VI. PHẨM BẤT TƯ NGHỊ
Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất thấy nhà ông Duy Ma Cật không
có bàn ghế, bèn suy nghĩ không biết mọi người sẽ ngồi nơi đâu? Ông Duy Ma Cật
biết ý liền hỏi Ngài vì Pháp mà đến hay vì chỗ ngồi mà đến? Ngài Xá Lợi Phất
đáp vì Pháp mà đến.
Nhà ông Duy Ma Cật giầu có tất nhiên có nhiều đồ đạc quý
giá, nhưng ông dùng thần thông làm cho nhà trống rỗng là có ý muốn diễn tả tâm
thanh tịnh, Tâm Không, hết phiền não nhiễm ô. Phẩm thứ V nói về Ngã Không, Phẩm
thứ VI này nói về Pháp Không, dạy người tu hành đừng đắm nhiễm bất cứ một pháp
nào, cứ tùy thuận mà tu. Người cầu pháp thân mạng còn không tham tiếc huống chi
bàn ghế; muốn tới Chân Lý, người tu hành phải phá trừ ngã chấp và pháp chấp,
lìa năm uẩn, mười hai nhập, mười tám giới. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành,
thức. Mười hai nhập gồm có sáu căn và sáu trần. Mười tám giới gồm sáu căn, sáu
trần và sáu thức. Nói mười tám giới là gồm cả vật chất và tinh thần hợp lại cấu
tạo nên chúng sinh và cảnh vật trong ba cõi. Người cầu pháp không được đắm
nhiễm trong mợi sự vật ở thế gian, ngay cả đến Ba Ngôi Quý (Tam Bảo: Phật,
Pháp, Tăng) cũng không được đắm trước, vì đứng về Lý Tánh tuyệt đối thì Phật
Bảo cũng không cầu. Pháp Bảo (Tứ Diệu Ðế) cũng không đắc, Tăng Bảo cũng không
trụ, Vô Cầu, Vô Ðắc, Vô Trụ, không thể dùng hữu vi để cầu vô vi, không dùng hữu
tướng để đắc Vô Tướng hay Thật Tướng. Vậy muốn cầu pháp, cầu Chân Lý thì phải
Vô Cầu bỏ tâm mong cầu, vượt qua ngã chấp và pháp chấp thì thấy được Chân Lý.
Người tu hành mà còn thấy có mình tu, có pháp môn tu, có
chúng sinh để độ, có Niết Bàn để chứng thì còn chấp ngã, chấp pháp, còn luẩn
quẩn trong vòng sắc tướng hữu vi thì không thể chứng ngộ pháp vô vi được. Nói
chứng đắc nhưng thật ra không gì được cả vì chúng sinh sẵn có Phật Tánh đầy đủ
Ðức Tướng của Như Lai rồi, ví như viên ngọc nằm sẵn trong áo, mê thì không biết
là có, nay tỉnh thì thấy viên ngọc cho là đắc, thật ra có đắc gì đâu. Pháp là
tịch diệt, không sinh diệt, không tạo tác, không thủ xả, không xứ sở: đã là
tịch diệt thì không chấp trước gì nữa, cứ để Tâm thanh tịnh an nhiên tự tại,
việc gì tùy thuận lợi ích chúng sinh thì làm, làm xong thì bỏ, chỗ nào cũng tu
được, ở chùa, ở chợ, ở nhà đều tu, mà tu nhà tu chợ cần hơn tu chùa, vì gần
nhiều chúng sinh xấu ác, có nhiều cơ duyên thực hành Bồ Tát Ðạo. Không chấp
tướng giầu nghèo, không chấp hình thức lễ bái, không trụ một pháp môn nào, mà
phải tùy thuận chúng sinh, tùy hỷ hướng dẫn tu hành, ai thích tụng kinh thì dạy
tụng kinh, ai thích niệm Phật thì cùng niệm Phật, ai thích tu thiền thì cùng
tọa thiền, không chấp pháp nào hơn pháp nào, miễn là hợp căn cơ ý thích của
chúng sinh, lợi ích chúng sinh hướng về giác ngộ.
