15/06/2011 14:27 (GMT+7)
Số lượt xem: 24412
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

III. VẤN ĐỀ SOẠN NIÊN VÀ TÁC GIẢ

Kể từ ngày Lê Quí Đôn ghi Thiền uyển tập anh vào bản thư tịch đầu tiên của nước ta hiện còn trong Đại việt thông sử 3 và nói: “Nó do người đời Trần soạn, chép chuyện các cao tăng từ cuối đời Đường qua Đinh, Lê, Lý, Trần”, vấn đề soạn niên và tác giả của nó vẫn chưa được giải quyết một cách ổn thỏa. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí 45 thì chỉ bằng lòng chép lại những gì Đôn đã viết. Đến khi Trần Văn Giáp phát hiện ra và giới thiệu nghiên cứu nó, ông đã tiến thêm một bước tới việc đề nghị năm soạn, nhưng với những lý cứ hết sức yếu kém, dẫn đến tình trạng là đề nghị ấy dù đúng đắn, đã bị Gaspardone nghi ngờ và bác bỏ. Thực tế, đề nghị của Trần Văn Giáp gồm hai bước. Bước thứ nhất, đề nghị Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần, một điều ai cũng biết từ thời Lê Quí Đôn, nhưng chưa được chứng minh. Ở bước này, ông chỉ trưng được hai chứng cớ  duy nhất, đó là: 1- Niên đại các vị Sư trong Thiền uyển tập anh không sống quá năm 1228, và 2- Họ của viên sứ nhà Tống, Lý Giác bị đổi thành Nguyễn  trong truyện Khuông Việt.

Bây giờ chứng cớ thứ nhất, Gaspardone đã dựa vào ghi chú trên của Lê Quí Đôn, theo đấy, Thiền uyển tập anh chép chuyện các cao tăng cho đến Lý, Trần, mà ông hiểu là phải bao gồm cả truyện của những cao tăng đời Trần nữa, để vạch ra rằng, có thể tự nguyên ủy Thiền uyển tập anh có một quyển về các vị thiền sư đời Trần, nhưng “hình như bị Phúc Điền loại khỏi Thiền uyển tập anh”. Đương nhiên, kết luận ấy của Gaspardone là không thể chấp nhận được, vì Gaspardone đã cứ vào một suy luận không thực, đấy là chuyện Phúc Điền loại khỏi Thiền uyển tập anh một quyển các thiền sư đời Trần, trong khi đó chưa bao giờ có một điểm chỉ nào hết về sự hiện diện thực sự của một quyển như thế. Câu ghi chú của Lê Quí Đôn trong Nghệ văn chí, mà sau này Phan Huy Chú lập lại, không nhất thiết cho phép ta giả thiết sự hiện diện của một quyển như vậy, trái lại, nó chỉ ghi lại một sự thực, ấy là một số thiền sư trong Thiền uyển tập anh đã sống qua tới thời Trần không phải chỉ ở năm 1228 chậm nhất, mà còn ở những năm chậm hơn nữa. Chẳng hạn, Tức Lự học trò của Thông Thiền và Ứng Thuận, học trò của Tức Lự, Thiền uyển tập anh dầu không cho ta biết năm mất, ta cũng có thể đoán phải mất khoảng tối thiểu những năm 1230 cho đến 1250. Do thế, không cần phải giả thiết một cách vô căn cứ sự có mặt của một quyển viết về các thiền sư đời Trần trong Thiền uyển tập anh, như Gaspardone đã làm, ta cũng có thể vạch ra một cách dễ dàng rằng năm 1228 không phải là năm chậm nhất trong nó, và ta không thể dùng niên đại năm 1228 đó để xác định năm viết ra nó.

Về chứng cớ thứ hai, việc đổi tên Lý Giác thành Nguyễn Giác cũng không nhất thiết cho phép ta kết luận Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần, bởi trong nó đang còn có một số người mang tên họ Lý, mà rõ ràng nhất là Lý Thái Tổ ở truyện Đa Bảo tờ 9b10, Lý Thái Tông ở truyện Thiền Lão tờ 10b11, Lý Linh Cảm Thái Hậu ở truyện Viên Chiếu tờ 11a10, Lý Nhân Tông cũng ở truyện Viên Chiếu tờ 15b9 v.v... Với những người mang tên họ Lý còn nhiều như vậy, đương nhiên việc đổi Lý Giác thành Nguyễn Giác tất không có một giá trị làm chứng lịch sử nào cả.

Với hai dẫn chứng nhỏ vừa nêu, Trần Văn Giáp dĩ nhiên không thể nào chứng minh được sự ra đời của Thiền uyển tập anh vào thời Trần và do đó không thể thuyết phục được ai chấp thuận một thuyết như thế. Dẫu vậy, ông đã tiến thêm một bước nữa, để đưa ra một niên đại cho sự ra đời đó, bằng cách dựa vào một câu viết trong truyện Vô Ngôn Thông tờ 5a7, theo đấy “lại đến năm Đinh Sửu Khai Hựu thứ 24, Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ Sư trở đi”. Nhưng Gaspardone đã vạch ra, câu ấy chứa đựng nhiều sai lầm và nghi vấn, song Trần Văn Giáp  đã bỏ lơ đi và không bàn tới. Ví dụ, niên đại Khai Hựu đời Trần Hiền Tông chỉ kéo dài 12 năm thôi, chứ không có 24 năm hay 14 năm. Từ đó, nếu không giải quyết những khó khăn bao vây câu ấy, ta không thể nào đề nghị năm Khai Hựu Đinh Sửu là năm Thiền uyển tập anh ra đời.

Phê bình những lý cứ trên của Trần Văn Giáp, chúng tôi tất không nhằm đến cùng một kết luận kiểu Gaspardone, đấy là than phiền về tình trạng văn bản Thiền uyển tập anh đã bị thiếu sót và sửa thêm ở bản in năm 1715 xưa nhất hiện còn. Dĩ nhiên, người hiệu đính bản in năm đó đã có những sửa thêm, mà chứng cớ rõ ràng nhất là họ các vị vua nhà Lý đã bị sửa lại thành Lý, trong khi đó đúng ra nó phải có Nguyễn, như trường hợp Lý Giác bị đổi thành Nguyễn Giác, Lý Thường Kiệt bị đổi thành Nguyễn Thường Kiệt. Dẫu vậy, một cuộc nghiên cứu tỉ mỉ vẫn cho  phép ta kết luận Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần và nó ra đời vào chính năm 1337, tức năm Đinh Sửu Khai Hựu.

 
1.        THIỀN UYỂN TẬP ANH 
LÀ MỘT TÁC PHẨM ĐỜI TRẦN
Bộ sử xưa nhất của nước ta hiện còn là Đại Việt sử lược. Nó bị bọn xâm lược Minh vơ vét đem về Trung Quốc khoảng những năm 1407-1428, trong khi đang chiếm đóng nước ta, nên những sử gia từ năm sau 1428 trở đi không một ai biết đến nó cả. Ở Trung Quốc, Đại Việt sử lược chuyền qua nhiều tay, để cuối cùng tên tuần phủ tỉnh Sơn Đông đã bắt gặp và dâng nó lên cho vua Càn Long nhà Thanh khoảng năm 1776. Càn Long cho chép ra, mà một bản tàng trữ tại Văn Lan các ở Hàn Châu. Tiền Hy Tộ đã dùng bản chép Văn Lan các mà in nó ra trong Tùng thư Thủ sơn các của mình, từ đó bộ sử xưa nhất của ta mới trở nên phổ cập. Đại Việt sử lược như vậy là một sử liệu đời Trần chưa từng qua tay người nước ta từ thế kỷ thứ XV trở đi. Mặc dù ở Trung Quốc, nó không phải không bị những sử gia phong kiến Trung Quốc sửa đổi, như trước đây, có người đã lầm tưởng. Song sự sửa đổi ấy, chúng tôi nghĩ phần lớn giới hạn vào những việc và văn từ có xúc phạm tới danh dự và hệ ý thức của những người lãnh đạo phong kiến Trung Quốc mà thôi, chứ  không phải lan tràn đến những việc khác. Do thế, Đại Việt sử lược đã giữ lại một phần lớn bộ mặt lịch sử của mình, lúc mới ra đời dưới thời Trần. Vì thế, để chứng minh Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần ta thử truy cứu xem nó có chứa đựng những sử kiện nào trùng hợp với Đại Việt sử lược, mà không thấy các sử liệu khác của ta ghi lại hay ghi khác đi. Thực hiện một cuộc truy cứu như vậy, đã cung hiến cho ta những kết quả sau :

