KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Năm
Phẩm DƯỢC THẢO DỤ
Download Giọng Đọc: Nguyên Hà & Mỹ Ngân
Dược là thuốc trị bệnh, thảo là thảo mộc
(cỏ khô) cũng ví như chúng sinh thế tục. Ở đây, đức Phật lại đưa ra một
thí dụ nữa lấy dược thảo là những cây thuốc làm ví dụ để chửa bệnh thân
và tâm của chúng sinh. Ngày xưa không có thuốc chế bằng chấc hóa học như
thuốc Tây ngày nay, mà bằng những rễ cây khô đủ loại thường được hiểu
là thuốc Nam hay thuốc Bắc.
Trong phẩm Tín Giải, các Tôn giả Đại Ca
Diếp, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề và Ca Chiên Diên trình bày sự kính mộ về
lòng đại từ bi và năng lực thiện xảo của đức Phật qua ẩn dụ về anh chàng
Cùng khổ. Các ngài thấu hiểu đức Phật dùng phương tiện để dẫn dắt chúng
sinh tùy theo khả năng và trình độ thể chứng của họ, nhưng cứu cánh vẫn
là Nhất thừa Phật đạo.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ông Ca-diếp và các đại đệ tử:
-Tốt lắm, Ca-diếp ! Ông
khéo nói được công đức chơn thật của Như Lai. Đúng như lời các ông, Như
Lai còn có vô lượng vô số công đức khác, dù các ông có nói suốt ức kiếp
đi nữa cũng không hết được.
-Ca-diếp, nên biết ! Như
Lai là vua của các pháp, nói ra lời gì đều không sai không dối. Đối
với tất cả các pháp Phật dùng sức trí tuệ và phương tiện mà diễn nói.
Pháp Phật nói phát xuất từ “Nhất thiết chủng trí”. Như Lai biết chỗ quy
thú của tất cả pháp; rõ biết tâm hành của chúng sanh và thường đem trí
tuệ mà chỉ bày cho.
Trong mười đại đệ tử Phật, Tôn giả Phú
Lâu Na là vị giảng sư rất nổi tiếng. Mỗi khi đức Phật thuyết ngắn gọn
hoặc khó hiểu thì tôn giả giảng giải rộng nghĩa cho tất cả mọi người. Vì
thế ngài rất nổi tiếng là người nói pháp rất giỏi và rất dài nên được
đức Phật công nhận là đệ nhất thuyết pháp. Tôn giả thuyết pháp siêu
tuyệt như thế không phải là do ngài có khoa ăn nói, cũng không phải là
ngài phải có kiến thức thâm sâu về Phật pháp mà Tôn giả có khả năng quán
căn cơ của mình. Quán căn cơ ở đây là thấy biết được căn cơ, chủng tánh
của đối tượng nghĩa là khả năng và kiến thức của đối tượng tới mức nào
thì ngài chỉ thuyết đến mức đó, không thiếu không thừa. Đối tượng có
kiến thức thấp thì không nói cao làm họ chới với, đối tượng cao thì
không nói thấp khiến họ chán nản.
Sự phát triển trí tuệ dựa theo Phật giáo Đại thừa là tùy theo khả năng nhận biết chân tướng của nhân sinh vũ trụ.
1)Đối với phàm nhânthì
họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng nhục nhãn tức là bằng đôi mắt
thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ
cho là thật. Họ tin thân mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ
trụ là thật nên còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên
tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu
quả khổ đời đời.
2)Nhất Thiết Trí: Các vị
Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn như phàm nhân mà họ nhìn thế
gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân mình là không thật, là tạm bợ, là dơ
dáy, là cội nguồn của những nỗi khổ nên họ cố tu để chứng đắc giải thoát
Niết bàn. Chẳng những nhìn thân mình không thật mà họ còn nhìn cả thế
gian vũ trụ cũng không thật nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô
nhiễm. Vì thế hàng Thanh văn không còn chấp Ngã tức là có Ngã Không,
nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có đạo quả
Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có. Cho nên cái trí
tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc
của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết Trí.
