KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Mười Sáu
Phẩm NHƯ LAI THỌ LƯỢNG
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà
Đức Phật nói phẩm Như Lai Thọ Lượng là để
trả lời cho Bồ Tát Di Lặc rằng tại sao số Bồ Tát xuất hiện từ dưới đất
đông như thế mà những vị đó có uy đức, trí tuệ phải là những người đã tu
tập đến đệ tam A tăng kỳ tức là gần thành Phật. Thế thì trải qua quá
trình tu tập dài lâu như vậy thì ai là thầy giáo hóa cho họ? Khi đức
Phật Thích Ca trả lời chính Ngài đã giáo hóa họ thì đại chúng và Bồ Tát
Di Lặc không khỏi hồ nghi. Bởi vì dựa theo sự nhận xét qua hình tướng
thì đức Phật mới thành đạo trên bốn mươi năm thì làm sao Ngài có thể
giáo hóa cho vô số Bồ Tát trong suốt thời gian gần như vô tận được? Nói
thế chẳng khác nào người già tóc bạc mà gọi chàng thanh niên ngoài hai
mươi là cha của mình?
Lượng là số lượng và thọ là tuổi thọ. Vì
vậy Như Lai Thọ Lượng là đức Phật dạy cho chúng sinh biết về tuổi thọ
của Như Lai. Tuổi thọ của đức Phật Thích Ca là 80 tuổi thế thì tuổi thọ
của Như Lai là bao nhiêu?
Phật giáo Đại thừađược chia làm hai
trường phái triết học chính là phái Trung Luận của triết gia Long Thọ và
phái Du già của sư Vô Trước. Ở Ấn Độ trường phái Du Già được gọi là Du
Già hành tông, nhưng tại Trung Hoa và Việt Nam thì thường gọi là Duy
thức tông hay Duy thức học. Nói chung cả hai trường phái Trung quán tông
của Long Thọ và Du Già hành tông của Vô Trước, Thế Thân đều cùng chung
một ý niệm rằng tất cả vạn hữu trên thế gian này được tạo thành đều
không có tự tánh cho nên không có vật gì trường tồn bất biến cả. Tư
tưởng Du Già đã bắt đầu hình thành vào thời Long Thọ, nhưng mãi đến mấy
thế kỷ sau triết lý này mới được phát huy đến mức tận cùng bởi Vô Trước
và người em là sư Thế Thân. Phái Du Già tin vào chủ nghĩa “duy tâm siêu hình”
mà theo đó tâm thức sáng tạo ra đối tượng của nó nhờ vào những năng lực
tiềm ẩn nội tại. Thế Thân lý luận rằng tất cả vạn hữu trong thế giới
hữu vi này mà con người biết được, trong thực tế đều chỉ là cấu trúc của
tâm thức bởi vì những vật thể đó cũng chỉ là sự thông giải do tâm trí
của con người đặt ra. Dưới mắt các học giả Tây phương, Du Già là một
triết học mang tính duy tâm chủ nghĩa (idealism) vì nó lấy sự thông giải
tâm thần các kinh nghiệm của con người làm điểm phát xuất. Nói cách
khác, tâm thức tự nó hiện hữu mà không cần có bất cứ đối tượng nào. Sự
giải thoát chỉ có thể thực hiện được khi nào con người có thể tạo ra
được một nhận thức thuần túy nghĩa là chỉ thuần có tâm thức và không lệ
thuộc vào phạm trù đối đãi của nhị nguyên. Chẳng những Vô Trước là
nhà biện luận xuất sắc, sư có người em là Thế Thân tài trí cũng không
kém. Công trình chính của Thế Thân là hệ thống hóa tư tưởng Du Già hành
tông của sư huynh Vô Trước thành Duy thức tông và là tác giả cuốn Duy
Thức tam thập tụng mà một trong những công dụng là giải thích những khúc
ẩn trong bát thức tâm vương, đặc biệt là Mạt-na thức và A-lại-da thức.
Phái Trung Quán được thành lập bởi ngài
Long Thọ vào những năm 150 sau dương lịch. Ngài được xem là một trong
những kỳ tài vào thời đại đó của xứ Ấn Độ. Chính tư tưởng Trung Quán là
xương sống cho Phật giáo Đại thừa khi truyền sang Trung Hoa và cũng là
yếu chỉ cho Phật giáo Mật tông Tây Tạng và Mông Cổ. Triết lý Trung Quán
Luận là một học thuyết biện luận đưa đến sự hoài nghi tất cả mọi hiện
sinh và cho rằng tất cả mọi sự vật đều là giả tạo vì chúng không có tự
tánh, không có chủ thể nên chúng là vô ngã tức là Không. Vì thế con
đường giải thoát là phải buông bỏ hết cho đến khi chỉ còn lại cái tánh
không tuyệt đối thì lúc ấy giải thoát sẽ được đạt đến. Long Thọ giới
thiệu tư tưởng Bát Nhã và được diễn tả khá rõ ràng trong Luận Đại Trí
Độ. Ngài khai triển về tánh Không và dựa theo khuynh hướng Bát Nhã của
Đại Trí Văn Thù là Căn Bản Trí trong khi Du Già hành tông của Vô Trước
thì chú trọng về Thức mà Bồ Tát Di Lặc tức là biểu tượng. Nhưng tiến
trình viên thành Phật đạo thì Bồ Tát phải chuyển tám thức thành bốn
trí.
Sở dĩ tư tưởng Như Lai tạng được thành
lập là vì Đại thừa muốn thuyết minh cái “khả năng tánh” thành Phật tức
là cái “bản giác” đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đặc biệt tư
tưởng A lại da thức được ra đời với chủ đích thuyết minh cái khuynh
hướng trở về cảnh “ngộ” mà những kinh Lăng Già và kinh Mật Nghiêm lấy nó
làm trung tâm điểm. Mặc dù tư tưởng Như Lai tạng và A lại da thức được
ra đời sau Long Thọ, nhưng những tư tưởng đó đã manh nha ngay từ trong
những tư tưởng của Thượng tọa bộ và Đại Chúng bộ. Tư tưởng Như Lai tạng
phát xuất từ thuyết “Tâm tính bản tịnh” của Đại chúng bộ và A lại da
thức có rất nhiều điểm tương quan với thuyết “Sinh cơ - Sinh mệnh” của
Thượng tọa bộ.