 (a). Truyện Khuông Việt tờ 8b9-10 nói: “Năm Thiên Phúc thứ nhất, quân Tống vào đánh cướp”. Truyện Vạn Hạnh tờ 52a1- 2 viết: “Năm Thiên Phúc thứ nhất, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống đến đánh cướp, đóng quân ở Cương Giáp, Lãng Sơn”. Việc Hầu Nhân Bảo đem quân đến đánh nước ta, theo Thiền uyển tập anh như vậy xảy ra vào năm Thiên Phúc thứ nhất. Năm đấy, theo Đại Việt sử lược 1 tờ 19a8 cũng là năm Hầu Nhân Bảo đánh vào nước ta và đóng quân ở Lãng Sơn. Nó viết: “Năm Thiên Phúc thứ nhất, mùa xuân tháng ba quân Hầu Nhân Bảo đến Lãng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến Bạch Đằng giang”. Trong khi đó, Đại Việt sử ký toàn thư B1 tờ 14a1 lại ghi việc ấy xảy ra vào năm Thiên Phúc thứ hai và tại Lạng Sơn. Nó viết: “Năm Thiên Phúc thứ hai mùa xuân tháng ba Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến Bạch Đằng giang”.

 (b). Truyện Viên Chiếu tờ 11a9 -10 nói Viên Chiếu “họ Mai, tên Trực, là con người anh bà Thái hậu Linh Cảm nhà Lý”. Trước đây, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã tưởng lầm Thái hậu Linh Cảm là Thái hậu Linh Nhân nên đã hai lần viết: “Sư Viên Chiếu cháu thái hậu Linh Nhân” hay “Sư Viên Chiếu là con anh Thái hậu Ỷ Lan”[19]. Thế thì, Thái hậu Linh Cảm là ai? Củ soát lại những tư liệu lịch sử nước ta thì không thấy một tài liệu nào ghi tên Thái hậu Linh Cảm cả. Nhưng Đại Việt sử lược 2 tờ 11a1 nói Lý Thánh Tông lúc đã lên ngôi, “tôn mẹ là Mai Thị làm Thái hậu Linh Cảm” vào năm Long Thụy Thái Bình thứ nhất (1054). Như vậy Thái hậu Linh Cảm họ Mai tức là mẹ của Lý Thánh Tông, chứ không phải là Thái hậu Linh Nhân vợ của Lý Thánh Tông và mẹ của Nhân Tông. Trong khi đó, Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ 39b1 lại ghi mẹ của Lý Thánh Tông là Thái hậu Kim Thiên. Nó viết: “Tôn mẹ Mai Thị làm Hoàng thái hậu Kim Thiên”. Ta thật không biết Đại Việt sử ký toàn thư đã lấy tên Kim Thiên đấy ra từ đâu.

 (c). Truyện Đại Xả tờ 29a 10-11 chép: “Kiến Ninh Vương và công chúa Thiên Cực tôn kỉnh”. Một lần nữa, Kiến Ninh Vương và công chúa Thiên Cực không thấy các sử ta nói tới, trừ Đại Việt sử lược. Về Kiến Ninh Vương, Đại Việt sử lược 3 tờ 11:6-8 viết: “Năm Trinh Phù thứ 10 (1185) mùa xuân, Kiến Ninh Vương, Long Ích đem quân hơn 12 ngàn người đi đánh Lào núi ở Linh Sách để trả thù trận La Sách...”.. Kiến Ninh Vương như vậy theo Đại Việt sử lược là phong tước của Long Ích, con của Lý Anh Tông. Bây giờ theo Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 21a8 thì Long Ích, có tước là Kiến Khương Vương. Nó viết: “Năm Trinh Phù thứ 10  mùa thu tháng 7, vua sai Kiến Khương Vương Long Ích đem quân đi đánh các bọn mọi ở Viêm Sách, bình định được”.

Về công chúa Thiên Cực thì Đại Việt sử ký toàn thư không màng ghi lại ngay cả tên cô. Nhưng Đại Việt sử lược 3 lại ghi chép rất rõ cuộc đời đầy đào hoa và sinh sát của cô công chúa này. Tờ 7a2-3 ghi việc cô lấy Hoài Trung Hầu, Châu mục Lạng Châu làm chồng vào năm 1176. Tờ 19b4-7 ghi chuyện cô thông dâm với Phạm Du, dẫn tới cái chết của Du vào năm 1209. Rồi tờ 22a7-8 chép việc cô thông dâm với Tô Trung Tự, làm cho Tự bị chồng cô là Vương Thượng giết chết vào năm 1211. Cuối cùng tờ 24a1-2 ghi chuyện Đinh Cối đánh Lạng Châu rồi lấy của cải ở nhà cô vào năm 1212.

 (d). Truyện Tịnh Giới tờ 34a5-6 nói: “Năm Trinh Phù thứ tư chùa Chân Giáo núi Vạn Bảo làm thành, vua sai các bậc kỳ đức đến hội khánh thành”. Việc này Đại Việt sử ký toàn thư và các sử sách khác không thấy ghi, trừ Đại Việt sử lược 3 tờ 9b9-10. Nó viết: “Năm Trinh Phù thứ tư (1179) tháng năm, sửa thêm chùa Chân Giáo, vua xuống chiếu lấy chùa đó làm nơi hành hương vào ngày kỵ của Anh Tông”.

 (e). Truyện Vạn Hạnh tờ 52a1-3 viết: “Năm Thiên Phước thứ nhất (981) Hầu Nhân Bảo nhà Tống đến cướp, đóng quân ở Cương Giáp, Lũng Sơn, vua cho mời Sư đến hỏi thắng bại. Sư đáp: Trong ba bảy ngày giặc phải lui”. Sự kiện Hầu Nhân Bảo đem quân xâm lược nước ta, Đại Việt sử lược 1 tờ 19a8 viết: “Tân Tỵ năm Thiên Phúc thứ nhất (981) mùa xuân tháng 3, quân Hầu Nhân Bảo kéo sang Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng tới sông Bạch Đằng. Vua tự đem quân ra chống”. Đại Việt sử ký toàn thư 1 tờ 14a1-3 viết: “Tân Tỵ năm Thiên Phúc thứ hai (981) Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua tự đem quân đi chống”. Vậy rõ ràng Thiền uyển tập anh đã sử dụng những tư liệu cùng nguồn gốc với Đại Việt sử lược và hoàn toàn khác với Đại Việt sử ký toàn thư.

Cần ghi nhận là Đại Việt sử ký toàn thư còn chua thêm: “Xét các bản Lịch đại niên kỷ thì đều cho năm này là năm Thiên Phúc thứ nhất, nay đổi lại”. Điều này rõ ràng Đại Việt sử lược không phải là một bộ sử tóm tắt Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu như nhiều người đã lầm tưởng trước đây. Không những thế, nó phải ra đời trước bộ sử của Lê Văn Hưu và có khả năng nó do Trần Chu Phổ viết, như chúng tôi đã đề xuất.

