KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Phẩm PHÁP SƯ
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà
Pháp sư là vị thầy thông hiểu chánh pháp,
sống với chánh pháp và truyền bá chánh pháp, mà pháp được nói là kinh
Diệu Pháp Liên Hoa tức là Tri Kiến Phật vốn đã có sẵn trong mỗi chúng
sinh. Do đó Pháp sư Pháp Hoa là vị thầy truyền bá, giảng nói, thọ trì,
đọc tụng kinh Pháp Hoa. Vì trong tất cả mọi chúng sinh đều có Tri Kiến
Phật giống y như Phật nên Ngài mới thọ ký cho đời sau sẽ thành Phật. Do
đó nếu chúng sinh không có sẵn chất vàng này thì Phật không bao giờ dám
thọ ký cho ai cả vì Ngài không phải là đấng thần linh, nắm toàn quyền
thưởng phạt trong tay. Vì thế thọ ký chẳng qua là lời khuyến khích của
đấng đạo sư để giúp con người tăng thêm năng lực mà tự mình vun bồi
phước đức, công đức và phát triển trí tuệ để đạt đến cứu cánh tối thượng
là thành Phật. Nói cách khác tuy Phật có thọ ký cho chúng sinh, nhưng
chính sinh phải tự mình hóa giải hết vô minh phiền não để chứng nghiệm
chân lý chớ Phật không cho ta quả vị Phật được.
Để dạy cho tám muôn Đại Sĩ, khi bấy giờ Phật nói với Bồ-tát Dược Vương rằng:
-Trong đại chúng đầy đủ hạng
người Chư Thiên, Long Vương, Càn-thát-bà, A-tu-la…Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,
Thanh Văn, Duyên Giác cho đến những người cầu thành Phật đạo. Không để
riêng ai, nếu người nào ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một
câu một bài kệ nhẫn đến một niệm tùy hỉ, Như Lai đều thọ ký họ là người
sẽ thành tựu quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đối với Phật nhãn thì Ngài nhìn tất cả
đều là chúng sinh tức là ai ai cũng đều có Tri Kiến Phật nghĩa là đã có
đầy đủ nhân tố tức là có hột giống Phật để tu thành Phật. Vì thế nếu
chúng sinh nghe kinh Pháp Hoa ngay cả chỉ cần một câu hay một bài kệ với
tâm tùy hỉ thì cũng được Phật thọ ký cho thành Phật. Trong pháp hội này
có đầy đủ mọi hạng người từ Thanh Văn, Duyên Giác, trời người, chư
thiên, long vương, quỷ thần đều được Phật thọ ký hết, không bỏ sót một
ai.
Phật dạy tiếp: Sau Như
Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một câu một bài
kệ cho đến một niệm tùy hỉ, Như Lai cũng thọ ký cho quả Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Người nào thọ trì, đọc, tụng,
giảng nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa cung kính cúng dường bằng
các thứ trân bảo, hương thơm, trang nghiêm đẹp đẽ… Dược Vương nên biết
các người đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, đã thành tựu đại
nguyện, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân gian đấy.
Tuy chúng ta sinh vào thời không có Phật,
nhưng dựa theo kinh Pháp Hoa đức Phật dạy rằng sau khi Ngài nhập diệt,
có người nghe kinh Pháp Hoa cho dù chỉ là một câu, một bài kệ, hay một
niệm với tâm hoan hỉ thì cũng được Phật thọ ký sẽ thành Phật. Tại sao
lại phải hoan hỉ? Hoan hỉ là hân hoan chấp nhận rằng trong ta đã có sẵn
Tri Kiến Phật tức là Phật nhân rồi sau đó nỗ lực tinh tấn tu hành thì sẽ
đạt đến Phật quả. Vì thế người hội nhập Pháp Hoa là người lúc nào cũng
biết rằng mình là Phật, chúng sinh là Phật, ai ai cũng là Phật thì từ đó
tinh thần vô ngã vị tha sẽ nở rộng trong tâm vì cảm nhận được nỗi khổ
của người là nỗi khổ của mình và niềm vui của người cũng là niềm vui của
chính mình.