Sau thời đại của Long Thọ, trong những
kinh Giải Thâm Mật, kinh A-Tỳ-Đạt-Ma Đại thừa có khuynh hướng giới thiệu
tư tưởng Như Lai Tạng và A lại da thức, nhưng trên thực tế về ý nghĩa
các kinh đó vẫn chưa đạt chỗ triệt để. Mãi đến khi sự xuất hiện và thông
giải của Vô Trước và Thế Thân thì ý nghĩa của nó mới được thấu hiểu tột
cùng.
Dựa theo triết lý Trung Quán, Long Thọ đã giới thiệu lý tưởng “PHÁP THÂN” và sau đó Vô Trước của phái Du Già đề ra khái niệm về “BÁO THÂN”.
Long Thọ phủ nhận quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy về đức Phật lịch
sử cho rằng đức Phật cũng bắt đầu bằng thân phận bình thường của một con
người, cũng chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của kiếp người. Ngài cũng phải
đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh khác. Sau
cùng, Ngài tìm kiếm một con đường giải thoát và đạt đến hạnh phúc Niết
bàn, chứng đắc trí tuệ viên mãn và thoát ly sinh tử luân hồi. Ngài chỉ
rõ cứu cánh này cho mọi người biết và những ai đi theo con đường này
cũng sẽ đạt đến cứu cánh tối thượng giống như Ngài. Chân lý mà đức Phật
chứng nghiệm dưới cội Bồ Đề là Tứ Đế. Ngài dạy chúng sinh đời là biển
khổ, nhưng không vì thế mà sống trong tiêu cực yếm thế. Đức Phật dạy
chúng sinh diệt khổ để có an lạc trong cái thế giới có sinh có diệt này
chớ Ngài không dạy chúng sinh trốn khổ vào những cõi cực lạc mà không lo
tiêu trừ lậu hoặc. Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì đức Phật là vị A
la hán đầu tiên của tất cả các vị A la hán bởi vì sau khi thuyết giảng
Chân lý Tứ Đế cho năm anh em ngài Kiều Trần Như thì Ngài tự xưng là Như
Lai. Vì thế Như Lai có nghĩa là “Người đã trở thành như thế” tức là
người đã tỉnh thức và giác ngộ.
Nhưng ở đây, Long Thọ cho rằng đức Phật lịch sử chỉ là ứng thân
của Phật vào trong thế giới Ta Bà để cứu độ chúng sinh. Vì vậy dựa theo
Long Thọ, đức Phật không phải là một nhân vật lịch sử, mà đức Phật chân
chính là một thực thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn tức
là “Pháp thân”. Cho nên đức Phật lịch sử chỉ là nhân vật được “đức Phật chân chính”
gởi đến với thế gian để tạo thành một nhân vật có hình thể là một con
người, có một đời sống sinh hoạt giống hệt như một con người thường tục
để thuyết giảng Chánh Pháp cho nhân thế. Do đó đức Phật đã thành Phật từ
vô lượng kiếp trước chớ không phải mới thành Phật tại thế giới này nhờ
công phu tu thiền định. Đây chính là ý nghĩa của “Như Lai” dựa theo tinh
thần Phật giáo Đại thừa.
Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì không
thể có 2 đức Phật cùng xuất hiện nên chủ trương thuyết “Nhất Phật”, đó
là chỉ có duy nhất Phật Thích Ca trong thế giới này mà không hề có Phật A
Di Đà, Phật Dược Sư hay bất cứ vị Phật nào khác. Nhưng Phật giáo Đại
thừa thì cho rằng có nhiều vị Phật xuất hiện cùng lúc, phía Tây có Phật A
Di Đà, phía Đông có Phật A Súc và vô số Phật tồn tại mà kinh điển gọi
là “Thập phương hằng sa chư Phật”. Từ đó Phật giáo Đại thừa giới thiệu
thuyết “Tam thân” là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân cho mỗi vị Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
1) Pháp thân(Dharmakaya)
là pháp giới thanh tịnh của các Đức Như Lai lan tỏa trong khắp không
gian làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn
thường trụ, bất sinh bất diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai
Tạng…Phật lấy Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp
thân là chỗ sở y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là
thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ
chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế thì nó
cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân nầy Phật và
chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng suốt chiếu soi rực
rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ nên không hiển lộ. Pháp
thân chính là cái mà con người sẽ trở về sau khi diệt hết vô minh phiền
não để phát huy trí tuệ sẳn có của mình. Vậy Pháp thân chính là cội
nguồn, là Bản Thể của tất cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai
Diện Mục, là Phật tánh, là Như Lai Tạng có sẵn trong mỗi chúng sinh.
2) Báo thân(Sambhogakaya)
là thân tốt đẹp do công phu tu hành trãi qua bao nhiêu đời bao nhiêu
kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là
vậy. Báo thân còn được gọi là tự thọ dụng thân.
Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền
não thì tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy
chỉ có người đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay
san sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân.
Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới biết
được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu chúng ta bớt được
một phần vô minh phiền não thì có được một phần thanh tịnh tức là có
được một phần tự thọ dụng thân.
Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya
tức là thân nầy là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân
thể khỏe mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói
thanh tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan
trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no hạnh
phúc thì đừng trộm cướp gian tham.
3) Ứng thân hay biến hóa thân(Nirmanakaya)
Chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng
theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng
thân của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên phải
ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng thân cũng được
gọi là tha thọ dụng thân.
Đối với Phật giáo Đại thừa thì báo thân
hay tự thọ dụng thân có giá trị tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh
giác ngộ mới hưởng được cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải
thoát giác ngộ mà không một người nào khác có thể biết được. Khi chư
Phật hay Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ
hội học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình giải thoát giác ngộ
thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ sông mê gọi là tha thọ
dụng thân.
Tóm lại ba thân của Đức Phật là: Pháp
thân là Thể, Báo thân là Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy nói ba mà là
một, tuy một mà ba tức là một là tất cả và tất cả là một.
