KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
PHẦN TỔNG LUẬN
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà
Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh vô cùng
quan trọng đối với Phật giáo Đại thừa vì kinh ẩn chứa một triết lý rất
thâm sâu huyền diệu. Cấu trúc của kinh rất chặt chẻ, mạch lạc trải dài
suốt 28 phẩm.
Nhưng cốt tủy của kinh vẫn là xác định
rằng “Chư Phật chỉ do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”. Và
bản hoài của chư Phật là muốn cho chúng sinh “khai,thị,ngộ,nhập Phật tri kiến”nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái thấy biết
của Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn
trong tất cả mọi chúng sinh.Đó là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai
cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật.
Vậy Phật tri kiến mà đức Phật muốn nói ở
đây chính là chơn tâm, là Phật tánh thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị vô
minh che lấp nên con người không thấy biết chơn tánh hằng giác của mình.
Cái bổn tánh này ví như mỏ vàng đang đợi khai phá, chưa được hiển lộ.
Vì thế đức Phật muốn chúng sinh khai mở tri kiến Phật của mình để có sự
thanh tịnh, an lạc ngay trong cõi đời có tan có hợp nàycũng giống y như
Phật vậy. Cũng ví như vàng ròng còn trộn lẩn với đất cát sỏi đá, Phật
tánh và phiền não cũng vậy. Phiền não còn, Phật tánh biến mất cho nên
nếu chúng sinh hóa giải được một phần phiền não thì có được một phần
Bồ-đề. Mà có Bồ-đề là có giác ngộ.Dựa theo tinh thần Pháp Hoa, nhân
duyên lớn nhất để đức Phật xuất hiện trên thế gian này là khai mở, chỉ
bày khiến cho chúng sinh mở toang tri kiến Phật của họ và giúp cho chúng
sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó.
Thế thì cấu trúc của kinh Pháp Hoa như thế nào?
Tuy kinh có tất cả 28 phẩm, nhưng phẩm
Tựa chỉ nói lên tổng quát toàn bộ của kinh cho nên phẩm này không nằm
trong hệ thống “Khai, thị, ngộ, nhập” Tri Kiến Phật.
Nội dung của kinh bắt đầu từ phẩm Phương
Tiện đến phẩm Phổ Hiền Bồ Tát bao gồm toàn bộ ý nghĩa của Pháp Hoa. Đó
là “Khai, thị, ngộ, nhập cái trí tuệ Phật nhiệm mầu này.
Trước hết phần Khai Tri
Kiến Phật gồm các phẩm Phương Tiện, Thí Dụ, Tín Giải, Dược Thảo Dụ, Thọ
Ký, Hóa Thành Dụ, Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, Thọ Học Vô Học Nhơn Ký và phẩm
Pháp Sư.
Phần Thị Tri Kiến Phật chỉ có phẩm Hiện Bảo Tháp.
Phần Ngộ Tri Kiến Phật
gồm có phẩm Đề Bà Đạt Đa, Trì, An Lạc Hạnh, Tùng Địa Dõng Xuất, Như Lai
Thọ Lượng, Phân Biệt Công Đức, Tùy Hỷ Công Đức, Pháp Sư Công Đức, Thường
Bất khinh Bồ Tát, Như Lai Thần Lực và Chúc Lụy.
Sau cùng phần Nhập Tri
Kiến Phật gồm có các phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự, Diệu Âm Bồ Tát Vãng
Lai, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, Đà-la-Ni, Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn
Sự và Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát.
Trải suốt chiều dài của 22 phẩm đầu, kinh
đã lần lượt giới thiệu nhiều lần cái trí tuệ Phật đó để người đệ tử
Phật thấy biết rõ ràng tức là khai, thị, ngộ Tri Kiến
Phật của mình. Nhưng quan trọng nhất vẫn là phần thâm nhập tức là phần
thực hành để tự mình chứng nhập cái Tri Kiến Phật đó.
Vậy làm thế nào để thâm nhập cái trí tuệ Phật này?