Người nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói,
biên chép được thì người đó là Pháp sư Pháp Hoa nghĩa là người đó phải
tin và hiểu nghĩa lý của kinh Pháp Hoa thấu suốt.
Cung kính cúng dường bằng các thứ trân
bảo, hương thơm đẹp đẽ để cúng dường kinh Pháp Hoa tức là cúng dường
mười muôn ức Phật…không có nghĩa là chúng sinh phải tìm những thứ trân
bảo quý giá đắc tiền để cúng dường chư Phật mà thân ý kinh muốn nói là
chúng sinh phải cố gắng vun bồi cái tánh giác tròn đầy của mình trong
mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Đó là phải giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh.
Một ý niệm lành là đã cúng dường cho một vị Phật, một lời nói thiện là
đã cúng dường cho một vị Phật khác, một hành động tốt là đã cúng dường
cho một vị Phật nữa. Cứ thế mà làm thì những chủng tử thiện sẽ đưa con
người trở về gần với chơn tánh của mình tức là đã cúng dường hằng sa chư
Phật rồi.
Dược Vương! Nếu có người hỏi
trong thời vị lai, những chúng sanh nào sẽ được thành Phật thì nên chỉ
những người vừa kể trên mà nói rằng những người đó sẽ thành Phật. Vì
sao? Nếu có người trai lành, gái tốt nào thọ trì, đọc tụng, biên chép,
giảng nói dầu là một câu của kinh Diệu Pháp Liên Hoa và dùng các thứ
hương hoa, báu vật mà cúng dường, thì người đó đáng được nhân gian chiêm
ngưỡng và cúng dường như cúng dường Phật vì đó là hàng Đại Bồ tát đã
thành tựu Chánh Giác nhưng vì thương chúng sanh mà nguyện sanh trên đời
để phân biệt giảng nói kinh Pháp Hoa. Dược Vương nên biết ! Người đó từ
bỏ phước báu thanh tịnh để sanh vào đời trược ác, vì chúng sanh mà
truyền bá giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau Như Lai diệt độ, nếu có
người trai lành gái tốt có thể vì riêng một người mà nói kinh Pháp Hoa
nhẫn đến một câu kinh phải biết người đó là sứ giả của Như Lai. Như Lai
sai làm việc của Như Lai, còn nói chi người ở trong đại chúng vì nhiều
người giảng nói !
Tuy kinh có nói ở đời sau có những Pháp
sư truyền giảng kinh Pháp Hoa, nhưng truyền giảng ở đây là phải nói đúng
ý kinh, hợp với chủ đích của kinh, nói đúng chân lý chớ không đưa người
nghe vào mê hồn trận nào là tôn thờ, lạy lục, lễ bái, cầu xin Phật hay
Bồ Tát thì đây đâu phải là Pháp Hoa tức lả chỉ thấy hình tướng mà không
thông được lý nhiệm mầu. Giảng như vậy thà đừng giảng còn ích lợi hơn
đưa con người vào con đường mê muội. Thọ trì, biên chép, giảng nói cách
nào mà chúng sinh nhận biết rằng chính họ là Phật thì mới nói đúng Pháp
Hoa. Nói xa hơn là khi đã thâm hiểu Pháp Hoa thì không cần lạy cúng vị
Phật nào để cầu xin sự ban ơn, gia bì vì chính mình là Phật rồi, chính
mình cũng có đầy đủ chất Phật là Tri Kiến Phật rồi. Vì vậy muốn thực sự
trở thành Phật thì chỉ cẩn kiểm soát thân khẩu ý. Nếu thân khẩu ý hoàn
toàn thanh tịnh thì mình là Phật bằng không thì mình là chúng sinh do đó
mê là chúng sinh, thức tỉnh là giác ngộ, là Phật. Đạo Phật luôn dạy
chúng sinh sốngtheo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với
chân lý.