Ngài Thiền sư Xuyên Lão cũng có bài kệ rằng:
Ứng Phật, Hóa Phật đều không thật
Bóng hình muôn thử thảy là quyền
Cái gì có tướng đều hư vọng
Chân Phật không hình vốn tự nhiên.
Trong kinh Kim Cang có câu “Như Lai giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”
nghĩa là Như Lai đi không chỗ từ, đến không chỗ tới thì mới thật là Như
Lai. Thế thì Như Lai là bản thể chân như của hiện tượng vạn pháp cho
nên Phật Đa Bảo là biểu tượng cho Pháp thân thường trụ của Như Lai. Do
đó Như là bất biến và Lai là hiện tượng tùy duyên của vạn pháp. Vì thế
Như Lai hiện hữu từ vô thỉ đến vô chung, không có điểm bắt đầu và dĩ
nhiên không có ngày cùng tận. Từ cái bản thể vô thỉ vô chung lúc nào
cũng tồn tại và hiện hữu (Như) để duyên khởi sanh ra vạn pháp (Lai). Đó
là bất biến (Như) rồi tùy duyên (Lai). Kinh Kim Cang lại dạy thêm rằng:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Dịch là:
Nếu thấy Ta bằng sắc tướng
Nghe Ta bằng âm thanh
Người nầy đi đường tà
Không thấy được Như Lai.
Một lần nữa chính đức Phật dạy chúng sinh
phải phá trừ Vô minh vọng chấp để đạt được trí tuệ Bát Nhã thì mới thật
thấy và thật nghe được Phật. Trái lại, nếu còn vô minh vọng chấp có
nghĩa là chấp có sắc tướng hay âm thanh của Phật thì không bao giờ thấy
được Phật. Bởi thế nên Phật mới quở là “Người nầy đi đường tà” tức là
vọng thì sẽ không bao giờ thấy được Như Lai. Như thế nếu từ cửa Bát Nhã
là cửa “Không” chúng ta bước vào trong nhà thì bây giờ mới thấy được tâm
Phật của mình. Nếu sống với tâm Phật nầy là mở rộng cánh cửa giải thoát
để chứng ngộ Niết bàn. Nhưng đây là một thứ Niết bàn tự tánh thường
vắng lặng mà thường sáng suốt. Nó vẫn thường bộc lộ sáng suốt nơi chư
Phật mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Mà kinh gọi là Phật
tánh, là Chơn tâm, là Như Lai tạng. Chính tự tánh Niết bàn nầy có đầy đủ
bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. “Thường” nghĩa là
không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không
lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống chết đổi thay.“Lạc” là không còn khổ não lo buồn, an vui tự tại. “Ngã” là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối. “Tịnh” là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh, trong sáng.
Vì vậy đức Phật Thích Ca là Ứng thân của
Như Lai nên có tuổi thọ là 80 tuổi trong khi Pháp thân của Như Lai có
tuổi thọ vô lượng từ vô thỉ đến vô chung. Nếu đứng về mặt hiện tượng thì
Như Lai cũng đi, đứng, nằm, ngồi, khất thực, ăn uống, tham thiền, tư
duy như tất cả những vị Tỳ kheo khác, nhưng bên trong Như Lai có một trí
tuệ Vô thượng, có Niết bàn Vô thượng mà người khác không thể nào nhìn
thấy. Chỉ duy nhất Như Lai biết được cái trí tuệ Bồ Đề nó sâu rộng đến
đâu và chỉ có Như Lai mới hưởng được Vô thượng Niết bàn mà người khác
không hề biết Như Lai thọ hưởng sự an lạc đó như thế nào. Đó chính là
Báo thân của Như Lai. Còn nếu đứng về mặt bản thể thì Như Lai thường trụ
vĩnh hằng về mặt thời gian. Từ đó có vô lượng phân thân tức là Hóa thân
Phật Thích Ca khắp hàng hà sa cõi nước mười phương là biểu tượng về
Pháp thân của Như Lai về mặc không gian vậy.
Bấy giờ đức Phật Thích Ca bảo các Bồ-tát và đại chúng:
-Các ngươi hãy tin lời chân thật của Như Lai ! Nói xong, Phật lập lại hai lần câu nói đó.
Tại sao Phật bảo tới ba lần là hãy tin
lời chân thật của Như Lai? Bởi v́ tuy đức Phật nói chân lý, nhưng cái
chân lý này vượt ra ngoài tầm hiểu biết của con người cho nên đức Phật
phải lập đi lập lại đến ba lần để mọi người chú ý lắng nghe.
Đứng đầu các Bồ-tát đã ba phen cầu thỉnh, đức Phật nói:
-Hãy nghe đúng như sự thật, sức
mạnh thần thông bí mật của Như Lai. Tất cả thế gian, trời, người cùng
A-tu-la đều nói rằng Phật Thích Ca, rời cung họ Thích, đến thành Già-da
cách đó không xa, ngồi nơi đạo tràng, chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Nhưng nầy các thiện nam tử, ta từ thành Phật đến nay, vô
lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp đã trôi qua. Giả sử có
người đem năm trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ tam-thiên đại-thiên
thế-giới, tán nhỏ thành bụi, rồi đem hạt bụi ấy đặt nơi hướng Đông, sau
khi vượt qua năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ nước. Đặt xong,
trở lại lấy một hạt khác và cũng đem đặt ở hướng Đông y như trước, cho
đến khi nào số bụi nói trên bị dời đi hết. Này các thiện nam tử, ý các
ngươi thế nào? Có thể tưởng tượng, đếm, tính số thế giới trên đó các hạt
bụi được đặt lên không?
Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì Thái
tử Tất Đạt Đa rời cung vua Tịnh Phạn xuất gia tu hành và thành Phật dưới
cội Bồ Đề. Bây giờ Phật giáo Đại thừa lý luận rằng trong tất cả mọi
chúng sinh đều có sẵn Tri Kiến Phật tức là Căn bản trí hay Vô sư trí cho
nên khi họ phá sạch vô minh phiền não thì Căn bản trí hiển hiện tức là
thành Phật. Vì thế nếu dụa trên sự tướng thì Thái tử Tất Đạt Đa nhờ công
phu thiền định mà thành đạo dưới cội Bồ Đề, nhưng dựa trên bản thể chân
như thì đức Phật cũng như tất cả mọi chúng sinh đều đã thành Phật.
