I. PHẨM PHẬT QUỐC
Kinh
Duy Ma Cật là bộ Kinh Ðại Thừa mà Ðức Phật nói ra cho các Bồ Tát và các
đệ tử phát tâm vô thượng bồ đề nghe, nghĩa lý cao siêu, Phật phải dùng
nhiều thí dụ để diễn tả Chân Lý tuyệt đối đưa vào cảnh giới Bất Nhị.
Chúng ta là những kẻ phàm phu hậu học, trí mờ huệ mỏng, nhưng không vì
thế mà cam chịu phận hèn, chúng ta trước hết xin sám hối tất cả những
tội lỗi đã gây ra từ trước, rồi phát thệ nguyện lớn tu học theo lời Phật
dạy, gạn lọc vô minh phiền não thì rồi cũng có lúc mặt trời trí huệ tự
nhiên chiếu sáng. Muốn hiểu ý nghĩa kinh Ðại Thừa, chúng ta cần bỏ cái
tướng bề ngoài mà thâm nhập vào Thể Tánh bên trong, mới tìm ra huyền
nghĩa trong các ẩn dụ, gắng sức vươn lên tới trình độ hiểu biết cao hơn
thường tình, khi hiểu được thâm nghĩa ẩn ý thì hỷ lạc vô cùng.
Tên
phẩm này là Phật Quốc nghĩa là nước Phật. Nước Phật ở chỗ nào? Nếu hiểu
theo nghĩa nông cạn thường tình thì nước của Phật Thích Ca là cõi Ta Bà
uế trược này, còn nước của Phật A Di Ðà là cõi cực lạc ở Tây Phương.
Nhưng ở phẩm này, nước Phật không cần tìm ở đâu xa, mà chính ở ngay cõi
thế gian này, ngay trong Tâm của ta, Tâm thanh tịnh thì nước Phật hiện
tiền.
Chữ
tôi ở bốn chữ mở đầu quyển kinh là để chỉ ông A Nan, em con chú bác với
Thái Tử Tất Ðạt Ða, sau xuất gia làm thị giả hầu cận Ðức Thich Ca, học
rộng nhớ nhíều, nghe những lời Phật thuyết pháp rồi nói lại cho mọi
người nghe trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, sau khi Phật nhập
diệt. Thành phần những thính giả nghe Phật nói Kinh Duy Ma Cật ở thành
Tỳ Xá Li gồm có vô lượng trăm ngàn đại chúng, trên là chư Bồ Tát, Tỳ
Kheo, Chư Thiên Thần cho đến dưới là các Phật Tử nam nữ cung kính vây
quanh Phật để nghe Pháp. Lúc đó có Trưởng Giả Tử Bảo Tich cùng với 500
Trưởng Giả Tử cầm lọng bảy báu đến cúng dường Phật, do oai đức của Phật
khiến các lọng báu hợp lại thành một cây lọng lớn bao trùm cả ba lần
ngàn đại thiên thế giới.
Trưởng
giả là người giầu sang, vừa có tuổi tác, vừa có đức hạnh trang nghiêm,
tâm tánh ngay thẳng, lời lẽ chân thật, tóm lại là người đã tiến bước
trên đường phước huệ song tu. Trưởng Giả Tử thường được địch là con ông
trưởng giả, thuộc hàng thanh niên còn ít tuổi. Ở đây, Trưởng Giả Tử Bảo
Tích đóng vai trò quan trọng thay mặt cho 500 Trưởng Giả Tử để đọc bài
kệ tán thán oai thần của Phật và bạch xin Phật thuyết pháp cho tất cả
đại chúng nghe.
Có
người nghĩ rằng: Tại sao giữa đại chúng đông đủ các Ðại Bồ Tát, Thanh
Văn, các đại đệ tử, Trời, Rồng,... mà một chàng thanh niên dám đứng ra
bạch Phật, như vậy có thất kính với các bậc bề trên không? Tuy rằng các
chúng sinh đều bình đẳng, nhưng đó là đứng về Lý Tánh mà nói, chứ ở giữa
đại chúng đông đủ thì phải có tôn ty trật tự, vai trò bạch Phật phải do
các Bồ Tát, Thanh Văn hoặc các đại đệ tử đảm nhiệm thì mới phải.Vì lẽ
đó, một số người nghĩ rằng danh từ Trưởng Giả Tử nên được dịch là ông
Trưởng Giả đúng hơn là con ông Trưởng Giả. Chữ Tử vừa có nghĩa là con,
vừa có nghĩa là người đã hiểu cái lý Tất Cả là Một, chữ Tử viết theo Hán
tự là do ghép chữ liễu và chữ nhất, liễu là hiểu biết rốt ráo cùng cực,
nhất là một. Các bậc Thánh Hiền bên Trung Hoa được dùng chữ Tử để tôn
xưng, thí dụ: Khổng Tử, Lão Tử. Mạnh Tử, Trang Tử... Biết đâu Ngài Cưu
Ma La Thập khi dịch kinh này từ chữ Phạn ra chữ Hán, đã bị ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa, nên thêm chữ Tử sau chữ Trưởng Giả để tăng phần tôn
kính.
Vả
lại trong bài kệ tán thán Phật, Trưởng Giả Tử Bảo Tích đã dùng những
lời lẽ cao siêu, ý tứ thâm điệu, rõ ràng là lời của một người đã tu hành
lâu năm già giặn, vun bồi nhiều công đức hạnh lành, một chàng thanh
niên khó mà có được. Ðến đây chúng tôi nhớ lại trong Kinh Hoa Nghiêm
cũng có danh từ Ðồng Tử (Thiện Tài Ðồng Tử) không phải để chỉ một người
trẻ tuổi, mà lại có nghĩa là người tu hành tới chỗ dứt hoặc chứng chân,
rốt ráo ngộ Ðạo chân thật, trừ hết vô minh phiền não, chân Trí hiện ra,
trở về bản tánh trong sạch hồn nhiên ví như trẻ thơ. Kinh Dược Sư cũng
gọi Văn Thù Sư Lợi là Ðồng Tử. Vậy những danh từ Đồng Tử hay Trưởng Giả
Tử là dùng để tôn xưng những bậc tu hành đạt đạo, thâm nhập Bản Thể, ví
như trẻ thơ trở về trong vòng tay từ mẫu thương yêu; ở đây, Trưởng Giả
Tử nên được hiểu là chính ông Trưởng Giả thì hợp lý hơn.
