KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Mười Bảy
Phẩm PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà
Công đức là tiếng ghép của công phu và
đức hạnh. Đây là hai đức tính căn bản cho người hành trì để khai tâm mở
tánh mà thấy được chân lý. Công phu và đức hạnh đưa hành giả thẳng về
thế giới vô lậu, thanh tịnh hóa thân tâm và đây là những chất liệu không
thể thiếu cho những ai đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Pháp Hoa
là loại kinh tối thượng thừa của Phật giáo Đại thừa tức là Đại thừa viên
giáo thế thì tại sao lại còn phân biệt cho dù đó là công đức?
Vậy phân biệt công đức là công đức gì?
Danh từ phân biệt nghĩa là sự so sánh
giữa cao và thấp, nhiều hay ít, tốt hay xấu…Vậy ở đây kinh muốn so sánh
cái gì? Trong phẩm Như Lai Thọ Lượng nếu chúng sinh nhận thức sâu sắc
thì có rất nhiều công đức, nhận thức vửa vừa thì công đức bậc trung bình
còn nhận thức cạn thì tuy cũng có công đức, nhưng rất nhỏ. Tại sao? Bởi
vì khi hiểu Phật qua Pháp thân, Báo thân và Ứng thân thì lúc đó người
đệ tử Phật sẽ biết rằng Pháp thân Phật tức là Như Lai thì lúc nào cũng
thường trụ trong thế gian này nghĩa là ở đâu cũng có Phật và bất cứ lúc
nào cũng có Phật. Vì thế Phật thường trụ về mặt thời gian chính là Phật
Đa Bảo và Phật thường trụ về mặt không gian là hằng hà sa số phân thân
của Phật Thích Ca. Do đó, Phật thường trụ trong thế gian mà đặc biệt là
Phật thường trụ trong tâm của tất cả chúng sinh. Nhận thức rằng mình có
Tri Kiến Phật tức là mình là Phật cho nên con người có thể chuyển hóa
hết những vô minh phiền não của mình để trở về với thanh tịnh tâm tức là
thành Phật. Vì thế kinh dùng chữ “phân biệt” chỉ là phương tiện để
khuyến khích người tu nỗ lực thế thôi chớ công đức thuộc về thế giới vô
lậu thì làm gì có thể so sánh phân biệt ðýợc. Dựa theo đệ nhất nghĩa tất
đàn thì hành giả làm tất cả mọi việc mà không bao giờ thấy mình là
người làm công đức lành nghĩa là tuy có độ vô lượng chúng sinh, nhưng
không được thấy mình là người độ và chúng sinh là những người được độ.
Thế thì nếu đứng về mặt bản thể thì không có công đức gì cả. Tu hành mà
còn thấy có công đức hay còn mong mỏi có công đức thì cũng không đúng vì
đó là biểu tượng của lòng tham. Nhưng ở đây, đứng về mặt hiện tượng thì
người nhận ra được Tri Kiến Phật nơi mình có công đức rất lớn không thể
nghĩ bàn. Cái công đức này chắc chắn lớn hơn người tu theo các hạnh
khác như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ…vì
các pháp tu đó thuộc về pháp hữu vi có sinh có diệt nên có giới hạn.
Trong khi đó Tri Kiến Phật là pháp vô vi, bất sinh bất diệt, không hình
không tướng, vượt ra ngoài phạm trù đối đãi của không gian và thời gian
nên đây mới là công đức vô lượng không thể nghĩ bàn.
Khi đó, Thế Tôn bảo Bồ-tát Di Lặc:
-Này A-dật-đa! Lúc ta nói về thọ mạng lâu dài của Như Lai, thì có:
· Sáu trăm tám muôn ức na-do-tha Hằng sa chúng sanh được “Vô sanh pháp nhẫn”.
Thế nào là ngộ vô sanh pháp nhẫn?