 (f). Truyện Hiện Quang tờ 41b5 nói Quang “vì nhận sự cúng dường của công chúa Hoa Dương, mà sự chê bai thời bấy giờ nổi lên như ong”. Công chúa Hoa Dương này, Đại Việt sử ký toàn thư và các sách sử không thấy nói tới trừ Đại Việt sử lược 3 tờ 10a11. Nó viết: “Năm Trinh Phù thứ 5 (1180) mùa đông cho thủ lãnh châu Vị long Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa Dương”. 

 (g). Truyện Đạo Hạnh tờ 55a6-56a3 kể chuyện Giác Hoàng bị phù phép của Đạo Hạnh làm chết và chuyện Hạnh bị vua bắt và Sùng Hiền giải cứu. Chuyện này Đại Việt sử lược 2 tờ 21a4-b5 chép hoàn toàn giống hệt, hầu như không sai một chữ. Nhưng Toàn thư và các sách sử khác không thấy nói đến, trừ truyện Từ Đạo Hạnh trong Lĩnh nam chích quái truyện tờ 29, mà chúng tôi cho là một trích dẫn trực tiếp và hoàn toàn từ Thiền uyển tập anh chứ không gì khác. Có người dựa vào cách viết chữ trích trong Lĩnh nam chích quái truyện để nói rằng tất cả những truyện trong tác phẩm ấy là do chính tác giả chúng viết. Song thực sự là, tối thiểu bốn truyện trong chúng đã hoàn toàn đồng nhất với bốn truyện trong Thiền uyển tập anh. Mà Thiền uyển tập anh lại viết vào khoảng năm 1337, như sẽ thấy, và Lĩnh nam chích quái thì không thể viết trước năm 1346, vì đấy là năm xảy ra truyện Hà Ô Lôi do nó chép lại. Từ đó, ta phải kết luận rằng Lĩnh nam chích quái quả đã trích bốn truyện vừa nêu từ chính Thiền uyển tập anh. Sự đồng nhất không những về cốt truyện mà còn về văn tự và ngữ cú không cho phép ta giả thiết nó đã trích dẫn bốn truyện ấy từ một nơi nào khác được, ngay cả từ những nguồn sử liệu  của Thiền uyển tập anh.

 (h). Truyện Thiền Nham tờ 59a8 viết: “Trong khoảng Đại Thuận, có hạn, vua xuống chiếu mời sư đến kinh cầu mưa”. Truyện Giới Không tờ 62b8 cũng ghi một nạn dịch lớn xảy ra vào năm Đại Thuận thứ 8. Chữ thứ 8, chúng tôi nghi là một viết sai của chữ thứ hai, tức chữ bát là một viết sai của chữ nhị, một điều tương đối dễ xảy ra, nhưng vì cả Đại Việt sử lược lẫn Đại Việt Sử ký toàn thư, không thấy sách nào ghi một vụ dịch xảy ra vào khoảng Đại Thuận cả nên chúng tôi đề nghị giả thiết vừa nêu. Truyện Viên Thông tờ 69a5 viết: “Năm Đại Thuận thứ 3 (1130) Lý Thần Tông mời Thông vào điện Sùng khai”.

Niên hiệu Đại Thuận đây của Lý Thần Tông chỉ xuất hiện trong Đại Việt sử lược 3 tờ 1a7-b11 mà thôi, kéo dài từ năm Mậu Thân (1128) đến năm Nhâm Tý (1132). Còn Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 28b2-37a4 thì có niên hiệu Thiên Thuận, các sách sử khác của ta đều chép theo Đại Việt Sử ký toàn thư.

 (i). Truyện Bản Tịch tờ 60b9 nói: “Tịch mất vào ngày 14 tháng 6 mùa hè năm Kỷ Mùi Thiệu Minh thứ 3” (1139). Theo Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 1a7 và các sử sách khác thì năm Kỷ Mùi phải là năm Thiệu Minh thứ 2, còn năm Thiệu Minh thứ 3 phải là năm Canh Thân. Nhưng Đại Việt sử lược 3 tờ 3a2 ghi năm Kỷ Mùi đúng là năm Thiệu Minh thứ 3 đời Lý Anh Tông.

 (n). Truyện Viên Thông tờ 68b10 nói: “Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8, thăng Thông làm Thiên hạ hoằng tài, điền vào chân thiếu người trong giai tăng đạo”, dù trước đó chuyện Thuần Chân tờ 57a10 nói Chân mất vào “ngày 7 tháng hai năm Ất dậu Long Phù thứ nhất”. Long Phù Nguyên Hóa là một niên hiệu của Lý Nhân Tông kéo đài từ năm Tân Tỵ (1101) đến năm Kỷ Sửu (1109) gồm cả thảy 9 năm. Đại Việt sử lược 2 tờ 19a1 - 20b6 đã ghi niên hiệu ấy đúng tên như vậy, trong khi Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 13b6 -15b5 và các sử sách khác của ta đều chỉ ghi tên Long Phù mà thôi. Trước truyện Viên Thông, truyện của Thuần Chân ở tờ 57a10 nói Chân mất vào năm “Long Phù Nguyên Niên Ất Dậu”. Nhưng khảo Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 13b6 thì Long Phù Nguyên Niên không phải là năm Ất  Dậu mà là năm Tân Tỵ. Trái lại, năm Ất Dậu phải là năm Long Phù Ngũ Niên. Do thế, chúng tôi nghĩ rằng chữ niên trong Long Phù Nguyên Niên là một hiệu đính sai hay khắc sai của chữ Hóa. Từ đó, đúng ra ta phải đọc Long Phù Nguyên Hóa Ất Dậu, chứ không phải Long Phù Nguyên Niên Ất Dậu.

      Như vậy có cả thảy mười sử kiện trùng hợp giữa Thiền uyền tập anh và Đại Việt sử lược. Và như đã nói, cuốn Đại Việt sử lược cho đến thế kỷ XX này các sử gia ta mới biết tới và sử dụng, chứ trước đó trở lên tối thiểu tới lúc Ngô Sĩ Liên hoàn thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư của ông vào năm 1479, nó hoàn toàn không bao giờ được nhắc đến. Do thế, bằng mười sự trùng hợp đó, chúng ta bắt buộc phải kết luận, trừ phi tác giả Thiền uyển tập anh sống cùng thời với tác giả Đại Việt sử lược mới có thể ghi lại mười sử kiện có sự trùng hợp ở trên. Nói cách khác, Thiền uyển tập anh đã có cơ hội sử dụng cùng những thứ tài liệu mà tác giả Đại Việt sử lược đã dùng, liên quan tới những sự việc lịch sử, bởi vì nó chứa đựng, ngoài những trường hợp dẫn trước, một số những sự việc lịch sử khác, mà ngày nay ta hiện chưa có thể truy ra nơi xuất xứ, nhưng chắc chắn là những việc có thật. Ví dụ truyện Tịnh Không tờ 28a3 ghi lại tên công chúa Nam Khương đi xuất gia, song ta hiện chưa biết công chúa Nam Khương đó là ai. Hay truyện Bản Tịch tờ 60b3 nói Tịch là hậu duệ của Nội cung phụng đô úy Nguyễn Kha triều Tiền Lê v.v...Thêm vào đó, tác giả Thiền uyển tập anh ở những truyện Tịnh Giới tờ 34b7, Vạn Hạnh tờ 53a8, Khánh Hỷ tờ 62a11 đều nói tới chuyện so với Quốc sử hay Sử ký. Nhưng ngày nay phần nhiều những chi tiết chép trong các chuyện đó ta không thể so sánh hay tra cứu lại đầy đủ trong các bộ sử của nước ta hiện còn, tức Đại Việt sử lược và Đại Việt Sử ký toàn thư. Bằng chính chín chứng cớ trùng hợp trên, Thiền uyển tập anh chắc chắn phải là một tác phẩm đời Trần  không thể nào chối cãi khác được.