Cũng
có người cho rằng: dịch Trưởng Giả Tử là con ông Trưởng Giả hay là ông
Trưởng Giả cũng vậy, vì cần có một người đứng ra bạch Phật xin được nghe
Pháp, người đó là ông Trưởng Giả giầu sang già cả cũng được, mà người
đó là một chàng thanh niên ít tuổi cũng không sao, đối với Phật thì tất
cả đều bình đẳng, Phật thương chúng sinh như mẹ hiền thương con dại, bất
cứ ai đến thưa hỏi, Phật sẵn sàng giải đáp, tùy bệnh cho thuốc. Chàng
thanh niên Bảo Tích, đại diện cho 500 thanh niên khác, đứng ra bạch Phật
không phải là điều chưa từng có, cũng không phải là thất kính, miễn có
đủ duyên lành là được gặp Phật, thưa hỏi và nghe Pháp.
Vai
trò chính trong Kinh này là Cư Sĩ Duy Ma Cật chứ không phải Trưởng Giả
Tử Bảo Tích, vậy Bảo Tích là ông Trưởng Giả hoặc là chàng thanh niên con
ông Trưởng Giả, thiết tưởng không quan trọng, mà điều quan trọng hơn
hết là tìm hiểu ẩn ý và huyền nghĩa của bộ Kinh, qua lời Cư Sĩ Duy Ma
Cật.
Danh
từ Bảo Tích cũng đáng lưu ý. Bảo là của báu quý giá, Tích là gom lại
lưu trữ. Bảo Tích là tích tụ, gom lại lưu trữ nhiều của báu quý giá.
Trưởng Giả là người gíàu sang thì có nhiều của báu quý giá là việc dĩ
nhiên, nhưng lại là người đầy đủ đức hạnh, phước huệ song tu, thì Bảo
Tích nên được hiểu là tượng trưng cho những người đã tích tụ được nhiều
của báu tinh thần, thực hành Lục Ðộ vạn hạnh, Từ Bi Hỷ Xả, mọi đức tánh
được trau gíồi đầy đủ trang nghiêm.
Lọng,
dịch từ chữ Cái mà ra, như chúng ta thường dùng chữ Bảo Cái, là một vật
giống như cái dù, dùng để che nắng mưa gió bụi. Lọng còn là một biểu
tượng cho oai quyền sang quý, vì thời xưa chỉ có Vua Quan và những người
quyền thế mới có lọng che, chứ dân thường làm sao có lọng được.
Ở
đây lọng bảy báu mà các Trưởng Giả Tử đem đến cúng dường Phật không thể
làm bằng gấm, lụa, vàng bạc... mà phải làm bằng bảy thứ gì quý giá hơn
nhiều, không phải giá trị vật chất mà là giá trị tâm linh. Các Trưởng
Giả Tử tới trước Phật, lạy chân Phật, dâng phẩm vật cúng dường phải
thanh tinh hạng nhất, vậy cái lọng bảy báu đây tượng trưng cho sự phát
tâm bồ đề, lòng chân thành và các công đức, công hạnh của các vị đó. Hơn
nữa, lọng dùng để che nắng mưa gió bụi của trần gian thì Chân Tâm thanh
tịnh che chở chúng ta chống phiền não, tham sân si, ái dục, chấp trước,
nhiễm ô. Lọng báu cũng là những Giới Hạnh ngăn chúng ta phạm những điều
tội lỗi xấu ác.
Bảy
báu bằng vật chất của thế gian là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, xích châu,
mã não, san hô. Ở đây bảy báu tượng trưng cho bảy đức tánh đưa người tu
hành tới quả vị Thánh, gọi là Thất Thánh Tài:
Vàng tượng trưng cho Giới (ngăn cấm).
Bạc tượng trưg cho Tín (lòng tin).
Lưu ly tượng trưng cho Văn (nghe).
Xà cừ tượng trưng cho Tàm (xấu hổ).
Xích châu tượng trưng cho Tấn (tinh tấn, tiến tới).
Mã não tượng trưng cho Huệ (trí huệ).
San hô tượng trưng cho Xả (bỏ).
Người
tu hành trước hết phải giữ gìn các giới cấm không được vi phạm, rồi
phát khởi lòng tin, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin mình có khả năng
thành Phật, phải theo Thầy nghe lời dạy mà tu học thực hành, nhờ đó biết
ăn năn xấu hổ không dám làm điều ác, rồi lại tinh tấn làm điều lành,
phát huy trí huệ sáng suốt sẵn có, được chút công đức gì đều xả hết, đem
hồi hướng cho tất cả chúng sinh, chớ không chấp trước.
Các
Trưởng Giả Tử cầm lọng báu của mình tới cúng dường Phật là ý Kinh muốn
nói: phàm phu muốn thấy Phật, nghe Pháp, hiểu Chân Lý, muốn bỏ chỗ tối
trườn mình ra trước ánh sáng giác ngộ thì phải hy sinh, lìa bỏ những của
cải trần gian mà dùng lòng chân thành, phát tâm thanh tịnh, gom góp
tích tụ các công đức tu hành gồm Thất Thánh Tai thì mới thành tựu.
Hai
chữ cúng dường là do hai chữ Hán cung dưỡng mà đọc chệch ra, nghĩa là
cung cấp dưỡng nuôi; muốn cúng dường, người ta phải mua phẩm vật đem tới
dâng cúng Phật và chư Tăng. Có mua là có hao tốn tiền bạc, thời giờ,
công sức, hy sinh một phần của cải vật chất để cầu một phần phước báo
tinh thần. Do đó cúng dường được dịch ra tiếng Anh và Pháp là sacrifice,
có nghĩa bóng là hy sinh từ bỏ những thú vui thế gian, những dục vọng
thấp hèn, để hướng về những của báu xuất thế gian, cầu được những đức
tánh cao cả siêu việt của tâm linh. Phải hy sinh, phải xả bỏ, phải mất
đi, phải chịu thiệt hại thì những cái gì mình tìm thấy, mình đắc mới cao
quý tốt đẹp. Bỏ của cải trần gian để được Thất Thánh Tài, bỏ ái dục
tham sân si để được bốn Tâm Vô Lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả), bỏ xác thân ngũ
uẩn để được Pháp thân, bỏ chấp ngã để cứu độ chúng sinh, đó là lối cúng
dường cao cả nhất, đúng với Chánh Pháp và Chân Lý.
Do
oai thần của Phật, năm trăm lọng báu hợp lại thành một cây lọng to lớn
bao trùm khắp ba lần ngàn đại thiên thế giới, mọi vật như núi sông, biển
suối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chư Phật mười phương đang nói
Pháp... đều hiện đủ trong đó. Ðến đây vấn đề trở nên rõ rệt: cái lọng
báu đây không thể là cái lọng thật, làm bằng bảy báu vật chất, mà chính
là tượng trưng cho Chân Tâm thanh tịnh, vì chỉ có Chân Tâm mới có thể
rộng lớn vô tận vô biên bao trùm ba lần ngàn đại thiên thế giới, chỉ có
cái Thể của Chân Tãm mới dung chứa được tất cả mọi sự mọi vật, ngoài ra
không có vật gì có thể làm được như vậy.
