từ bi mà làm, cứ
lợi ích chúng sinh thì không quản ngại khó nhọc, đôi khi bị thiệt thòi mà vẫn
hoan hỷ.
Tóm lại, các Bồ Tát giả hiện vào cảnh xấu, làm việc xấu,
nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại, chỉ vì mục đích hóa độ chúng sinh, làm gương
cảnh tỉnh chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh tu hành, đó là nghĩa câu Phi Ðạo là
Phật Ðạo. Các Bồ Tát làm những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật Ðạo.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù: Thế nào là hột
giống Như Lai? Ngài Văn Thù cũng nói y như ông Duy Ma Cật đã nói ở trên, nghĩa
là nói ngược lại ý nghĩa thông thường: Thân, vô minh, ái, tham sân si... tất cả
62 món tà kiến và phiền não đều là hột giống Phật cả. Ðoạn kinh này đả phá hàng
Thanh Văn, Duyên Giác mới chứng Niết Bàn cho là đủ, không chịu tiến tu Phật
Ðạo. Hàng Nhị Thừa thấy đời là khổ, chúng sinh cang cường khó bảo khó dạy, tội
lỗi phiền não thì nhiều, ái dục ma chướng thì lắm, nên các Ngài không muốn ở
lại trong xã hội, mà các Ngài xa lánh cuộc đời, vào núi rừng trầm không thú
tịch, vui hưởng Niết Bàn riêng mình. Ðức Phật quở trách nhóm này là ích kỷ, mầm
khô hột thối, không còn ích lợi gì cho chúng sinh.
Phiền não đều là hột giống Phật, phiền não tức Bồ Ðề có
nghĩa là nếu khéo tu, khéo chuyển thì tất cả phiền não chính lại là những vật
liệu xây dựng Bồ Ðề. Chúng ta lỡ phạm tội, gây phiền não, chịu khổ đau nên trải
qua nhiều kinh nghiệm, không còn tham đắm dục lạc biết là vô thường và bất tịnh
nên thành tâm sám hối, tinh tấn tu hành, biến tội lỗi thành công đức, chuyển
phiền não thành Bồ Ðề, là hột giống chuyển chúng sinh thành Phật. Bà mẹ hiền
nuôi dưỡng đàn con, dạy dỗ nên người, công lao khó nhọc, làm tròn nhiệm vụ
người mẹ, đó là tu hành, đôi khi cũng la mắng đánh đập, nhưng để khiến đàn con
nghe lời ngoan ngoãn, thành người tốt. Mẹ gánh phiền não nhưng đàn con trở nên
người tốt, nhờ công lao bà mẹ, hột giống Phật nẩy mầm, phiền não chính là Bồ Ðề
vậy.
Các hàng Thanh Văn tuy đã diệt trừ được các phiền não nhiễm
ô, nhưng xa lánh cuộc đời, không có kinh nghiệm độ sinh, thiếu từ bi hỷ xả, khó
phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Còn Bồ Tát thấy có bổn phận phải vào đời để cứu giúp
chúng sinh, còn chúng sinh đau khổ thì Bồ Tát không thể an vui hưởng Niết Bàn
được. Bồ Tát là người trước đây còn đau khổ, nay được hết khổ thì có bổn phận
đưa đường cho chúng sinh đi tới nơi hết khổ. Ví như người bị bệnh tìm ra phương
thuốc chữa khỏi bệnh cho mình rồi thì phải đem thuốc đó ra cứu những người khác
đang bệnh, lấy kinh nghiệm bị bệnh rồi uống thuốc được khỏi bệnh ra truyền dạy
người khác. Thuốc được phát minh là do có bệnh, Bồ Ðề có được chính do phiền
não mà ra. Diệt hết phiền não thì Bồ Ðề hiện. Ðối trị được phiền não, đối cảnh
không sinh tình, tâm an cảnh định, đó là phiền não chính là hột giống Như Lai.