Cốt lõi để thâm nhập Tri Kiến Phật hay
khám phá cái trí tuệ Phật ở trong Ta là trở về với trạng thái thanh
thoát nhẹ nhàng, không dính mắc, bám vúi hay chấp thủ cũng như dòng sông
trí tuệ tuôn chảy bỗng nhiên bị cái đê ngũ uẩn ngăn chận. Vì thế muốn
dòng sông trí tuệ không còn bị ngăn ngại thì phải phá cho hết cái đê ngũ
uẩn. Sắc uẩn cũng phá, thọ uẩn cũng phá, tưởng uẩn cũng phá, hành uẩn
cũng phá và sau cùng thức uẫn cũng phá. Kinh Pháp Hoa, lần đầu tiên
trong kho tàng kinh điển Đại thừa, vén bức màn bí mật để hiển lộ bộ mặt
thật của Phật tánh, chơn tâm hay Tri Kiến Phật. Vì Phật tánh là bản thể
chơn như nên từ trước đến nay không ai dám đá động đến nó. Lục Tổ gọi nó
là “Vô nhất vật” do vậy không ai dám xâm phạm đến nó bởi vì đụng đến nó
thì nó không còn vô nhất vật nữa rồi. Bản thể chân như là một cái gì
quá trừu tượng chằng khác nào nắm bắt những làn hương nghĩa là thấy đó
mà không bao giờ nắm bắt nó được. Nhưng may mắn thay, kinh đã bật mí để
chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn cái “vô nhất vật” này. Đó là chỉ cần
phá tan ngũ uẩn thì bức màn che Phật tánh bắt đầu mở rộng và cái “vô
nhất vật” đó sẽ từ từ hiển lộ chớ không còn nằm trong trí tưởng tưởng
của con người nữa.
Trước hết,trong phẩm Dược Vương Bồ Tát,Bồ
Tát Dược Vương đốt thân và hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức thì đây là phá sắc uẩn.
Sắc uẩnlà yếu tố vật
chất bao gồm vật lý - sinh lý, có bốn yếu tố vật chất căn bản là đất
(Tóc, lông, móng răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, ruột,
lá lách, phèo, phổi, bao tử, thực phẩm chưa tiêu, phẩn), nước ( Mật,
đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước mỡ, nước miếng, nước mũi, nước
khớp xương, nước tiểu), gió ( Gió hướng lên khiến ta nôn, gió hướng
xuống giúp nước tiểu và phẩn ra ngoài, gió trong ruột, gió ngoài ruột
nhưng nằm trong bụng, mọi tác động của cơ thể như đi, đứng, ngồi, co,
duỗi v.v… hơi thở ra vào), lửa (Thân nhiệt, sức nóng làm cho cơ thể
tưởng thành, già nua, nhiệt độ quá cao khiến chúng ta khó chịu và than
phiền là quá nóng, nhiệt độ cần thiết để tiêu hóa thức ăn). Các yếu tố
do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; các
đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh, mùi vị, vật xúc chạm.
Khi tứ đại kết hợp thì chúng ta có hình dáng và nếu không nhìn bằng cặp
mắt trí tuệ thì chúng ta sẽ thêm vào cái hình dáng đó là Tôi, của Tôi,
đàn ông, đàn bà…Do ý niệm sai lầm này khiến sự dính mắc phát sinh trong
tâm ta. Như vậy yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc
vật chất hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm
trong sắc uẩn. Thân thể là sắc uẩn, vì vậy chúng không phải là một thực
thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động và mâu thuẫn như mảng
bọt trên mặt nước hay nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy thân tứ đại chỉ là những
bọt vật chất tạm bợ. Thân thể muốn tồn tại phải nương vào các duyên bên
ngoài như ánh sáng mặt trời, thức ăn thức uống, không khí, nhà cửa, xe
cộ...vì thế thân tứ đại là vô thường, vô ngã tức là Không.
Vì vậy bất cứ sự chấp thủ, tham ái thân
thể (sắc uẩn), hoặc bất cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều
tiềm ẩn nguy cơ đau khổ cho nên đức Phật đã dạy rằng “Ai cho rằng sắc uẩn là Ta, là của Ta, là tự ngã của Ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”.