Hơn
nữa. theo pháp môn Tịnh Ðộ, ai niệm mười danh hiệu Phật A Di Ðà mà được
nhất tâm bất loạn thì khi lâm chung được chư Phật và Bồ Tát cầm tràng
phan và lọng báu tới tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Vậy lọng báu là vật
chứng minh công quả tu hành, đức hạnh của người niệm Phật được nhất
tâm, ai có lọng báu là tâm đã được thanh tịnh. Năm trăm Trưởng Giả Tử có
lọng báu tất nhiên là đã có công phu tu hành thanh tinh, nay đem các
lọng báu hợp lại làm một, nghĩa là chỉ có Nhất Tâm, Chân Tâm chẳng có
hai, đó là lý Bất Nhị.
Ðây
cũng là ý nghĩa trong Kinh Hoa Nghiêm muốn trình bày cái lý Sự Sự Vô
Ngại Pháp Giới, tất cả là Một, không còn sai biệt theo hình danh sắc
tướng, mà hòa hợp vào Thể Tánh Nhất Như. Ðây cũng diễn tả rõ ràng Sáu
Tướng Hoa Nghiêm: Nhất Ða, Ðồng Dị, Tổng Biệt, tuy nhiều mà hợp làm một,
tuy khác tướng mà cùng một thể, tuy riêng biệt mà tổng hợp không hai,
tất cả mọi sự mọi vật đều viên dung vô ngại, tương tức tương nhập.
Tất
cả núi sông, biển suối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, Trời Rồng, Thần
người cho đến chư Phật mười phương cũng đều hiện trong lọng bảy báu đó.
đây là ý muốn thuyết minh cái lý Nhấl Thiết do Tâm tạo, tất cả mọi sự
mọi vật hữu hình và vô hình, cho tới chư Phật mười phương đang thuyết
pháp, cũng không ngoài Tâm mà có. Tâm chỉ có một, nhưng tướng và dụng
thì có nhiều và rộng lớn vô lượng vô biên. Trong kinh sách có chỗ tạm
dùng phương tiện chia ra Chân Tâm và vọng tâm cho dễ phân biệt, dễ hiểu,
dễ nhận, chứ Tâm chẳng có hai (Bất Nhị). Ðúng ra nên dùng danh từ vọng
thức thay cho vọng tâm. Chân Tâm thì thanh tịnh, bất động, an nhiên tự
tại, nhưng khi vọng niệm nổi lên thì Chân Tâm ẩn, ví như mặt trăng bị
mây che, lúc đó vọng thức tác động, ví như bóng tồi bao trùm mọi vật.
Nhờ công phu tu hành dứt hoặc chứng chân, vọng thức chìm lặn thì Chân
Tâm lại hiện ra, ví như gió thổi mây bay, mặt trăng lại chiếu sáng. Cũng
ví như nước thành sóng vì có gió, hết gió thì sóng trở lại thành nước,
chẳng phải hai, vốn là một.
Chính
Tâm này tạo ra Phật, Thánh Hiền. vạn vật chúng sinh, chính Tâm này tạo
ra địa ngục, ngạ quỷ, chính Tâm này khiến người tu hành hưởng Niết Bàn
an lạc giải thoát, mà cũng chính Tâm này dắt dẫn kẻ ác đọa vào địa ngục
trầm luân. Tâm thanh tịnh sáng suốt thì là Phật, tâm nhiễm ô mê mờ thì
là chúng sinh, do đó có câu: Tâm, Phật, chúng sinh, tam vô sai biệt, và
cũng chính trong Kinh Duy Ma Cật có câu: Tùy kỳ Tâm tịnh, tắc Phật độ
tịnh, nghĩa là tùy Tâm chúng sinh thanh tịnh mà cõi Phật được thanh
tịnh. Một ý niệm giác ngộ là nguồn gốc của Niết Bàn, một niệm bất giác
là động cơ đưa đến địa ngục.
Các
Truởng Giả Tử muốn trở về Chân Tâm thanh tịnh cần phải thành tựu nhiều
đức tánh tốt, thực hiện công phu tu hành. Ðức Phật dùng oai thần hợp năm
trăm lọng bảy báu thành một cây lọng lớn, là ý muốn nói: các Trưởng Giả
Tử phải đem Thất Thánh Tài gom lại theo một hướng, đó là vạn Thù quy
Nhất Bổn, tu hành nhiều pháp môn nhưng cứu cánh chỉ có Một, là Chân Tâm
thanh tịnh.
Cây
lọng lớn bao trùm ba lần ngàn đại thiên thế giới tượng trưng cho Tâm
Phật, Chân Tâm, che chở hộ trì cho tất cả chúng sinh, mọi loài trong
Pháp Giới đều nằm trong tình thương của Phật, lòng Ðại Từ Ðại Bi chiếu
soi trùm khắp tất cả, ví như lưới ngọc của Ðế Thích (lưới Ðế châu), của
Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới trong Kinh Hoa Nghiêm, một chiếu soi tất cả, tất
cả là Một.
Công
dụng của cây lọng là che; đối với người dân thường thì cây lọng là cái
dù, cái ô để che nắng mưa gió bụi. Ðối với hàng Vua Quan thì cây lọng
tượng trưng cho oai quyền, uy tín. Ðối với Phật và Bồ Tát thì cây lọng
nói lên sự thương yêu cứu độ hộ trì cho chúng sinh. Cây lọng lớn chính
là Chân Tâm, Phật Tánh đã giáo hóa chúng sinh từ vô thỉ đến nay và mãi
mãi về sau, che chở chúng sinh chống các tham dục phiền não nhiễm ô,
thanh lọc thân tâm, tiến tới chỗ giác ngộ.
Trong bài kệ Bảo Tích đọc để tán thán Phật có những câu nói về pháp môn Bất Nhị:
Nói pháp chẳng có cũng chẳng không.
Khen chê chẳng động như Tu-Di.
Đồng bực thương xót kẻ lành dữ,
Tâm hạnh bình đẳng như hư không
Phật
thuyết pháp lìa nhị biên, chẳng chấp có chấp không, chẳng cháp thường
chấp đoạn, mà chủ trương Trung Ðạo. Ðối với lời khen hay tiếng chê, Phật
không để tâm dao động, Ngài an nhiên tự tại như núi Tu Di, vì không còn
chấp danh từ ngôn ngữ. Ðốì với kẻ dữ người lành, Phật thương xót như
nhau, chứ không hề yêu người lành, ghét kẻ dữ, đó là tâm bình đẳng vô
phân biệt, giống như hư không rộng lớn bao trùm các cõi.
Sau
khi tán thán, Bảo Tich xin Phật dạy những hạnh của Bồ Tát muốn được
Tịnh Ðộ. Phật dạy: Tất cả chúng sinh là cõi Phật của Bồ Tát. Vì sao? Bồ
Tát tùy chỗ giáo hóa điều phục chúng sinh mà lãnh lấy cõi Phật. Tùy
chúng sinh ưng theo quốc độ nào vào trí huệ Phật và phát khởi căn tánh
Bồ Tát mà lãnh lấy cõi Phật. Bồ Tát lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh đều vì
muốn lợi ích chúng sinh.