Dược Vương! Nếu có người bất
thiện, dụng ác tâm ở trước Phật chê mắng Phật suốt một kiếp tội còn
nhẹ. Nếu có người hung hãn chưỡi mắng người tại gia hay xuất gia thọ
trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội rất nặng.
Tại sao? Nếu chê mắng Phật thì chỉ chê
mắng có một vị Phật mà Phật ở đây có thể chỉ là Phật tướng, Phật đồng,
Phật gổ thì tội còn nhẹ. Còn người biết thọ trì, ghi chép, giảng nói,
đọc tụng kinh Pháp Hoa thì mọi người sẽ biết mình là Phật, tương lai
mình sẽ thành Phật vì thế nếu chê bai mắng nhiếc việc làm của họ chẳng
khác nào xúc phạm đến vô lượng chư Phật tương lai làm họ thoái tâm Bồ Đề
thì tội chắc chắn sẽ nặng hơn nhiều. Kinh Kim Cang có dạy rằng:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Dịch là:
Nếu thấy Ta bằng sắc tướng
Nghe Ta bằng âm thanh
Người nầy đi đường tà
Không thấy được Như Lai.
Một lần nữa chính đức Phật dạy chúng sinh
phải phá trừ Vô minh vọng chấp để đạt được trí tuệ Bát Nhã thì mới thật
thấy và thật nghe được Phật. Trái lại, nếu còn vô minh vọng chấp có
nghĩa là chấp có sắc tướng hay âm thanh của Phật thì không bao giờ thấy
được Phật. Bởi thế nên Phật mới quở là “Người nầy đi đường tà” tức là
vọng thì sẽ không bao giờ thấy được Như Lai. Như thế nếu từ cửa Bát Nhã
là cửa “Không” chúng ta bước vào trong nhà thì bây giờ mới thấy được tâm
Phật của mình. Nếu sống với tâm Phật nầy là mở rộng cánh cửa giải thoát
để chứng ngộ Niết bàn. Nhưng đây là một thứ Niết bàn tự tánh thường
vắng lặng mà thường sáng suốt. Nó vẫn thường bộc lộ sáng suốt nơi chư
Phật mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Mà kinh gọi là Phật
tánh, là Chơn tâm, là Như Lai tạng. Chính tự tánh Niết bàn nầy có đầy đủ
bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. “Thường” nghĩa là
không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không
lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống chết đổi thay.“Lạc” là không còn khổ não lo buồn, an vui tự tại. “Ngã” là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối. “Tịnh” là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh, trong sáng.
Kinh nói tội nặng không có nghĩa là Phật
sẽ đọa mình vào địa ngục hay Phật sai nam tào bắc đẩu đến xóa sổ mà tội
nặng là mình không chấp nhận chính mình có khả năng thành Phật, chính
mình không tin khả năng chuyển hóa thân khẩu ý của mình cho thật thanh
tịnh ðể Phật chất ðýợc hiển lộ. Do ðó tội nặng là tự mình chôn vùi cuộc
đời của mình vào trong bể trầm luân, không có lối thoát thế thôi chớ có
ai bắt tội mình đâu. Vì thế trong kinh Đại Tạng có câu: “Tội hành nghiệp
cảm” nghĩa là con người làm biết bao tội nghiệp trái với chơn lý thì
chính họ sẽ cảm lấy cái quả báo nó sẽ đến với họ do đó Phật giáo phủ
nhận hoàn toàn chủ thuyết Thượng đế vì nếu Thượng đế sinh ra ta thì ai
sinh ra Thượng đế? Cho nên chính ta mới là Thượng đế của chính mình,
chính ta mới có đủ khả năng và năng lực làm chủ cuộc đời của mình và chỉ
có ta mới thay đổi được định mệnh của mình chớ không ai khác.
Dược Vương! Người đọc tụng kinh
Pháp Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang
nghiêm mình. Như Lai dùng vai mà vác người đó. Mọi người nên dùng những
thứ: hương hoa, kỹ nhạc quý báu nhất trong cõi đời để cúng dường. Vì
sao? Bởi vì nghe pháp của người đó nói trong khoảng giây lát bèn được tỏ
ngộ chân lý rốt ráo đối với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Để lập lại nghĩa trên đức Thế Tôn nói một bài kệ.