Kế đến phẩm Diệu Âm Bồ Tát Vãng Lai thì
Bồ Tát Diệu Âm đã sử dụng 10.000 thứ kỹ nhạc để cúng dường cho Phật Vân
Lôi Âm Vương thì đây là phá thọ uẩn.
Thọ uần: Thọ là cảm
giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Đức
Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm
thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng
tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn
thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba
loại: một là cảm giác khổ, hai là cảm giác vui sướng, ba là cảm giác
không vui không khổ. Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành một dòng
sông cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức, chúng sinh khởi biến
hiện thay đổi vô chừng; chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô ngã và
hiện hữu có điều kiện. Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng sai lầm và gặt
hái khổ đau.
Đến phẩm này, Bồ Tát Quán Thế Âm phá tưởng uẩn để giúp chúng sinh hết sợ.
Tưởng uẩn: là nhóm tri
giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây là khả năng kinh
nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết
đối tượng có hai loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy
sắc nhận biết đó là cái nhà, chiếc xe, tai nghe âm thanh nhận ra tiếng
chim hót, tiếng khen, lời chửi mắng...; hai là khả năng nhận biết đối
tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi
tưởng, ký ức, kinh nghiệm... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết
của mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. Vì vậy, tri giác là một
trong những tác dụng của thức.
Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của
kinh nghiệm. Tri giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua cho nên khi
thấy đóa hoa thì biết đây là đóa hoa bởi vì cái tri giác về đóa hoa đã
có sẵn trong A lại da thức. Nhưng làm thế nào để biết đóa là đóa hoa?
Khi ý thức muốn so sánh thì Mạt na thức liền chuyển tư tưởng đó vào A lạ
da thức và sau khi so sánh các kinh nghiệm của các đóa hoa đã có trong
đó xong thì một lần nữa Mạt na thức liền chuyển ý tưởng đó cho tưởng uẩn
thành ra “tri giác” tức là “sự thấy” hay là “sự nhận ra” vật đó là đóa
hoa. Vì vậy tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì
luôn sinh động. Vì sao? Bởi vì chúng ta chỉ thấy đóa hoa dựa theo quan
niệm của mình chớ không thấy thật tánh của đóa hoa tức là “tự nó thật sự là”. Khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mình đang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ tự nó “không phải là” đóa hoa “hay là”
đóa hoa. Mà thật chất của nó là sự tổng hợp của đất, nước, gió, lửa qua
trùng trùng duyên khởi kết thành hình tướng rồi chúng ta đặt tên hình
tướng đó là đóa hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa có nước, nhưng chúng ta
có thấy trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong hoa có ánh sáng mặt trời,
nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong hoa có phân bón, nhưng trong các
thùng phân bón làm gì có hoa? Do đó thật tánh của hoa là không tánh vì
hoa là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó
có hay tồn tại được. Vì vậy cái biết của tri giác là cái biết “không thật”
mà là cái biết của duyên khởi cho nên tri giác tồn tại có điều kiện, vì
vậy chúng vô thường, trống rỗng; và do duyên sinh nên tri giác đầy hư
vọng mà ta thường gọi là vọng tưởng.
Ngoài sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn thì ngũ uẩn còn có hành uẩn và thức uẩn nữa. Phẩm Đà-la-ni kế tiếp là phá hành uẩn.
Hành uẩn: Hành có nghĩa
là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa
đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là tạo động lực tái sinh. Hành uẩn
là những hiện tượng tâm lý còn được gọi là tâm sở. Duy thức học chia
thành 51 tâm sở gồm cả thọ, tưởng, tức là cảm giác và tri giác cũng gọi
là hành. Nhưng ở đây không xếp cảm giác và tri giác vào nhóm hành vì thọ
và tưởng không có khả năng tạo nghiệp và quả của nghiệp. Hành uẩn tồn
tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên chúng vô thường, trống rỗng và
biến động bất tận. Mỗi uẩn chỉ có thể làm công việc của chính nó. Thọ
uẩn chỉ kinh nghiệm lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ. Tưởng uẩn đóng vai
trò nhận ra đối tượng là cái gì. Thức uẩn chỉ làm nhiệm vụ nhận biết đối
tượng (chỉ biết thấy, biết nghe, biết ngửi v.v...). Nhưng hành uẩn có
đặc tính là phản ứng hay tác động của tâm. Hành uẩn là nguyên nhân của
đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, di chuyển, cười, nói, nghĩ, thấy,
nghe... và tất cả những hoạt động khác.