Bồ
Tát là bậc Giác ngộ rồi, nhưng không an hưởng Niết Bàn, không mong cầu
quả Phật, mà cứ lặn lội trong ba cõi sáu đường để cứu độ chúng sinh tự
giác giác tha, tự độ độ tha. Các Bồ Tát thực hành Lục Ðộ vạn hạnh quên
mình vì chúng sinh, làm mọi việc lành với tâm vô cầu, vô chứng. vô đắc,
vì bổn phận mà làm, coi việc cứu độ chúng sinh là một việc tất nhiên,
không thấy mình làm (vô ngã), không thấy việc làm (vô ngã sở), không
thấy có chúng sinh được cứu độ, các Ngài làm hoài mà không nghỉ mệt,
không thấy chán, không chấp trước, không phân biệt, các Ngài đã đồng hóa
với việc làm, với chúng sinh. Bồ Tát với chúng sinh là một, chẳng hai
(Bất Nhị).
Nhờ
có chúng sinh đau khổ mà Bồ Tát làm tròn nhiệm vụ, rồi quả vị Phật sẽ
đến, dù không mong cầu mà vẫn được. Bồ Tát làm việc gì cũng tùy thuận
chúng sinh. Bồ Tát lãnh lấy cõi Phật chẳng phải ở nơi không có gì hết,
mà phải có chúng sinh, phải vì chúng sinh, đó là ý nghĩa câu: Tất cả
chúng sinh là cõi Phật của Bồ Tát, cõi Phật được lặp ra là do chúng
sinh, tùy thuận sở thích của chúng sinh. Nếu chúng sinh ưa thích Tịnh Ðộ
thì Bồ Tát sẽ nhận lãnh Tịnh Ðộ làm cõi Phật của mình để tùy duyên hóa
độ. Nếu chúng sinh ưa thích uế độ thì Bồ Tát sẽ nhận lãnh uế độ Ta Bà
làm cõi Phật của mình. Chỗ này đồng ý nghĩa với đoạn Kinh trong phẩm Phổ
Môn: Nếu có chúng sinh nào đáng dùng thân Phật, Thanh Văn, Trời, Người,
Thần, Quỷ... được độ thoát thì Bồ Tát Quán Thế âm liền hiện đúng thân
đó mà nói Pháp.
Chúng
sinh ở đâu, muốn gì thì Bồ Tát đến đó mà giáo hóa điều phục, như vậy
thì Bồ Tát đi theo chúng sinh, tùy thuận chúng sinh, tùy duyên dạy dỗ,
dù lãnh lấy cõi Phật nào cũng đều vì lợi ích chúng sinh. Trong Kinh có
câu: Bồ Tát nguyện lãnh lấy cõi Phật chẳng phải ở nơi rỗng không, nghĩa
là Bồ Tát đắc quả Phật là nhờ thành tựu chúng sinh, nhờ có chúng sinh mà
Bồ Tát có cơ duyên giáo hóa cứu độ. Bồ Tát không lìa chúng sinh, và chỉ
khi nào độ xong tất cả chúng sinh thì các Ngài mới thành Phật.
Ðức
Phật dạy: Bồ Tát muốn được Tịnh Ðộ thì hạnh đầu tiên phải có là Trực
Tâm. Trực là ngay thẳng, chân chánh, chân thật, không cong queo tà vạy.
Trực Tâm là lòng ngay thẳng, chân thật, mọi ý tưởng lời nói việc làm đều
đúng với Chân Lý, xa lìa vô minh vọng tưởng. Trực Tâm chính là Bát
Chánh Ðạo, con đường chân chánh gồm có tám yếu tố: Chánh Kiến, Chánh Tư
Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và
Chánh Ðịnh.
Người
tu Bồ Tát hạnh cần phải khởi đầu bằng cách phát tâm tu hành chân chánh,
hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chứ không cầu Thanh
Văn Duyên Giác, cũng không cầu phước báo nơi cõi Trời, cõi người. Sau
khi có Trực Tâm rồi, người tu hành tiến sâu thêm nữa vào nội tâm, phát
khởi Thâm Tâm. Thâm là sâu. Người phát Thâm Tâm là đã có lòng tin sâu xa
nơi Tam Bảo: Phật Pháp Tăng, chí tâm, chí thành, chí kính, hết lòng hy
sinh cúng dường Tam Bảo, làm việc gì cũng vì lợi ích chúng sinh. Người
phát Thâm Tâm lìa bỏ trần cảnh bên ngoài để thấy Phật bên trong, bỏ
tướng để thấy Tánh, nhờ Dụng mà nhập Thể, biết rằng tất cả chúng sinh
đều có Phật Tánh, trước sau rồi cũng thành Phật. Thường Bất Khinh Bồ Tát
trong Kinh Pháp Hoa là người tu hành đã có Thâm Tâm nên hễ gặp ai tu
hành là Ngài lễ lạy và nói lo: "Tôi không dám khinh quý Ngài, vì quý
Ngài đều sẽ thành Phật," Bồ Tát đã nhìn thấy Tánh Phật bên trong, xuyên
qua hình tướng bên ngoài.
Khi
đã có Trực Tâm và Thâm Tâm rồi, người tu Bồ Tát Ðạo tinh tấn tiến bước
hướng về nẻo giác, đó là Bồ Ðề Tâm. Phát Bồ Đề Tâm là phát thệ nguyện
lớn quyết chí tu hành tới chỗ hoàn toàn giác ngộ và giải thoát, thành
Phật. Sau khi giác ngộ rồi thì lại thị hiện ở các cõi để giác ngộ cho
các chúng sinh.
Ba
hạnh Trực Tâm, Thâm Tâm và Bồ Ðề Tâm có liên hệ mật thiết với nhau, bổ
túc cho nhau, thiếu một là không được. Nhờ có Trực Tâm mới nhập vào Thâm
Tâm, có Thâm Tâm thì Bồ Ðề Tâm mới tăng trưởng, ví như lau hết bụi thì
mặt gương tự sáng.