Khi tư duy quán chiếu để nhìn vạn pháp vô
sanh thì cũng có nghĩa là nhìn vạn pháp vô diệt. Thí dụ khi nhìn một nụ
hoa thì làm sao biết được tánh vô sanh của nó? Khi nhìn đóa hoa mới nở
thì chắc chắn là nụ hoa sanh và vài tuần sau, hoa tàn thì nói rằng nụ
hoa diệt. Nhưng đây chỉ là cái nhìn thiển cận của phàm nhân, còn cái
nhìn của Bồ-tát tu hành chứng đắc, ngộ được vô sanh là ngay trong lúc nụ
hoa mới nở thì cái sinh đã có diệt trong đó rồi. Ngược lại trong lúc nó
tàn úa thì các vị Bồ-tát lại nhìn cái diệt là bắt nguồn cho cái sinh
khác. Đó là hiện tượng quy về bản thể và bản thể duyên khởi thành ra
hiện tượng thành ra có cái gì là thật sinh hay cái gì là thật diệt đâu.
Nói cách khác sinh để rồi diệt, diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt
vô cùng vô tận nên sinh diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì
quan trọng nên không còn lo sợ, khổ đau. Chúng sinh khi thấy mình già
yếu, bệnh tật thì đau khổ buồn phiền. Ngược lại, đối với Bồ-tát thì sống
chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong chu kỳ
bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì vậy với tuệ nhãn
của Bồ-tát hay Phật nhãn của chư Phật thì nhìn vạn pháp sanh mà không
thật sanh và diệt nhưng không phải là mất hẳn nghĩa là sinh để rồi diệt
và diệt rồi để lại sanh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận. Đây là
chứng ngộ chân lý vô sanh pháp nhẫn vậy.
· Một số đại Bồ-tát ngàn lần gấp đôi được môn “ văn trì đà-la-ni”.
Đà la ni là năng lực của trí tuệ gồm thâu
và giữ gìn vô lượng Phật pháp không để cho quên sót. Đà la ni còn có
năng lực giữ gìn các pháp lành và ngăn chận các pháp ác.
Dựa theo Luận Đại Trí Độ của Long Thọ thì Đà la ni có bốn loại:
1)Văn trì Đà la ni: Ngước đắc Đà la ni thì nghe các pháp không thể quên được.
2)Phân biệt tri Đà la ni: Có năng lực phân biệt tất cả tà, chánh, tốt, xấu…
3)Nhập âm thanh Đà la ni: Nghe tất cả âm thanh ngôn ngữ đều hoan hỉ, không sân hận.
4)Tự nhập môn Đà la ni: Nghe Đà la ni liển thấu đạt thật tướng của các pháp.
Bây giờ dựa theo Luận Du Già Sư Địa của Vô Trước thì Đà la ni cũng chia làm bốn loại:
1)Pháp Đà la ni: Ghi nhớ câu kinh không quên.
2)Nghĩa Đà la ni: Lý giải nghĩa kinh không quên.
3)Chú Đà la ni: Nhờ sức thiền định mà có khả năng phát khởi chú thuật để tiêu trừ tai ách cho chúng sinh.
4)Nhẫn Đà la ni: Thông đạt thật tướng các pháp là lìa văn tự ngôn ngữ, an trụ nơi pháp tánh mà không bao giờ quên.
· Một số đại Bồ-tát đông như một thế giới vi trần được “ nhạo thuyết vô ngại biện tài”.
Đại Nhạo Thuyết là vị Bồ Tát thành tựu tứ vô ngại biện tài:
1) Pháp vô ngại : Khi đã thành tựu trí
tuệ thì nhìn vạn pháp thấy cái gì cũng đúng với chân lý nên khi thuyết
pháp biến tất cả các pháp trở thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá
rụng, tuyết rơi thì nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường.
2) Nghĩa vô ngại : là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai chân lý.
3) Từ vô ngại : là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.
4) Lạc thuyết vô ngại là càng nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao giờ bị bế tắc.
Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì
tứ vô ngại được gọi là tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát sinh ra
bốn thứ vô ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói thì gọi là tứ vô
ngại biện tức là tứ vô ngại biện tài. Sau cùng khi chúng sinh nhìn kinh
điển mà có thể nhận thức, thấy biết ngay thì gọi là tứ vô ngại giải,
nghĩa là đọc kinh thì biết ngay ý nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu.