3)Đạo Chủng Trí: Đối với
các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành
thâm bát nhã ba-la-mật để thấy rằng ngũ uẩn là không. Dưới mắt của họ
thì thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả
huyễn, là không thật, là Không. Vì ta là giả, là không thật nên họ có
ngã không. Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không thật
nên họ có pháp không. Vì thế dưới mắt của Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là
Không. Mặc dù biết thế gian là Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái
Không nên tâm không được hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng
suốt triệt để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.
4)Nhất Thiết Chủng Trí:
Hàng Thanh văn thì chấp “Pháp Có” và các vị Bồ-tát thì vẫn còn chấp
“Không”. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức là không còn
chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành
và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn,
dung thông tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết
Chủng Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không
nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân
duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn
pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt
diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn
luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên
không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận
tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có
thật. Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người
có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả
chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung
đạo dung thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái
trí tuệ nầy.
Đức Phật xác định với Tôn giả Đại Ca Diếp
rằng Ngài là vua của các Pháp. Lời nói của Như Lai là chân thật, không
bao giờ hư dối nghĩa là nói có là thật, nói không cũng là thật, nói Tiểu
thừa là thật mà nói Đại thừa cũng là thật. Đối với tất cả các pháp, đức
Phật luôn dùng trí tuệ, dùng phương tiện thiện xảo mà diễn bày chánh
pháp, nhưng tựu trung vẫn nhắm thẳng vào một mục đích tối hậu là đưa
người tu đạt được nhất thiết trí. Đức Phật là bậc toàn giác nên Ngài
biết nguyên nhân nào dẫn dắt chúng sinh đi trong vòng sinh tử luân hồi,
nhân nào đưa chúng sinh đến chỗ giải thoát Niết bàn. Ngài quán thấy tận
cùng cội nguồn của các pháp hữu vi sinh diệt và pháp vô vi thanh tịnh
bất sanh bất diệt xuất thế gian. Từ đó Ngài thấy biết rất rốt ráo rõ
ràng tâm sở hành của chúng sinh tức là nguyện vọng sở cầu của chúng sinh
cho nên việc độ sinh không bị chướng ngại. Vì thế Ngài mới là vua của
các pháp, là bậc y Vương, là bậc đáng được thế gian tôn kính.
-Ca-diếp! Ví như trong
cõi tam thiên đại thiên đất đai sông núi sanh ra cây cối lùm rừng và các
thứ cỏ thuốc, chủng loại, tên gọi, màu sắc đều khác. Một vầng mây đen,
bủa giăng trùm khắp và mưa xuống khắp nơi nhuần thắm. Cây cối, lùm rừng,
các thứ cỏ thuốc, cây lớn, cây vừa, cây nhỏ, thứ nên thuốc, thứ không
nên thuốc, tùy hạng thượng, trung, hạ mà hấp thụ nước khác nhau. Một
vầng mây tuôn mưa, tùy giống loại mà sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dù
một cõi đất sanh, một trận mưa thấm mà cây cỏ đều sai khác.
Thế giới chúng ta đang sống nằm trong
Thái Dương Hệ chỉ có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, bốn
châu thiên hạ. Một ngàn thế giới như thế là một tiểu thiên thế giới. Một
ngàn tiểu thiên thế giới trở thành trung thiên thế giới và sau cùng một
ngàn trung thiên thế giới mới thành một đại thiên thế giới. Thế mà kinh
nói trong cõi tam thiên đại thiên thế giới nghĩa là có đến ba ngàn tỷ
thế giới chúng ta đang sống.