Trực
Tâm là công phu tu hành để chuyển năm thức đầu (tiền ngũ thức: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân) thành ra Thành Sở Tác Trí là cái trí huệ sáng suốt
khiến mọi việc làm đều thành tựu chân chánh tốt đẹp. Thâm Tâm là công
phu tu hành để chuyển thức thứ sáu (Ý Thức) thành ra Diệu Quán Sát Trí
là cái Trí huệ sáng suốt nhận xét nhiệm mầu đúng với Chân Lý, không còn
mê vọng nữa. Thâm Tâm là cái tâm sâu kín ẩn tàng, tượng trưng cho Ý Thức
nằm sâu ở bên trong. Còn Bồ Ðề Tâm là công phu tu hành để chuyển thức
thứ bảy (Mạt Na Thức) và thức thứ tám (A Lại Da Thức) thành ra Bình Ðẳng
Tánh Trí và Ðại Viên Cảnh Trí, là cái trí huệ sáng suốt, phá hết chấp
ngã và chấp pháp, thấy được cái Tánh bình đẳng của vạn vật, là Trí huệ
sáng suốt viên mãn tròn đầy như tấm gương rộng lớn chiếu soi khắp càn
khôn vũ trụ, vật gi cũng in bóng mà chẳng giữ lại một dấu tích gì. Như
vậy thì tu ba hạnh Trực Tâm, Thâm Tâm và Bồ Ðề Tâm chính là chuyển tám
thức thành bốn trí.
Ngoài
ra, người tu hành theo Bồ Tát Ðạo còn phải thực hành Lục Ðộ Ba La Mật
(Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ), Bốn Tâm Vô
Lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả), Tứ Nhiếp Pháp (Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng
sự), khéo dùng mọi phương tiện để dẫn tới cứu cánh, tu 37 phẩm trợ đạo,
làm mười điều lành, nói pháp trừ tám nạn, không chê chỗ kém của người
khác, và sau hết, làm được công đức gì đều đem hồi hướng cho tất cả
chúng sinh đồng thành Phật Ðạo.
Qua
đoạn kinh trên, Ðức Phật đã đưa ra nhiều phương pháp tu hành để chúng
sinh lựa chọn, tùy theo căn cơ và sở thích. Phương pháp nào cũng chân
chánh lành tốt và đều đưa tới mục đích là giác ngộ, ví như một tòa nhà
có nhiều cửa, đi cửa nào cũng vào được, chúng ta tùy sức, tùy theo vị
trí đang đứng mà lựa chọn một lối đi, một cửa vào cho thích hợp.
Ðể
tóm tắt và cho có mạch lạc, Ðức Phật dạy thêm: Muốn làm tất cả các hạnh
lành, Bồ Tát khởi đầu bằng cách giữ tâm chân chánh ngay thẳng, từ cãn
bản đó tiến lên điều phục ý thức, làm mọi việc lành để hóa độ chúng
sinh, lãnh lấv cõi Phật thanh tịnh. Muốn được cõi Phật thanh tịnh, Bồ
Tát giữ tâm thanh tịnh, tùy chỗ tâm thanh tịnh mà được cõi Phật thanh
tịnh.
Bồ
Tát khởi đầu bằng cách phát tâm, rồi tinh tấn tu hành tự giác giác tha,
tự lợi lợi tha, làm vô lượng vô số việc lành để cuối cùng được trở về
với Bản Tâm thanh tịnh, mà cái Bản Tâm này vốn thanh tịnh từ trước, chỉ
vì chúng sinh mê lầm điên đảo vọng tưởng, chạy theo trần cảnh nhiễm ô,
bị vô minh che lấp Chân Tánh, như người nằm chiêm bao, lầm tưởng Tâm có
chân vọng đối đãi, tịnh nhiễm đối nhau, nay tỉnh mộng mới biết là Tâm
chẳng hai (Bất Nhị), lúc nào cũng thanh tịnh.
Tùy
chỗ tâm thanh tịnh mà tất cả công đức đều thanh tịnh, có nghĩa là: khi
tâm đã thanh tịnh, hết vọng động mê lầm điên đảo thì tất cả ý nghĩ, lởi
nói, việc làm đều lành tốt đúng với Chân Lý. Khi đó không còn phân biệt
thiện ác, lành dữ, tốt xấu, không còn đối đãi thị phi, không còn chấp
ngã chấp pháp, không chấp hai bên..., mà người tu hành đạt tới tâm vô
phân biệt, chẳng phải là không phân biệt thiện ác cứ làm bừa đi, mà có
nghĩa là không thể làm điều xấu ác được nữa, mọi hành động đều lành, mọi
lời nói ý nghĩ đều tốt, cứ tự nhiên tự động mà mọi việc làm đều lìa
tương đối, thể hiện Chân Lý Bất Nhị, quy hướng Phật Tánh Chân Như. Ví
như người giữ giới thuần thục rồi, không cần chú ý mà vẫn không phạm tội
sát sinh, ăn thịt, nói dối, tà dâm, uống rượu, trộm cắp, vì đã quá quen
thuộc nên chằng cần giữ gìn mà không bao giờ phạm giới được nữa.
Phàm
phu chúng ta còn phải phân biệt thiện ác, phải canh chừng lời nól, ý
nghĩ và việc làm, bỏ ác theo thiện. Nhưng các vị Bồ Tát có tâm thanh
tịnh rồi thì mọi việc đều lành, mọi hành động đều thiện, các Ngài cứ làm
là tốt, đúng với Chân Lý, khỏi cần phân biệt thiện ác gì nữa.
Xin nói thêm về phân biệt và không phân biệt:
Phân biệt có ba thứ:
1) do giác quan tiếp nhận, tùy theo bản năng mà phân biệt (do năm thức trước: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân).
2) do ý thức so sánh cân nhắc mà phân biệt.
3) do Chân Tâm ứng với ngoại cảnh, như gương in hình, không phân biệt mà tựa hồ như có phân biệt.
Năm
giác quan và Ý thức phân biệt đều là vọng. Còn Chân Tâm ứng với ngoại
cảnh, in hình rõ ràng nhưng không phân biệt, vượt qua bản năng và suy
luận. Mặt nước phản chiếu bóng chim bay, chim không có ý in hình trong
nước, nước không có ý giữ bóng chim bay, nhưng do những cơ duyên ngẫu
hợp mà chim, nước và bóng quy tụ lại một nơi, do đó phát sinh hiện tượng
vô phân biệt. Chân Tâm tựa hồ có phân biệt mà thật ra vô phân biệt, vì
không có ý. Phân biệt rõ muôn vật mà bản tánh vẫn như như bất động, bản
tánh không động thì ý thức không sinh khởi, gọi là vô phân biệt.
Nhà
thiền cũng nói: Không phân biệt nhưng là phân biệt tất cả Pháp. Tùy
duyên mà phân biệt rõ ràng muôn vật, nhưng không chấp, không trụ vào mọí
sự phân biệt. Cứ đi đứng nằm ngồi, cứ ăn uống, cứ nhìn nghe phân biệt
như mọi người, vì đó là nhu cầu của đời sống, có xấu xa gì đâu mà cần
phải giải thoát ra ngoài, quý hồ đừng nghĩ đến sự đi đứng nằm ngồi sao
cho êm ấm dễ chịu, đừng nghĩ đến sự ăn uống nhìn nghe sao cho vừa ý,
đừng nghĩ đến sự khen chê giầu nghèo sang hèn. Cái rắc rối sinh ra mọi
thứ phiền não chính là ở chỗ phân biệt so sánh đó mà ra. Cần nghĩ thì cứ
nghĩ, không ngại, nghĩ xong thì bỏ qua, đừng so sánh phân biệt, trụ vào
đó để phát sinh phiền não ác nghiệp, vì nghĩ cũng là một nhu cầu như
mọi nhu cầu tâm lý, sinh lý khác của con người. Nghĩ xong thì bỏ, phân
biệt mà vô phân biệt là thế đó.