· Một số đại Bồ-tát đông như một thế giới vi trần được trăm ngàn muôn ức vô lượng môn “triền đà-la-ni”.
· Một số đại Bồ-tát đông như vi trần của tam thiên đại thiên thế giới chuyển được “ pháp luân bất thối”.
Có số Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của ba
ngàn đại thiên thế giới chuyển được bánh xe pháp bất thối nghĩa là tinh
tấn hướng về trước, không bao giờ thoái bước.
· Một số đại Bồ-tát đông như vi trần của nhị thiên quốc độ chuyển được “ pháp luân thanh tịnh”.
· Một số đại Bồ-tát đông như vi trần của tiểu thiên quốc độ, trong 8 đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” .
· Một số đại Bồ-tát nhiều như vi trần của bốn tứ thiên hạ, trong bốn đời tái sanh, sẽ được “ Chánh Đẳng Chánh Giác” .
· Một số đại Bồ-tát nhiều như vi trần của ba tứ thiên hạ, trong ba đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
· Một số đại Bồ-tát nhiều như vi trần của hai tứ thiên hạ, trong hai đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
· Một số đại Bồ-tát nhiều như vi trần của một tứ thiên hạ, trong một đời tái sanh, sẽ được “ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
· Một số chúng sanh nhiều như vi trần của tam thế giới, đều phát tâm “ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Người tu học Phật pháp nhất định phải
phát tâm Bồ Đề tâm. Đó là “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”. Đến
đây đức Phật nhắc lại kết quả sau khi Phật nói về thọ lượng của Như Lai.
Các hàng Bồ Tát Thánh chúng nhiều hằng sa số không sao kể xiết đều phát
tâm bất thối, hoặc còn một đời, hai đời…thì sẽ chứng được Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Phật nói xong, một trận mưa hoa
báu từ hư không rơi xuống trên vô lượng trăm ngàn muôn ức Phật ngồi trên
toà sư tử, dưới cội cây báu, trên đức Phật Thích Ca và đức Phật Đa Bảo
đang ngồi trong tháp bảy báu, và trên tất cả Bồ-tát và bốn bộ chúng. Lại
có trận mưa hương bột chiên đàn, hương trầm thủy, và trống trời tự
vang. Lại có trận mưa thiên y và trên không thòng xuống các thứ chuỗi
ngọc, các lò hương báu đốt hương vô giá để cúng dường đại chúng.
Trên mỗi đức Phật có các Bồ tát tay
cầm phan lọng, trước sau lên đến trời Phạm-thiên, dùng âm thanh vi
diệu, ca vô lượng bài kệ tán thán chư Phật.
Đức Phật vừa mới nói xong thọ lượng của
Như Lai thì mưa hoa từ trời rơi xuống cúng dường vô lượng trăm nghìn
muôn ức đức Phật ngồi ở tòa sư tử dưới cội cây báu. Bấy giớ đức Phật
Thích Ca và Phật Đa Bảo cùng ngồi trong tháp báu có vô lượng Bồ Tát và
đại chúng vây quanh. Các Bồ Tát cầm phan lọng, dùng âm thanh vi diệu ca
ngâm vô lượng bài kệ tán thán chư Phật. Thế thì Như Lai thường trụ trong
thời gian vô tận và không gian vô cùng cho nên đại chúng càng tin vào
Như Lai thì càng thêm công đức.
Khi ấy Bồ-tát Di Lặc đứng dậy lễ Phật rồi nói một bài kệ nhắc lại và xưng tụng những lời Phật vừa dạy.
Bồ-tát Di Lặc nói kệ xong, Phật nói:
-Này A-dật-đa ! Chúng sanh nào
nghe Phật thọ mạng lâu dài như thế mà chỉ sanh được một niềm tin tưởng,
thì đặng công đức không thể hạn lượng. Công đức này lớn lao cho đến nỗi
đem công đức tu 5 Ba-la-mật đầu (Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định) trong 80 muôn ức na-do-tha kiếp ra so sánh thì trong
muôn ức ngàn phần công đức tu Ba-la-mật không kịp một. Lại nữa ai được
công đức tin tưởng như trên thì không bao giờ thối bước trên đường dẫn
đến Chánh Giác.