Ở trong sơn, hà, đại địa, mặt đất sinh ra
đủ loại cây cối, hoa, cỏ màu sắc, tên gọi khác nhau. Tinh thần Pháp Hoa
là tinh thần bình đẳng cho nên Phật ví dụ ở đây cũng thế. Cho dù thế
giới có rộng biết bao, bầu trời che phủ khắp ba ngàn tỷ thế giới vẫn như
nhau, mưa xuống cũng đều như nhau. Tất cả cây cối từ nhỏ đến lớn, bé
nhất là những loài cỏ và to lớn như những cây đại thụ cũng từ đất sinh
ra và cũng nhận nước của trận mưa rưới đều. Cây lớn có thân lớn rễ lớn
thì hấp thụ nước nhiều hơn, cây nhỏ có thân nhỏ rễ nhỏ thì dĩ nhiên hấp
thụ nước ít hơn. Tuy hấp thụ lượng nước ít nhiều khác nhau, nhưng tất cả
cây cỏ đều phát triển hay đơm hoa kết quả như nhau. Ở đây, kinh ví dụ
ba loại cây cỏ dược thảo khác nhau. Loại cây cỏ lớn ví như tâm hồn, tư
tưởng của các bậc Bồ tát, những cây cỏ bậc trung ví cho tư tưởng của
hàng Duyên Giác và sau cùng những cây cỏ, loại dược thảo nhỏ bé ám chỉ
cho tư tưởng của hàng Thanh Văn. Cho dù có ba loại cây cỏ, loại dược
thảo khác nhau từ lớn đến bé, nhưng tất cả cũng đều hưởng những giọt
nước mưa như nhau mặc dầu ba loại cây cỏ đó hấp thụ nước mưa trưởng
dưỡng khác nhau bởi vì căn tánh khác nhau, chủng tánh khác nhau. Thậm
chí ngoài ba loại cây cỏ từ bé xíu đến to lớn ở trên còn có những loài
cỏ cây không phải là dược thảo mà là những loài cỏ dại, lùm rừng ví như
hạng bạc địa phàm phu cũng vẫn tiếp nhận được những giọt mưa như những
loài cây khác mà không mang lại sự lợi ích gì cho thế gian nghĩa là họ
cũng nghe chân lý từ đức Phật, nhưng suốt đời vẫn chìm đắm trong lục dục
thất tình, lấy khổ làm vui nên lăn lộn trong sinh tử luân hồi.
Đức Phật ví dụ căn cơ của chúng sinh có
cao có thấp cũng như cây cỏ có giống nhỏ giống lớn. Nhưng tất cả cây cỏ
cũng từ đất sinh ra cũng như chúng sinh tuy có căn tánh bất đồng, nhưng
ai ai cũng đều có Tri Kiến Phật giống y như Phật. Mưa là ám chỉ cho giáo
pháp đức Phật dạy chung cho tất cả chúng sinh. Chúng sinh vì căn cơ
không đồng, kẻ cao người thấp nên sự nhận biết sâu hay cạn chớ Phật pháp
bình đẳng không cao không thấp. Do đó, căn cơ chúng sinh sai biệt nên
pháp trở thành sai biệt. Thí dụ trong một pháp hội, vị pháp sư thuyết
giảng nhưng có người nghe rất thích thú say mê còn có người buồn chán
buồn ngủ. Vị pháp sư chỉ giảng một âm thanh, một đề tài tức là Phật pháp
bình đẳng, nhưng sự lãnh thọ khác nhau nên kết quả không giống nhau, kẻ
thích người không.
Đến đây chúng ta thấy rằng Phật quở rầy
Thanh Văn, Duyên Giác mà tại sao trước đây Phật lại dạy thành Thanh Văn,
Duyên Giác? Tại sai chính Phật lại tự mâu thuẩn chính mình? Đoạn kinh
này giải thích rõ ràng rằng trước đây vì căn cơ chủng tánh của họ còn
thấp, chưa thể hấp thụ tư tưởng Đại thừa nên Phật dùng phương tiện chỉ
dạy họ thành Thanh Văn, Duyên Giác. Lý do Phật quở là vì khi các vị
thành Thanh Văn, Duyên Giác thì tưởng mình đã thành tựu quả vị cứu cánh
tối thượng nên không muốn tiến tu nữa. Nhưng đối với đức Phật, bản hoài
và nhân duyên Ngài xuất hiện trên thế gian này là đưa chúng sinh tiến
thẳng về Đại thừa để hoàn thành Phật đạo chớ không dừng lại ở Thanh Văn,
Duyên Giác.