Đấy là chưa kể những kỵ húy của các vua đầu đời Trần đã thấy xuất hiện trong Thiền uyển tập anh một cách nhất loạt, nhưng không được đồng đều và dứt khoát cho lắm, mà Trần Văn Giáp và Hoàng Xuân Hãn đã có dịp vạch ra. Chủ yếu và rõ rệt nhất là những miếu húy sau. Thứ nhất là chữ Lý. Vì nguyên tổ của nhà Trần tên Lý, “nên dời triều Lý ra triều Nguyễn để tuyệt lòng mong họ Lý của dân”, như Đại Việt sử ký toàn thư B5 tờ 7b6-7 ghi lại cái lệnh ban quốc húy vào năm Kiên Trung thứ 8 (1232). Trong Thiền uyển tập anh, tên của Lý Giác ở truyện Khuông Việt tờ 9a1, của Lý Thường Kiệt ở truyện Chân Không tờ 65a10 bị đổi thành Nguyễn Giác và Nguyễn Thường Kiệt, dẫu rằng tên các vị vua họ Lý hoàn toàn đã bị một bản in trước bản in năm 1715 hay chính bản in đấy đổi thành họ Lý như cũ, như chúng tôi đã vạch ở trên. Sự không đồng đều và dứt khoát của bằng chứng húy kỵ nằm chính tại những trường hợp hàm hồ như vậy. Tiếp đến là chữ Càn. Đại Việt sử ký toàn thư B6 tờ 30a2-3, trong khi ghi chuyện Trần Anh Tông đi đánh Chiêm Thành, đóng quân lại ở cửa Cần vào năm 1312, có chua “cửa Cần nó trước gọi là Cần, vì tránh húy nên đổi làm Càn”. Chữ Càn như thế là một miếu húy của nhà Trần, dẫu ta không biết thuộc tên ai. Trong Thiền uyển tập anh, vì tránh miếu húy ấy, nên tên Phụng Càn Vương ở truyện Huệ Sinh tờ 58b2 và truyện Diệu Nhân tờ 66b9 bị đổi thành Phụng Yết Vương, núi Càn Ni ở truyện Pháp Dung tờ 63a7 bị đổi thành núi Ma Ni. Ngay cả cái tên Pháp Dung, nếu cứ theo bia chùa Hương Nghiêm viết vào năm 1124 thì phải gọi là Đạo Dung, nhưng, như giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã vạch ra một cách hợp lý chữ Đạo bị đổi thành chữ Pháp, vì húy kỵ của Trần Hưng Đạo. Ngoài ba chữ miếu húy vừa nêu, có thể còn một số miếu húy khác nữa đã làm những tên người và tên đất trong Thiền uyển tập anh thay đổi. Chẳng hạn, chữ Diệu trong tên của Diệu Nhân trong truyện Chân Không tờ 66a6 ghi thành Mậu, để tránh tên riêng của mẹ Trần Thái Tông là Lê Thị Diệu, như Đại Việt sử ký toàn thư B6 tờ 1a đã chép.

Dẫu thế, với những kỵ húy ấy, dù tự bản chất chúng là có giá trị không đồng đều và dứt khoát, nên những ai dựa vào chúng để lập luận về niên đại của Thiền uyển tập anh tất không thể không phạm những sai lầm nghiêm trọng, ta vẫn có thể nói rằng chúng đã giúp soi sáng mười bằng cớ nêu trước, cũng như mười bằng cớ đó giúp chúng bây giờ hết có tính chất không đồng đều và không dứt khoát. Vấn đề Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần, đến đây, như vậy không còn cần phải bàn cãi nữa. Thiền uyển tập anh dứt khoát là một tác phẩm đời Trần. Nếu thế, ta có thể biết nó viết vào năm nào không?

 

2. THIỀN UYỂN TẬP ANH 
VIẾT VÀO NĂM 1337
Trước đây, Trần Văn Giáp đã đề nghị năm 1337 là năm Thiền uyển tập anh ra đời. Đấy  phải kể là một đề nghị rất xuất sắc của cuộc đời nghiên cứu văn bản của ông. Nhưng rất tiếc, vì ông không những đã không chứng minh được Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần một cách dứt khoát, mà còn sử dụng câu văn làm chứng cứ cho đề nghị đó một cách cẩu thả, nên đề nghị rất xuất sắc vừa nói đã không được giới nghiên cứu chấp nhận một cách thoải mái và yên lòng. Bây giờ ta đã có bằng chứng rõ rệt xác nhận Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần rồi, thì việc tìm xem nó thực sự có phải viết vào năm 1337 không, chắc không đưa một khó khăn nan giải nào.

Chứng cớ cho việc xác định năm 1337 là năm Thiền uyển tập anh ra đời nằm trong một câu ở truyện Vô Ngôn Thông tờ 5a6-7. Sau khi chép chuyện Thông chết và Cảm Thành đem thiêu và xây tháp thờ, Thiền uyển tập anh viết: “Thời Đường Bảo Lịch nhị niên Bính Ngọ chính nguyệt thập nhị nhật, nhị thập bát niên, hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu, nhị thập tứ niên, ngã Việt thiền học tự Sư chi thỉ”. Phần đầu câu đấy thật quá rõ ràng. Nó có nghĩa: “Bấy giờ là ngày 12 tháng  giêng năm Bính Ngọ đời Đường Bảo Lịch thứ hai (826)”. Như vậy, Vô Ngôn Thông mất vào ngày tháng năm đó. Nhưng bốn chữ “nhị thập bát niên” tiếp theo thì thật là khó hiểu, chúng chả ăn nhằm gì với phần đầu của câu, cũng như không liên lạc gì hết với phần đầu của câu ấy. Thế bốn chữ  ấy muốn nói gì?.

Chúng tôi nghĩ chữ nhị trong nhị thập bát niên là chữ lục bị chép lộn, một việc tương đối rất dễ xảy ra. Nếu vậy, lục thập bát niên tất phải chỉ tuổi thọ của Vô Ngôn Thông, chứ không thể gì khác. Do đó, trước lục thập bát niên chắc chắn phải in sót một chữ thọ nữa. Sự in sót một vài chữ không phải là không thường xuất hiện trong Thiền uyển tập anh, bản in năm 1715 tốt nhất và xưa nhất hiện còn, mà thí dụ ta không cần phải tìm đâu cho xa. Ngay trước câu dẫn trên của ta một dòng, sau khi nói Vô Ngôn Thông “chấp tay mà mất”, nó viết: “Cảm đem hỏa thiêu, thu xá lợi, dựng tháp ở núi Tiên Du”. Cảm đây, đương nhiên ta phải hiểu là Cảm Thành, bởi vì ngoài Thành ra, không ai có thể làm việc ấy được hết. Thế mà, nó đã in sót chữ Thành. Nhưng nếu bảo Vô Ngôn Thông “thọ 68 tuổi”, ta có chứng cớ nào để chứng minh Thông thọ đúng số tuổi ấy không?