Đức Phật lại xác định rất rõ ràng rằng
nếu có chúng sinh nào nghe thọ mạng của Phật dài lâu như thế mà có lòng
tin thì công đức quá lớn không thể lường được. Tại sao? Bởi vì nếu
chúng sinh tin rằng trong ta có sẵn Tri Kiến Phật thì người đó sẽ thành
Phật vì Tri Kiến Phật thuộc về vô lậu nên công đức không thể đo lường
được. Ngược lại tuy chúng sinh có tu theo hạnh Bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định trong 80 ức na-do-tha kiếp đi chăng nữa thì
công đức đức này vẫn không bằng một phần công đức của người nhận ra Tri
Kiến Phật của mình. Vì tu theo năm hạnh ở trên thuộc về pháp hữu vi, có
tướng, có sinh có diệt nên quả báo có giới hạn. Trong khi đó Tri Kiến
Phật thì không hình không tướng, thuộc về pháp vô vi bất sinh bất diệt,
không giới hạn bởi thởi gian và không gian nên quả báo vô lượng không có
pháp nào sánh kịp. Thật vậy, người lãnh hội được Pháp Hoa, sống với Tri
Kiến Phật của mình thì tất cả mọi sinh hoạt hằng ngày đều sáng suốt, tỏ
tường và trí tuệ quang minh. Còn người tu theo từng pháp môn của lục độ
thì phải trải qua từng giai đoạn để khai tâm mở tánh, tuy tốn rất nhiều
công mà kết quả không được bao nhiêu. Đó là hai phương pháp khác nhau
giữa Đốn và Tiệm tức là nhanh và chậm.
Sau khi nói một bài kệ lập lại ý trên, đức Phật nói tiếp:
-Này A-dật-đa! Người nào nghe nói
về thọ mạng lâu dài của Phật mà hiểu được cái ý thú trong lời nói đó,
thì người ấy được công đức vô lượng, lại có thể phát khởi trí tuệ vô
thượng của Như Lai. Huống là người hiểu rộng nghe nhiều về kinh Pháp
Hoa, hoặc bảo người nghe hoặc tự thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người
chép, hoặc dùng mọi thứ hương hoa … cúng dường kinh. Người ấy đặng công
đức vô biên có thể sanh “ nhất thiết chủng trí”.
Phật lại dạy rằng người nào nghe thọ mạng
của Phật dài lâu như thế mà hiểu thấu suốt thì người đó đã có công đức
quá lớn rồi, nhưng công đức càng lớn hơn nếu người đó chẳng những hiểu
thấu mà còn đem sao chép, thọ trì, truyền tụng kinh Pháp Hoa thì người
ấy nhất định sẽ thành Phật tức là có “Nhất thiết chủng trí”. Bởi vì thọ,
trì, sao chép, cúng dường ở đây là ám chỉ sự tin nhận mình có Tri Kiến
Phật. Từ đó luôn khéo léo giữ gìn và phát triển cái trí tuệ Phật ngày
càng thêm tròn đầy và trong sáng, không cho vô minh phiền não che phủ lu
mờ thì chắc chắn người ấy sẽ thành Phật.
Nhất Thiết Chủng Trí:
Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không.
Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức là không còn chấp có
pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không
còn chấp thế gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung
thông tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng
Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng
không phải là không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân duyên hòa
hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp
diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt,
diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự
tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần
phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả như
các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có thật. Mặc
dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất
Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng
sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo
dung thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí
tuệ nầy.
-Này A-dật-đa ! Còn thiện nam tử,
thiện nữ nhân nào nghe ta nói mà sanh lòng tin hiểu chắc về thọ mạng
lâu dài của Phật, thì người ấy ắt thấy Phật thường trụ tại Kỳ-xá-quật
nói Pháp cho các Đại Bồ-tát và Thanh Văn vây quanh nghe. Chẳng những thế
mà còn thấy đất cõi Ta-bà bằng lưu ly, mặt liền bằng thẳng, tám nẻo rào
bằng dây vàng ròng, bảy cây báu và lâu đài cũng đều bằng bảy báu họp
thành, trong có Bồ-tát ở. Ai mà quán tưởng được như thế, thì nên biết đó
là biểu hiện của một lòng tin tường sâu sắc.