Lịch sử truyền pháp của đức Phật cũng
thế, Phật pháp vốn bình đẳng không sai khác, nhưng căn tánh chúng sinh
không giống nhau nên Phật mới nói pháp Thanh Văn, Duyên Giác. Nhưng cho
dù là ở cung vua phủ chúa hay mái tranh nghèo của người nông phu cũng
cây đại thọ trong rừng già hay cộng cỏ bé xíu bên lề đường thì cũng hấp
thụ cơn mưa giống nhau. Cây lớn, cộng cỏ cũng từ đất cũng như chúng sinh
vốn đã có sẵn tri kiến Phật cho nên cây lớn hấp thụ nhiều nước mưa hơn
cộng cỏ, nhưng cả hai đều nhờ nước mưa mới phát triển được nghĩa là nếu
không có tri kiến Phật thì không bao giờ có thể tu thành Phật. Cho dù
hấp thụ nhiều nước hay ít nước vì cây lớn hay cộng cỏ cũng như Tiểu
thừa hay Đại thừa, nhưng cứu cánh vẫn như nhau là tiến thẳng về Nhất
thừa Phật đạo để thành Phật. Trong đạo Phật, chỉ có một vị là vị giải
thoát cũng như nước mưa có một công năng là nuôi dưỡng các loài thảo
mộc, làm cho mọi loài được sinh trưởng. Pháp Phật cũng thế, tuy Phật có
nói tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng sinh diệt, nhưng cứu cánh rốt
ráo vẫn là đưa chúng sinh thành tựu nhất thiết chủng trí tức là thành
Phật.
Dựa theo tinh thần Phật giáo Đại thừa,
chúng sinh phải tin vào Phật tánh, vào Tri Kiến Phật, vào Chơn tâm
thường trú của chính mình cho nên nếu tu hành theo lời Phật dạy là trở
về với Chơn tâm, Phật tánh của mình toàn vẹn chớ Phật không cho ai cái
gì hết. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo tự giác cho nên chúng sinh không
cần phải cầu nguyện, van xin, cầu lạy ai hết bởi vì bớt được một phần
phiền não có được một phần an lạc Niết bàn, hóa giải được một phần vô
mình thì có được một phần trí tuệ thế thôi. Bằng chứng là trong kinh
Lăng Nghiêm, khi Phật thọ trai mà các tỳ kheo không no nghĩa là Phật ăn
chỉ có Phật no, còn tỳ kheo nếu muốn no thì phải tự mình đi khất thực
chớ Phật không làm phép cho họ được. Cũng như cả đời Tôn giả A Nan tuy
làm thị giả cho đức Phật mà không chịu tu Thiền na mà chỉ lo học rộng
hiểu nhiều cho đến lúc đức Phật nhập diệt vẫn chưa chứng được Thánh quả A
la hán. Do đó học Phật không thành Phật được mà học Phật để rồi thực
hành mới tu chứng thành Phật được.
-Ca-diếp, nên biết ! Như Lai hiện ra đời ví như vầng mây lớn nổi lên ấy. Giữa trời, người, A-tu-la… trong ba ngàn thế giới, Phật đường hoàng tuyên bố:
-Ta là đấng Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Người chưa
được độ thì làm cho được độ. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho ngộ. Người
chưa an thì làm cho an. Người chưa có Niết Bàn thì làm cho chứng. Đời
nầy và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhất thiết trí,
bậc nhất thiết kiến, là bậc tri đạo, bậc khai đạo, bậc thuyết đạo. Hàng
trời, người, A-tu-la đều nên đến để nghe và học pháp.