Đối với tất cả pháp, đừng cầu một cái gì thì gọi là cầu
pháp. Không móng tâm tham đắm, không mong được vật gì, là vì mình đã sẵn có đủ
cả rồi; hiểu vậy thì không tham cầu nữa, luật nhân duyên quả báo rất minh bạch,
dù cầu hoặc không cầu, khi đủ nhân duyên thì sẽ kết quả.
Năm trăm vị Trời được pháp nhãn thanh tịnh; sau khi được
nghe lời nói mầu nhiệm của ông Duy Ma Cật, năm trăm vị Trời thức tỉnh, ví như
người mù được sáng mắt, người ngủ mê tỉnh giấc chiêm bao, thấy rõ Chân Lý.
Ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù nơi nào có những tòa sư tử
tốt đẹp do công đức tạo thành? Tòa sư tử là những ghế ngồi oai nghiêm, người
nào được ngồi ghế đó phải có nhiều công đức người khác thấy phải kính trọng sợ
sệt, ví như con sư tử chúa, các súc vật khác thấy phải sợ hãi. Ngài Văn Thù
đáp: về phương Ðông cách đây rất xa có thế giới Tu Di Tướng, có Phật hiệu là Tu
Di Ðăng Vương, có tòa sư tử cao đẹp trang nghiêm bậc nhất.
Kinh Ðại Thừa mỗi khi đưa ra tên một vị Phật, một vị Bồ Tát,
một thế giới, một quốc độ... thường ám chỉ một đức tánh cao quý, một cái gì
tuyệt vời khó diễn tả, vượt ra ngoài ngôn ngữ tâm duyên. Ở đây, danh từ Tu Di
Ðăng Vương, nghĩa đen là ngọn đèn Vua ở trên núi Tu Di, một ngọn núi cao nhất
thế giới Ta Bà, sáng nhất, chiếu soi xa nhất, cao nhất. Ðây là muốn ám chỉ Phật
Tánh. Chân Tâm tuyệt vời huyền diệu, sáng soi vô cùng vô tận vô biên.
Ðức Phật Tu Di Ðăng Vương có ba vạn hai ngàn tòa sư tử cao
rộng trang nghiêm thanh tịnh, nghĩa là Chân Tâm có nhiều đức tánh, oai lực
không thể nghĩ bàn, cũng có nghĩa là những người tu hành chân chánh có nhiều
thần thông mạnh mẽ, dù không cầu mà vẫn có. Do ông Duy Ma Cật hiện sức thần
thông mà ba vạn hai ngàn tòa sư tử đó đến vào trong nhà ông mà không bị ngăn
ngại, không bị ép chật. Ðứng về sác tướng thì có cao thấp, rộng hẹp, lớn nhỏ,
đây đứng về Thể Tánh thì không có hình tướng nên mọi sự mọi vật dung thông tự
tại. Kinh Hoa Nghiêm trình bày Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, cũng nói đem núi Tu Di
nhét vào trong hạt cải mà không thấy chật hẹp. Vì sao? Ðây là nói về Bản Thể
không tướng trạng, mới như vậy. Lớn nhỏ (không gian), dài ngắn (thời gian) đều
bị đảo lộn, lìa hình tướng vật chất để thể nhập tâm linh. Ông Duy Ma Cật tượng
trưng cho bản tâm thanh tịnh mà ai cũng có. Ðem nhiều tòa sư tử vào nhà ông mà
không bị ép chật, vì tòa sư tử đây là những đức tánh, những thần thông oai lực
không có tướng trạng nên không thấy chật hẹp. Ví như chúng ta nghĩ tới núi Tu
Di, đem hình bóng núi vào trong tâm mà không thấy bị dồn ép, vì chỉ là tâm
tưởng mà thôi, không thật có.