Do sự kích thích của hành uẩn nên tất cả
hành động về thân, khẩu, ý xảy ra. Bởi vậy, thân, khẩu, ý là sự biểu
hiện của hành uẩn, nhưng khi hành uẩn biểu hiện qua thân, khẩu, ý người
ta hiểu lầm rằng: Đó là linh hồn, tự ngã, tôi, ta.
Và sau cùng phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự là phá luôn thức uẩn.
Thức uẩn: Thức là có khả
năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với
đối tượng, thực nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra
đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của tri giác
(tưởng); thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm
gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có tám loại
nên gọi là bát thức tâm vương: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức, ý thức, mạt na thức và A lại da thức. Thức là nền tảng
của thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương còn thọ, tưởng, hành là Tâm sở.
Duy thức triển khai bát thức tâm với mục đích khai thác các khía cạnh
sâu kín của thức. Mạt na thức là ý căn, là căn cứ của ý thức đồng thời
nó cũng có tác dụng nhận thức sự tồn tại của một thực thể, một bản ngã. A
lại da thức là cái kho dung chứa tất cả những chủng tử của kinh nghiệm,
ký ức, kiến thức và tất cả những chủng tử thiện ác hay vô ký. Mặt khác,
A lại da thức làm căn bản cho các hoạt động tâm lý trở về sau khi không
còn điều kiện hoạt động. Nhờ khả năng bảo tồn của A lại da thức mà các
hiện tượng tâm lý phát khởi trở lại khi hội đủ các yếu tố. Có thể hiểu A
lại da thức như là một cái kho chứa và Mạt na thức là người giữ kho.
Chính Mạt na thức vào trong cái kho để chuyển các chủng tử ra hay vào mà
Duy thức gọi là hiện hành hay biến hành và từ đó tưởng uẩn mới biết
được vật đó là gì.
Mặc dù thức uẩn là nền tảng của tâm lý
nhưng nó không tồn tại độc lập, không thể tự chủ bởi vì thức uẩn có tồn
tại cũng bởi do duyên sinh. Thí dụ nếu không có sắc, thọ, tưởng, hành
thì không thể nào có thức được cho nên mối quan hệ của ngũ uẩn là bất
khả phân ly vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc lập,
tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn. Tuy A lại da thức
là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến chuyển vận hành liên tục không
ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào và có khi đưa chủng tử ra gọi
là biến hành. Vì sự biến chuyển này mà con người mới có thể tu thành
Thánh nhân hay trở thành ác quỷ. Còn linh hồn là cố định, bất biến cho
nên đạo Phật phủ nhận có một linh hồn sống giữ chết đem về. A-lại-da hàm
chứa mọi nội dung của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo hoàn
cảnh sống và theo hành động của chúng sang mang nó. Chính đây là năng
lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó đẩy
A-lại-da hay Thức nương gá vào một thân thể mới vừa tượng hình có hoàn
cảnh phù hợp với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi đầu thai” mà Phật
giáo gọi là Thức đi đầu thai. Thức được hiểu như là dòng chảy liên tục
của các ý niệm. Các ý niệm này tuỳ thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh,
đức Phật gọi quá trình tuỳ thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi”
(paticasamupàda). Thức chỉ là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi
mà thôi. Do đó, khái niệm “thức” của Phật giáo khác nhau với "linh hồn
bất tử" của các tôn giáo khác rất lớn. Chính sự tiếp nối của các ý niệm
tương tục nầy mà thức đi tái sanh, lên xuống trong 3 cõi 6 đường, chứ
không phải là một linh hồn bất tử, vĩnh hằng như cách hiểu của các tôn
giáo khác.