Bấy giờ có vô số chúng
sanh đến với Phật để nghe pháp. Như Lai xét căn tánh thông minh hay ám
độn, tinh tấn hay giải đãi, tùy cơ, vừa sức mà nói pháp, khiến các chủng
lọai đều được sự lợi lành. Hiện đời được an ổn, lần lần tiến lên
đường đạo, đời sau được sanh vào quốc độ thánh thiện an vui.
Đến đây chúng ta thấy hình như
đức Phật vẫn còn cái “Ta” tức là tự khen mình, nhưng kỳ thật không phải
như vậy chỉ vì đức Phật muốn chỉ cho chúng sinh những công đức rộng lớn
của đấng Như Lai. Ngài đã làm lợi ích cho chúng sinh trong vô số kiếp
mới thành Phật. Đức Phật Thích Ca cũng phải tu hành trải qua ba A tăng
kỳ kiếp nghĩa là chính Ngài cũng phải thực hành Bồ-tát Vạn hạnh rốt ráo
để cứu độ chúng sinh trải qua hằng hà vô số kiếp thì mới thành Phật. Vì
thế Phật dạy rằng : ”Trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này,
không có nơi nào mà không có dấu chân ta và cũng không có chỗ nào mà
không có xương ta để lại”. Đây mới chính thật là cuộc hành
trình vô cùng vô tận với tâm nguyện cứu độ tất cả chúng sinh còn lặn hụp
trong biển đời sinh tử trầm luân của chư Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến
khi đạt được đạo quả viên tròn. Do đó muốn thành tựu đạo quả Bồ-đề, chư
Bồ-tát phải trải thân ra cứu độ chúng sinh trong hằng hà vô lượng kiếp
thì mới thực hành Lục độ Vạn hạnh được viên mãn.
Thế nào là Như Lai? Tiếng Phạn
là Thatãgata có thể chia làm hai phần: Thứ nhất nghĩa là nương theo đạo
Chân như để đến Phật quả Niết bàn. Nghĩa thứ hai là từ Chân lý mà đến
(như thật mà đến) và thành Chánh giác. Vì đức Phật theo Chân lý mà đến
và từ Chân như mà hiện thân nên tôn xưng đức Phật là Như Lai.
-Ứng Cúng: Đáng được hưởng sự cúng dường của trời và người.
-Chánh Biến Tri: Biết vạn pháp duy tâm là chánh tri, biết tâm sinh vạn pháp là biến tri.
-Minh Hạnh Túc: Có trí tuệ quang minh, tu hành công hạnh trọn vẹn tròn đầy.
-Thiện Thệ: Đã đi đến nơi tốt lành.
-Thế Gian Giải: Thông hiểu mọi kiến giải của thế gian một cách tự tại.
-Vô Thượng Sĩ: Bậc không ai sánh bằng.
-Điệu Ngự Trượng Phu: Bậc đại trượng phu điều phục và chế ngự được tất cả chúng sinh.
-Thiên Nhân Sư: Thầy của chư thiên và loài người.
-Phật: Đấng hoàn toàn giác ngộ.
-Thế Tôn: Là bậc tôn kính ở thế gian và xuất thế gian.