Khi
tu hành tới chỗ Tâm thanh tịnh thì mọi người đều y như nhau, bằng nhau,
không sai khác, tuy nhiều mà vẫn là một, vì vậy mà 500 lọng báu hợp lại
thành một lọng trùm khắp ba lần ngàn đại thiên thế giới. Tâm thanh tịnh
giác ngộ hiểu biết và thấy rõ mọi sự mọi vật. Khi Tâm đã thanh tịnh rồi
thì đối với người ấy, cõi Phật được thanh tịnh và mười phương quốc độ,
chúng sinh, trần cảnh... tất cả đều thanh tịnh hết. Vì sao? Vì tất cả do
Tâm tạo, Tâm thanh tịnh thì nhất thiết những gì do Tâm ấy tạo ra đều
thanh tịnh cả. Sở dĩ phàm phu thấy cõi nước nhơ bẩn, cao thấp, uế trược
vì Tâm bị vô minh che lấp, không sáng suốt bình đẳng nên không nhận ra
sự thật. Tâm thanh tịnh được ví như một ly nước hoàn toàn trong sạch,
sau khi đã gạn lọc hết bụi nhơ, chỉ còn một thứ nước mát mẻ trong lành,
không còn hai thứ nước và bụi (Bất Nhị), đó là Tâm bình đằng tuyệt đối,
không còn tương đối nhị biên.
Cõi
Phật Tịnh Ðộ không phải cảnh ở ngoài: mà chính do Tâm phát xuất, muốn
tạo lập Tịnh Ðộ thì trước hết phải tịnh Tâm mình đã, tùy Tâm tịnh mà cõi
Phật được thanh tịnh. Ðối với Bồ Tát thì đối tượng của các Ngài chính
là chúng sinh ở ngay cõi đời này, hạnh của Bồ Tát là tự tâm thanh tịnh,
rồi trần cảnh sẽ thanh tịnh theo. Kinh Duy Ma Cật chỉ thẳng cái nhân
thanh tịnh, còn Kinh A Di Ðà chỉ thẳng cái quả thanh tịnh, cõi Cực Lạc
tốt đẹp do phước báo tạo ra: cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang
nghiêm, không thể lấy một chút nhân duyên của thiện căn phước đức mà
được sinh sang nước đó.
Ðể
cụ thể hóa lý thuyết Bất Nhị và giúp ông Xá Lợi Phất, các hàng Thanh
Văn cùng tất cả đại chúng thấy rõ ràng sự thật đó, Ðức Phật hiện thần
thông lấy ngón chân nhấn xuống đất, tức thì ba lần ngàn đại thiên thế
giới liền hiện ra trăm ngàn thứ trân bảo trang nghiêm rực rỡ, như cõi Vô
Lượng Công Ðức của Phật Bảo Trang Nghiêm, tất cả đại chúng ngợi khen
chưa từng có và đều thấy mình ngồi trên tòa sen báu. Phật dạy: Cõi nước
của ta thường thanh tịnh, chỉ vì muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt nên thị
hiện ra cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh đó thôi.
Ðoạn này có hai lối hiểu khác nhau:
l)
Hiểu theo sự thì Phật có hiện thần thông thật để đại chúng không còn
nghi ngờ gì cõi Phật thanh tịnh nữa. Cũng ví như phương pháp thính thị,
tai nghe mắt thấy rõ ràng.
2) Hiểu theo lý thì đây là một lối nói ám
chỉ Phật dạy một cách gián tiếp rằng: Phải hoán cải nội tâm, mở rộng tâm
linh, chuyển Thức thành Trí, tu quán để phát huy trí huệ (Quán chiếu
Bát Nhã) nhìn vào trong tâm (nội quán), khi tâm thanh tịnh thì thấy các
cõi đều thanh tịnh. Chúng sinh vốn có đầy đủ đức tánh Như Lai, vì si mê
nên tưởng là phàm phu trầm luân, lúc giác ngộ thì thấy mình vẫn ngồi
trên tòa sen báu từ trước. Nhưng sự giác ngộ, tâm thanh tịnh của chúng
sinh chưa được trường cửu, hãy còn lúc có lúc không, nên khi nào tâm
thức vọng động trở lại, hết thanh tịnh, thì không thấy Tịnh Ðộ nữa, đó
là ý nghĩa câu Kinh: Phật thâu nhiếp thần túc lại, cõi nước trở thành
như xưa.
Kinh
điển Phật Giáo thường nói Ðức Phật quở trách đệ lử nào dùng thần thông
nhiếp phục chúng sinh. Tuy Ðức Phật và các đại đệ tử đều có thần thông,
nhưng không lưu ý và cũng không đem ra dùng, chỉ đem Chánh Pháp để
thuyết phục cứu độ chúng sinh, ai tin hiểu thì theo, không thì thôi, nếu
dùng thần thông thì cũng giống như các phái ngoại đạo và không nhiếp
phục được thâm tâm của người khác. Vậy nên hiểu câu chuyện Phật hiện
thần thông trong Kinh Duy Ma Cật là một ẩn dụ thì hợp lý hơn. Tuy nhiên
nếu hiểu theo nghĩa đen là Phật có hiện thần thông thật, tin theo đó rồi
phát tâm tu hành cũng tốt. Ðây là một việc không thể nghĩ bàn, không
thể biện luận được. Tùy theo căn cơ hiểu biết, tùy theo xu hướng tâm
linh mà chúng ta chấp nhận ý kiến trên hay dưới, lối giải thích nào cũng
được coi là đúng nếu nương theo đó mà hành giả phát tâm cầu đạo vô
thượng bồ đề, được lợi lạc an vui giải thoát.
Ðức
Phật nhấn ngón chân xuống đất là có ý muốn bảo đại chúng phải đè ép cái
tâm xuống không cho vọng động nổi lên, tâm ở yên một chỗ thì mới Ðịnh,
có Ðịnh mới phát Huệ, có Huệ thì Tâm được thanh tịnh, nhờ đó mà quốc độ
thanh tịnh. Ðất do chữ Ðịa, đất là Tâm nên chúng ta thường có danh từ
Tâm Ðịa để chỉ phần căn bản tốt xấu của người ta, thí dụ: tâm địa người
này tốt, còn người kia có tâm địa xấu. Kinh Tâm Ðịa Quán, Quyển 8 có
câu: Tâm chúng sinh giống như đấl, ngũ cốc cỏ gai đều từ đất mà sinh ra;
cũng như thế, những tư tưởng ý niệm thiện ác hướng về ba cõi sáu đường,
hoặc hướng về những quả vị Thánh như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
Phật, đều do tâm mà sinh ra. Do đó tam giới duy tâm, và tâm được gọi là
đất.