Dựa theo khoa học thì vật lý là sự vật
chưa có cái biết, chưa có sự sống. Sinh lý là sự vật có sự sống mà chưa
có cái biết. Còn tâm lý là có sự sống, có cái biết mà chưa có phân biệt
đó là cảm giác tức là thọ uẩn. Thế thì vật lý là trần, sinh lý là căn và
tâm lý là thức. Dựa theo Duy thức thì căn tiếp xúc với trần sinh ra
thức tức là sinh lý tiếp xúc với vật lý thì tâm lý phát hiện. Và tâm lý
đầu tiên là cảm giác tức là thọ uẩn. Tuy nhiên mỗi uẩn đều nương tựa vào
các uẩn kia mà tồn tại. Thí dụ trong sắc uẩn có thọ uẩn và trong thọ
uẩn có sắc uẩn rồi. Khi chúng ta có một cảm giác đau khổ, khó chịu thì
cái cảm giác này gồm luôn cả thân thể và tri giác, tâm tư và thức.
Tuy con người là sự kết hợp của ngũ uẩn,
nhưng mỗi uẩn là vô thường,vô ngã nên toàn khối cũng là vô thường,vô ngã
tức là Không chẳng khác nào như cây chuối không có lõi, chỉ là sự kết
tập của các bẹ chuối. Khi thấu rõ bản chất thật của con người và vũ trụ
mà chúng ta đang sống thì chúng ta sẽ không còn bám vúi vào cái thân giả
hợp, sẽ không còn thấy nó là Ta hay là của Ta thì những phiền não khổ
đau sẽ đoạn diệt.
Bát Nhã Tâm Kinh vỏn vẹn có 260 chữ, nhưng quan trọng nhất của Tâm Kinh vẫn nằm ở câu đầu: "Quán tự tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thế khổ ách".
Đoạn kinh Bát Nhã này chú trọng đến vấn đề thoát khổ. Con người sẽ
thoát khổ, theo Bát-nhã, khi thực hành trí tuệ Bát-nhã sâu xa, soi rọi
rõ ngũ uẩn là Vô ngã tức là Không. Thấy biết
ngũ uẩn là Vô ngã là thấy biết tất cả các pháp là Vô ngã nghĩa là khổ là
Vô ngã và người cảm thọ khổ cũng là Vô ngã, bởi cả hai đều là duyên
sinh. Khi biết mình là vô ngã, người cũng là vô ngã, thế gian vũ trụ đều
là vô ngã thì hẳn là không còn có một thứ khổ ách nào ràng buộc cả.
Quan trọng nhất là chúng sinh thấy rõ ngũ uẩn là Vô ngã thì không còn
chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, hay là tự ngã của mình. Chấp thủ
diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đấy là đường vào giải thoát.
Vì thế một khi hành giả phá tan ngũ uẩn
không còn chấp ngã, chấp pháp tâm trí rỗng rang thì trong họ sẽ phát
sinh trí tuệ và trí tuệ này chính là trí tuệ Phật tức là cái biết như
thật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các pháp.
Như vậy, một khi đã thực sự nhận biết rốt ráo rõ ràng rằng trong ta không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta”
thì lúc đó hành giả sẽ khám phá một chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị,
là tinh hoa cốt tủy của Phật giáo và cũng là Tri Kiến Phật của kinh Pháp
Hoa mà ngày xưa chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề là Chân lý Vô Ngã.
Tuy căn bản của phiền não là Kiến hoặc và
Tư hoặc, nhưng cái gốc để tạo ra những phiền não đó chính là chấp Ngã.
Chấp Ngã đã phá thì chấp pháp cũng theo đó mà diệt bởi vì trong thì Ngã
Không và ngoài thì Pháp Không, trong ngoài tự tại tức là có giải thoát.
Vì thế nếu diệt được chấp Ngã (Vô Ngã) thì tất cả những vô minh phiền
não cũng tan biến theo.
Con người có trở về với bổn tánh, chơn
tâm hay Phật tánh chỉ khi nào họ đạt được cái trí tuệ này thì lúc đó họ
sẽ an trú trong sự thấy biết tánh bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện
tượng và tất cả khái niệm hay ý niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân
biệt sẽ biến mất. Vì lẽ đó mà kinh Pháp Hoa còn được biết đến như là
kinh Trí Tuệ.