Tâm có nhiều sức mạnh, đem hình tướng những vật lớn vào
trong tâm là đảo lộn không gian, đem quá khứ vị lai vào hiện tại là đảo lộn
thời gian, tâm mình có khả năng như vậy, nhưng vẫn là vọng tưởng, là huyễn, là
giả, đừng chấp là thật, thì tham sân si không nổi, được an định. Bồ Tát biết
vọng tưởng là huyễn nên có chánh định, chúng sinh tưởng là thật nên bị tán
loạn, không có định, bị khổ đau. Người tu hành không để trần cảnh chi phối
mình; những gì đã qua thì đừng cho trở lại, gây thêm phiền não, những gì chưa
đến thì chẳng bận lòng, do đó không sợ phiền não, không cần tránh né vì biết
chúng không thật có, như huyễn, chúng đến thì rồi sẽ qua, gặp mọi hoàn cảnh đều
coi nhẹ, chỗ nào cũng tu được, không chấp chùa mới thanh tịnh, còn chợ ồn ào,
nhà ràng buộc. Chỉ cần Tâm tịnh thì nơi nào cũng tịnh, cảnh nào cũng thanh.
Các Bồ Tát lớn có thần thông nên biến hiện thân hình cao
lớn, lên ngồi tòa sư tử được. Còn các Bồ Tát mới phát tâm và các hàng Thanh Vãn
đệ tử đều không lên được. Các Ðại Bồ Tát đã nhiều công tu hành, không còn chấp
tướng, thâm nhập Bản Thể có thần thông diệu dụng, tâm thể dung thông mọi sự mọi
vật không gì chướng ngại, nên dễ dàng lên ngồi tòa sư tử, vì đối với các Ngài,
làm gì còn cao thấp, rộng chật? Nhưng đối với các vị Bồ Tát mới phát tâm và
hàng Thanh Văn thì còn chấp hình tướng, chấp có giới luật phải giữ, có pháp môn
phải tu, có quả vị để chứng, các Ngài chưa thâm nhập Bản Thể, tâm chưa dung
thông với vũ trụ, chưa hòa nhập với thiên nhiên, chưa thấy tất cả là một, nên
còn thấy có cao thấp rộng chật, vì vậy không lên ngồi tòa sư tử được. Ông Duy
Ma Cật liền bảo Ngài Xá Lợi Phất và hàng đệ tử phải đảnh lễ Ðức Tu Di Ðăng
Vương Như Lai mới có thể lên ngồi được. Ngài Xá Lợi Phất được lên ngồi liền tán
thán, ông Duy Ma Cật nói: Ðó là pháp Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát của các Bồ Tát.
Các hàng Thanh Văn đệ tử phải đảnh lễ Ðức Tu Di Ðăng Vương Như
Lai, nghĩa là bỏ chỗ tối về chỗ sáng, bỏ vô minh về với ngọn đèn sáng soi cao
diệu tuyệt vời, bỏ tướng nhập tánh, bỏ vọng thức quay về với Chân Tâm, hoán cải
tâm hồn, bỏ Tiểu Thừa mà qua Ðại Thừa, thì mới lên ngồi tòa sư tử, phải bỏ
những gì thấp hèn, nặng nề, ô trược, mới bay bổng lên chỗ tuyệt đỉnh cao siêu.
Ðó là pháp Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát, một pháp môn không thể nghĩ bàn, một con
đường đưa đến giải thoát, vì nó vượt ra ngoài danh từ ngôn ngữ tâm duyên, chỉ
khi nào chứng thì biết. Nói chứng là tạm nói cho dễ hiểu mà thôi, chứ thật ra
thì vô chứng, vô đắc. Chư Tổ có dạy: Tu, vô tu, tu. Chứng, vô chứng, chứng. Có
nghĩa là: tu đến chỗ không thấy mình tu mới thật là tu Chứng đến chỗ không thấy
mình chứng mới thật là chứng. Những thí dụ: đem núi Tu Di nhét vào hạt cải, đem
nước bốn biển lớn cho vào lỗ chân lông, ném cõi tam thiên đại thiên thế giới ra
xa rồi đem trở lại, kéo dài bảy ngày làm một kiếp, thu ngắn một kiếp làm bảy
ngày, hút gió vào miệng, đem lửa vào ý muốn diễn tả tất cả các pháp trong không
gian và thời gian (đất, nước, gió, lữa là bốn đại tượng trưng cho không gian,
ngày và kiếp tượng trưng cho thời gian) đều là những tướng trạng tương đối, vô
thường vô ngã, là những ước lệ đặt ra để phân biệt chúng đều là giả huyễn,
không thật có. Các Ðại Bồ Tát thấy rõ bản thể của vạn pháp nên các Ngài ung
dung tự tại, còn chúng sinh thì u mê chấp trước nên cứ quanh quẩn trong vòng
sinh tử luân hồi, bị các luật thiên nhiên vận chuyển chi phối mà không hay biết
gì cả.