Thông thường khi nghe nói chúng sinh “sẽ thành Phật” thì mọi người chấp nhận và cố gắng tu hành để thành Phật, nhưng nếu nói chúng sinh “đã thành Phật”
thì chẳng ai dám tin. Lý do rất đơn giản và thực tế là vì ai cũng nghĩ
rằng mình là bạc địa phàm phu, tham sân si dẫy đầy mà nói đã thành Phật
thì làm sao tin được. Thật vậy, Căn bản trí hay Tri Kiến Phật thì lúc
nào cũng có sẵn trong mỗi chúng sinh ví cũng như ánh sáng mặt trời lúc
nào cũng chiếu sáng. Nhưng con người không thấy ánh sáng mặt trời là vì
bị màn mây đen che lấp chớ ánh sáng mặt trời đâu có mất. Cũng như tuy
chúng sinh còn tập khí ngã mạn, còn tham sân si ví như màn mây đen,
nhưng trong tâm họ lúc nào cũng có Phật tánh ví như ánh sáng mặt trời
lúc nào cũng chiếu sáng. Do vậy khi lau sạch bụi vô minh, đánh tan giặc
phiền não thì chân tánh hiển lộ, Phật tánh hiển bày tức là thành Phật
cũng ví như mây đen tan thì ánh sáng mặt trời chiếu rọi thế thôi. Nếu
không có ánh sáng mặt trời thì dù cho mây đen tan biến thì bầu trời vẫn
tối đen chớ đâu có sáng. Thế thì Như Lai trụ trong thế giới Ta Bà này
giáo hóa chúng sinh từ vô lượng hằng sa kiếp và không có lúc nào Như Lai
vắng bóng. Vì thế Phật ở đâu và ở bất cứ lúc nào cũng có trùm khắp
trong không gian và thời gian. Khi mê con người sống với vô minh phiền
não đến khi thức tỉnh mới biết rằng mình có Phật tánh chớ Phật tánh lúc
nào cũng có, đâu có mất.
Con người thường có bệnh chấp nên nói
rằng tu hành để diệt vô minh, phá trừ pháp chấp. Nhưng thực ra mê giác
là một, không ngoài tham-sân-si thì không có giới-định-tuệ, không có
Phật tánh nào khác.
Khi nói mê là mê đối với ngộ, cũng như
ngộ là ngộ nơi mê. Nói cách khác do bỏ quên cái ngộ thì mê, những bây
giờ rõ mê thì được ngộ. Nhưng mê ngộ không có thật thể cho nên người có
chánh kiến biết rõ tâm là rỗng không tức là vượt khỏi mê ngộ. Bình
thường, chúng sinh còn thấy có niệm mê, niệm ngộ nghĩa là mình chưa khỏi
mê. Cho dù chính mình thấy ngộ được cái mê, nhưng vẫn còn thấy có cái
mê để ngộ thì cũng chưa hết mê tức là bởi chưa hết mê nên mới còn thấy
cái mê để cho mình ngộ vì thế khi nào còn ý niệm mê ngộ là chưa sạch cái
mê. Cũng như hễ có sáng thì không có tối, còn có tối thì không có sáng
chớ không phải dùng cái sáng mà soi cái tối được. Thí dụ nếu nói tu hành
để có Bồ-đề, Niết bàn nghĩa là còn thấy cái mê để ngộ thì vẫn còn mê vì
thật ra Bồ-đề, Niết bàn là tự tánh sẵn có, đâu cần phải tu mới có vì
thế người biết đạo thì chỉ cần sống thật với tự tánh thì không tìm ngộ
mà cũng chẳng cần bỏ mê thì niệm mê ngộ tan biến, thanh tâm mới hiện
bày.
Vì thế nếu chúng sinh đem tâm cầu pháp ấy
là mê, còn chẳng đem tâm cầu pháp là ngộ. Chúng sinh chẳng kẹt vào văn
tự gọi là giải thoát vì Phật tánh là bản thể chân như thì làm sao nói
được. Chúng sinh chẳng khởi vọng tưởng thì có Niết bàn vì phiền não và
Niết bàn là một, bất tức bất ly. Khi mê thì còn thấy có bờ bên này là
khổ đau, bờ bên kia là giải thoát đến khi ngộ thì hai bờ biến mất vì tâm
chẳng trụ bên này bên kia. Cũng như khi mê thì thấy có thế gian cần
thoát ra để về cõi cực lạc, khi ngộ thì thế gian là cực lạc.
Khi không vọng tưởng một tâm là một cõi
Phật. Ngược lại khi có vọng tưởng thì một tâm là một địa ngục. Chúng
sinh vì xây dựng vọng tưởng tức là đem tâm sanh tâm nên lúc nào cũng ở
trong địa ngục. Bây giờ thức tỉnh, sống trong tỉnh thức chánh niệm tức
là không đem tâm sanh tâm thì tâm quay về Không, niệm niệm trở về tịnh
nên vào cõi Phật. Nếu một thoáng tâm dấy lên, có thiện có ác nên có
thiên đường có địa ngục. Bây giờ tâm không khởi niệm, không thiện không
ác thì thiên đường và địa ngục biến mất chỉ còn lại cõi Phật thanh
tịnh.
Tổ Đạt Ma dạy rằng : ”Khi mê thì có Phật
có Pháp, khi ngộ thì không có Phật Pháp”. Như thế khi ngộ thì Phật Pháp
bỏ ở đâu mà không có? Chúng sinh vì còn mê mới thấy có Phật, có Pháp ở
ngoài tâm nên mới dong ruỗi mong cầu đến khi thức tỉnh giác ngộ thì mới
biết rằng tâm mình là Phật, tâm mình là Pháp nên nói không có Phật Pháp
là vậy.