Ðất
để trồng cây cỏ thì tâm để gieo hột giống thiện ác, vì vậy dùng đất để
chỉ tâm là một ẩn dụ khéo léo. Cái cử động của Phật nhấn ngón chân xuống
đất là có ý như vậy. Nhờ thần lực của Phật mà tất cả đại chúng đều thấy
mình ngồi trên tòa sen báu, đó là ý Phật muốn chỉ cho đại chúng biết
tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, đều có khả năng thành Phật, chỉ vì
si mê điên đảo nên chịu trầm luân nơi uế độ, nếu tỉnh thức, tỉnh mộng,
thấy rõ sự thật thì được giải thoát an vui nơi Tịnh Ðộ.
Sau
khi hiện thần thông để đại chúng thấy cõi nước thường thanh tịnh, Ðức
Phật thâu nhiếp thần túc lại, tức là Ngài nhấc ngón chân lên khỏi mặt
đất, cõi nước trở lại như xưa, nghĩa là nhơ uế, cao thấp... Ðoạn kinh
này diễn tả người tu hành phải tinh tấn ròng rặc mà tiến, đừng giải đãi
lười biếng thoái chí. Phật nhấc ngón chân lên khỏi mặt đất nghĩa là nếu
chúng sinh không đè chặt cái tâm xuống thì vọng động lại nổi lên: không
còn Ðịnh và Huệ, vô minh che lấp Phật Tánh, Chân Tâm biến thành vọng
thức, do đó cõi nước hết thanh tịnh, trở lại ô uế như xưa.
Phật,
Bồ Tát khác chúng sinh ở chỗ các Ngài có định tâm, có trí huệ sáng suốt
luôn luôn thường hằng, lúc nào cũng vậy, không cho vô minh đột khởi,
còn chúng sình thì sáng tối bất thường, chợt lóe lên đốm lửa tu huệ
trong giây lát rồi vụt tắt hằng giờ, hằng ngày. Lúc nào Tâm định, trí
huệ sáng soi thì là Phật, là sống ở Tịnh Ðộ, lúc nào hết định huệ, bóng
lối che lấp Chân Tánh thì trở lại làm chúng sinh, sống ở cõi Ta Bà uế
trược.
Ðiều
quan trọng cần nhớ là chư Bồ Tát lãnh cõi Phật, thị hiện ở cõi nào là
vì chúng sinh, tùy thuận theo nguyện vọng cùa chúng sinh, chứ không phải
thuận theo ý thích của Bồ Tát. Ðối với các Ngài thì cõi nào cũng thanh
tịnh, vì Tâm đã thanh tịnh. Các Ngài tạo lập mộl khung cảnh thuận tiện
cho chúng sinh tu hành, sắp xếp làm sao không làm chướng ngại chúng
sinh. Các Ngài thị hiện thuận cảnh hoặc nghịch cảnh, xuôi hay ngược, dễ
hay khó, đều vì chúng sinh chứ không phải vì các Ngài, tất cả đều là
phương tiện tùy theo không gian và thời gian, tùy theo căn cơ và hoàn
cảnh để đưa chúng sinh tới chỗ giác ngộ.
Khi
Phật biến hiện ra cõi nước trang nghiêm thanh tịnh thì 500 Trưởng Giả
Tử do ông Bảo Tích dẫn đến đều chứng được vô sinh pháp nhẫn, tám vạn bốn
ngàn người phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vô sinh là không
phải sinh, không phải diệt không còn ở trong vòng sinh tử luân hồi. Pháp
nhẫn là trí huệ vô lậu phát huy được do lòng tin nhận lời Phật, giữ gìn
cấm giới, nhẫn nhục tu hành. Chứng được vô sinh pháp nhẫn là phát huy
được cái trí huệ vô lậu, an trụ trong cái Thế bất sinh bất diệt, tâm
không lay động, vượt ra ngoài vòng sinh tử luân hồi. Năm trăm vị trưởng
gìả này đã trồng cội lành lừ lâu xa, nay có duyên may được gặp Phật,
nghe Pháp, thấy cõi Phật thanh tịnh, màn vô minh bị xé tan, mặt trời trí
huệ tự sáng, tâm được thanh tịnh như ra khỏi giấc chiêm bao, tỉnh giấc
mộng dài, chứng quả vô sinh giải thoát.
Ðoạn
kinh này chứng minh đoạn kinh trước có liên hệ mật thiết với nhau: năm
trăm trưởng giả tử có lọng bảy báu là do công phu tu hành tích tụ từ
nhiều đời nhiều kiếp, nhưng các vị đó không còn chấp ngã chấp pháp, vô
cầu, vô chứng, vô đắc, làm được công đức gì cũng xả, cho nên đem lọng
báu của mình cúng dường Phật, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, nhờ tu
chữ Xả mà được giải thoát, chứng vô sinh pháp nhân. Còn tám vạn bốn ngàn
người khác chỉ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, nghĩa là mới
bước vào giai đoạn đầu tiên phát tâm tu hành, mới đặt chân vào con đường
đạo, chưa chứng quả.
Lúc
Phật thâu nhiếp thần túc lại, cõi nước trở thành như xưa, ba vạn hai
ngàn người và Trời cầu quả Thanh Văn đều nhận rõ các pháp hữu vi là vô
thường, liền xa lìa trần cấu đặng pháp nhãn thanh tịnh, tám ngàn Tỳ Kheo
không còn chấp thọ các pháp, kiết lậu đã hết, tâm ý được giải thoát.
Những người và Trời cầu quả Thanh Văn là những hàng chúng sinh trí nhỏ
huệ mỏng, mới bỏ được ngã chấp nhưug còn pháp chấp, vẫn thấy có pháp môn
tu có quả vị chứng. Nay nhờ thần lực của Phật, thấy tận mắt cảnh vô
thường biến đổi, từ Ta Bà biến thành Tịnh Ðộ rồi lại trở thành Ta Bà,
như người mù được sáng, biết các pháp hữu vi là vô thường nên bỏ luôn
được pháp chấp, hết vọng tưởng điên đảo, dứt được 88 kiến hoặc trong ba
cõi, được Pháp Nhãn thanh tịnh, nghĩa là có Chánh Kiến, thấy rõ được lý
chân thật của các pháp là vô ngã, vô thường, khổ, KHÔNG, thâm nhập lý Tứ
Ðế và chứng quả vị thấp nhất trong Thánh Ðạo gọi là Sơ Quả. Theo Nam
Tông thì Sơ Quả là Tu Ðà Hoàn hoặc Nhập Lưu, mới được gia nhập vào dòng
Thánh. Còn theo Bắc Tông thì Sơ Quả là Bồ Tát Sơ Ðịa, thấp nhất trong
mười địa vị của Bồ Tát.