Đương nhiên là có. Cứ truyện Thông, ta biết Thông xuất gia từ nhỏ, vì Thông “nhỏ mộ đạo Phật, không lo của cải”. Với tư cách đồng chân nhập đạo đó và với tính tình “quả ngôn mặc thức” của mình, Thông chắc chắn phải thọ giới Tỳ kheo đúng vào lúc ông 20 tuổi, như chính giới luật Phật giáo qui định, để chính thức trở thành nhà sư Phật giáo. Đến khi Thông gặp vị khách thiền hướng dẫn tới Mã Tổ, thì bấy giờ theo chính lời Thông, Thông đã trải qua 10 hạ, nghĩa là Thông đã trải qua 10 năm từ lúc thọ giới. Nói khác đi, khi gặp vị khách thiền, Thông đã 30 tuổi. Chính vào năm tuổi 30 đó, mà Thông được ông ấy đem đi yết kiến Mã Tổ. “Nhưng vừa tới Giang Tây, Mã Tổ đã thị tịch”. Mã Tổ mất năm 788. Vậy, năm 788 này cũng là năm Thông 30 tuổi. Từ đó suy ra năm sinh của Thông tức phải rơi vào năm 759. Bây giờ, ta biết Thông mất vào năm 826. Như vậy, tuổi thọ của Thông tính theo lối đông phương quả đúng là 68 tuổi. Do thế, nhị thập bát niên là một hiệu đính hay khắc sai và thiếu của thọ lục thập bát niên. Bốn chữ nhị thập bát niên từ đấy có thể giải quyết một cách ổn thỏa, không một nghi vấn lớn lao đáng kể nào.

Phần thứ hai của câu dẫn trên mới thật là rắc rối, nhưng lại có một ý nghĩa quyết định với việc xác định năm Thiền uyển tập anh ra đời. Nó viết: “Hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu nhị thập tứ niên, ngã Việt thiền học tự sư chi thỉ”. Điểm rắc rối của phần đây nằm trong bốn chữ nhị thập tứ niên, bởi vì năm Đinh Sửu Khai Hựu thì không thể nào là năm thứ 24 hay 14 được. Và nó có thể giải quyết theo hai cách sau. Hoặc chúng ta coi nhị thập tứ niên là một viết sai của chữ cửu niên, bởi vì chữ nhị thì ta có thể coi là do chữ sửu đi trước nó đẻ ra, như trường hợp chữ nhân do trường hợp chữ trường đẻ ra trong bài từ ở truyện Khuông Việt tờ 9a6, còn chữ thập tứ là do chữ cửu mờ đi mà đọc thành, như trường hợp Vạn Hạnh, theo Đại Việt sử lược 2 tờ 4a7 và Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ 10a3 thì mất vào năm Thuận Thiên thập lục trong khi Thiền uyển tập anh vào năm Ứng Thiên thứ chín. Chữ thập lục của nguyên truyện Vạn Hạnh như vậy bị viết thành chữ cửu. Chữ thập tứ ở truyện Vô Ngôn Thông đây do thế chắc chắn phải là một viết sai của chữ cửu. Từ đó, phần trên, thay vì đọc “Hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu nhị thập tứ niên”, ta phải đọc “Hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu cửu niên”. Bây giờ, cứ Đại Việt sử ký toàn thư B7 tờ 8b3 thì năm Đinh Sửu Khai Hựu đúng là năm thứ 9 đời vua Hiến Tông nhà Trần, tức năm1337. Như thế, cách giải quyết coi nhị thập tứ niên là một viết sai của chữ cửu niên, không phải là không có lý cứ và không thể chấp nhận được. Đây là cách giải quyết để cho chúng ta đồng ý và ủng hộ.

Tuy nhiên, nó còn có cách thứ hai. Cách giải quyết này giả thiết nhị thập tứ niên là một viết lộn ngược của tứ thập nhị niên, một sự thường xảy ra trong Thiền uyển tập anh, và chữ tứ là một viết sai của chữ bách, một điều rất có thể. Như vậy, ở bước đầu, nhị thập tứ niên đúng ra phải đọc là bách thập nhị niên. Tiếp đến, vấn đề là, Khai Hựu Đinh Sửu thì làm sao đi đôi được với bách thập nhị niên. Chúng tôi nghĩ rằng bản khắc năm 1715 đã bỏ thiếu mất hai chữ phàm ngũ, mà tự dạng rất giống với chữ sửu đi trước chúng. Do đó, “Hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu nhị thập tứ niên”, đúng ra theo cách giải quyết đây, phải đọc thành “Hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu phàm ngũ bách thập nhị niên”, và hiểu như “Lại đến năm Đinh Sửu Khai Hựu phàm năm trăm mười hai năm”. Lý cứ cho đề nghị cách giải quyết và cách hiểu vừa nêu là thế này.

Ta biết tác giả Thiền uyển tập anh chịu ảnh hưởng Truyền đăng lục của Đạo Nguyên rất nhiều và rất sâu. Mà theo lối viết của Nguyên thì ở cuối truyện những vị tổ chính yếu của thiền tông Trung Quốc như Bồ Đề Đạt Mạ, Huệ Năng v.v... Nguyên đều tính từ năm mất của họ đến năm Nguyên đang viết Truyền đăng lục, tức năm Cảnh Đức thứ nhất (1004), là bao nhiêu năm, và nói “đến nay năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ nhất phàm bao nhiêu năm đó”. Ví dụ, ở truyện Huệ Năng của Truyền đăng lục, Nguyên nói: “Đến nay năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ nhất phàm 292 năm”. Năng mất năm 713 đến năm 1004 thì quả là cách 292 năm theo lối tính phương Đông. Trường hợp Thiền uyển tập anh cũng vậy. Vô Ngôn Thông là một khuôn mặt chính yếu của thiền tông Việt Nam, như chính Thiền uyển tập anh thừa nhận. Do thế, nó muốn tính cho ta biết từ khi Vô Ngôn Thông mất đi đến lúc nó ra đời là cả thảy bao nhiêu năm. Thông mất năm 826 thì đến năm Đinh Sửu Khai Hựu, tức năm 1337, ta có cả thảy đúng 512 năm theo lối tính phương Đông.

Đúc kết lại thì câu “Thời Đường Bảo Lịch nhị niên Bính ngọ chính nguyệt thập nhị nhật, nhị thập bát niên, hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu nhị thập tứ niên, ngã Việt thiền học tự Sư chi thỉ” hoặc phải đọc thành “Thời Đường Bảo Lịch nhị niên Bính Ngọ chính nguyệt  thập nhị nhật, thọ lục thập bát niên, hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu cửu niên, ngã Việt thiền học tự Sư chi thỉ”, và hiểu như: “Bấy giờ là ngày 12 tháng giêng năm Bính ngọ Đường Bảo Lịch thứ 2 (826), Sư thọ 68 tuổi, lại đến năm Đinh Sửu Khai Hựu thứ 9 (1337) Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ Sư trở đi”. Hoặc ta phải đọc câu ấy thành: “Thời Đường Bảo lịch nhị niên Bính ngọ chính nguyệt thập nhị nhật thọ lục thập bát niên, hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu, phàm ngũ bách thập nhị niên, ngã Việt Thiền học tự Sư chi thỉ” và hiểu: “Bấy giờ là ngày 12 tháng giêng năm Bính ngọ Đường Bảo Lịch thứ 2 (826), Sư thọ 68 tuổi, lại đến năm Đinh Sửu Khai Hựu phàm 512 năm. Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ Sư trở đi”. 

Trong hai cách đọc và hiểu vừa đề nghị, cách nào cũng có ưu và khuyết điểm của nó cả. Nếu ta chấp nhận cách đọc và hiểu thứ nhất thì lợi điểm của nó nằm ở chỗ nó không yêu cầu ta thay đổi thêm bớt quá nhiều chữ trong câu làm chứng, và nếu có thay đổi thêm bớt thì có chứng cớ rõ rệt cả. Nhưng nó mắc phải một khuyết điểm là ý nghĩa và câu văn làm chứng, tuy minh bạch, song chưa thông suốt và đầy đủ cho lắm. Ngược lại, nếu ta chấp nhận cách đọc và hiểu thứ 2 thì nó có lợi điểm là ý nghĩa và văn từ của câu văn làm chứng tỏ ra đầy đủ và thông suốt hơn, nhưng lại gặp phải cái khuyết điểm là thay đổi thêm bớt nhiều chữ quá, dù không phải là không có lý. Giữa hai cách đó, tuy cách thứ hai qua sự đánh giá vừa thấy có một số lợi điểm, nhưng chúng tôi vẫn nghĩ rằng cách đọc và hiểu thứ hai đáng nên chấp nhận hơn. Dẫu chấp nhận cách nào đi nữa, năm Đinh Sửu Khai Hựu vẫn không thay đổi. Do thế, cộng với chín sự kiện liệt trước, năm Đinh Sửu Khai Hựu đấy phải nhìn nhận là năm viết ra Thiền uyển tập anh.