Đức Phật có những đức hạnh và
năng lực toàn hảo như thế khiến cho chúng sinh chưa đạt được trạng thái
tâm thức tự tại khi phải đối đầu với những đổi thay của cuộc sống đạt
được trạng thái tâm thức tự tại. Khiến cho người chưa được Niết bàn có
được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh tức là có được cái vui “Tịch diệt”. Đức Phật
biết hiện tại, quá khứ và cảnh giới vị lai đúng như sự thật. Ngài biết
mọi sự vật một cách hoàn hảo, hiểu rõ thực trạng của mọi sự vật, thấy
được con đường tu đạo để khai ngộ, giảng kinh thuyết pháp, khai diễn mọi
pháp môn tu hành. Những ai chưa đạt được chứng ngộ sẽ đạt được chứng
ngộ ấy. Đừng nên hiểu câu kinh “Người chưa được độ thì làm cho
được độ. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho ngộ. Người chưa an thì làm cho
an. Người chưa có Niết Bàn thì làm cho chứng” theo tinh thần
tiêu cực là “Phật độ, Phật cho, Phật thưởng” mà nên thấu hiểu trên
phương diện tích cực nghĩa là Phật giúp chúng sinh phương tiện, Phật nói
giáo pháp, Phật chỉ cách tu hành để chúng sinh đạt thành cứu cánh còn
thực hành hay không là tùy ở chúng sinh. Do đó, nếu chúng sinh không y
giáo phụng hành, không có ngộ, không có chứng, không có Niết bàn thì họ
phải chịu khổ thế thôi chớ Như Lai không hề đau khổ. Đó là có đi mới có
đến, có ăn mới no chớ người khác không ăn cho mình no được. Vì thế Như
Lai thương tất cả chúng sinh mà như không thương ai hết, coi như không
thương ai hết mà thương tất cả. Có như thế thì tâm Ngài mới thường trụ
Vô thượng Niết bàn được chứ. Bằng không, thấy người khổ mình cũng khổ
theo thì làm gì còn Niết bàn. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu xuống thế
gian, ánh sáng chiếu rọi cùng khắp mà như không chiếu cho riêng ai,
không hề chiếu rọi cho ai mà chiếu soi cho tất cả.
Sau khi đức Phật nhập diệt, các
đại đệ tử của Ngài ghi nhớ và 500 năm sau đó ghi chép lại thành tam
tạng kinh điển truyền lại cho đời sau. Nhờ đó tuy ngay nay, chúng ta
không có duyên đối diện với đức Thế Tôn, nhưng chúng sinh cũng được gặp
Phật pháp. Tuy chúng ta không tỏ ngộ như người xưa, không được Niết bàn
an vui vĩnh viễn như người xưa, nhưng người đệ tử Phật ngày nay cũng có
những giờ phút an lạc, cũng biết buông xả vật chất giả tạm phù du mà
không luống tiếc, cũng biết mở rộng tâm Bồ đề để cứu giúp chúng sinh,
cũng biết hướng dẫn mọi người cùng tới chỗ an lạc tự tại. Khi tâm được
tự tại thì chắc chắn thể chất cuộc sống của con người tự nhiên sẽ thay
đổi tốt hơn.
Phật nói Ngài là bậc Nhất Thiết
Trí tức là trí tuệ Phật biết cùng khắp tất cả. Ngài là bậc Nhất Thiết
Kiến là thấy được tất cả. Ngài là bậc Tri Đạo nghĩa là người hướng đạo
để dẫn chúng sinh đến nơi an lạc Niết bàn. Ngài là bậc Khai Đạo nghĩa là
người mở đường cho chúng sinh nương theo đó mà đi. Ngài là bậc Thuyết
Đạo tức là người nói con đường cho chúng sinh biết để đi. Vì thế chúng
sinh hãy đến để nghe, nghe rồi để biết, biết rồi để tu hành mà thành tựu
trí tuệ Bồ đề. Đức Thế Tôn thấu biết ai là người độn căn, giải đãi, ai
là bậc thượng trí lợi căn nên Ngài tùy theo căn cơ chủng tánh của họ mà
giảng nói để mọi người cùng có lợi ích. Ngài không bỏ sót một ai, người
thông minh Phật độ, kẻ dại khờ Phật cũng độ, người siêng năng Phật độ,
kẻ lười biếng Phật cũng độ. Cho nên bất ai đến với Phật đều có lợi lành,
thân tâm được an ổn, cuộc sống thanh thoát nhẹ nhàng và dĩ nhiên tương
lai sẽ vô cùng tươi sáng ví cũng như đám mưa rưới khắp tất cả cỏ cây,
không phân biệt lớn nhỏ, tùy theo giống của mỗi loại mà hấp thụ và từ đó
phát triển đơm hoa kết quả.