Người đã có đức tin vững chắc nơi kinh
Pháp Hoa thì người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm cho
mình. Tại sao? Bởi vì họ lấy trí tuệ nhận thức chân lý của Phật dạy để
áp dụng trong đời sống của mình thì mình sẽ được sự an lành, có sự giải
thoát như Phật. Hằng ngày chúng sinh nên kiểm soát thân khẩu ý của mình,
phải biết sống trong thức tĩnh và luôn giữ chánh niệm thì những ác
niệm, tà kiến không bao giờ dấy động trong tâm của mình. Vọng niệm tan
biến thì tịch diệt hiển bày, thân tâm tự tại.
Rồi đức Phật dạy tiếp:
-Dược Vương ! Kinh điển của ta có
thể nói nhiều vô lượng, đã nói đang nói và sẽ nói mà trong đó kinh Pháp
Hoa khó tin và khó hiểu. Kinh nầy là tạng bí yếu của chư Phật, không
thể truyền trao khinh suất bừa bãi cho những người không đúng đối tượng
căn cơ. Đây là thứ kinh chư Phật giữ gìn cẩn mật chưa từng diễn nói. Bởi
vì Như Lai còn tại thế nói ra còn nhiều người oán ghét huống chi sau
khi Như Lai diệt độ.
Dược Vương nên biết: Sau Như Lai
diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói cho người
khác nghe, Như Lai lấy y mà trùm, người đó được chư Phật trong mười
phương hộ niệm. Như Lai lấy tay xoa đầu và người đó cùng với Như Lai ở
chung.
Từ khi đức Phật thành đạo cho đến khi
Ngài nói kinh Pháp Hoa thì Ngài thuyết rất nhiều nào là Tứ Diệu Đế, nào
là Thập Nhị Nhân duyên…nhưng kinh Pháp Hoa mới là bậc nhất vì nghĩa lý
siêu xuất của nó nên tuy Pháp Hoa là đệ nhất kinh văn mà lại là kinh khó
tin, khó hiểu nhất. Cái tuyệt của kinh là chỉ thẳng Tri Kiến Phật, là
chỗ giác ngộ viên mãn mà Phật đã thành tựu và Ngài biết mỗi chúng sinh
cũng có sẵn cái Tri Kiến Phật giống y như Phật nên Ngài mới khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập
cái thấy biết của mình để chúng sinh tu thành Phật như Ngài. Kinh Pháp
Hoa là tạng pháp quan trọng và bí mật nhất của mười phương chư Phật nên
phải có đúng đối tượng mới có thể tiếp thọ và thọ trì nó được. Khi Phật
nói kinh Pháp Hoa thì có một số người chẳng những không tin mà còn sinh
tâm oán hận vì vậy mai sau khi Phật nhập diệt thì chắc chắn số người xem
thường, phỉ báng sẽ không ít.
Mãi sau khi đức Phật nhập diệt, nếu có
người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa cho người
khác nghe thì sẽ được Phật lấy y Cà sa trùm lên người đó và còn được
mười phương chư Phật luôn gia bị bảo hộ cho người đó và được Phật lấy
tay xoa đầu khiến cho họ khai mở đại trí tuệ. Có thật như thế chăng? Nếu
chúng ta thọ trì kinh Pháp Hoa tức là chúng ta tin nhận nơi mình có Tri
Kiến Phật tức là trong ta đã có Phật (tánh) hiện hữu thường hằng rồi.
Nói cách khác thọ trì kinh Pháp Hoa là biết ta là Phật, chúng sinh là
Phật, ai ai cũng đều là Phật vì vậy Phật xoa đầu, lấy y trùm hay ở với
chúng ta là vậy. Nên nhớ chữ Như Lai kinh dùng ở đây không phải là đức
Phật Thích Ca mà chỉ cho Pháp thân, Phật tánh, Tri Kiến Phật, là bản thể
thanh tịnh của tất cả mọi chúng sinh.