 

3. VẤN ĐỀ TÁC GIẢ THIỀN UYỂN TẬP ANH
Nếu Thiền uyển tập anh viết vào năm Đinh Sửu Khai Hựu (1337), thế thì nó do ai viết?  Đây là một câu hỏi tương đối mới mẻ mà trước đây chưa từng được đề cập tới. Để tìm hiểu nó, chúng ta cần khảo xem tình trạng hiểu biết lịch sử Phật giáo Việt Nam trước năm 1337 thế nào, đến nỗi đã thúc đẩy sự xuất hiện của tác phẩm ấy, rồi từ đó ta mới xác định được tác giả là ai? Vậy tình trạng hiểu biết đấy ra sao?

Trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 5b6- 7b, trước khi vẽ nên bản đồ truyền thừa của dòng thiền Trúc Lâm, gọi là Lược dẫn thiền phái đồ, người vẽ đã viết một lời tựa dẫn, nói: “Từ khi đức Đại Thánh ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đem chính pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm giao cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp, nối tiếp trao truyền nhau, phàm 28 đời, đến đại sư Đạt Mạ đi vào Trung Quốc, truyền cho đại sư Thần Quang, Thần Quang truyền xuống phàm 6 đời, thì đến đại sư Thần Hội. Chính vào lúc đó, mà chính pháp truyền vào đất nước ta. Không biết người được trao trước là ai. Chỉ từ thiền sư Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tông tiếp đến Trưởng lão Định Hương, đại sư Viên Chiếu, thiền sư Đạo Huệ lần lượt truyền trao cho nhau, nhưng họ tên của họ lúc mờ, lúc rõ, khó nhận ra manh mối, phân làm ba tôn:

a.      Tôn môn ta đã liệt ở bản đồ, không phiền chép đủ ở đây.

b.      Thiền sư Vương Chí Nhàn truyền cho hòa thượng Nhiệm Tạng. hòa thượng Nhiệm Tạng truyền cho cư sĩ Nhiệm Túc, nay đã chìm ẩn, không rõ thừa tự.

c.       Hòa thượng Nhật Thiển, không biết được pháp với ai, truyền cho Đại vương Chân Đạo, đến nay tôn này cũng chìm ẩn. 

Lại có cư sĩ Thiền Phong từ Chương Tuyền đến, đồng thời với Ứng Thuận, tự xưng thuộc tông Lâm Tế, truyền cho Quốc sư Đại Đăng và hòa thượng Nan Tư. Đại Đăng truyền cho Hoàng đế Thánh Tông ta, Quốc sư Liễu Minh, và Thường Cung cùng Huyền Sách. Huyền Sách truyền cho Phả Trắc v.v... nay cũng mờ dần, không xán lạn lắm. 

Ôi! thiền tông thịnh suy, có thể nói xiết sao? Nay lược kê ra các tôn môn của Thiền để lưu lại về sau, hầu cho học giả biết thiền tông có thể học, chứ không phải tự đặt bày ra đây thế thôi”. 

Sau lời tựa dẫn ấy, ta có bản đồ các thế hệ truyền thừa của dòng thiền Trúc Lâm. Bản đồ ấy bắt đầu với Thông Thiền (?-1228) và chấm dứt với tên ba cao đệ của Pháp Loa, đó là Huyền Quang, Cảnh Huy và Quế Đường. Về Huyền Quang và Cảnh Huy thì cứ Tam tổ thực lục tờ 18a2 và 21a6, ta biết Quang xuất gia năm 1305 và Huy năm 1310. Về Quế Đường tức Cảnh Ngung mặc dù ta không biết xuất gia vào năm nào, song cứ bản liệt kê những đệ tử lớn của Pháp Loa trong chính Tam tổ thực lục tờ 33a1-2 bắt đầu với Huyền Quang ở Côn Sơn, rồi đến Cảnh Ngung ở Quế Đường, rồi tiếp Cảnh Huy ở Ngân Sơn, ta có thể kết luận, bằng vào thứ tự vừa liệt, là Cảnh Ngung phải xuất gia sau Huyền Quang và trước Cảnh Huy, nghĩa là sau năm 1305 và trước năm 1310. Và cũng cứ bản liệt kê đấy, thì ngoài ba người có tên vừa dẫn, Pháp Loa còn có những đệ tử có tên sau: “Ngân ở Diễn Châu, Thuần ở Nhân Kiệt, Nhãn ở Quỳnh Lâm, Nguyên ở Siêu Loại, Quản ở Trúc Đường, Na ở Hồ Thiên, Sáng ở Quỳnh Lâm, Tuyết ở Khoáng Am, Tính ở Quang Am, Chỉ ở Phả Minh, Trang ở Cổ Châu, Hành ở Ái Châu”. Đây là những cao đệ khác của Loa, mà tên đã được ghi lại trong Tam tổ thực lục, nhưng Lược dẫn thiền phái đồ đã không ghi vào số những đệ tử của Pháp Loa trong bản đồ của mình. Điều này chỉ có một ý nghĩa duy  nhất, đó là, vào lúc Lược dẫn thiền phái đồ viết ra, những người đấy chưa xuất gia. Do vậy, Lược dẫn thiền phái đồ cùng bài tựa của nó chắc chắn phải viết ra vào năm 1310, tức năm Cảnh Huy đi xuất gia sau nhất trong ba người hay sau đó không lâu, nghĩa là khoảng năm 1313, năm Trần Anh Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Minh Tông.

Đặt năm 1313 đó là năm chậm nhất, bởi vì chính trong khoảng 1310-1313 ấy, mà Thượng sĩ ngữ lục lần đầu tiên được in lên bản gỗ. Lời bạt của Trần Khắc Chung (?-1330) trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 47a3-6 viết: “Một hôm, Phật hoàng sai đem quyển lục đó ra nói rằng: ‘Để duy trì Phật pháp, là ở quốc vương đại thần, hãy riêng viết một lời tựa, cùng khắc bản ra, để phát huy sự truyền bá nó’. Đức Kim thượng hoàng đế bèn sai tôi, Khắc Chung, kính cẩn viết lời bạt ở sau đây”. Mặc dù lời bạt này không ghi nó viết vào lúc nào, nhưng chắc chắn phải viết vào khoảng những năm 1310-1313 ấy. Bây giờ, cứ vào đó ta biết, Phật hoàng tức Trần Nhân Tông sai viết một lời tựa cho Thượng sĩ ngữ lục, rồi đem in, nhưng chính Trần Anh Tông, tức Kim thượng hoàng đế của lời bạt, mới sai Chung viết lời Bạt. Điều ấy có nghĩa, chính dưới thời Trần Anh Tông, Thượng sĩ ngữ lục mới được khắc bản in, mà Nhân Tông mất không kịp thấy. Nhân Tông mất năm 1308 và Anh Tông nhường ngôi năm 1313. Do vậy, chính trong khoảng 1308-1313 Thượng sĩ ngữ lục mới in. Nhưng thực thì phải từ năm 1310 trở đi mới in được, bởi vì năm đó xá lợi Nhân Tông mới nhập lăng và Anh Tông mới hết để tang Nhân Tông. Đấy là một lý do khác cho ta đề nghị năm viết ra Lược dẫn thiền phái đồ cùng lời tựa trên là vào khoảng 1310-1313.