Người thấy vô vi mà vào chánh vị (Niết Bàn) thì không thể
còn phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác: Thấy vô vi là chứng được ngã pháp
là Không, rồi xa lánh cuộc đời, có thái độ tiêu cực chán đời, không có lòng cứu
giúp người khác vì sợ khó sợ khổ, những hạng người đó khóng thể phát tâm Bồ Ðề
được. Còn các Bồ Tát tuy cũng thâm nhập năm uẩn là Không, nhưng Không đây chẳng
phải là chẵng có gì hết, mà trong cái Không này lại hiện ra cái có, cái Không
này là nguồn gốc của mọi sự mọi vật, đó là lý Chân Không Diệu Hữu, các Ngài
thấy tất cả là một. Bồ Tát không lìa chúng sinh, mà có liên quan mật thiết với
nhau, bứt dây động rừng, cái này có là cái kia có, cái này không là cái kia
không, trùng trùng duyên khởi, vì vậy các Bồ Tát qua lại ba cõi thị hiện các
thân hình làm các việc khó làm để hóa độ chúng sinh. Mà chúng sinh ở đâu? Ở
trong cuộc đời đầy xấu xa tội lỗi phiền não nếu không vào đó thì làm sao cứu
độ? Nếu không mọc trong bùn thì làm sao hoa sen có mùi thơm? Nếu không xuống
biển thi làm sao tìm được bảo châu vô giá? Nếu không vào biển cả phiền não thì
làm sao có được ngọc Nhất Thiết Trí, là trí huệ biết tất cả mọi sự mọi vật. Lấy
thí dụ trong cuộc đời hiện tại: những sinh viên các nước chậm tiến nghèo đói được
gửi đi du học tại các nước có nền khoa học tiến bộ, sau khi thành tài không
muốn trở về nước phục vụ đồng bào vì ngại đời sống thấp, dân trí hèn, ngại khổ,
ngại buồn, họ ở lại nước ngoài để hưởng thụ sự sung sướng dục lạc cho riêng
mình. Ðó giống như tâm trạng hàng Thanh Văn. Nhưng cũng có một số sinh viên sau
khi thành tài liền trở về nước phục vụ đồng bào, cải tổ đời sống xã hội, nâng
cao dân trí, làm sao tất cả dân chúng trong nước được hạnh phúc, riêng mình vất
vả cũng vui. Ðó là tâm trạng chư vị Bồ Tát, vì người quên mình.
Lúc bấy giờ Ngài Ðại Ca Diếp, đại diện cho các hàng Thanh
Văn Duyên Giác, tỉnh ngộ, nói lời tán thán Ngài Văn Thù và tự trách Nhị Thừa
không còn lợi ích gì vì không có chí nguyện độ sinh. Phàm phu ở trong Phật Pháp
mà phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề thì còn hơn hàng Nhị Thừa không phát đạo tâm cứu
giúp chúng sinh.
Lúc đó trong chúng hội có một Bồ Tát tên là Phổ Hiện Sắc
Thân hỏi ông Duy Ma Cậl rằng: Cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, tôi tớ, xe
cộ, voi ngựa, là ai và ở đâu? Phổ là rộng, Hiện là hiện ra cho thấv. Bồ Tát Phổ
Hiện Sắc Thân tượng trưng cho việc các Bồ Tát vì lòng tư bi mà thị hiện rộng
rãi nhiều thân hình trong ba cõi sáu đường, làm những việc khó làm để chúng
sinh trông thấy mà noi theo. Mỗi khi đọc tên một vị Bồ Tát trong kinh điển Ðại
Thừa, chúng ta nên lưu tâm tìm hiểu danh hiệu đó muốn nói lên một ý nghĩa thâm
sâu huyền bí chứ không phải một tên hiệu thông thường. Ở đây, Bồ Tát Phổ Hiện
Sắc Thân lên tiếng hỏi, hàm ý Kinh muốn nói rộng ra cho mọi người hiểu thêm,
lập lại và nói tóm lại cho rõ ràng, giúp mọi người hiểu biết rành mạch và không
quên.
Ðức Phật thuyết pháp cho người đến nghe. Ngài chỉ nói và
không có ai ghi chép nên e ngại một số đông thính giả không nhớ hết, Ðức Thế
Tôn thường áp dụng lối nói pháp gọi là Trùng Tụng nghĩa là sau khi trình bày
giáo lý, Ngài lập lại bằng một bài kệ văn vần tóm tắt ý nghĩa vừa nói, giúp
người nghe dễ học dễ nhớ.
Trong bài kệ này, ông Duy Ma Cật nhắc lại: Trí Huệ và Phương tiện là quan trọng
nhất, sinh ra các pháp, ví như cha mẹ sinh ra các con. Trí độ là trí huệ độ
người sang bờ bên kia, dịch nghĩa chữ Bát Nhã Ba La Mật Ða phiên âm chữ Phạn
Prajna Paramita, là trí huệ rốt ráo có công năng đưa người qua sông mê bể khổ
tới bờ giải thoát rốt ráo an vui. Cũng có nghĩa là Trí Huệ của những ai đã sang
tới bờ bên kia. Bờ bên này là ba cõi, là trần lao đau khổ, luân hồi vô minh; bờ
bên kia là Niết Bàn an lạc, giác ngộ giải thoát. ở giữa là dòng sông sinh tử.