Dược Vương! Ở nơi chốn nào có
kinh nầy hoặc giảng nói hoặc đọc tụng nên xây tháp bằng bảy báu cao rộng
đẹp đẽ mà trong đó không cần tôn trí xá lợi. Bởi vì trong đó có tòan
thân Như Lai rồi. Nên dùng các thứ hương hoa, trân bảo, tràng phan… để
cúng dường tháp. Người nào thấy tháp lễ bái cúng dường, phải biết những
người đó đã gần gũi với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tại sao Phật dạy bất cứ ở nơi nào mà có
người giảng nói, đọc tụng kinh Pháp Hoa hoặc có kinh Pháp Hoa thì nên
xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần để Xá Lợi?
Bởi vì kinh Pháp Hoa nói về Tri Kiến Phật tức là Phật tánh sẵn có nơi
mỗi chúng sinh cho nên có kinh Pháp Hoa là có Pháp thân, Phật tánh hiện
bày ở đó rồi nên không cần Xá Lợi nữa. Còn người đọc tụng, thọ trì kinh
Pháp Hoa là người tin rằng chính mình có Phật tánh tức là mình là Phật,
mình sẽ thành Phật. Mà con đường để viên thành Phật quả thì chúng sinh
phải giữ gìn thân khẩu ý cho thanh tịnh. Mỗi ý niệm lành, một lời nói
thiện hay một hành động tốt là những trân bảo để cúng dường cho vị Phật
trong tâm của chúng ta.Nếu nói về vật chất thế gian thì bảy báu là vàng,
bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hô và mã não. Nhưng ở đây, bảy báu
là bảy con đường thiện xảo đưa con người từ mê đến giác, từ phàm đến
Thánh. Đây chính là Thất Thánh Tài và gồm có: Giới, Tín, Văn, Sám hối,
Tinh tấn, Buông xả và Trí tuệ.
Vànglà vật cao quý chẳng khác gì Giới
Bạclà sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức là lòng tin tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại.
Lưu lylà lưu chuyển tượng trưng cho Văn tức là tánh nghe.
Xà cừcó hình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám hối.
Trân châulà thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn.
San hôthì tượng trưng cho Buông xả.
Mã nãothì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ.
Bồ tát hành đạo mà chưa thấy chưa
nghe được kinh Diệu Pháp Liên Hoa là Bồ tát chưa khéo tu đạo Bồ
tát. Những chúng sanh cầu Phật đạo, hoặc thấy hoặc nghe, nghe rồi tin
hiểu thọ trì nên biết người đó đã gần gũi với quả Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác rồi. Thí như có người khát nước đào giếng ở gò cao, đào
thấy đất còn khô, biết rằng gần tới nước. Bồ tát cũng vậy, thọ trì, biên
chép, giảng nói kinh Pháp Hoa phải biết quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác đối với Bồ tát đó gần kề.
Phật dạy rằng Bồ Tát hành đạo mà chưa
nghe thấy kinh Pháp Hoa thì họ chưa khéo tu đạo Bồ Tát. Tu hạnh Bồ Tát
là vì người quên mình cho nên nếu không biết kinh Pháp Hoa nghĩa là
không biết trong mỗi chúng sinh đã có mầm giống Phật, là Phật tánh
thường hằng vĩnh cữu vì thế khi biết mọi người là Phật thì các hạnh của
Bồ Tát dễ thực hành bởi vì làm việc cho Phật thì họ không câu chấp trong
khi phục vụ cho người thì có lúc tiến có lúc lùi. Thêm nữa, người trở
về với Phật tánh của chính mình là người gần với Phật rồi nên họ rất gần
với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ở đây Phật dùng thí dụ con đường trở về
với Phật tánh cũng như người đào giếng. Muốn đào một cái giếng sâu bảy,
tám thước thì trước hết đào lớp đất cứng trên mặt, rồi sau đó tới lớp
đất mịn và sau cùng mới tới lớp đất ướt. Cũng vậy, người nào biết thọ
trì giảng chép kinh Pháp Hoa là chính họ tự đặt đầy đủ niềm tin rằng họ
sẽ thành Phật. Đây là Phật nhân rất cần thiết làm nhân địa tu hành để
hoàn thành Phật quả tức là có đi mới có đến vì thế họ đang đi trên còn
đường Vô thượng Bồ Đề nên Phật nói họ sắp thành Phật là vậy.