Như Lai thuyết pháp chỉ có một
tướng, một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng viễn ly, tướng Niết Bàn
tịch diệt, quy về tướng KHÔNG, rốt ráo đến bậc “ Nhất thiết chủng trí”,
vì Như Lai biết chủng tánh, thể tướng của chúng sanh nhớ gì, nghĩ gì,
tu gì, nhớ thế nào, nghĩ thế nào, tu thế nào, Như Lai đều thấy biết đúng
như thật, còn cây cối lùm rừng cỏ thuốc không tự biết thánh thượng,
trung, hạ của nó. Phật biết như vậy, rồi xem xét tâm ưa muốn của từng
đối tượng mà dắt dẫn, cho nên không dạy liền cho chúng sanh về “Nhất
thiết chủng trí”.
Pháp Phật chỉ có một tướng, một vị là
tướng giải thoát, vị giải thoát. Con người có khổ, có biết bao phiền
não, có lặn hụp trong biển sinh tử cũng bởi vì không thể viễn ly. Mà
viễn ly cái gì?
Giáo lý đức Phật là đơn giản, không phức
tạp, dễ áp dụng, nhưng thực hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không dễ
đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly những
thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly những tham
vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện…Càng viễn ly thì con người
càng gần với an lạc thanh tịnh Niết bàn.Khi đã biết nó là những nguyên
nhân của đau khổ, là những sợi dây trói buộc thì con người chỉ cần buông
xả, cắt bỏ thì đau khổ chấm dứt, phiền não tiêu trừ. Nên quán rằng thật
tướng của vạn pháp là vô tướng tức là tướng Không nên lòng không dính
mắc bởi vì thế gian là phù du giả tạm, có đó rồi mất đó, duyên kết là có
duyên tan là mất không có chi là bền chắc cả. Vì thế tướng giải thoát
là tướng lìa xa tham sân si, phiền não, chấp trước, lìa xa sắc, tài,
danh, lợi. Tướng diệt là diệt sạch hết mọi vọng niệm để tâm được thanh
tịnh tự tại mà hướng đến bậc Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí tuệ viên
mãn tròn đầy của đức Phật. Nhờ trí tuệ này, Ngài biết tất cả nguyên
nhân, nguồn gốc của vạn pháp, của các loài từ hữu tình đến vô tình chúng
sinh. Vì thế giáo lý Nhân Duyên là Chân lý của đạo Phật. Trên thế gian
này không có cái gì tự nhiên mà có mà tất cả đều do nhân duyên kết hợp,
tác tạo mà thành. Đó là cái này cái kia tác động, duyên khởi sinh ra cái
nọ. Cứ như thế mà trùng trùng duyên khởi kiến tạo cái thế giới hữu hình
này. Trong Phật giáo, nhân quả là nói về thời gian nghĩa là có nhân thì
một ngày nào đó sẽ thành quả. Còn nhân duyên là nói về không gian, có
nhân duyên kết tụ thì sẽ có kết quả hình thành. Khi cộng nhân quả và
nhân duyên lại với nhau thì có vũ trụ tức là bao trùm gồm cả không gian
vô cùng vô tận và thời gian vô thỉ vô chung.
Tuy Phật biết căn cơ chủng tánh chúng
sinh, từ độn căn đến thượng trí, nên Ngài chỉ dẫn dắt từng phần chớ chưa
thể đem trí tuệ của Phật ra dạy được. Một lần nữa, Phật xác định có
giáo lý tam thừa chỉ là phương tiện của Như Lai, nhưng có một điều quan
trọng là trong khi Như Lai dạy giáo lý tam thừa thì vẫn có mầm của giáo
lý Đại thừa trong đó chỉ vì chúng sinh không hề để ý đến đó thôi.