Bồ-tát Di Lặc và tất cả đều bạch:
-Thế Tôn các thế giới ấy vô lượng vô
biên, làm sao đếm tính cho được, cũng không thể dùng sức tâm mà tưởng
tượng được. Tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác đến bậc “ vô lậu” A-la-hán
còn không thể suy tưởng được con số thế giới ấy, huống chi chúng con
mới là “ a-bệ-bạt-trí” thì làm sao biết được.
Bồ Tát Di Lặc tu theo Duy thức và hàng
Thanh Văn, Duyên giác còn vào chấp sự tướng nên thấy có thời gian lâu
mau, nhanh chậm. Ở đây Pháp thân Phật thuộc về thế giới bản thể chân như
mà trong đó không còn khái niệm về thời gian và không gian cho nên Bồ
Tát Di Lặc cùng các vị A la hán muốn hiểu được thế giới Chơn không diệu
tánh thì các ngài phải chuyển tám thức thành bốn trí.
Như Lai còn gọi là Như Lai Tạng
(Tathagata garbha) hay là Như Lai chủng tánh tức là pháp tánh, là chơn
như, là Phật tánh…Tạng là cái kho để chứa tất cả những chủng tử (hạt
giống) của vạn pháp và từ những chủng tử này mới sinh khởi ra bốn khoa
(ngũ uẩn, lục nhập, mười hai xứ và mười tám giới) và cũng là cái bọc
chứa để giấu kín, che phủ phiền não mê lầm và cũng giấu kín, che phủ
Phật tánh là cái mầm giác ngộ vốn có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh.
Tạng cũng là chất chứa cho nên Như Lai Tạng là chất chứa mọi công đức
quyền năng của Như Lai, là tất cả pháp do Phật giảng giải kết hợp lại
thành Như Lai Tạng. Vì thế mà Như Lai Tạng cũng là thức thứ tám tức là A
lại da thức.
Đứng về mặt ô nhiễm, Như Lai Tạng là
tượng trưng cho thế giới luân hồi sinh diệt. Còn dựa theo phía thanh
tịnh, Như Lai Tạng là biểu hiện cho Niết bàn giải thoát. Trong Khởi Tín
Luận, Như Lai Tạng được gọi là “pháp giới đại tổng tướng” nghĩa là
nghiếp thâu các pháp của toàn bộ pháp giới gồm có nhiễm và tịnh. Tịnh là
chơn như, nhiễm là vô minh, nhưng chân như và vô minh kết thành một
khối bất khả phân ly trong tâm của chúng sinh. Do đó, nếu chúng sinh
biết tháo gỡ tất cả những sở tri chướng và phiền não chướng thì sẽ có
Niết bàn an lạc, ngược lại nếu chúng sinh chạy theo tham đắm dục tình
thì dĩ nhiên phải chịu sinh tử trầm luân. Thêm nữa, đứng về mặt tuyệt
đối, Như Lai Tạng là chơn như, là cái tâm bất sinh bất diệt, tâm ấy là
tâm nhất thể và nhiếp thâu tất cả pháp thế gian cũng như xuất thế gian.
Còn về mặt tương đối, Như Lai Tạng gồm có: Tự thể là tương đồng với bản
thể: Tự tướng là cái tướng của tự thể và Tự dụng là công năng sinh ra
nhân quả lành thế gian và xuất thế gian.
Khi nói tâm động thì đây chúng ta muốn
nói đến tướng động tức là Như Lai Tạng động, nhưng tự thể của tâm thì
không động. Thí dụ, vì có gió (phiền não, vô minh) làm cho nước biển
(tánh giác) nổi sóng (tâm thức). Thế thì sóng và gió đều động và không
rời nhau, nhưng tánh nước không động khi gió hết sóng lặn. Do đó nếu
tướng của nước động nên mới có sóng lớn sóng nhỏ nhấp nhô, còn tướng của
tâm tức là Như Lai Tạng thì cũng thế. Nếu tướng của tâm động thì sóng
thức dấy khởi, đợt này tan đợt khác đến liên tiếp mãi không ngừng nên có
tâm sinh diệt (tàng thức). Chính cái tàng thức (A lại da) thức này sinh
ra sinh diệt tâm và cũng từ A lại da thức này hiển lộ Chân như tâm (Như
Lai Tạng).
Tất cả hiện tượng vạn pháp đều phát
nguyên từ bản thể chơn như mầu nhiệm, nhưng con người phải lìa văn tự,
ly ngữ ngôn, hồi quang phản chiếu để thấy được bản tâm thanh tịnh thì
Bồ-đề, Niết bàn mới hiển lộ. Tuy nhiên, người đệ tử Phật khi tu hành để
muốn được chứng đắc nên dùng tâm muốn lấy, muốn kiến, muốn đắc thì họ
lại lọt vào vọng rồi. Thí dụ, tham thiền để muốn được kiến tánh tức là
kiến tánh thành Phật hay niệm Phật để muốn được nhất tâm thì tâm này là
vọng tâm. Tại sao? Bởi vì Phật của mình đã thành sẵn rồi chớ không phải
khi kiến tánh mới đắc được, do vậy mà chư Tổ đã dạy rằng : ”Vô sở cầu,
vô sở đắc, vô sở sợ” là vậy. Nếu còn hy vọng chứng đắc là vọng. Người đệ
tử Phật phải tin rằng mình đã sẵn có diệu tâm sáng tỏ, không phải do tu
mới thành, do chứng mới đắc. Tất cả kinh điển của Phật chỉ là phương
tiện dùng để phá tư tưởng chấp thật của mình. Vì thế, khi thức tỉnh thì
mới biết mình có tất cả. Tự tánh Bồ-đề, tự tánh Niết bàn thì lúc nào
cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh cũng như mây tan thì trời sáng
hay đào ao có nước thì ánh trăng sẽ hiện mà không cần phải trông chờ
mong đợi gì hết.