Dược Vương! Nếu Bồ Tát nào nghe
kinh Pháp Hoa mà kinh nghi sợ sệt đó là Bồ tát mới phát tâm. Nếu hàng
Thanh Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt đó là hàng Thanh Văn
tăng-thượng-mạn.
Kinh Pháp Hoa là Phật chỉ thẳng Tri Kiến
Phật cho nên nếu tin nhận trong ta đã có sẵn cái Tri Kiến Phật này làm
nhân địa tu hành thì người đó nhất định sẽ thành Phật. Tri Kiến Phật là
Phật nhân còn thành Phật là Phật quả. Do đó nếu Bồ Tát tu là để thành
Phật mà khi nghe kinh Pháp Hoa lại lo sợ thì đủ biết hạng Bồ Tát này chỉ
là phát tâm Bồ Tát, là người mới bắt đầu nên chưa hiểu, chưa tin. Ngược
lại đối với hàng Thanh Văn là những người chứng đạo mà không muốn tiến
tu để hoàn thành Phật đạo thì Phật gọi họ là những người tăng thượng mạn
hay định tánh A la hán. Nhắc lại khi Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa thì
có trên 5.000 người gồm A la hán và cư sĩ nam, nữ đã rời pháp hội. Phật
nói tăng thượng mạn là ám chỉ cho những người này.
Dược Vương! Nếu có trai lành gái
tốt sau Như Lai diệt độ muốn vì hàng tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa thì
nên ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của Như Lai mà
thuyết kinh. Nhà Như Lai là tâm từ bi. Y Như Lai là nhẫn nhục. Tòa Như
Lai là “ Vạn Pháp Giai Không”.
Dược Vương, Phật dù ở thế giới
khác xa xăm nhưng Phật sai hàng hóa nhơn, hàng tứ chúng (Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di) đến nghe pháp và tin nhận thuận theo
không chống trái. Nếu nói pháp ở chổ vắng Như Lai sai Thiên Long, Càn
Thát Bà… đến nghe pháp. Phật dù ở nước khác nhưng khiến người nói pháp
luôn luôn được thấy thân ta. Nếu có quên sót câu lối. Như Lai sẽ nhắc
cho họ nói kinh được đầy đủ.
Để lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói một bài kệ.
Sau khi đức Phật nhập diệt, ở đời sau nếu
có người muốn nói kinh Pháp Hoa thì người đó phải ở trong nhà Như Lai,
mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của Như Lai mà diễn thuyết. Thế nào là
nhà Như Lai? Nhà Như Lai là có đủ tâm đại từ bi rộng lớn đối với tất cả
chúng sinh. Tâm đại bi là tâm thương xót chúng sinh, xem sự đau khổ của
chúng sinh là sự đau khổ của chính mình, làm việc vì người không quảng
ngại khó nhọc, chấp nhận nghịch cảnh mà tâm không sân hận, kiên nhẫn
giúp người vượt qua bể khổ sông mê. Mặc y Như Lai là có tâm nhu hòa,
nhẫn nhục đối với mọi khổ chướng, không có lửa vô minh nóng giận. Ngồi
tòa Như Lai là phải có trí tuệ rộng lớn thấy rõ thật tướng của vạn pháp
là Không tướng bởi vì tất cả các pháp không có tự thể cố định cho nên
vạn pháp là Không.