Đến đoạn này, Phật một lần nữa lại xác
định rằng những người mà tin chắc chắn lời Phật nói về thọ mạng Như Lai
thì người ấy thấy Phật đang thuyết pháp ở núi Linh thứu. Ngày nay nếu
chúng sinh có duyên qua tận Ấn Độ, đến núi Linh thứu thì sẽ thấy cái gì?
Vì là phàm nhân nên nhãn căn chỉ thấy một dãy nùi chạy dài có con đường
cong vo đi dần lên núi. Đến đỉnh núi sẽ thấy có những hang động trống
không mà ngày xưa các vị Thánh giả dùng để tham thiền nhập định. Trên
đỉnh núi trống không chỉ còn lại dấu tích ngày xưa Thế Tôn thuyết pháp
với bao thính chúng bao quanh. Nhưng đối với người giác ngộ và đã tin
sâu nơi mình có Tri Kiến Phật thì Phật ở trong tâm cho nên nhìn đâu cũng
thấy Phật, nghĩ gì cũng đều là Pháp Phật. Thế thì tâm thanh tịnh thì
nhìn đâu cũng là cõi Phật thanh tịnh, nghe âm thanh như nghe Phật thuyết
pháp. Ngược lại nếu tâm ô nhiễm bởi tham sân si, sắc tài danh lợi thì
nhìn đời bằng đôi mắt thịt của thân ngũ uẩn đầy phiền não nên thấy gì
cũng ô trược.
Ngày xưa tông Thiên Thai có ngài Trí Giả
Đại sư chuyên trì kinh Pháp Hoa. Ngài tụng liên tiếp trong 21 ngày đến
khi tụng đến phẩm Dược Vương Bồ Tát thì ngài nhập Pháp Hoa tam muội.
Trong định ngài thấy Phật đang thuyết pháp cho hội chúng ở hội Linh Sơn
trên núi Linh Thứu. Nhập Pháp Hoa tam muội nghĩa là mình đang thức tỉnh
có chánh niệm để biết rằng mình có Phật tánh và mình sẽ thành Phật. Vì
thế khi hành giả không nhất thiết ngồi thiền, họ sống trong mọi sinh
hoạt của đời sống hằng ngày mà tâm mình phát sáng và biết rõ ràng mình
đang sống với Tri Kiến Phật, với Phật tánh nhiệm mầu trong ta thì lúc đó
mình đang nhập vào Pháp Hoa tam muội.
-Lại nữa, sau khi Phật diệt độ,
ai nghe kinh này mà không chê bai, sanh lòng tuỳ hỉ, thì đó cũng là biểu
hiện của một lòng tin hiểu sâu chắc. Còn đi đọc, tụng, lãnh, giữ kinh
này thì người đó đầu đội Như Lai.
Nếu chúng sinh ngộ được Tri Kiến Phật thì
người đó có đủ lòng tin nên tâm thường hoan hỉ mà thọ, trì, đọc, tụng,
lãnh và giữ gìn kinh. Vì sống với Tri Kiến Phật nên lòng thanh tịnh, tâm
thanh thoát nhẹ nhàng, không còn bị phiền não quấy phá thì cũng như đầu
đội Như Lai rồi.
-Này A-dật-đa! Tin hiểu được như
thế, thì không cần vì ta mà dựng chùa tháp, cũng không cần cất tăng
phường và dùng “tứ sự” cúng dường chúng tăng. Vì sao? Vì thọ trì, đọc,
tụng được kinh này là đã dựng tháp, tạo lập tăng phường, là đã dùng
hương hoa, chuỗi ngọc, tràn phan, kỹ nhạc… tán thán chư Phật trong muôn
ngàn ức kiếp rồi.