Hãy lắng nghe đức Phật thuyết giảng về giáo lý Vô Ngã, là bài pháp thứ hai cho nhóm ông Kiều Trần Như để chuyển bánh xe pháp:
-Này các tỳ kheo, hình tướng (thân xác) không phải là cái Ngã (theo định nghĩa thông thường thì cái 'ngã' hay'atman' có thể hiểu như là linh hồn).
Nếu như hình tướng đúng thật là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì hình
tướng đâu phải gánh chịu bệnh tật , và đối với thân xác thì người ta có
thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thân xác của tôi [chỉ có thể] như thế
này mà không thể như thế khác được" . Trong khi đó, bởi vì thân xác
không phải là cái Ngã [cho nên] thân xác phải gánh chịu bệnh tật (vô thường) và
người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thân xác
của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
-Này các tỳ kheo, giác cảm không phải là cái Ngã. Nếu như giác cảm đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì giác cảm đâu có phải gánh chịu bệnh tật , và [như thế] đối với giác cảm người ta sẽ có thể bảo rằng:"Đối với tôi thì giác cảm của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như là thế khác được". Trong khi đó, bởi vì giác cảm không phải là cái Ngã [cho nên] giác cảm phải gánh chịu bệnh tật và người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì giác cảm của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được”.
-Này các tỳ kheo, sự nhận thức không phải là cái Ngã. Nếu như sự nhận thức, này các tỳ kheo, đúng là cái Ngã thì sự nhận thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật (sự lầm lẫn), và [như thế] đối với sự nhận thức người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì sự nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì sự nhận thức không phải là cái Ngã [cho nên] sự nhận thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với sự nhận thức thì người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì sự nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
-Này các tỳ kheo, thói quen thường nhật không phải là cái Ngã. Nếu
như thói quen thường nhật, này các tỳ kheo, đúng là cái Ngã thì thói
quen thường nhật đâu phải gánh chịu mọi thứ bệnh tật , và [như thế] đối với thói quen thường nhật người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thói quen thường nhật của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì thói quen thường nhật không phải là cái Ngã [cho nên] thói quen thường nhật phải gánh chịu bệnh tật, và đối với thói quen thường nhật thì người ta sẽ không thể nàocó thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thói quen thường nhật của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
-Này các tỳ kheo, tri thức không phải là cái Ngã. Nếu như tri thức đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì tri thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật (những sự diễn đạt sai lầm), và [như thế] đối với tri thức người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì tri thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì tri thức không phải là cái Ngã [cho nên] tri
thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với tri thức người ta sẽ không thể
nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì tri thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Hình tướng trường tồn hay vô thường?
- Bạch Thế tôn, hình tướng là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những gì khổ đau hay hạnh phúc?
- Bạch Thế tôn, là những gì khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là
khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta
có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã
của tôi" hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Giác cảm trường tồn hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, giác cảm là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những gì khổ đau hay hạnh phúc?
- Bạch thế tôn, là những gì khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là
khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta
có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã
của tôi" hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Sự nhận thức trường tồn hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, sự nhận thức là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là
khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta
có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã
của tôi" hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Thói quen thường nhật trường tồn hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, thói quen thường nhật là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc ?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là
khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta
có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã
của tôi" hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Tri thức trường tồn hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, tri thức là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc ?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là
khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta
có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã
của tôi" hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
-Tóm lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là thân xác, là giác cảm, là thói quen thường nhật, hay thuộc vào sự nhận thứcdù
thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay bên ngoài,
thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
-Tóm lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là tri thức,
dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh,
thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh,
thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự
nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
-Này các tỳ kheo, nếu biết nhìn mọi sự vật bằng cách như thế thì một người đệ tử hiểu biết sẽ
không còn bám víu vào thân xác, không con bám víu vào giác cảm, không
còn bám víu vào sự nhận thức, không còn bám víu vào thói quen thường
nhật, không còn bám víu vào tri thức. Khi loại bỏ được chúng
thì sẽ không còn tham vọng nữa. Khi nào không còn bám víu nữa thì người
đệ tử ấy cũng sẽ tự giải thoát cho mình khỏi mọi dục vọng. Khi đã tự
giải thoát khỏi mọi dục vọng thì người đệ tử ấy cũng sẽ chợt nhận ra
rằng : "[Thế ra] sự giải thoát cũng chính là như thế đấy !", và người đệ tử ấy cũng
sẽ hiểu được là : "Tất cả mọi sự tái sinh đã bị hủy diệt, chỉ có Con
đường Đạo hạnh tinh khiết là tồn tại, những gì phải chấm dứt đã chấm
dứt, không còn bất cứ gì lưu lại để chờ đợi được thực hiện, không còn
lại gì nữa để mà hình thành".