Đức Phật nói:
-Này các thiện nam tử, ta sẽ nói
rạch ròi cho các ngươi nghe. Cứ kể mỗi hạt bụi là một kiếp, thì từ ta
thành Phật đến nay, số kiếp trôi qua còn nhiều hơn số trăm ngàn muôn ức
na-do-tha a-tăng-kỳ hạt bụi ấy. Từ ấy tới nay, ta luôn ở tại thế giới
Ta-bà thuyết pháp, giáo hóa, lại cũng ở nơi khác tại trăm ngàn muôn ức
na-do-tha nước, dắt dẫn chúng sanh một cách ích lợi. Này thiện nam tử,
trong khoảng thời gian đó, ta có nói Phật Nhiên Đăng… và cũng nói có
chư Phật nhập Niết Bàn, nhưng tất cả đều là phương tiện mà phân biệt nói
có thành Phật, có nhập Niết Bàn. Này các thiện nam tử, nếu có chúng
sanh nào đến chỗ ta ở, ta lấy Phật nhãn xem coi các căn của chúng sanh
ấy nhụt bén thế nào, rồi theo đó mà độ. Mỗi nơi, ta tự xưng với những
danh hiệu bất đồng và cho biết tuổi tác lớn nhỏ cũng khác, lại nói sẽ
nhập Niết Bàn và còn dùng nhiều phương tiện khác để nói bày pháp vi
diệu, hầu làm cho chúng sanh phát tâm hoan hỷ. Này các thiện nam tử, vì
thấy chúng sanh thích nơi “ tiểu pháp”, đức mỏng, phiền não dày cho nên
Như Lai phải vì hạng ấy mà nói rằng ta lúc trẻ xuất gia, rồi đặng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thật ra từ ta thành Phật đến nay, lâu hơn
thời gian ấy nhiều. Đây chẳng qua là phương tiện mà nói như vậy thôi, để
giáo hoá chúng sanh và khiến họ nhập Phật đạo.
Trong phẩm Hiện Bảo Tháp diễn tả rõ ràng
đức Phật Thích Ca có muôn triệu hóa thân đang thuyết pháp, đang hoàng
dương Phật pháp trong mười phương thế giới nghĩa là đức Phật đã và đang
có mặt ở khắp không gian vô biên vô tận. Vì thế đến phẩm này, chúng ta
thấy đức Phật không những chỉ có mặt giảng pháp trong thời gian trên 40
năm tại xứ Ấn Độ, mà thật ra Ngài đã có mặt trong vô lượng vô biên A
tăng kỳ kiếp. Tuy tựa của phẩm là Như Lai thọ lượng là nói về tuổi thọ
của Phật tức là đứng về mặt thời gian, nhưng trên thực tế nội dung của
nó diển bày rất rõ ràng đức Phật hiện diện ở trong thời gian vô tận và
trong không gian vô cùng. Khi Phật thuyết thì Ngài nói về thế giới hiện
tượng nên mới có Phật Nhiên Đăng ở chặng giữa và có chư Phật nhập Niết
bàn. Đó là Ngài dựa trên hình tướng của thân tứ đại nên mới nói có gần
có xa khác nhau. Phật dùng phương tiện để dẫn dắt những người căn cơ
thấp nên mới nói rằng Ngài lúc trẻ xuất gia, ngồi thiền định suốt 49
ngày đêm dưới cội Bồ Đề rồi thành Phật. Phật nói pháp phương tiện, chúng
sinh lại tin là pháp cứu cánh. Phật dạy pháp bất liễu nghĩa, chúng sinh
lại chấp cho là pháp tối thượng thừa.
Ngày xưa tông Thiên Thai có ngài Trí Giả
Đại sư chuyên trì kinh Pháp Hoa. Ngài tụng liên tiếp trong 21 ngày đến
khi tụng đến phẩm Dược Vương Bồ Tát thì ngài nhập Pháp Hoa tam muội.
Trong định ngài thấy Phật đang thuyết pháp cho hội chúng ở hội Linh Sơn
trên núi Linh Thứu. Nhập Pháp Hoa tam muội nghĩa là mình đang thức tỉnh
có chánh niệm để biết rằng mình có Phật tánh và mình sẽ thành Phật. Vì
thế khi hành giả không nhất thiết ngồi thiền, mà họ sống trong mọi sinh
hoạt của đời sống hằng ngày mà tâm mình phát sáng và biết rõ ràng mình
đang sống với Tri Kiến Phật, với Phật tánh nhiệm mầu trong ta thì lúc đó
mình đang nhập vào Pháp Hoa tam muội.
Trong cuộc sống hằng ngày nếu mình biết
thấu suốt được tánh vô thường của vạn pháp thì mình đang có Vô thường
tam muội soi sáng. Nhìn vạn pháp biết rõ ràng các pháp không có tự thể
nghĩa là các pháp tuy có mà tự tánh là Không thì lúc ấy tuệ giác về Vô
ngã tam muội đang phát chiếu rực rỡ trong tâm của ta rồi.
Vì vậy người vào trong đại định, sống với
tuệ giác hằng sáng của mình thì thấy Phật là Phật tánh vĩnh hằng bất
sanh bất diệt. Ngược lại phàm nhân tuy có qua tận Ấn Độ thì chỉ thấy
được Phật tướng sinh diệt, đản sinh và nhập diệt ở Ấn Độ cách nay trên
2500 năm về trước mà thôi.