Những gì đức Phật dạy phát xuất từ đời
sống kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân vì thế Ngài dạy chúng sinh
những ý chí sắc đá, trí tuệ cao siêu, đức sống vị tha, sự thoát ly và
đặc biệt là sống đời gương mẫu làm lợi ích cho mình, cho người. Con
người vĩ đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ đó, phương pháp giáo
dục siêu việt đó của đức Phật đã làm cho thế giới kính phục Ngài như
một đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại. Đạo Phật là đạo thực
hành nên đức Phật không dạy chúng sinh những giáo lý ảo tưởng, hoang
đường mà Ngài dạy những phương trình, những công thức rất thực dụng để
chúng sinh tùy theo căn cơ, sở nguyện của mỗi người mà áp dụng để có
thực chứng. Càng loại bỏ các lậu hoặc, các tập khí con người càng an lạc
mà không cần phải cầu nguyện, cúng tếchi cả.Đức Phật khi còn tại thế đã
cực lực chống đối lối cúng tế nghi lễ phức tạp của Bà la môn và tôn thờ
thần thánh một cách mù quáng. Đó là một trong những nguyên nhân đạo
Phật ra đời để thổi một luồng sinh khí mới vào trong xã hội phong kiến,
đẳng cấp, kỳ thị của Ấn độ lúc bấy giờ. Ngài xiễn dương tình thần khách
quan bình đẳng qua tư tưởng Pháp Hoa vì ai cũng đều có máu đỏ và nước
mắt cùng mặn, vì ai cũng có Tri Kiến Phật giống y như Phậtcho nên thay
vì kỳ thị, xua đuổi con người nên gần lại với nhau, cùng nhau xoa dịu
những mãnh đời bất hạnh.
-Ca-diếp! Sự nhận thức của các
ông hi hữu. Các ông đã biết rõ Như Lai tùy cơ nghi nói pháp khó tin, khó
hiểu, nay mà các ông đã tin tốt và tiếp nhận tốt.
Đến đây, đức Phật tán thán các Tôn giả
Đại Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Mục Kiền Liên và Tu Bồ Đề về sự hiểu biết
thâm ý của Như Lai. Đó là chỗ Phật tùy cơ nghi nói pháp cho nên mới có
tam thừa, nhưng cứu cánh vẩn là Phật thừa để đưa tất cả chúng sinh cùng
hướng về Phật quả.
Đức tin mà Phật nói ở đây là tin vào giáo
lý Phật Đà, tin vào lời dạy chân thật của đức Phật vì Ngài là người đã
chứng đạo thấy cứu cánh giải thoát giác ngộ, là vị thầy cao cả và sau
cùng tin rằng mình đi theo đúng con đường Phật vạch ra thì sẽ có được
giải thoát giác ngộ như Phật. Vì thế giáo lý đạo Phật rất khó nghe, khó
hiểu, khó tin, khó hành, nhưng nếu chúng sinh nghe được, hiểu được, tin
được và hành được thì đây chính là sự cúng dường Phật, Pháp cao thượng
nhất.
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Ca-diếp ! Ông nên biết
Ta dùng các nhân duyên
Và nói nhiều thí dụ
Để chỉ bày đạo Phật
Đó là phương tiện của ta
Các đức Phật cũng thế
Nay ta vì các ông
Nói việc chân thật nầy
Quả chứng của Thanh Văn
Chưa phải thật diệt độ
Đạo sở hành của các ông
Phải là Bồ tát đạo
Học tu tiến lên dần
Tất cả sẽ thành Phật.
Tóm lại, bản hoài của Phật là muốn tất cả
chúng sinh viên thành Phật đạo tức là thành Phật chớ không phải tu theo
Thanh Văn, Duyên Giác. Mà muốn đạt thành bổn nguyện đó, chúng sinh phải
trải thân hành Bồ Tát đạo, tu Lục độ Vạn hạnh viên mãn, chuyển bánh xe
Đại thừa.