Tóm lại, đức Phật thị hiện giáo hóa chúng
sinh, chuyển bánh xe pháp cũng không ngoài mục đích muốn chúng sinh ngộ
nhập Phật Tri Kiến tức là thể nghiệm và sống được với chơn tâm của
mình. Vì thế Phật mới dạy rằng: ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật”
nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có
thể thành Phật. Nhưng nếu chúng sinh đều có Phật tánh thì tại sao đến
nay chúng ta vẫn chưa thành Phật? Cũng chỉ vì tâm của chúng sinh chất
đầy vọng tưởng, chấp trước. Vậy chúng ta chấp cái gì? Chấp “cái Ta” tức là bản ngã và cái “của Ta”
tức là ngã sở hữu cho nên không buông bỏ được những hưởng thụ vật chất
trong thế gian. Con người luôn níu kéo, nắm bắt mãi, càng có thì càng
chấp trước thêm và ham thích hưởng thụ nên chưa thể thành Phật. Cho nên
đức Phật mới dạy rằng: “Do vọng tưởng và chấp trước mà tất cả chúng sinh không thể chứng đắc, không thể thành Phật” là vậy.
Trong phần thâm nhập Tri Kiến Phật, kinh
Pháp Hoa đã hé mở cho hành giả thấy được ánh sáng của Tri Kiến Phật bằng
cách phải phá tan cái đê ngũ uẩn. Vì vậy cốt lõi của kinh Pháp Hoa và
cũng là cứu cánh của phần thâm nhập là phá cho hết ngũ uẩn. Sắc uẩn cũng
phá, thọ uẩn cũng phá, tưởng uẩn cũng phá, hành uẩn cũng phá và sau
cùng thức uẩn cũng phá luôn. Một khi hành giả đã phá sạch ngũ uẩn nghĩa
là không còn chấp:
-Thân thể này không phải là tôi, là của tôi.
-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến cái tôi.
-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là linh hồn của tôi.
-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức và hành thức cũng không phải là của tôi.
Phá ngũ uẩn là phá chấp Ngã và chấp pháp
tức là chứng đắc chân lý Vô Ngã mà chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ
Đề. Thế thì cái Tri Kiến Phật mà kinh Pháp Hoa nói ở đây chính là trí
tuệ Phật tức là cái biết như thật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của
các pháp. Cái biết như thật trong trí tuệ chánh niệm tỉnh giác là sự
thấy biết rốt ráo rõ ràng từ kinh nghiệm khắp toàn thân, tâm. Mà cái
thực tại Vô Ngã (No-self) chỉ có thể thành tựu qua công phu thiền định
và lúc đó lòng chấp thủ về chủ thể lẫn đối tượng sẽ không còn hiện hữu.
Một khi hành giả thực sự chứng nghiệm ngũ uẩn là Vô ngã thì không còn
chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, hay là tự ngã của mìnhthì họ sẽ
đạt đến đỉnh cao trí tuệ ngang hàng với trí tuệ Phật mà kinh Pháp Hoa
gọi là Tri Kiến Phật.Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đây là đường
vào giải thoát, an vui, tự tại, Niết bàn.
NamMô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Lê Sỹ Minh Tùng