Phật dạy tiếp:
-Này các thiện nam tử, kinh điển
của Như Lai nói ra đều nhằm chổ độ thoát chúng sanh. Khi thì nói về
thân mình, khi thì nói về thân người khác, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ
thân người khác, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người khác, nhưng dầu
trong trường hợp nào, tất cả lời của Như Lai đều chân thực, chẳng
dối. Tại sao vậy? Vì đúng như thật, Như Lai thấy tướng của ba cõi không
có sanh tử, không lui không xuất, không ở đời mà cũng không diệt độ,
chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải khác, chẳng
phải ba cõi mà thấy có ba cõi. Các việc như thế, Như Lai thấy rõ, không
bao giờ có sự sai lầm. Nhưng vì chúng sanh tâm tánh khác nhau, cho nên
phải dùng nhân duyên, thí dụ, lời nói khác nhau để thuyết pháp khiến họ
sanh căn lành. Những việc Phật làm (Phật sự) chưa từng dừng bỏ. Như vậy,
từ ta thành Phật đến nay, thật rất lâu xa, còn thọ mạng thì dài vô
lượng a-tăng-kỳ kiếp và luôn luôn thường trú bất diệt. Này các thiện nam
tử, những việc làm theo Bồ-tát đạo của ta, đến nay chưa phải là hết,
vì vậy, thọ mạng của ta còn dài gấp mấy lần con số nói trên. Tuy nhiên
dầu chưa thực diệt độ, ta vẫn nói là sẽ diệt độ, để làm phương tiện giáo
hoá chúng sanh. Tại sao vậy? Vì nếu Phật ở lâu tại thế thì hạng đức
mỏng không chịu trồng căn lành, cứ giữ mãi thói bần cùng, hạ-tiện, tham
đắm năm món dục lạc ( tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghĩ). Đã mắc vào lưới nhớ tưởng vọng kiến mà nếu thấy Như Lai ở đây
mãi mãi không diệt độ, thì làm sao không sanh kiêu mạn, phóng tâm, giải
đãi, và như vậy thì không tưởng đến và cũng không sanh lòng cung kính
Phật như một bậc khó gặp.
Ở đây đức Phật muốn chúng sinh có cái
nhìn thật rõ ràng về Sự tướng và Bản thể. Nếu nhìn theo Sự tường thì thế
giới bây giờ trở thành sinh diệt bởi vì hữu sinh tất phải hữu diệt. Bất
cứ sự vật gì có hình sắc thì phải chịu sự biến hoại của luật vô thường.
Nhưng tại sao Như Lai thấy tướng của ba cõi không sinh tử? Chúng sinh
nhìn tướng của vạn pháp nghĩa là nhìn hình sắc sinh diệt của nó cho nên
hình sắc đó hễ có sinh ắt có diệt. Nhưng Như Lai không nhìn vạn pháp
bằng hình tướng sinh diệt biến đổi bên ngoài, mà Ngài nhìn suốt vào thật
tướng của nó mà thật tướng là vô tướng, bất sinh bất diệt cho nên Như
Lai thấy tướng của ba cõi là không hoại diệt.
Phật là vị Pháp Vương nên Ngài tùy theo
phương tiện, nhân duyên mà thuyết. Đức Phật dùng “quyền hiển thật” ,
dùng phương tiện để xiễn dương cứu cánh cho nên Ngài nói đản sanh và
nhập diệt. Nhưng Như Lai sống vô lượng vô biên A Tăng kỳ kiếp nghĩa là
Như Lai từ trước tới giờ đâu có tùng sanh và đâu có từng diệt. Nhưng Như
Lai nói “Ta sắp nhập Niết bàn” để nhắc nhở chúng sinh cố gắng tinh tấn
tu hành. Còn đối với những chúng sinh có tâm khinh lờn, giải đãi thì
Ngài nói “Khó gặp được Phật” để họ khởi tâm tôn quý Phật pháp và cố gắng
nương theo kinh điển mà nỗ lực tu hành. Chớ Phật có diệt độ bao giờ!!!
-Này các Tỳ-kheo, nên biết chư
Phật xuất thế là điều khó gặp. Vì sao? Những người đức mỏng trải qua vô
lượng trăm ngàn ức kiếp, có khi gặp Phật mà có khi cũng không gặp. Vì
vậy cho nên ta nói Như Lai khó thấy. Nghe lời nói này, chúng sanh tất
nghĩ đến lẽ ngàn năm một thủơ mà sanh lòng luyến mộ khao khát mà trồng
căn lành. Bởi có, tuy không thật diệt độ, mà vẫn nói là diệt độ. Lại
nữa, này thiện nam tử, Pháp của chư Phật Như Lai cũng vậy, đều chân
thực, không hư dối và chỉ có một mục đích là đưa dắt chúng sanh. Thí dụ
có một ông thầy thuốc giỏi, trí tuệ sáng suốt, phương dược khéo luyện,
bệnh nào cũng trị hết, nhà con cái rất đông. Gặp lúc ông có việc phải đi
ra nước ngoài, các con ở nhà uống phải thuốc độc, cơn điên nổi lên, té
nằm xuống đất. Ngay lúc đó, ông cha về đến nhà. Các con của ông, có đứa
mất tâm, có đứa còn tâm. Nhưng khi thấy cha về, tất cả đều vui mừng, quỳ
lạy chào hỏi và thưa : “rằng vì ngu si nên uống phải độc dược , xin cha
cứu tử”. Cha thấy con khổ não như vậy, bèn theo các phương đã kinh
nghiệm mà chế thuốc, màu sắc hương vị đều tốt đẹp và bảo các con uống:
“Đây là lương dược, mùi ngon sắc đẹp, các con hãy uống đi thì sẽ mau
trừ khổ não và bao nhiêu khổ hoạn sẽ không tái phục”. Những đứa không
mất tâm nghe xong liền uống và được hết bệnh. Còn những đứa mất tâm, tuy
thấy cha cũng vui mừng, cầu xin chữa bệnh, nhưng thuốc thì không chịu
uống. Vì sao? Vì bị độc thấm sau, đã mất tâm trí rồi, cho nên thuốc ngon
sắc đẹp lại cho là không ngon không đẹp. Ông cha thấy vậy mới suy
nghĩ: Những đứa con này mới đáng thương, thấy cha vui mừng cầu cứu,
nhưng khi cho thuốc lại không chịu uống. Ấy cũng vì bị chất độc cho nên
tâm trí đều điên đảo. Vậy phải dùng chước mới được. Nghĩ xong ông mới
nói rằng: “ Cha nay già yếu, sắp chết nay mai, có mấy món thuốc hay để
lại, các con nên giữ mà dùng, khỏi sợ lầm thuốc dở. Nói rồi ông bỏ nhà
ra đi qua nước khác và cho người về báo tin ông đã chết. Hay tin dữ,
các con mất tâm của ông mới nghĩ, cha lành đã chết thì nay còn ai đâu mà
cứu hộ cho mình! Vì thường nhớ thương như thế, tâm bèn tỉnh ngộ, biết
thuốc của cha để lại là hay, liền lấy ra dùng, bao nhiêu độc bệnh đều
lành hết. Nghe tin này, ông cha trở về xứ cho con cái thấy mặt.