Các Bồ Tát trụ cảnh Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát hay dùng thần
thông hiện các thứ thân Phật, Bồ Tát, Trời, Vua... biến các thứ tiếng to nhỏ
thành tiếng Phật diễn nói các pháp: Ðây là cảnh giới không thể nghĩ bàn của các
Ðại Bồ Tát tùy duyên hóa độ chúng sinh, thuận theo ý chúng sinh mà biến hiện
các hình tướng thích hợp, dù biết âm thanh như huyễn mà vẫn biến ra các thứ
tiếng để hoằng dương Phật Pháp. Nếu chúng sinh biết lắng lòng quán sát các luật
thiên nhiên đang vận hành vũ trụ, gió thổi lá rụng hoa tàn là luật vô thường,
mọi vật đổi thay là lý vô ngã, thì đâu đâu cũng thấy hình bóng Phật, thể hiện
Chân Lý tuyệt vời, mọi thứ tiếng trên thế gian đều là tiếng Phật, tiếng Pháp,
tất cả đều diễn đạt Chân Lý.
Nếu biết áp dụng thâm nghĩa của đoạn kinh này vào cuộc đời
thì không còn chấp hình tướng, âm thanh mà vượt lên trên để tiêu dao tự tại,
hết trói buộc khổ đau. Nếu không chấp hình tướng thì không cần đồ trang sức,
quần áo sang trọng, trang điểm mặt mày... mà chỉ cần làm sao cho sạch sẽ vui
vẻ, thanh tịnh hoan hỷ là được. Nếu không chấp âm thanh, biết các thứ tiếng,
các lời nói như huyễn thì không để lời khen tiếng chê chi phối, những tiếng xấu
ác thị phi đều coi như gió thoảng ngoài tai, khi đó tâm được an định, bình tĩnh
sáng suốt để tu hành. Không nghe tiếng đời thì mới nghe được tiếng Phật, tiếng
Tổ. Trái lại, nếu cố chấp tiếng thị phi thì dù Phật hay Tổ có dạy gì cũng khó
nghe thấy để làm theo. Có câu thơ:
Đôi lời phù phiếm tiêu không nổi
Nói chi lời Tổ ở Tây Phương.
Ngài Ðại Ca Diếp nghe được pháp môn Bất Khả Tư Nghị Giải
Thoát của Bồ Tát, ngợi khen chưa từng có, chúng sinb có mắt như mù, có tai như
điếc không thấy không nghe, người trí được nghe ai mà chẳng phát tâm vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Các hàng Thanh Văn ngộ đạo được đôi chút cho là đủ, dù
chứng quả A Lan Hán ra khỏi sinh tử luân hồi nhưng chưa được rốt ráo nay đứng
trước sự thật tuyệt vời, thấy rõ oai lực của Bồ Tát, mới biết mình hãy còn chấp
trước nơi pháp Tiểu Thừa, mình mới đã được một đoạn đường dẫn tới giải thoát,
nên tủi thân trách phận, than khóc hối tiếc sự u tối của mình, còn các Bồ Tát
thì hết sức vui mừng, tin hiểu tu theo pháp Ðại Thừa, nhờ vậy chúng ma không
thể làm gì được.