Tại sao Phật đưa ra ba điều kiện để một
người có thể giảng nói kinh Pháp Hoa thay vì chỉ đọc tụng, thọ trì hay
biên chép giảng nói bình thường? Kinh Pháp Hoa là kinh nói về Tri Kiến
Phật tức là trí tuệ của Phật. Mà Tri Kiến Phật là Phật tánh, là tánh
giác vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh, nhưng vì bị vô minh vọng chấp che
lấp. Vì thế muốn cho cái tánh giác này được hiển lộ thì phải phát triển
trí tuệ để thấy biết rõ ràng thật tướng của tất cả các pháp không có tự
thể cố định chỉ tùy duyên tạm có nên huyễn hóa không thật.Thí dụ hằng
ngàymắt vẫn thấy sắc như nhà to, xe đẹp, áo lụa, quần là…Nếu là người
thường thì dễ bị nó lôi cuốn, nhận chìm, mê hoặc vào đó, nhưng đối với
người có tư duy chánh niệm thì nhận thức được hiện tượng của vạn pháp là
vô thường nên tâm họ không hề bị dính mắc. Họ quán rằng vạn pháp là
không nghĩa là tất cả mọi vật thể trong thế gian này dù to lớn như mặt
trời, mặt trăng hay nhỏ như hạt cát như vi trần đều do duyên khởi tác
tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinh khởi hay tồn tại được cho nên
vật thể là vô ngã, không có tự thể nên tuy là có, là thấy sờ sờ ở đó
nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa, tiêu hoại nên gọi là không. Do
đó, cái không của Phật giáo là không tham đắm, si mê, không chấp thủ
chạy theo hình sắc sinh diệt chớ không phải dùng thần thông hay quán làm
biến đi tất cả. Người có tư duy, chánh niệm khi thấy đóa hoa đẹp thì họ
vẫn biết cái đẹp của hoa đấy chứ, nhưng họ quán rằng đóa hoa là dotrùng
trùng duyên khởi mà thành vì vậyđến tuần sau đóa hoa bắt đầu héo úa,
tàn phai rồi trở thành phân bón cho nên nhìn đóa hoa thì họ cũng nhìn,
cũng biết nó đẹp, nhưng không đắm nhiễm say mê, lúc nào cũng tự tại với
sắc đẹp. Lấy đóa hoa làm tiêu chuẩn để nhìn tất cả những hình sắc khác
trên thế gian này cho nên tuy mắt có nhìn các loại trân châu bảongọc quý
báu, đẹp đẽ đến đâu thì nó cũng là loại vô thường hoại diệt. Ngược lại
nếu nhìn theo con mắt của phàm nhân thì tham đắm, say mê rồi chấpthủ đem
về làm của riêng cho mình đưa đến tranh chấp, chiến tranh giết hại lẫn
nhau. Nói tóm lại, người biết đạo thấy đẹp thì cũng biết là đẹp, nhưng
họ biết vật chất đó từ “Không” mà “Có” vì thế một ngày nào đó từ “Có” sẽ
trở thành “Không” cho nên thấy tất cả vật chất nhưng không bị chúng lôi
cuốn nhận chìm nên họ mới có an nhiên tự tại được. Đó chính là “Kiến
sắc phi can sắc” vậy. Người học Phật không những thấy biết rõ ràng sự
hoại diệt, vô thường của thế gian mà còn thấy rốt ráo sự trường tồn vĩnh
cửu tức là tánh vô sanh vô diệt của vạn pháp nữa. Bởi vì lúc đóa hoa
tàn úa thì từ cái diệt này bắt đầu cho sự sanh khác để tạo thành đóa hoa
mới.Đó là hiện tượng quy về bản thể và bản thể duyên khởi thành ra hiện
tượng cho nên không có cái gì là thật sinh hay cái gì là thật diệtnghĩa
làsinh để rồi diệt, diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô
tận nên sinh diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì quan trọng
nên không còn lo sợ, buồn phiền. Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh
tật thì đau khổ, lo âu, sợ sệt. Ngược lại, đối với người biết đạo
thìsống chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong
chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi.