Tám
ngàn Tỳ Kheo không còn chấp thọ các pháp, nghĩa là phá được pháp chấp,
xả hết mọi chấp trước, lìa được các phiền não buộc chặt trong lòng, tâm ý
được tự tại giải thoát, chuyển được tám thức thành bốn Trí, ví như mây
tan trăng sáng, bụi hết đèn soi, được giác ngộ chứng bậc vô học là A La
Hán. Vô học là không cần phải học nữa, vì đã sáng suốt, nhưng vẫn còn
phải tiến tu tới khi thành Phật.
Ý
đoạn Kinh này chứng minh những kết quả cụ thể cùa đại chúng lãnh hội
lời Phật dạy, tùy theo căn cơ của mỗi hạng chúng sinh mà kết quà thu
lượm được có khác nhau, nhưng đều được lợi ích an vui. Quả vị thấp thì
nhiều chúng sinh đạt được (tám vạn bốn ngàn người phát tâm vô thượng
chánh đẳng chánh giác), cao hơn thì số người ít đi (ba vạn hai ngàn
người và Trời chứng Sơ Quả, tám ngàn Ty Kheo chứng quả A La Hán), cao
hơn nữa chỉ có năm trăm Trưởng Giả Tử chứng vô sinh pháp nhẫn. Càng cao,
càng khó, càng ít chúng sinh chứng quả.
Kinh
Pháp Hoa, phẩm Dược Thảo Dụ, cũng đồng một ý này . Cùng nhờ một trận
mưa lớn mà các cây to, cây nhỏ, cây thuốc, cây cỏ hút nước nhiều ít khác
nhau, nhưng tất cả đều được thấm nhuần thỏa mãn. Tất cả đại chúng có
duyên may được nghe Chánh Pháp, tuy lãnh hội nhiều ít cao thấp khác
nhau. Dù chưa đắc quả ngay nhưng đã gieo được nhân lành vào Tâm địa, sau
này sẽ hái được quả ngọt, miễn là tinh tấn tu hànb theo đúng lời Phật
dạy.
Ðến đây là hết phẩm I gọi là Phẩm Phật Quốc, nói rõ nước Phật ở
ngay thế gian này, ở ngay trong tâm mình, không phải tìm đâu xa, tâm
thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh, thấy cái gì cũng thanh tịnh, mà tâm
không thanh tịnh thì thấy cái gì cũng không thanh tịnh. Trí huệ sáng
suốt thì cõi Ta Bà biến thành Tịnh Ðộ, mà vô minh che lấp Chân Tánh thì
Tịnh Độ trở thành Ta Bà.
Nhân
vật chính trơng quyển Kinh này là Cư Sĩ Duy Ma Cật, nhưng trong Phẩm I
Phật Quốc này, vai trò chinh là ông Bảo Tích và năm trăm Trưởng Giả Tử,
cũng đều là cư sĩ tại gia, phát Bồ Ðề Tâm, tu Bồ Tát Ðạo.
Ðiều
này chứng minh vai trò của hàng cư sĩ tạí gia tu hạnh Bồ Tát, ở trong
đời nhưng giữ Tâm ngay thẳng, quên mình làm việc từ thiện xã hội, hàng
xuất gia đắc Thánh Quả thì hàng tại gia cũng được vô sinh pháp nhẫn,
giác ngộ giải thoát không kém gì. Phẩm này cũng nêu rõ là không cứ phải
vào chùa mới là tu, mà ở đâu tu cũng được, chỗ nào tu cũng được, gặp
hoàn cảnh nào tu cũng được, chỉ cần chuyên tâm chứ không chuyển cảnh,
Tâm tịnh thì quốc độ tịnh, cõi Phật tịnh.
Phẩm
Phật Quốc này đã nêu rõ mục đích của quyển Kinh Duy Ma Cật, lời Phật
dạy thật rõ ràng đầy đủ, oai thần lực của Phật đã mở mắt đuì mù cho
chúng sinh, nếu người lợỉ căn thông minh trí sáng thì học tới đây đã đủ,
vì tôn chỉ và các phương pháp tu hành đã được Phật chỉ dạy rành rẽ.
Các
Kinh của Phật Giáo Bắc Tông hay Ðại Thừa đều giống nhau ở chỗ bao nhiêu
ý thú quan trọng, mục đich tôn chỉ quyển Kinh đều tập trung, cô đọng ở
phẩm đầu tiên, người lợi căn sáng suốt nắm được đầu mối thì hiểu lý bộ
Kinh dễ dàng, không cần đọc hết. Học Kinb Hoa Nghiêm mà hiểu được lý Vạn
Vật Ðồng nhất Thể, một là tất cả, tất cả là một, trùng trùng duyên
khởi, rồi y theo đó mà tu hành là đủ rồi. Học Kinh Lăng Nghiêm mà hiểu
được Chân Tâm là cái Thường Hằng Bất Biến, không ở trong thân, không ở
ngoài, mà chu biến khắp nơi, bất sinh bất diệt, thì là đủ nắm vững lý
kinh, không cần học hết các chi tiết. Học Bát Nhã Tâm Kinh mà thâm nhập
được lý Ngũ Uẩn Giai Không thì không cần đọc hết quyển kinh, chỉ cần áp
dụng tu theo Chân Không Diệu Hữu là đầy đủ.
Lục
Tổ Huệ Năng không biết chữ, nghe người đọc Kinh Kim Cang đến câu "Vân
hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?" là Ngài ngộ, rồi nhờ Ngũ Tổ giảng
cho nghe câu "ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là Lục Tổ chứng Ðạo. Sau có
người hỏi về Kinh Pháp Hoa. Lục Tổ chỉ nghe đọc phẩm đầu tiên là Tổ nắm
bắt được ngay ý kinh là Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật-Tri-Kiến cho chúng
sinh, chỉ có một Phật Thừa, phương tiện chia làm ba. Lục Tổ Huệ Năng
không được học ba tạng kinh điển, nhưng Ngài đã minh tâm kiến tánh chứng
ngộ Chân Lý, thì lìa được văn tự ngữ ngôn.
Đối
với phần đông chúng ta, căn cơ chậm lụt, chướng dày huệ mỏng, thì phải
học cho hết toàn bộ quyển Kinh, nhờ những lời dạy chi tiết ở các phẩm
sau mới mong nhận ra ý Phật, rồi theo đó tu hành, tự tu tự học, hạ thủ
công phu, tự giác rồi giác tha, tự lợi rồi lợi tha, tu sửa thân tâm,
thực hành Bồ Tát Ðạo.