Chúng ta thường quan niệm ma là những hình bóng hiện lên đe
dọa làm hại khiến chúng ta sợ hãi, làm chướng ngại sự tu hành. Nhưng ông Duy Ma
Cật lại nói rằng Ma Vương phần nhiều là các bậc Bồ Tát trụ nơi pháp Bất Khả Tư
Nghị Giải Thoát dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh, thị hiện làm Ma
Vương, để giáo hóa thử thách chúng sinh có tu hành kiên cố hay không ? Thí dụ:
Có người phát tâm tu hành bố thí, các Bồ Tát thị hiện Ma Vương đến xin vàng
bạc, nhà cửa, vợ con, chân tay đầu mắt... xem người tu đó có thực hành bố thí
như đã phát nguyện không? Hoặc có người phát tâm tu hạnh nhẫn nhục thì các Bồ
Tát thị hiện Ma Vương đến quấy nhiễu xem người tu có nhẫn nhục được không? Hoặc
có người phát thệ nguyện tu hành thanh tịnh lìa sắc dục thì các Bồ Tát thị hiện
Ma Nữ đến thử thách quyến rũ xem người tu có bị sa ngã không?
Nhưng nói về lý thì các Ma Vương chính là thất tình lục dục
tiềm ẩn trong tâm khảm chúng sinh, những thói hư tật xấu luôn luôn xui giục
chúng sinh làm điều sằng bậy, người tu hành cần tinh tấn sáng suốt đối trị vọng
thức của mình, thấy điều xấu thì tránh, điều tốt thì làm (thực hành Tứ Chánh
Cần), lần lần vọng tưởng bị điều phục, Chân Tâm sáng tỏ, đó là được giải thoát
không thể nghĩ bàn vậy. Những việc khó làm như vậy chỉ có các vị Bồ Tát Ðại
Thừa mới kham được, còn các Thanh Văn tu theo Tiểu Thừa hoặc phàm phu thì không
làm được, vì không chịu nổi sự thử thách nặng nề, ví như bị con voi lớn dày
đạp, sức lừa không chịu nổi. Giáo lý Ðại Thừa khó nghe khó hiểu, cần phát Bồ Ðề
Tâm dõng mănh mới tu theo được.
Các Bồ Tát hiện thân Ma Vương để giáo hóa chúng sinh tu
trong cảnh nghịch, mà chính những cảnh nghịch lại giúp người tu trưởng thành
nhẫn nhục, phát huy trí huệ, nẩy nở khả năng bất ngờ, vì phải gắng sức tích cực
chế ngự nghịch cảnh, vượt qua khó khăn. Mình có trải qua những khó khăn loạn
động của cuộc đời rồi mới dạy người khác tu trong cảnh nghịch; nhờ biết các
pháp như huyễn nên không sợ, không phiền não, không say đắm, nhờ có trí huệ và
từ bi nên có thể ở đời để cứu giúp chúng sinh mà không chán nản mỏi mệt, không
sợ dòng đời lôi cuốn, đó là đường lối tu hành của Kinh Duy Ma Cật. Lấy gia đình
xã hội làm đạo tràng, lấy chúng sinh tội lỗi làm mục tiêu thân cận giáo hóa,
tìm Niết Bàn thanh tịnh trong đời sống xã hội, trong cảnh phiền não vọng tưởng
của chúng sinh, chuyển hóa vọng thức của chúng sinh thành Chân Tâm, Tâm Tịnh là
Ðạo Tràng, Tâm Tịnh Quốc Ðộ Tịnh. Ðó chính là tôn chỉ và mục đích của Kinh Duy
Ma Cật.
Ba vạn hai ngàn vị Trời nhờ tu mười điều thiện mà được hưởng
nhiều phước báo, nay được nghe Ngài Ðại Ca Diếp tán thán pháp môn Bất Khả Tư
Nghị Giải Thoát, liền phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, nghĩa là không
ham phước đức nữa mà cầu công đức, bỏ pháp hữu vi hữu lậu để mong được vô vi vô
lậu lìa Tiểu Thừa để bước trên đường rộng rãi, ngồi xe lớn tiến về chỗ giải
thoát hoàn toàn, nhập Bản Thể Chân Như.