-Này thiện nam tử, các ngươi nghĩ thế nào? Nói dối như ông lương y kia, có phải là một tội không?
“ Bạch Thế Tôn, không”
Để làm sáng tỏ vấn đề, bây giờ Phật bèn
đưa ra một thí dụ. Có một ông lương y rất giỏi, bệnh gì cũng chửa khỏi.
Vì có việc đi xa, ở nhà những đưa con của ông uống nhầm độc dược nên
phát bệnh điên. Thấy ông trở về, các con bèn cầu xin cha chế thuốc cho
chúng uống để giải độc. Ông tùy theo căn bệnh mà chế ra thuốc để cứu các
con của ông. Có những đứa bị bệnh nhẹ thì uống thuốc liền khỏi ngay.
Còn những đứa con bị nhiễm độc nặng lại từ chối không chịu uống. Vì
thương con, ông lương y dùng phương tiện nói dối với chúng rằng ông phải
đi xa. Và khi đã đi xa rồi ông liền nhắn tin về nhà cho các con của ông
biết là ông đã chết. Nhưng trước khi ra đi, ông đã chế ra thuốc để lại ở
nhà và nói các con ông cứ lấy thuốc ra mà uống. Vì nghe tin cha đã chết
nên những đứa con không còn ỷ lại nên lấy thuốc ra uống và được lành
bệnh.
Vị lương y, người cha đó chính là đức
Phật. Những đứa con bị nhiễm độc nhẹ ám chỉ cho những bậc thượng trí như
các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na…là những người biết
mình bị phiền não vô minh sai sử nên khi được Phật giáo hóa liền tin
nhận tu hành mà có được giải thoát Niết bàn tự tại. Còn những chúng sinh
hạ căn thì tuy có nghe Phật nói giáo pháp mà không có lòng tin tu tập
nên vẫn còn nằm trong vòng sai sử của phiền não vô minh, sống trong ưu
bi đau khổ. Đến khi Phật nhập Niết bàn mới quay về nương tựa nơi kinh
điển, tinh tấn nỗ lục tu hành để diệt hết vô minh phiền não. Mê biến thì
giác hiển bày nghĩa là tâm thanh tịnh thì Phật tánh hiển lộ.
Người học Phật đừng nên chấp phương tiện
mà hãy nhìn cứu cánh. Chúng sinh vì căn tánh bất đồng nên Phật phải dùng
vô số phương tiện, tùy theo căn nghiệp và khả năng thu nhận Phật pháp
của họ mà nói pháp. Vì thế có khi Phật nói cao, có khi Phật nói thấp. Có
lúc Phật nói quyền (thí dụ), nhưng cũng có lúc Phật nói thật. Con đường
lên núi có hàng vạn cách, nhưng chỉ có một đỉnh núi là giải thoát giác
ngộ vì thế Phật chỉ đường nào lên núi cũng đúng nếu hành giả thực hành
rốt ráo để đạt được cứu cánh tối thượng là thành Phật.
Đức Phật nói:
-Ta cũng thế. Từ thành Phật đến
nay, vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, nhưng
vì muốn cứu độ chúng sanh, cho nên phương tiên mà nói là sẽ diệt độ. Như
vậy đối với sự thật, cũng không thể nói rằng ta đã phạm tội nói sai,
nói dối.
Sau cùng, đức Phật khẳng định rằng Ngài đã thành Phật từ vô
lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, nhưng vì muốn cứu độ chúng sinh nên Phật
mới phương tiện nói rằng Như Lai sẽ diệt độ để chúng sinh thức tỉnh mà
nỗ lực tinh tấn tu hành. Chớ thật ra Như Lai đâu có diệt độ.
Trong ba phẩm Hiện bảo tháp, Tùng địa
dũng xuất và Như Lai thọ lượng đưa hành giả vào thế giới Bồn môn. Đó là
thế giới bất sanh bất diệt, vượt ra khỏi bất cứ khái niệm nào của không
gian và thời gian. Tuy con người không sờ mó, nếm ngữi được cái thế giới
này, nhưng họ có thể chuyển tâm thức từ cái thế giới sinh diệt, lo
lắng, buồn phiền, ưu bi, khổ não vào trong thế giới hoàn toàn vắng lặng,
thanh tịnh mà nơi đó con người không còn lo lắng về chuyện thành bại,
không còn chạy đua với cuộc sống vật chất, không còn tranh chấp về những
khía cạnh của cuộc đời.
Chúng sinh nếu biết sống trong tỉnh thức,
biết thực hành chánh niệm trong từng hơi thở để thấy biết rốt ráo những
biến hành của tâm thì chính họ đang chuyển dần sang thế giới bất sinh
bất diệt, nhẹ nhàng thanh thoát, an vui tự tại của thế giới Bổn môn đó.
Vì thế thế giới Bổn Môn có hiện ra rõ ràng hay mù mờ tùy theo trình độ
chánh niệm của con người. Nếu chúng sinh chỉ có chánh niệm trong một
khoảnh khắc ngắn ngủi thì sự an lạc có đến rồi đi rất nhanh. Còn nếu họ
có khả năng giữ vững chánh niệm, luôn sống trong tỉnh thức, tâm trí bừng
sáng tức là họ đang sống trong chánh định thì thế giới Bổn môn sẽ từ từ
hiện rõ.
Như thế tuy đức Phật Thích Ca có nói vị
Phật này, vị Phật kia, ở thế giới này thế giới nọ chỉ là cách nói, nhưng
tất cả cũng đều ở trong lòng của Phật Thích Ca bởi vì tất cả tất cả chư
Phật đều cùng bản thể chân như, không sai không khác.
Trên con đường giải thoát giác ngộ, Ngộ tức là không mê đã là khó. Mà “giải ngộ” là một bước tiến khó hơn. Nếu chúng sinh có một quá trình tư duy quán chiếu thật sâu sắc thì đây là “thâm ngộ”. Cho đến khi nào khai tâm mở tánh hoàn toàn thì mới gọi là “chứng ngộ”.