Con người có khổ, có nhiều tham vọng, có
sống chết bảo vệ những cái có của họ cũng vì họ chấp thế gian là thật,
nhà cửa là thật, xe cộ là thật, thân này là thật ngay cả vọng tưởng cũng
cho là thật. Bây giờ hãyquán rằng “vạn pháp giai không” nghĩa là thân
này là do duyên giả hợp tạm có, thế gian vũ trụ cũng là tướng duyên hợp
không thật ngay cả vọng tưởng cũng là tướng duyên hợp chợt hiện chợt
mất. Vì vậy khi biết thân này không thật, cảnh vật không thật, vọng
tưởng không thật, tiền tài danh vọng như giấc mộng, như huyễn hóa, như
bọt nước, như bong bóng trời mưa, như làn sương buổi sáng, như ánh điện
chóp nhanh, có đó rồi mất đó, rốt cuộc chẳng có gì.
Nếu người có đủ ba điều kiện trên mà vì
chúng sinh nói kinh Pháp Hoa thì Phật sẽ sai hóa nhân và hàng tứ chúng
đến để nghe pháp. Người nói kinh Pháp Hoa là người tin rằng chính mình
có Tri Kiến Phật tức là có Phật tánh rồi cho nên họ có thuyết kinh Pháp
Hoa ở bất cứ nơi nào thì ở nơi đó đã có Phật gia hộ cho họ.
Tóm lại, trong phẩm này đức Phật tán thán
kinh Pháp Hoa là kinh quý hiếm nhất trên đời vì thế Phật tán thán những
ai biết thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa cho mọi người để cho
họ biết rằng trong họ đã có sẵn Tri Kiến Phật. Tri Kiến Phật là Phật
nhân và từ đó con người sẽ tinh tấn nỗ lực loại bỏ hết vô minh phiền não
để trở về với Phật quả của mình tức là thành Phật. Muốn trở thành một
vị pháp sư lỗi lạc để truyền bá kinh Pháp Hoa thì phải hội đủ ba điều
kiện là có tâm đại từ bi, biết nhu hòa nhẫn nhục và sống bằng trí tuệ
Bát Nhã.
Sau cùng nếu chúng sinh biết thọ trì, đọc
tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa thì chính họ đã phát huy chủng tử Phật
tức là Tri Kiến Phật trong họ rồi. Nói thế không phải Tri Kiến Phật chỉ
dành cho những người biết kinh Pháp Hoa, đọc kinh Pháp Hoa, giảng nói
kinh Pháp Hoa hay biết một bài kệ hay một chữ kinh Pháp Hoa mà thật ra
Tri Kiến Phật đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh cho dù họ không biết
gì về kinh Pháp Hoa cả. Nói cách khác biết đọc, tụng, thọ trì kinh Pháp
Hoa thì được Phật thọ ký cho thành Phật, nhưng không biết gì về kinh
Pháp Hoa cũng vẫn được Phật thọ ký như thường. Tuy nhiên, muốn thành tựu
cái Tri Kiến Phật đó người đệ tử Phật phải thực hành rốt ráo ba điều
kiện Phật dạy ở trên chớ không chỉ là lễ bái, trì tụng suông mà cho là
đủ công đức sẽ thành Phật. Vì vậy thành Phật thì ai cũng có khả năng
thành, nhưng thật sự có thành hay không còn tùy thuộc ở chúng sinh có
đứng đắn thực hành ba điều kiện Phật dạy hay không.
Phẩm này cho thấy tầm quan trọng của Pháp
cũng quan trọng như Phật. Chúng sinh thường cúng dường Phật thì ở đây
kinh dạy rằng cúng dướng Pháp cũng có đầy đủ phước đức như cúng dường
Phật vậy cho nên niệm Pháp cũng tương đương với niệm Phật vì đó là niệm
tâm tức là thức tỉnh cái Tri Kiến Phật vốn có của mình. Đến đây là phần
kết thúc của phần Tích môn (đức Phật lịch sử tức là Phật Thích Ca) dựa
theo luận thuyết Thiên Thai tông của Đại sư Trí Khải và chuẩn bị mở cửa
để vào pháp giới Bổn môn, là thế giới của mười phương chư Phật quá,
hiện, vị lai.