Tất cả những việc làm như dựng chùa tháp,
cất tự viện hay cúng dường tứ sự cho Tăng Ni cũng không ngoài mục đích
tăng trưởng phước đức, bảo trì Tam Bảo cửu trụ thế gian. Nhưng ở đây
người sống được với Tri Kiến Phật của mình là đã trở về với Bản lai diện
mục nghĩa là đã qua những giai đoạn dựng tháp, cúng dường tràn phan, kỹ
nhạc…vì tất cả những tiến trình đó chỉ nhằm vào mục đích vun bồi phước
đức và công đức tròn sáng để trực nhận được Phật tánh của chính mình.
Tóm lại, sống với Tri Kiến Phật là đã cúng dường chư Phật rồi đó.
-Này A-dật-đa! Thọ, trì, đọc,
tụng kinh này được công đức như thế, hà huống còn tu hạnh bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn , thiền định và trí tuệ, thì công đức này
không còn gì hơn.
-Nếu thọ trì, đọc tụng kinh này
mà còn tạo tháp, xây dựng tăng phường, cúng dường, khen ngợi chúng Thanh
Văn và Bồ-tát, hoặc giải nói Kinh Pháp Hoa rồi còn thanh tịnh trì giới,
nhẫn nhục, quí việc ngồithiền, tinh tấn mạnh mẽ, căn
lành trí sáng, thì đó là những người đã đến Đạo tràng, gần ngồi dưới cội
cây Đạo để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tới đây, đức Phật nói một bài kệ nhắc lại ý trên.
Đến đây đức Phật xác định rằng chúng sinh có cất chùa, tạo
tháp, cúng dường các hàng Thánh chúng mà còn thọ trì, đọc tụng kinh Pháp
Hoa thì công đức quá lớn không thể nghĩ bàn. Đạo Phật dạy chúng sinh Sự
Lý viên dung vì thế phần trên đức Phật nói không có việc làm nào của
thế gian như là xây chùa, đúc tượng, hộ trì Tăng Ni có thể sánh bằng
công đức trực nhận Tri Kiến Phật là bản thể chân như. Để dung hòa giữa
“lý và sự”, đức Phật bây giờ mới cộng thêm phần lập chùa, xây tượng để
khuyến khích chúng sinh tục truyền thống hoằng pháp độ sinh, truyền lưu
Phật pháp mãi mãi về sau. Chúng sinh chẳng những ngộ nơi mình có Tri
Kiến Phật mà còn phải tu thêm hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định và trí tuệ. Tại sao? Bởi vì ngộ Tri Kiến Phậtlà nhận ra
Phật nhân của mình còn đến Phật quả thì dĩ nhiên cần phải trải qua bao
nhiêu đời, bao nhiêu kiếp tu nữa mới thành chớ không phải ngộ Tri Kiến
Phậtthì tức thì thành Phật được. Đó làvì trong ta, tập khí ngã mạn, tham
sân si kết nhóm sâu dày nên không dễ gì một sớm một chiều mà nhỗ tận
gốc. Vì thế, tuy chúng sinh ngộ được Tri Kiến Phật của mình, nhưng lòng
còn tham đắm si mê, trong chấp ngã ngoài chấp pháp, tranh chấp, đố kỵ
không tan thì con đường đến Phật quả phải cần nhiều công phu và đức hạnh
mới mong thành tựu được.
Tóm lại, ngày nay người đệ tử Phật khắp
năm châu bốn bể đừng nên nghĩ rằng mình không có duyên đến núi Linh thứu
hay đối diện với Phật vì Phật đã diệt độ trên mấy ngàn năm rồi. Thật ra
nếu chúng ta biết sống với Tri Kiến Phật của mình thì cho dù chúng ta ở
đâu và bất cứ lúc nào thì Bổn Phật Đa Bảo và phân thân Phật Thích Ca
cũng ở ngay trong tâm của chúng ta. Thời điểm đó chúng ta nghe Pháp
Phật, sống với Phật không khác gì chúng ta đang ở trên núi Linh thứu và
đang thấy Phật như mấy ngàn năm về trước.