Trí Huệ được coi là quan trọng nhất trong pháp môn Lục Ðộ
của Bồ Tát Ðạo. Còn phương tiện là cách thức áp dụng giáo lý vào cuộc đời, cần
tùy duyên uyển chuyển sao cho hợp thời hợp cơ trong việc hóa độ chúng sinh đi
tới cứu cánh là giác ngộ. Rồi ông Duy Ma Cậl nhắc lại các hạnh tu khác như Từ
Bi, 37 phẩm trợ đạo, Tứ Nhiếp Pháp, Tổng Trì, Bát Chánh Ðạo... để dẹp giặc
phiền não, hàng phục bốn thứ ma (phiền não ma, ngũ ấm ma, tử ma, thiên ma, ở
đoạn trên đã giải thích) chia ra nội ma và ngoại ma. Nội ma là những thói hư
tật xấu tiềm ẩn trong lòng xúi giục chúng sinh gây tội lỗi phiền não. Ngoại ma
là những chướng ngại, cạm bẫy ở ngoài đời thử thách công phu tu hành, gây khó
khăn xem người tu có vượt qua được không? Các Bồ Tát có đủ oai lực để hàng phục
bốn thứ ma đó nên các Ngài hiện thân các cõi để dạy bảo chúng sinh. Có khi các
Ngài thị hiện nghịch cảnh việc ma để chúng sinh biết mà xa lìa. Có khi thị hiện
sinh già bệnh chết để chúng sinh hiểu lý vô thường huyễn hóa mà không tham đắm
việc thế gian, dù biết tất cả là Không mà vẫn tu về Tịnh Ðộ, thị hiện trong cõi
dục giới để dạy chúng sinh tu thiền định, thị hiện làm dâm nữ để phương tiện
dạy kẻ háo sắc chán lìa nhục dục... Bồ Tát hóa hiện mọi thân hình trong mọi
hoàn cảnh thuận nghịch, dùng mọi phương tiện để cứu độ chúng sinh, dẫn vào Phật
Ðạo. Hai câu sau đây nói lên sự khéo léo của Bồ Tát: Trước lấy dục dụ người,
sau khiến vào Trí Phật, nghĩa là biết chúng sinh ham ưa những điều khoái lạc,
nếu nói trái ý thì không nghe, nên trước tiên Bồ Tát chiều theo ý chúng, ưa
trang điểm thì cho đồ trang sức, ưa món ăn ngon thì cho thức ăn vừa ý, thích nghe
hát thì cho nghe, thích đọc truyện thì cho đọc, nhưng lần lần chuyển về phía
tốt, dạy trang sức bằng đức hạnh, ăn ngon bằng thiền duyệt, hát hay bằng tán
thán, đọc truyện bằng kinh điển... tóm lại, chúng sinh ưa gì thì Bồ Tát cho nấy
để họ vừa lòng và chịu nghe lời, sau đó mới tùy thuận mà dùng trí huệ dẫn dắt.
Nếu thấy, người uống rượu mà mình la rầy thì chắc chắn họ không nghe, họ bực
mình, nào có ích gì. Có khi Bồ Tát thị hiện làm người buôn bán kiếm nhiều lời
để bố thí cho chúng sinh, vừa vì lòng từ bi, vừa làm gương cho họ theo đó phát
tâm bố thí. Có khi Bồ Tát hiện làm tôi tớ giúp việc cho người để người chủ vừa
ý, khởi phát đạo tâm, thấy tôi tớ mình nghèo hèn mà còn làm những việc tốt,
huống chi mình giàu có, người chủ bắt chước tôi tớ mà làm việc thiện.
Chỗ sai khác giữa Bồ Tát thị hiện và chúng sinh là Bồ Tát làm mọi việc thiện ác
mà không chấp, làm xong là bỏ, còn chúng sinh làm với lòng mong cầu. Bồ Tát bố
thí để giúp người thiếu thốn, chỉ vì muốn họ bớt khổ. Họ cám ơn hay không, họ
có phát tâm làm lành hay không? Bồ Tát không chú ý, làm vì biết đó là tốt làm
xong là quên. Chúng sinh bố thí mà người ta quên cám ơn là buồn, thối tâm, sau
không làm nữa. Như vậy chúng sinh bố thí là để cầu danh, cầu được lời cám ơn,
còn chấp ngã, có chút từ bi nhưng thiếu hỷ xả.
Ðại ý phẩm này là các Bồ Tát làm mọi việc để dẫn dắt chúng
sinh vào Phật Ðạo, dùng mọi phương tiện thuận hoặc nghịch, có khi phải thực
hành Phi Ðạo các Ngài cũng sẵn sàng chiều theo xu hướng thế gian, rồi lần lần
tìm cách xoay hướng về đường ngay lẽ phải. Ai được nghe pháp lành này mà chẳng
phát tâm Bồ Ðề, chỉ trừ những kẻ ngu si không có trí huệ, không biết xấu hổ vì
còn sống trong vô minh quá dầy đặc.
Phẩm này đề cao công hạnh của các Bồ Tát thị hiện vào
đời để hóa độ chúng sinh, thấy khổ không sợ, thấy sinh tử không chán, thấy
chúng sinh tội lỗi thì thương, thấy khó khăn nhọc mệt không xa lánh, phẩm này
cũng chê trách hàng Thanh Văn chỉ mong giải thoát riêng mình, lánh xa cuộc đời
xấu ác nhiễm ô.