Như vậy, tình trạng hiểu biết lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng như thiền tông Việt Nam vào khoảng những năm đó, cứ vào lời tựa dẫn trước, là thế này. Họ cho rằng chính pháp, tức thiền tông của Phật giáo truyền vào nước ta vào thời Thần Hội (668-760), chứ không phải sớm hơn và từ thời đó trở đi cho tới khi Thiền Nguyệt truyền pháp lại cho Lý Thái Tông và Định Hương truyền lại cho Viên Chiếu, họ nói: “Họ không biết người được chính pháp đó trước là ai” cũng như những người kế tiếp. Rồi từ Viên Chiếu truyền xuống tới Đạo Huệ, các vị tổ sư “lần lượt truyền trao cho nhau”, để cuối cùng chia làm ba tông, mà hai tông trong đó đã bị chìm ẩn vào thời họ, và chỉ còn lại tôn của họ, đó là tông phái thiền Trúc Lâm bắt đầu với Thông Thiền và chấm dứt với ba cao đệ của Pháp Loa dẫn trên. Với một tình trạng hiểu biết lịch sử Phật giáo Việt Nam như thế, ta phải kết luận rằng hầu hết những tài liệu sử học Phật giáo Việt Nam viết vào thời trước như Chiếu đối lục của Thông Biện và Biện Tài, Nam tông tự pháp đồ của Thường Chiếu và Liệt tổ ngữ lục của Huệ Nhật v.v...đã bị thất lạc, mà người viết những dòng Lược dẫn thiền phái đồ vừa nói đã không có dịp thấy đọc, và tiếp đến, một cuốn sử mới kiểu Thiền uyển tập anh chưa ra đời, để cung hiến cho họ một cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn về những diễn  biến của Phật giáo tại nước ta. Nói một cách cụ thể hơn là họ đã không biết tới ngay cả tên Vô Ngôn Thông và Cảm Thành, hai vị tổ khai sáng dòng thiền Kiến Sơ, mà sau này Thiền Nguyệt cũng như Thông Thiền đều là những hậu duệ, và đặc biệt là Thông Thiền người mà họ coi là vị tổ đầu tiên của phái Trúc Lâm của họ.

Do đó, vào khoảng năm 1310-1313 tình trạng hiểu biết lịch sử Phật giáo Việt Nam, mà chủ yếu là thiền tông, đã trở lại mức độ thô sơ nông cạn của thời trước Thông Biện và Thường Chiếu. Vì vậy, bùng lên một nỗ lực mới nhằm vượt ra khỏi sự trì trệ trí thức đấy, để cuối cùng có thể cho ra đời không những Thiền uyển tập anh mà còn một loạt những tác phẩm sử học Phật giáo khác như Thánh đăng lục và những tài liệu sau này tạo nên Tam tổ thực lục. Nỗ lực đây bùng lên do sự thúc đẩy của yêu cầu muốn chứng tỏ “thiền có tông, có thể học, chứ không phải là chuyện tự đặt bày”. Nói thế tức cũng có nghĩa không những tác giả Lược dẫn thiền phái đồ thuộc về phái thiền Trúc Lâm, một điều dĩ nhiên, mà ngay cả tác giả Thiền uyển tập anh cũng như những tác phẩm vừa liệt ra đều thuộc phái này. Đây là một việc dễ hiểu thôi, bởi vì với tầm vóc vĩ đại của sự nghiệp đời cũng như đạo của Trần Nhân Tông đang còn đó thì làm sao một phái thiền khác có thể song hành nổi với phái thiền Trúc Lâm. Cho nên, ta cũng không có gì đáng ngạc nhiên lắm, khi tác giả Lược dẫn thiền phái đồ  đã nói những phái thiền khác như của Vương Chí Nhàn, Nhật Thiển v.v... đến đời ông thì đều chìm ẩn. Một khi đã thế, người viết Thiền uyển tập anh vào năm 1337 tất không thể từ một phái thiền nào khác hơn là phái thiền Trúc Lâm.
 

Kết luận này bây giờ giải thích cho ta không những cấu trúc hình thức của Thiền uyển tập anh mà còn cái câu khá bí hiểm trong truyện Vô Ngôn Thông trong tờ 5a7-8, theo đấy “Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ sư Vô Ngôn Thông trở đi” (ngã Việt thiền học tự Sư chi thỉ). Về cấu trúc hình thức, Thiền uyển tập anh đã bắt đầu tác phẩm mình với dòng thiền Kiến Sơ do Vô Ngôn Thông truyền lại và Cảm Thành thành lập trong khi đúng ra, đứng trên phương diện thời gian, nó phải bắt đầu với dòng  thiền Pháp Vân do Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Pháp Hiền khai sáng. Sự kiện này, trước đây Trần Văn Giáp đã nhận thấy và gọi nó là “một điều lạ”, nhưng ông chưa khám ra ý nghĩa của nó. Ý nghĩa đó bây giờ trở thành rõ ràng: Thiền uyển tập anh đã bắt đầu với Vô Ngôn Thông và dòng thiền Kiến Sơ, bởi vì chính dòng thiền ấy đã khai sinh ra dòng thiền Trúc Lâm qua Thông Thiền, Tức Lự và Ứng Thuận. Và cũng chính với lẽ đó, mà truyện Vô Ngôn Thông trong nó, đã kết thúc bằng câu: “Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ Sư trở đi”. Câu đấy ta phải hiểu “Thiền học nước Việt ta hiện nay bắt đầu từ Sư trở đi”. Thực sự, thiền học Việt Nam vào thời Thiền uyển tập anh ra đời có còn phái nào nữa đâu ngoài phái Trúc Lâm. Mà phái Trúc Lâm lại xuất phát từ Kiến Sơ. Thế thì có gì đáng phải bàn, khi nó viết thiền học thời nó đã bắt đầu từ Vô Ngôn Thông trở đi? Việc xác định được trường phái viết nên Thiền uyển tập anh có thể soi sáng không ít cho chính bản thân của Thiền uyển tập anh.

Nhưng quan trọng hơn nữa là nó giúp tìm xem ai là tác giả tập sách đó trong phái thiền Trúc Lâm. Nếu Thiền uyển tập anh quả đã viết vào năm 1337, thì những tay cự phách từng viết ngữ lục và Hành trạng cùng tiểu sử của phái thiền đó như Pháp Loa (1284-1330) và Huyền Quang (1254-1334) đã mất trước khi nó ra đời. Ngoài hai người này, thiền phái ấy còn có một số người khác cũng nổi danh là Bảo Sát, Bảo Phác, Pháp Cổ, Pháp Chàng, Cảnh Ngung, Huệ Chúc v.v.., nhưng năm sinh và năm mất của họ ngày nay ta hiện chưa thể xác định được và cũng chưa thấy nói họ có những có những liên quan gì đến địa hạt sáng tác. Trong các vị vua nhà Trần sau Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông (1267-1326) tỏ ra qua tiểu sử của mình, không mấy quan tâm đến vấn đề lịch sử. Trần Minh Tông, trái lại, cứ Thánh đăng lục tờ 45b3-46a1, đã biểu hiện một chú ý khá đặc biệt đối với những loại vấn đề ấy. Nó viết: “Năm Khai Hựu thứ 2 (1330) Tôn giả Phổ Huệ mất... vua (Minh Tông) sai trung sứ đến người nối dòng pháp là Huyền Quang đòi Phổ Huệ ngữ lục và Hành trạng. Huyền Quang phụng chiếu chép, dâng lên”. Do thế, việc Thiền uyển tập anh ra đời dưới triều đại vua này không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên.

Bây giờ, giữa những người có quan hệ với Minh Tông, ngoài Pháp Loa và Huyền Quang, Thánh đăng lục còn ghi thêm tên của ba người nữa, đấy là Pháp Cổ, Cảnh Huy và Kim Sơn. Pháp Cổ là một trong những cao đệ của Trần Nhân Tông, và Thánh đăng lục tờ 45b1 nói việc tiếp xúc giữa Cổ với Minh Tông xảy ra vào năm 1328. Cho nên, ta không biết Cổ có thể sống tới năm 1337 để viết Thiền uyển tập anh chăng? Song đối với Cảnh Huy và Kim Sơn thì sự tiếp xúc còn kéo dài ngay cả tới những năm 1356 và 1357, năm Minh Tông chết. Thánh đăng lục tờ 48b3-4 nói: “Trong mùa hè của những năm Ất mùi và Bính thân (1355-1356) vua xuống chiếu sai Cảnh Huy giảng tập Nhân thiên nhãn mục và xuống chiếu sai Kim Sơn ngồi nghe làm chứng. Lại xuống chiếu Kim Sơn giảng Bích nham tập cùng tra cứu đại ý của Tuyết đậu tụng cổ”. Minh Tông lại viết bài minh thiền học chính tông trình cho Kim Sơn, khen Sơn nắm “được cốt tủy của Phổ Huệ”. Đến khi sắp mất, Thánh đăng lục tờ 50a1 nói Minh Tông “đã viết thư mời Kim Sơn vào Tăng phòng Động tiên xem bịnh”, rồi sau đó “đã đem một xâu chuổi hạt vàng ròng ra tặng làm vật giã biệt”.

Như vậy, giống trường hợp Huyền Quang, mà Minh Tông đã sai viết Phổ Huệ ngữ lục và Hành trạng, rất có thể Kim Sơn hay Cảnh Huy đã được giao phó một nhiệm vụ tương tự, đấy là viết Thiền uyển tập anh. Thật ra, cứ Đại Việt sử ký toàn thư B7 tờ 8b7 thì chính vào năm Thiền uyển tập anh ra đời, Nguyễn Trung Ngạn được bổ làm Quốc sử viện giám tu Quốc sử cùng với những chức khác. Do thế, ta chỉ cần tìm hiểu giữa Kim Sơn và Cảnh Huy, ai là người lãnh trách nhiệm viết tập sách đó. Đây là một câu hỏi khó trả lời nhất, đặc biệt là khi Thánh đăng lục hoàn toàn im lặng không nói gì hết về giai đoạn từ lúc Huyền Quang mất vào năm 1334 cho đến lần tiếp xúc đầu tiên được biết giữa Minh Tông và Cảnh Huy cùng Kim Sơn vào năm 1355. Tuy nhiên, cứ vào những liên hệ mật thiết Minh Tông có đối với Kim Sơn, chúng tôi nghĩ rằng chính Kim Sơn là người đã viết nên Thiền uyển tập anh có lẽ theo lệnh của Minh Tông. Trong đời Trần, Minh Tông là ông vua ưa sai các thủ lãnh Phật giáo viết sách. Năm 1322 ông sai Pháp Loa viết Tham thiền chỉ yếu. Đến năm 1330, ông sai Huyền Quang viết Phổ Huệ ngữ lục và Hành trạng. Và như ta đã biết, Loa và Quang là hai vị kế thừa lãnh đạo phái thiền Trúc Lâm. Cho nên, tới năm 1337, ông có sai Kim Sơn viết Thiền uyển tập anh thì điều ấy cũng không có gì đáng ngạc nhiên, nhất là khi Sơn được ông tôn làm “Trúc Lâm Tam Đại Thiền Tổ” và gọi là “Tổ sư Kim Sơn được cốt tủy của Phổ Huệ”, như Thánh đăng lục tờ 49b1-4 ghi lại.

Vấn đề Kim Sơn là tác giả của Thiền uyển tập anh, như vậy chúng tôi nghĩ có thể tạm giải quyết một phần nào. Điều đáng nói nằm ở chỗ, mặc dù Thánh đăng lục tờ 49b1 nói Sơn “được cốt tủy của Phổ Huệ”, tức Sơn là đệ tử của Pháp Loa, Tam tổ thực lục phần về truyện Pháp Loa đã không ghi lại một người nào tên Kim Sơn hết giữa số những đệ tử của Pháp Loa. Nguyên do của việc này, có lẽ xuất phát từ sự Sơn có những liên hệ quá mật thiết với Minh Tông, và có thể đã tạo nên những xích mích với Dụ Tông, nên khi truyện của Pháp Loa in vào năm 1362, Dụ Tông có thể cho lệnh bỏ tên Kim Sơn ra khỏi truyện. Cũng có thể Kim Sơn chỉ là một mỹ hiệu Minh Tông dùng để gọi một trong những đệ tử của Pháp Loa có tên trong truyện. Thí dụ trong bài tụng trình cho Huyền Quang làm năm Canh Ngọ (1330) về kiến giải của mình, được ghi lại trong Thánh đăng ngữ lục tờ 35b6, Minh Tông bắt đầu bằng 4 câu:

              “Côn Sơn đại đạo sư

              Vị ngã tác phước điền

              Vương thần tất quy kỉnh

              Phật đạo tục hoàn liên..”.

Thế là Huyền Quang được Minh Tông gọi bằng mỹ hiệu Côn Sơn đại đạo sư, vì Huyền Quang lúc bấy giờ đang trụ trì chùa Tư phúc ở Côn sơn. Trường hợp Minh Tông với Kim Sơn có khả năng như vậy, bởi vì giữa những quan hệ thân thiết của hai người đặc biệt là vào giờ phút cuối đời mình thì chắc chắn Minh Tông đã dùng mỹ hiệu Kim Sơn để tôn xưng cho vị thiền sư này. Rà soát các ngọn núi non và chùa chiền của nước ta qua lịch sử, ở vùng miền Bắc, trong văn bia số 8018-9 trùng tu chùa Kiến Linh vào năm Thuần Phúc thứ 2 (1566) ta thấy vị trí của chùa này được mô tả như sau: “Nay xem lâu đài trên thế giới tiên này, phía Đông có chùa Lôi Am, phía Tây nối liền với tháp Kim Sơn của xã Nguyệt Áng, phía Nam chiếu thẳng lên cảnh đẹp Hoa Yên”. Thế thì phải chăng tên tháp Kim Sơn này đã được vua Minh Tông dùng để gọi vị thiền sư nổi tiếng tại đây? Chỉ một cuộc khảo sát hiện địa xã Nguyệt Áng đó mới hy vọng có thể tìm lại tiểu sử của vị thiền sư Kim Sơn này. Xã Nguyệt Áng có thể nằm tại tổng Phù Lưu, huyện An Lão, phủ Kim môn, tỉnh Hải Dương cũ. Ngoài ra khi tiến hành khảo cứu văn học những tác phẩm Thánh đăng ngữ lục và Cổ châu Pháp Vân bản hạnh ngữ lục, và so sánh với Thiền uyển tập anh, ta thấy văn cú của những tác phẩm này có những nét tương đồng với nhau và có khả năng là cùng xuất phát từ một tay viết,  tức tác giả Kim Sơn của Thiền uyển tập anh. 

Dẫu sao chăng nữa, tất cả những gì ta biết về Kim Sơn, tác giả Thiền uyển tập anh, chỉ gồm có việc là một trong những cao đệ của Pháp Loa có những liên hệ mật thiết với Minh Tông và sống tối thiểu cho tới năm 1357.


Tiêu điểm:

Âm lịch

Ảnh đẹp